Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Công tác tư tưởng trong cuộc đấu tranh chống truyền đạo trái phép ở huyện bảo lạc, tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.04 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn xác định
công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ hoạt động
của Đảng. Bởi công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một
chính đảng nhằm xây dựng, xác lập, phát triển và truyền bá hệ tư tưởng trong
quần chúng, định hướng giá trị, tạo niềm tin và thúc đẩy quần chúng đi tới hành
động về lợi ích của mình. Công tác tư tưởng của Đảng cộng sản là hoạt động
nhằm xác lập, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng
và định hướng giá trị đúng đắn, góp phần xây dựng thế giới quan khoa học, tư
tưởng, tình cảm, nhân cách, lối sống, tri thức để bảo đảm cho nhân dân ta có hành
động tích cực, chủ động sáng tạo thực hiện thắng lợi lý tưởng, mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn cách mạng mới, thực hiện nhiệm vụ chiến lược của toàn
đảng, toàn dân ta do Đại hội IX đề ra: “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục
đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa” trong môi trường phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều diễn biến
phức tạp, khó lường trước thì vai trò và nhiệm vụ của công tác tư tưởng ngày
càng quan trọng và nặng nề hơn.
Qua thực tiễn 20 năm đổi mới chúng ta càng thấy rõ những đóng góp rất
quan trọng của hoạt động tư tưởng của Đảng ta từ công tác lý luận đến công tác
tuyên truyền và cổ động được thể hiện sinh động bằng những hoạt động có hiệu
quả của các binh chủng công tác tư tưởng. Binh chủng nghiên cứu và giáo dục lý
luận chính trị, binh chủng tuyên truyền miệng, thông tin đại chúng, văn hoá, văn
nghệ. Công tác tư tưởng đã góp phần động viên, cổ vũ quần chúng thực hiện
thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước của toàn đảng, toàn dân ta; vào cuộc đấu
tranh tư tưởng, chính trị của đảng, chống âm mưu thủ đoạn “Diễn biến hoà bình”
của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta; bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ,
giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh đó, vẫn còn một số
các phần tử chống đối chế độ ta hoạt động quyết liệt và nguy hiểm với nhiều hình


thức tinh vi hơn. Họ đã lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ và nhân quyền
1


để kích động, lôi kéo, gây rối và phá hoại chính trị. Một trong số những hoạt động
đó là tổ chức “truyền đạo trái phép”. Đây là một hoạt động tinh vi của các phần
tử phản động, hoạt động này đã để lại những hậu quả tác hại, gây nên các cuộc
bạo loạn ở Tây Nguyên, kích động đồng bào thiểu số người Khơme, người Chăm,
người Thái và người Mông chống lại đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta, gây chia rẽ đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc làm giảm lòng tin, nhận thức
của một bộ phận nhân dân đối với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Là một huyện nghèo, giáp biên, dân trí thấp lại ở địa bàn có vị trí chiến
lược quan trọng nên Bảo Lạc đã không nằm ngoài sự tấn công và việc thực hiện
các âm mưu “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Các phần tử xấu lợi
dụng vào đời sống khó khăn và dân trí thấp của một số đồng bào dân tộc thiểu số
như: dân tộc Mông, dân tộc Dao, dân tộc Sán Chỉ… tuyên truyền, lôi kéo, dụ dỗ,
lừa bịp, kể cả đe dọa họ đi theo tà đạo Vàng Chứ, Thìn Hùng trái phép, gây ra tác
hại xấu đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, và ảnh hưởng lớn đến quá
trình phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương.
Dưới góc độ của Nguyên lý công tác tư tưởng, sinh viên nhận thấy việc
nghiên cứu nhằm đưa ra những giải pháp để phát huy vai trò công tác tư tưởng
trong cuộc đấu tranh ngăn chặn và hạn chế truyền đạo trái phép vừa có tính cấp
thiết vừa có tính thời sự, có ý nghĩa cơ bản, lâu dài đối với nước ta nói chung và
đối với huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng nói riêng hiện nay. Chính vì vậy, sinh viên
đã chọn đề tài “Công tác tư tưởng trong cuộc đấu tranh chống truyền đạo trái
phép ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng”.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Trước những âm mưu của các thế lực phản động đế quốc chống phá ta trên
lĩnh vực chính trị, tư tưởng – văn hoá, lĩnh vực kinh tế, thực hiện âm mưu “diễn
biến hoà bình” với nhiều hình thức tinh vi, xảo quyệt. Đặc biệt là từ khi xuất hiện

hoạt động truyền đạo trái phép trong các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Đảng và
Nhà nước ta và các cấp uỷ ở tỉnh Cao Bằng đã có những chủ trương, chính sách
để triển khai chống truyền đạo trái phép như:
° Thông báo số 255 – TB/TW ngày 9/10/1999 của Bộ Chính trị;
° Kế hoạch số 101 – KH/TU ngày 12/5/2000 của tỉnh uỷ Cao Bằng;
° Quyết định số 303 – QĐ/UB ngày 13/5/2000 của UBND tỉnh Cao Bằng;

2


° Kế hoạch số 64 - KH/BCĐ ngày 13/10/2000 của BCĐ 255 tỉnh Cao
Bằng;
° Các bài viết về đấu tranh ngăn chặn truyền đạo trái phép của Ban Tuyên
giáo tỉnh, huyện đăng trên các báo, tạp chí…
Song đây là một vấn đề mới, phức tạp; là thủ đoạn, âm mưu của các thế lực
thù địch nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta, phá vỡ khối đại đoàn kết
toàn dân tộc do Đảng ta lãnh đạo. Do vậy, muốn đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả
phải có thời gian lâu dài, với nhiều giải pháp đồng bộ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn để đề ra một số giải pháp nhằm
phát huy vai trò công tác tư tưởng trong cuộc đấu tranh chống truyền đạo trái
phép ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
° Làm sáng tỏ vai trò công tác tư tưởng trong cuộc đấu tranh chống truyền
đạo trái phép ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng.
° Tìm hiểu và phân tích thực trạng công tác tư tưởng trong cuộc đấu tranh
chống truyền đạo trái phép ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng.
° Đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy vai trò công tác tư tưởng trong
cuộc đấu tranh chống truyền đạo trái phép ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng hiện

nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được triển khai dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về vấn đề truyền đạo
trái phép.
Kết hợp sử dụng phương pháp lôgíc, phương pháp tổng hợp, phương pháp
phân tích, quan sát để phục vụ cho công tác nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và mục tài liệu tham khảo. Nội dung
của đề tài gồm 3 chương và 9 mục.

3


Chương I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CÔNG TÁC TƯ
TƯỞNG
TRONG CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG TRUYỀN ĐẠO TRÁI PHÉP
1.1. TRUYỀN ĐẠO VÀ TRUYỀN ĐẠO TRÁI PHÉP.

1.1.1. Thế nào là truyền đạo và hoạt động truyền đạo trái phép?
Truyền đạo là quy luật tồn tại của bản thân tôn giáo và luật pháp quốc tế
không có quy ước nào cấm đoán việc truyền đạo. Và xuất phát từ nhận thức đó,
nên có những quan niệm cho rằng không thể có cái gọi là truyền đạo trái phép hay
được phép. Cạnh đó, khái niệm “Truyền đạo trái phép” lại được khá nhiều người
dùng và còn hiểu thị ngay trên những văn bản có tính pháp quy hiện hành. Vậy
thực chất có vấn đề truyền đạo trái phép không, và nếu có thì nên hiểu khái niệm
đó như thế nào cho phù hợp?
Có thể hiểu hoạt động truyền đạo trái phép đó là: Hoạt động truyền đạo bị

xem là trái phép (còn gọi là bất hợp pháp) khi mà một trong ba điều kiện sau đây
không được Nhà nước thừa nhận (còn gọi là chấp thuận):
Một là tổ chức truyền đạo;
Hai là người truyền đạo;
Ba là cách thức truyền đạo.
Nhà nước ta có chính sách tôn giáo và luật pháp về tôn giáo (Hiến pháp sửa
đổi, bổ sung năm 2001).
Tổ chức truyền đạo nào có Hiến chương (hoặc Điều lệ) phù hợp với luật
pháp, chính sách của Nhà nước và nhân sự lãnh đạo được Nhà nước thừa nhận thì
được hoạt động và được pháp luật Nhà nước bảo hộ. Người truyền đạo phải được
tổ chức truyền đạo xác nhận chức vụ và địa bàn hoạt động, có sự chấp thuận của
chính quyền sở tại (tất nhiên là phải kinh qua đào tạo đúng quy cách). Cách thức
truyền đạo không thể khác những quy định của Hiến chương (hoặc Điều lệ) mà
Nhà nước đã phê chuẩn.
Đối với hoạt động truyền đạo Tin lành trái phép những điều kiện nêu trên
được thể hiện cụ thể như sau:
+ Hiện nay ở Việt Nam đạo Tin lành có 12 tổ chức hệ phái và các nhóm
Tin lành khác nhau, nhưng chỉ có hai tổ chức truyền đạo Tin lành đã được Nhà
4


nước công nhận tư cách pháp nhân là Tổng Hội thánh Tin lành Việt Nam (MB)
hiện có 14 chi hội hoạt động hợp pháp trên địa bàn 9 tỉnh, thành phố ở miền Bắc
với 6.333 tín đồ, mục sư, 10 truyền đạo và 13 nhà thờ; Tổng Liên hội thánh Tin
lành Việt Nam (miền Nam) hiện có 281 chi hội hoạt động hợp pháp trên địa bàn
32 tỉnh, thành phố phía Nam với 414.915 tín đồ, 132 mục sư, 254 truyền đạo và
253 nhà thờ. Ngoài ra các hệ phái Tin lành khác đều được Nhà nước công nhận tư
cách pháp nhân.
Như vậy, về tổ chức truyền đạo Tin lành hiện nay chỉ có những chi hội cơ
sở hợp pháp của Tổng Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) và Tổng Liên hội

thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam). Đặc biệt, ở các tỉnh Tây Nguyên và Bình
Phước có 19 chi hội cơ sở thuộc Tổng liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam
(miền Nam) đã được công nhận hoạt động hợp pháp.
Bất cứ người truyền đạo nào không thuộc tổ chức của Tổng hội Hội thánh
Tin lành Việt Nam (miền Bắc) và Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam
(miền Nam) đều bị xem là truyền đạo trái phép.
+ Người truyền đạo phải là những người có chức vụ đạo pháp được tổ chức
giáo hội bổ nhiệm đảm nhiệm công việc của Hội thánh trên một địa bàn nhất định,
khi sang địa bàn khác, người truyền đạo phải được sự chấp thuận của chính quyền
địa phương nơi đi và nơi đến. Người truyền đạo phải thực hiện việc truyền đạo
theo những quy định mà Điều lệ (1963) của Hội thánh Tin lành Việt Nam (MB)
và Hiến chương (2001) của Hội thánh Tin lành Việt Nam (MN) đã ghi và được
phê duyệt. Nếu người truyền đạo thuộc về những tổ chức truyền đạo hợp pháp,
nhưng lại đi truyền đạo không đúng với những quy định của Điều lệ, Hiến chương
thì cũng bị xem là truyền đạo trái phép.
Hiện nay, trên địa bàn Tây Nguyên có nhiều tổ chức Tin lành đến truyền
đạo, nhưng chỉ có Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (MN) mới được
Nhà nước cho phép hoạt động. Ở từng tỉnh, thành phố, Tổng Liên hội Hội thánh
Tin lành Việt Nam (MN) có Ban đại diện được Uỷ ban nhân dân tỉnh chấp thuận.
Ban đại diện tỉnh, thành phố trực tiếp điều hành việc truyền đạo ở những chi hội
Hội thánh Tin lành đã được chính quyền công nhận. Như vậy, việc truyền đạo Tin
lành nên các tỉnh Tây Nguyên nếu không phải là do các Ban Đại diện Tổng Liên
hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (MN) trên những địa bàn có các chi hội Hội
thánh Tin lành hoạt động bình thường, hợp pháp đứng chân, không tuân thủ Hiến
5


chương Hội thánh Tin lành Việt Nam (MN) và những quy định của chính quyền
thì đều bị xem là truyền đạo trái phép.
+ Về vấn đề theo đạo và truyền đạo.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX về công
tác tôn giáo nêu rõ: “Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ
sở thờ tự hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được
pháp luật thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ,
được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh
sách và giữ gìn, sửa chữa xây dựng cơ sở tôn giáo của mình theo đúng quy định
của pháp luật. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác
đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật,…”. Do vậy, để truyền đạo hoạt động
theo đúng quy định của pháp luật, Chính phủ cần phải hướng dẫn Tổng Hội thánh
Tin lành Việt Nam (MB) và Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (MN)
hoàn thiện các thủ tục để cấp giấy chứng nhận hoạt động tôn giáo cho các Mục
sư, truyền đạo của mình và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
Trình tự thủ tục và thẩm quyền cấp giấy chứng nhận hoạt động tôn giáo cho các
mục sư, truyền đạo do Chính phủ quy định.
Điều quan trọng là giấy chứng nhận hoạt động tôn giáo của các Mục sư,
truyền đạo chỉ có giá trị khi có chứng thực (ký tên, xác nhận, đóng dấu) của cơ
quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền. Việc chứng thực chỉ thực hiện khi Tổng
Hội thánh Tin lành Việt Nam (MB) và Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt
Nam (MN) có đầy đủ hồ sơ để khẳng định việc cấp giấy chứng nhận cho các Mục
sư, truyền đạo đó là hợp lý, đáp ứng đủ các điều kiện nêu trong Điều lệ, Hiến
chương, Quy chế của Tổng Hội thánh Tin lành Việt Nam (MB) và Tổng Liên hội
Hội thánh Tin lành Việt Nam (MN). Việc chứng thực tại giấy chứng nhận cho các
Mục sư, truyền đạo của các cơ quan Nhà nước không phải là vì Nhà nước can
thiệp vào nội bộ tôn giáo, mà Nhà nước khẳng định giá trị pháp lý của văn bản đó,
khẳng định cá nhân mục sư, truyền đạo đó không vi phạm về tư cách công dân,
không lợi dụng tôn giáo để thực hiện các mục đích khác. Các giấy chứng nhận
không có chứng thực sẽ không có giá trị, việc lưu hành sẽ bị xem là trái phép và
tuỳ theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình
sự. Để thực hiện chế độ quản lý Nhà nước, phải có sự phối hợp đồng bộ và thực
hiện một cách nghiêm túc, chặt chẽ từ việc thông qua Hiến chương (hoặc Điều lệ)

6


cho đến khi đào tạo; sau khi đào tạo, các Mục sư, truyền đạo mới được Hội thánh
Tin lành Việt Nam (MB) và Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (MN)
xem xét cấp giấy chứng nhận hoạt động tôn giáo.
Đối với những tổ chức truyền đạo chưa được Nhà nước công nhận thì
người theo đạo và truyền đạo được tự do trong phạm vi gia đình và cơ sở thờ tự
hợp pháp. Nếu muốn mở rộng địa bàn thì phải có sự chấp thuận của chính quyền
sở tại.
1.1.2. Truyền đạo trái phép ở nước ta.
Là một quốc gia tồn tại nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, có
những tôn giáo du nhập vào Việt Nam từ lâu với số lượng hàng triệu tín đồ,
nhưng cũng có tôn giáo do mới du nhập từ những năm đầu thế kỷ XX có số lượng
tín đồ không đáng kể, các tôn giáo ở Việt Nam đều tồn tại đan xen, hoà đồng hỗ
trợ nhau, có những nét riêng gắn liền với ý thức sinh hoạt truyền thống, góp phần
xứng đáng vào công cuộc phát triển đất nước.
Đã từ lâu Đảng và Nhà nước ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, đã đề ra chính sách tôn giáo đúng đắn, góp phần to lớn vào sự nghiệp
đoàn kết toàn dân tộc, kháng chiến thắng lợi, giành độc lập, thống nhất tổ quốc.
Những năm qua, đặc biệt từ thời kỳ đổi mới cùng với những biến đổi mạnh mẽ
của kinh tế – xã hội, hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng diễn ra sôi nổi và phong phú
hơn trước, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, trong đó có
đồng bào theo đạo được cải thiện đáng kể, nhìn chung các đồng bào tôn giáo luôn
chấp hành nghiêm đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Tuy nhiên, do thực trạng kinh tế – xã hội hiện nay chưa đủ thoả mãn các yêu cầu
đa dạng và ngày càng cao trong cơ chế thị trường, một bộ phận nhân dân còn
nhiều khó khăn, chưa đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng chân chính của đồng bào có
đạo, tạo kẽ hở cho các phần tử cực đoan, các thế lực chính trị phản động lợi dụng
kích động lôi cuốn vào những hoạt động truyền đạo trái phép ở một số vùng đồng

bào dân tộc thiểu số. Hiện nay ở các địa phương trong cả nước nhất là các tỉnh
vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên đang diễn ra
các hoạt động truyền đạo Tin lành trái phép lôi kéo được một bộ phận quần chúng
theo đạo. Ở các tỉnh miền núi phía Bắc có khoảng 99.180 người Mông, Dao và
các dân tộc thiểu số khác như: Thái, Sáu Chay, Pà Thẻn, Hà Nhì, Mảng theo đạo
Tin lành với 516 điểm nhóm và 552 truyền đạo trái phép.
7


Trong nhiều năm qua các đối tượng truyền đạo trái phép từ hoạt động lén
lút, bất hợp pháp đến công khai. Ở Tây Nguyên, các đối tượng truyền đạo trái
phép đã chỉ đạo cốt cán đi khắp các phương, buôn vừa kết hợp tuyên truyền
miệng, rỉ tai với sử dụng sách, băng ghi âm, vừa tổ chức nghe đài nước ngoài nói
về tôn giáo để tuyên truyền. Đây là một phương thức truyền đạo rất nguy hiểm,
vừa truyền đạo nhanh vừa tránh được sự quản lý chính quyền. Họ tụ tập thành các
nhóm nhỏ từ 5 đến 10 người đọc kinh và cầu nguyện tại nhà ở các gia đình, vừa
giảng đạo lôi kéo người theo đạo vừa kích động hằn thù giữa người Thượng với
người Kinh và tuyên truyền phản động về thành lập cái gọi là “Nhà nước Đề ga”
tự trị.
Chúng tích cực cải tiến, đổi mới nội dung và cách thức hành đạo, phù hợp
với mọi lứa tuổi, mọi giới tính, phù hợp với đặc điểm thuần phong mỹ tục tập
quán của từng dân tộc. Đặc biệt chúng dùng phương thức “tác động cùng chiều”
vào các chủ trương và phong trào của ta và đánh trúng vào nguyện vọng của quần
chúng để lôi kéo quần chúng như: Vào Tin lành không được uống rượu, không
đánh vợ, không cúng ma, các nghi lễ cưới xin, ma chay đơn giản ít tốn kém…
Các đối tượng truyền đạo trái phép còn kết hợp tuyên truyền đạo với dùng
vật chất để lôi kéo những gia đình đang gặp khó khăn, tuy giá trị vật chất không
lớn nhưng đúng lúc, đúng địa chỉ, đúng sở thích của người dân, tạo tác động tâm
lý. Dùng tiền khuyến khích tín đồ cũ vận động tín đồ mới. Có nơi chúng đưa ra
quy chế “Ai vận động được một người theo đạo Tin lành được hưởng 200.000

nghìn đồng; Vận động một gia đình theo đạo được hưởng 500.000 nghìn đồng”.
Thủ đoạn dùng hoạt động từ thiện để lôi kéo mua chuộc tín đồ rất lợi hại của Tin
lành đối với đồng bào dân tộc thiểu số và ngày càng được sử dụng phổ biến.
Chúng còn dùng nhiều thủ đoạn để mua chuộc cán bộ, đảng viên về hưu, quân
nhân xuất ngũ, những người có uy tín trong buôn, thôn như Già làng, Trưởng bản,
Trưởng dân tộc khu vực biên giới theo đạo để làm hạt nhân nòng cốt phát triển
đạo. Ngoài ra, các đối tượng phản động còn kích động di cư tự do để gây mất ổn
định cho ta thông qua di cư để mở rộng việc truyền đạo.
1.1.3. Tình hình truyền đạo trái phép ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng
hiện nay.
Bảo Lạc là một huyện miền núi nghèo nằm ở phía Tây của tỉnh Cao Bằng,
có vị trí rất quan trọng, tiếp giáp với nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa, diện
8


tích rộng, dân cư thưa thớt, trình độ dân trí thấp. Vì vậy, Bảo Lạc đã không nằm
ngoài sự tấn công và việc thực hiện các âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế
lực thù địch. Lợi dụng vào đời sống khó khăn và dân trí thấp của một số đồng
bào, các phần tử xấu đã tuyên truyền, lôi kéo, dụ dỗ, lừa bịp, kể cả đe doạ một số
đồng bào đi theo tà đạo “Thìn Hùng”, “Vàng Chứ” trái phép. Ngay từ những cuối
thập kỷ 90, tại một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số bắt đầu nảy sinh một số vấn
đề phức tạp. Từ tháng 6/1989 trên địa bàn huyện xuất hiện cái gọi là “Vàng Chứ”
ở dân tộc Mông để thành lập nên Vương Quốc Mông. Đến năm 1998 lại xuất hiện
thêm cái gọi là “Thìn Hùng”. Và trong những năm cuối của thập kỷ 90 này cũng
chính là thời điểm rộ lên của việc truyền đạo trái phép trên địa bàn huyện, hoạt
động của họ chủ yếu là vận chuyển các tài liệu có liên quan đến truyền đạo, đứng
ra tổ chức tụ tập hát thánh ca và tuyên truyền các nội dung về truyền đạo cho bà
con trong xóm với mọi lứa tuổi. Đây là hoạt động mới lạ đối với bà con nhân dân
các dân tộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng và nó đã ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới
đời sống sinh hoạt hàng ngày của bà con nơi đây, nhất là đối với các dân tộc

Mông, Dao, Sán Chỉ, họ đã bỏ lao động sản xuất, giết mổ trâu, bò ăn để chờ ngày
chúa trời xuống đưa họ lên trời, đưa họ tới một thế giới mới mà ở đấy họ có thể
được sống một cuộc sống yên bình và sung túc hơn.
1.2. CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, VAI TRÒ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG
CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG TRUYỀN ĐẠO TRÁI PHÉP.

1.2.1. Công tác tư tưởng – Khái niệm.
1.2.1.1. Khái niệm công tác tư tưởng.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn xác định
công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ hoạt động
của Đảng.
Trong lịch sử, công tác tư tưởng xuất hiện từ khi xã hội loài người phân
chia thành giai cấp và theo đó xuất hiện hệ tư tưởng. Công tác tư tưởng ra đời do
yêu cầu hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, biến
hệ tư tưởng của giai cấp thống trị thành hệ tư tưởng thống trị trong đời sống tinh
thần của xã hội.
Đối với giai cấp vô sản công tác tư tưởng xuất hiện trước và đồng thời với
sự ra đời của Đảng cộng sản – sự kiện đánh dấu bước trưởng thành về chính trị, tư
tưởng và tổ chức của giai cấp vô sản.
9


Đồng chí Lê Duẩn viết: “Trong Đảng ta không có ngành nào già bằng
ngành tuyên huấn, vì từ khi có Đảng đã có nó rồi” 1. Điều đó có nghĩa là trước khi
thành lập Đảng một bộ phận tiên tiến trí thức yêu nước và cách mạng đại diện cho
giai cấp vô sản đã tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về mặt tư tưởng cho sự ra đời
Đảng cộng sản Việt Nam.
Quan niệm công tác tư tưởng là gì có hai cách hiểu khác nhau sau đây:
- Cách hiểu theo nghĩa rộng.

Con người có nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Để thoả mãn nhu cầu
vật chất con người tổ chức các quá trình sản xuất vật chất. Còn khi ở con người
xuất hiện nhu cầu tinh thần thì cũng bắt đầu quá trình sản xuất ra sản phẩm tinh
thần để thoả mãn nhu cầu đó. Khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp thì
giữa các giai cấp đối kháng nhau về lợi ích căn bản cũng nảy sinh nhu cầu sản
xuất ra hệ tư tưởng giai cấp riêng để luận chứng cho địa vị giai cấp mình và phản
ánh, bảo vệ lợi ích giai cấp mình, chống lại giai cấp đối lập, do đó lịch sử cũng đã
bắt đầu quá trình đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ, từ đó đề ra nhu cầu sản xuất và
truyền bá các hệ tư tưởng. Quá trình sản xuất và truyền bá hệ tư tưởng làm xuất
hiện các quan hệ tư tưởng, tức là quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất và truyền bá hệ tư tưởng (các quan hệ này là sự phản ánh về tinh thần
của các quan hệ sản xuất) và các quá trình tư tưởng, tức là quá trình sản xuất hệ tư
tưởng (hình thành và phát triển hệ thống quan điểm lý luận), quá trình tái sản xuất
hệ tư tưởng (truyền bá hệ tư tưởng), quá trình biến tư tưởng thành sức mạnh vật
chất, thành hành động của con người (“vật chất hoá” hệ tư tưởng)*.
Hệ tư tưởng là sự phản ánh của lợi ích giai cấp dưới hình thức lý luận cho
nên nó mang bản chất giai cấp. Vì vậy các quan hệ tư tưởng và quá trình tư tưởng
cũng bị chi phối bởi lợi ích giai cấp. Trong lịch sử loài người, các giai cấp có hệ
tư tưởng, thông qua đội ngũ các nhà tư tưởng và hệ thống các thiết chế tư tưởng
luôn tìm mọi cách tác động, chi phối các quan hệ tư tưởng và quá trình tư tưởng
nhằm biến hệ tư tưởng của giai cấp mình thành hệ tư tưởng thống trị trong đời
sống tinh thần xã hội, động viên, cổ vũ mọi thành viên trong xã hội tích cực hành
động để xây dựng và bảo vệ chế độ. Sự tác động của chủ thể hệ tư tưởng đến các
Lê Duẩn: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tập 1, tr.112
Có một số nhà nghiên cứu cho rằng quá trình tư tưởng còn bao gồm cả quá trình bảo quản, lưu giữ… các
giá trị tư tưởng.
1
*

10



quan hệ tư tưởng và quá trình tư tưởng để đạt mục đích đặt ra là công tác tư
tưởng.
Vậy, công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một
chính đảng nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng,
thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng.
Công tác tư tưởng dưới chủ nghĩa xã hội là hoạt động có mục đích của
Đảng cộng sản và Nhà nước nhằm phát triển, truyền bá hệ tư tưởng xã hội chủ
nghĩa, biến hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị
trong đời sống tinh thần xã hội, động viên, cổ vũ tính tích cực, tự giác, sáng tạo
của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ ch độ xã hội chủ nghĩa.
- Cách hiểu theo nghĩa hẹp.
Có một số người hiểu công tác tư tưởng theo một nghĩa hẹp hơn. Với nghĩa
hẹp, người ta quan niệm công tác tư tưởng chỉ là hoạt động truyền bá hệ tư tưởng
và đường lối, chính sách của Đảng trong quần chúng; động viên, cổ vũ quần
chúng tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực chất của quan niệm này là
không coi công tác lý luận là một bộ phận hợp thành của công tác tư tưởng, đồng
nhất công tác tư tưởng với công tác tuyên truyền và công tác cổ động. Đây là
quan niệm phiến diện, thiếu cơ sở khoa học về công tác tư tưởng.
Trong lịch sử, công tác tư tưởng xuất hiện và tồn tại khi có các điều kiện
sau:
+ Có hệ tư tưởng của các giai cấp và có truyền bá đấu tranh tư tưởng.
+ Có các thiết chế tư tưởng, bao gồm thiết chế nghiên cứu, sáng tạo, truyền
bá, lưu giữ hệ tư tưởng và thiết chế đào tạo các nhà tư tưởng.
+ Có đội ngũ những nhà tư tưởng lấy hoạt động nghiên cứu, phát triển,
truyền bá hệ tư tưởng cho một giai cấp nhất định làm nghề nghiệp của mình.
Vì vậy, để tăng cường hoạt động tư tưởng, thúc đẩy quá trình hoàn thiện,
phổ biến rộng rãi hệ tư tưởng trong xã hội, các giai cấp thống trị, các đảng chính
trị và Nhà nước rất quan tâm chăm lo tạo lập, củng cố các điều kiện trên.

1.2.1.2. Khái niệm công tác tư tưởng – Văn hoá.
Gần đây trong các sách báo, tạp chí và trong thực tiễn hoạt động tư tưởng
của Đảng và Nhà nước, chúng ta gặp cụm từ “công tác tư tưởng – văn hoá”. Cụm
từ này được sử dụng phổ biến khi thành lập Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương

11


trên cơ sở hợp nhất Ban Tuyên huấn Trung ương và Ban Văn hoá - Văn nghệ
Trung ương.
Lĩnh vực văn hoá ở đây được hiểu chủ yếu ở khía cạnh tư tưởng, chính trị
của văn hoá. Bởi vì, hệ tư tưởng bao giờ cũng là cốt lõi của một nền văn hoá trong
xã hội có giai cấp. Đại hội Đảng lần thứ VIII cũng khẳng định: “Văn hoá là nền
tảng tinh thần, là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội”.
Thực chất hai khái niệm công tác tư tưởng và công tác tư tưởng – văn hoá
thống nhất với nhau.
1.2.2. Vai trò công tác tư tưởng trong cuộc đấu tranh chống truyền đạo
trái phép.
C.Mác đã từng nói: “Lý luận sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó
thâm nhập vào quần chúng”. Là một động lực cách mạng, công tác tư tưởng giải
quyết những vấn đề lý luận do thực tiễn đặt ra, đồng thời hình thành ý chí nhiệt
tình cách mạng của quần chúng, hiện thực hoá từng bước lý tưởng xã hội chủ
nghĩa.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, công tác tư tưởng trở nên vô cùng quan
trọng. Nó phải đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn, đó là: Tiếp tục hoàn
chỉnh những vấn đề lý luận được Đại hội VI, VII, VIII và Đại hội IX của đảng và
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đặt ra.
Trong cuộc đấu tranh chống các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch
nhằm thực hiện “Diễn biến hoà bình” nói chung và trong cuộc đấu tranh chống
truyền đạo trái phép nói riêng. Công tác tư tưởng giữ vị trí quan trọng trong cuộc

đấu tranh đó. Nó góp phần nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về cuộc đấu
tranh chống truyền đạo trái phép.
Công tác tuyên truyền quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về cuộc đấu tranh chống truyền đạo trái phép có
tầm quan trọng đặc biệt. Và thực chất của việc truyền đạo trái phép là truyền bá
những quan điểm tôn giáo, gây ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của con người.
Nó khiến con người xa dần thế giới quan duy vật. Tiến hành công tác tư tưởng
chính là nhằm ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực đó, đồng thời làm rõ quan
điểm, chính sách của Đảng về tôn giáo, tín ngưỡng, trong đó có quyền tự do tôn
giáo, tín ngưỡng và quyền tự do không tôn giáo, tín ngưỡng.

12


Song song với việc tuyên truyền, giải thích quan điểm, chính sách về tôn
giáo, công tác tư tưởng góp phần vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch lợi dụng tôn giáo để làm những điều trái pháp luật, gây mất trật tự trị an xã
hội, phá hoại công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Công tác tư tưởng góp phần hoàn thiện thế giới quan duy vật biện chứng
cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về đấu tranh chống truyền đạo trái
phép.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn truyền đạo trái phép mà cụ thể là không thừa
nhận tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và cách thức truyền đạo, Đảng ta xác
định nội dung, phương châm, phương tiện của công tác tư tưởng nhằm làm cho
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, tín
ngưỡng trở thành tư tưởng chủ đạo. Từ đó có cách nhìn nhận, đánh giá việc
truyền đạo của các tổ chức tôn giáo trên lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin và có
hành động đúng đắn với việc truyền đạo trái phép.
Thế giới quan duy vật Mác-Lênin là vũ khí sắc bén của cán bộ, đảng viên
trong cuộc đấu tranh chống truyền đạo trái phép hiện nay ở nước ta. Bởi vì nó

không chỉ giải thích một cách khoa học và nguồn gốc của tôn giáo mà còn xác
định đúng quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo,
tín ngưỡng, xác định đúng nhiệm vụ đấu tranh chống truyền đạo trái phép.
Trên lĩnh vực lý luận, những quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, về mô hình mục tiêu và con đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội đã được ghi trong cương lĩnh của Đảng năm 1991. Kiên quyết
phê phán, vạch trần sự xuyên tạc và bôi nhọ hệ tư tưởng của Đảng và xã hội ta,
công tác tư tưởng cần làm rõ chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà
nước, đồng thời vạch trần thủ đoạn lợi dụng tôn giáo, tâm lý dân tộc để gây chia
rẽ đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch. Công tác tư tưởng phải tạo ra và
hướng xã hội đi vào kinh tế thị trường một cách chủ động, tích cực. Để nhằm ổn
định chính trị góp phần nâng cao khối đại đoàn kết các dân tộc, góp phần phát
triển kinh tế, xã hội hiện nay.

13


Chương II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG CUỘC ĐẤU
TRANH CHỐNG TRUYỀN ĐẠO TRÁI PHÉP Ở HUYỆN BẢO
LẠC, TỈNH CAO BẰNG
2.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, XÃ HỘI HUYỆN BẢO LẠC,
TỈNH CAO BẰNG.

Bảo Lạc là một huyện nằm ở phía Tây của tỉnh Cao Bằng. Có tổng diện
tích tự nhiên là 91.929 ha được chia thành 13 xã và 01 thị trấn. Toàn huyện có
221 xóm hành chính, có 5 xã tiếp giáp với Trung Quốc, có 47,5km đường biên
giới, có quốc lộ 34 chạy qua trung tâm huyện. Huyện Bảo Lạc tiếp giáp với huyện
Bảo Lâm, huyện Nguyên Bình và một số huyện thuộc nước Cộng hoà Nhân dân
Trung Hoa. Trung tâm huyện cách thị xã Cao Bằng là 143km.
Dân số của huyện hiện nay là 49.726 người với 8.061 hộ và 9 dân tộc cùng

sinh sống xen kẽ với nhau trên toàn địa bàn huyện, đó là dân tộc Mông, Dao, Sán
Chỉ, Lô Lô, Tày, Kinh, Nùng, Quí Châu, Cao Lan. Các dân tộc này họ chủ yếu
sinh sống trên các triền đồi, núi cao. Là một huyện còn gặp nhiều khó khăn, chủ
yếu là dân tộc thiểu số, lấy sản xuất nông -lâm nghiệp là chủ yếu, điều kiện tự
nhiên hết sức khó khăn, phụ thuộc chủ yếu vào thời tiết. Trình độ sản xuất chưa
cao, phương tiện sản xuất thô sơ, năng suất thấp. Đời sống nhân dân còn nhiều
khó khăn, hàng năm vẫn còn nhiều hộ đói nghèo, thiếu ăn trong mùa giáp hạt, khả
năng tái nghèo dễ xảy ra.
Trong cộng đồng, mỗi dân tộc có bản sắc, phong tục khác nhau, trình độ
dân trí thấp. Các tiêu chí về giáo dục, y tế, văn hoá xã hội thấp hơn các vùng khác
trong tỉnh. Tỷ lệ mù chữ vùng dân tộc chiếm tới 80%, một số phong tục tập quán
lạc hậu vẫn còn tồn tại nặng nề.
Với những đặc điểm tự nhiên và xã hội như vậy, trong quá trình xây dựng
và phát triển, Bảo Lạc luôn gặp rất nhiều khó khăn và cũng là nơi mà những phần
tử xấu muốn nhòm ngó và hoạt động.

14


2.2. TÌNH HÌNH CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG CUỘC ĐẤU TRANH
CHỐNG TRUYỀN ĐẠO TRÁI PHÉP Ở HUYỆN BẢO LẠC, TỈNH CAO BẰNG HIỆN
NAY.

2.2.1. Những ưu điểm và nguyên nhân của những ưu điểm.
2.2.1.1. Những ưu điểm.
Từ khi hoạt động truyền đạo trái phép xuất hiện và ngày càng nhân rộng
trên địa bàn huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng đã gây hậu quả xấu như dụ dỗ, lôi kéo
bà con xóm, bản thành tập thể đông người để gây áp lực, chống lại một số chủ
trương của Đảng, chia rẽ sự đoàn kết trong nhân dân, tạo mâu thuẫn nội bộ giữa
các dân tộc. Và mặc dù còn nhiều tồn tại và yếu kém, song công tác tư tưởng trên

địa bàn huyện Bảo Lạc cũng đã vượt lên nhiều khó khăn, giải quyết nhiều vướng
mắc, nhất là trong cuộc đấu tranh chống truyền đạo trái phép đã làm cho nhân dân
các dân tộc trong huyện hiểu hơn đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước,
tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, ra sức đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, đưa huyện vững bước đi lên.
Bên cạnh việc giáo dục lý luận chính trị, huyện đã rất coi trọng và tập trung vào
công tác tuyên truyền, cổ động, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm, là yêu cầu hàng đầu
của công tác tư tưởng. Vì từ trước tới nay, huyện Bảo Lạc không có đạo chính
thống nào mà đồng bào các dân tộc theo cả. Chính vì vậy, sự xuất hiện của cái gọi
là “Thìn Hùng”, “Vàng Chứ” đã gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.
Trước những diễn biến phức tạp như vậy, thực hiện thông báo 255 của Bộ Chính
trị và kế hoạch của tỉnh về chống truyền đạo trái phép, nhận thức rõ nhiệm vụ
trọng tâm của công tác tư tưởng và sự chỉ đạo của tỉnh uỷ, sự giúp đỡ của các cấp,
các ban ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, tháng 01/2001 huyện đã thành
lập BCĐ cấp huyện và các xã có đồng bào theo đạo. Đồng thời tổ chức triển khai
thí điểm tại 2 xã Huy Giáp và Hưng Đạo. Thành lập tổ công tác trực tiếp bám sát
địa bàn vừa thực hiện ngăn chặn vừa thực hiện tuyên truyền với nội dung chủ yếu
là chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tác hại của việc truyền đạo và
theo truyền đạo trái phép. Đồng thời khảo sát đánh giá thực trạng đời sống mọi
mặt của từng hộ đồng bào đang bị ảnh hưởng của truyền đạo, nắm tâm tư, nguyện
vọng của họ. Từ đó vận động, thuyết phục, cảm hoá đồng bào trở lại cuộc sống
bình thường, xem xét việc chấp hành và thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước ở cơ sở, đề xuất giải pháp thực hiện và khắc phục.
15


Về hình thức thực hiện chủ yếu thông qua việc treo tranh, băng rôn cổ
động, tuyên truyền, trong các hội nghị, các buổi toạ đàm gặp mặt nhân các ngày
lễ, hội của đất nước, của dân tộc; thăm hỏi các gia đình khó khăn, gia đình chính
sách, thông qua các già làng, trưởng bản, trưởng các dòng họ và những người có

uy tín trong đồng bào; củng cố, xây dựng lại các tổ an ninh nhân dân, các tổ hoà
giải, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở, bồi dưỡng kết nạp đảng viên là người
dân tộc.
Về phương pháp kết hợp với phương pháp tuyên truyền, cổ động, giáo dục
lý luận chính trị huyện đã tích cực đầu tư hỗ trợ kinh phí để phát triển sản xuất
thông qua các chương trình, dự án để cung cấp giống cây trồng và vật nuôi. Mở
các lớp tập huấn khuyến nông, khuyến lâm, các mô hình sản xuất giống mới,
chương trình hỗ trợ đời sống, dự án định canh định cư. Kết quả là đời sống đồng
bào các dân tộc thiểu số từng bước được cải thiện và ổn định. Số hộ nghèo đã
giảm từ 1.087 hộ năm 2000 chiếm 13,92% xuống còn 783 hộ chiếm 9,7% năm
2004. Củng cố được lòng tin đối với Đảng và Nhà nước, hệ thống chính trị ở cơ
sở được củng cố và phát huy được vai trò, nhiệm vụ của mình.
Với nhận thức, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, của dân, do dân và
vì dân, xác định lấy lực lượng công an làm nòng cốt kết hợp với lực lượng của các
tổ chức đoàn thể, huyện đã chỉ đạo các tổ công tác, các lực lượng thường xuyên
theo dõi mọi hoạt động diễn biến đối với những phần tử cầm đầu, những kẻ gây
rối, lập danh sách để xử lý như gọi, hỏi, răn đe, cô lập bọn chúng, lấy sự đồng
tình, ủng hộ của đông đảo bà con làm chỗ dựa để đấu tranh ngăn chặn, xử phạt
hành chính và đưa vào quản lý tại cơ sở.
Qua kết quả khảo sát nắm tình hình hoạt động truyền đạo trái phép trong
đồng bào Mông, Dao, Sán Chỉ và theo báo cáo số 01-BC/BCĐ ngày 16/01/2001
toàn huyện có 62/221 xóm với 1.162 hộ có truyền đạo. Sau khi học tập ký cam kết
đến nay đã giảm được 12 xóm, 295 hộ.
Như vậy, qua sự nỗ lực hợp tác của các lực lượng làm công tác tư tưởng,
việc đấu tranh chống truyền đạo trái phép đã có bước chuyển biến tích cực, số hộ
ngộ nhận và bị lôi cuốn theo truyền đạo trái phép đã giảm theo các năm. Tuy
nhiên, nó vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp tiềm ẩn khả năng truyền đạo. Vì vậy,
đòi hỏi các cấp uỷ Đảng, chính quyền, những người làm công tác tư tưởng phải
16



không ngừng nâng cao trình độ và phải có nội dung, hình thức, phương pháp công
tác thích hợp, đồng bộ, lâu dài và kiên quyết hơn để ổn định đời sống đồng bào
các dân tộc, ngăn chặn triệt để việc truyền đạo trái phép.
2.2.1.2. Nguyên nhân của những ưu điểm.
Một là: Nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, quần chúng nhân dân
về truyền đạo trái phép được nâng lên, có chủ trương, biện pháp đúng đắn.
Hai là: Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng cũng đã quan tâm nhiều hơn
trong việc xây dựng cơ sở vật chất, sản xuất đời sống, đào tạo giáo dục.
Ba là: Được tỉnh quan tâm cử cán bộ các ban, ngành có nhiều kinh nghiệm
trong công tác vận động quần chúng nhiệt tình khắc phục khó khăn, bám sát địa
bàn, xử lý nhanh, kịp thời những vấn đề mới nảy sinh, hoàn thành kế hoạch,
nhiệm vụ đề ra.
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế.
2.2.2.1. Hạn chế.
Việc giáo dục nhận thức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về tác hại của
truyền đạo trái phép mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng kết quả còn hạn chế, nhận
thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về truyền đạo trái phép còn
chưa đầy đủ, còn mơ hồ, mất cảnh giác, có trường hợp để các lực lượng bên ngoài
lợi dụng, lôi kéo, mua chuộc…
Đấu tranh chống truyền đạo trái phép trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá hiệu
quả chưa cao, còn nhiều sơ hở, thiếu sót.
Trên lĩnh vực lý luận, việc nghiên cứu làm rõ những cơ sở lý luận và thực
tiễn của đường lối đổi mới còn chậm, nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn chưa có
lời giải đáp thoả đáng, dẫn tới sức thuyết phục trong việc bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng chưa cao, đấu tranh với các luận điệu sai trái của bọn phản động
chưa có hiệu quả thiết thực. Đây chính là nguyên nhân của sự tồn tại và lan truyền
những tư tưởng sai trái, mơ hồ, mất cảnh giác về tư tưởng lý luận trong cán bộ và
quần chúng nhân dân hiện nay.
Trong lĩnh vực tuyên truyền, cổ động, việc tuyên truyền về âm mưu, thủ

đoạn và tác hại của truyền đạo trái phép còn nặng về một chiều, đơn giản, chưa
thường xuyên. Sức thuyết phục chưa cao, chưa phù hợp với từng đồng bào dân
tộc, nhận thức còn giản đơn; hoạt động của cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ

17


quốc và các đoàn thể ở địa phương có truyền đạo trái phép còn yếu kém, chưa có
biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn.
Năng lực của một số cán bộ còn hạn chế, việc nắm tình hình diễn biến tư
tưởng của đồng bào còn chậm, khi giải quyết những vấn đề mới nhiều lúc chưa
đúng, chưa khéo dẫn đến giảm lòng tin đối với cán bộ, chính quyền địa phương.
Việc tổ chức lực lượng, triển khai đồng bộ và chỉ đạo chặt chẽ cuộc đấu
tranh chống truyền đạo trái phép trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá từ huyện đến cơ
sở chưa tốt. Một số cơ sở, ngành còn chưa chú ý đúng mức đến nhiệm vụ đấu
tranh chống truyền đạo trái phép còn chủ quan và ỷ lại.
Tuy đã được đầu tư rất nhiều, nhưng đời sống vật chất, tinh thần của đa số
đồng bào còn gặp nhiều khó khăn, kinh tế chuyển dịch chậm, sản xuất còn nhỏ lẻ,
tỷ lệ đói nghèo còn cao, mức sống quá chênh lệch, một số hộ nông dân còn thiếu
đất canh tác, chất lượng giáo dục chưa cao, các con em dân tộc thiểu số chưa
được học hết lớp, hết cấp còn phổ biến, đội ngũ cán bộ là đồng bào dân tộc thiểu
số ở huyện quá ít. Tỷ lệ phát triển đảng trong quần chúng nhân dân chưa cao.
Những hạn chế trên đã tạo điều kiện và là miếng đất tốt để cho các lực
lượng bên trong và bên ngoài lợi dụng thực hiện âm mưu, thủ đoạn của mình.
2.2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế.
Bảo Lạc là huyện miền núi, địa hình phức tạp, đường xá đi lại khó khăn,
đồng bào sống phân tán nhỏ lẻ. Đặc biệt là dân tộc thiểu số trình độ dân trí thấp,
kinh tế còn gặp nhiều khó khăn chủ yếu bằng sản xuất nông, lâm nghiệp, cán bộ
cơ sở trình độ chưa đồng đều, có nơi ngôn ngữ bất đồng dẫn đến hiệu quả tuyên
truyền chưa cao. Cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Các nguồn đầu tư còn nhỏ giọt,

chưa đồng đều, đời sống đồng bào chậm thay đổi. Công tác chỉ đạo của một số
cấp uỷ chưa tích cực, đặc biệt là việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi; việc
phát triển giáo dục đào tạo.

18


Chương III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ
CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG
TRUYỀN ĐẠO TRÁI PHÉP Ở HUYỆN BẢO LẠC, TỈNH CAO
BẰNG
3.1. Nâng cao nhận thức về vai trò công tác tư tưởng trong việc đấu
tranh chống truyền đạo trái phép.
Để nhằm nâng cao nhận thức về vai trò công tác tư tưởng trong cuộc đấu
tranh chống truyền đạo trái phép. Đòi hỏi công tác lý luận phải tích cực nghiên
cứu để làm rõ hơn những vấn đề mới của cuộc sống đặt ra là phải:
- Gắn công tác tư tưởng với phát triển kinh tế, nhất là các lĩnh vực giao
thông, thuỷ lợi, điện thắp sáng… làm cho bộ mặt nông thôn thay đổi và đời sống
nhân dân nâng lên. Qua đó củng cố niềm tin chống lại tuyên truyền xuyên tạc của
địch.
- Gắn công tác tư tưởng với phát triển văn hoá, nâng cao dân trí, chăm sóc
sức khoẻ, xoá đói giảm nghèo nhất là xoá mù chữ - phổ cập tiểu học, khôi phục
văn hoá dân tộc và chống tệ nạn xã hội… là cơ sở thực tế để dân tin Đảng, Nhà
nước không tin theo sự tuyên truyền của địch. Mặt khác, cần tăng cường việc giáo
dục qua người thật, việc thật, gương điển hình tiên tiến qua các phong trào xây
dựng làng văn hoá để cổ vũ tính tích cực, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo
của Đảng, Nhà nước.
- Gắn công tác tư tưởng với đẩy mạnh việc tập hợp quần chúng.
- Gắn công tác tư tưởng với thực hiện luật pháp và sử dụng một số luật tục

để điều chỉnh xã hội.
- Gắn công tác tư tưởng với đấu tranh chống “Diễn biến hoà bình”, thực
hiện đúng chính sách tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng. Đồng thời
quản lý chặt chẽ hoạt động từ thiện. Đấu tranh mạnh mẽ với số lợi dụng tôn giáo
hoạt động trái phép.
- Gắn công tác tư tưởng với chống quan liêu theo hướng sát cơ sở, sát dân.
Trong đó, cần trú trọng củng cố các đoàn thể quần chúng và đào tạo cán bộ dân
tộc và xây dựng cốt cán trong dân tộc có đạo.
19


- Tập trung xây dựng phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, quốc phòng an ninh
cho vùng dân tộc. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần bằng đầu tư của Nhà
nước một cách rõ ràng, cụ thể.
3.2. Xây dựng cơ chế, chính sách để cán bộ tư tưởng và công tác tư
tưởng tham gia vào cuộc đấu tranh chống truyền đạo trái phép huyện Bảo
Lạc, tỉnh Cao Bằng.
Mác đã từng nói: “Tư tưởng tách rời khỏi lợi ích thì tư tưởng tự làm nhục
mình”. Vì vậy, để tiến hành công tác tư tưởng mang lại hiệu quả như mong muốn
thì công tác tư tưởng phải gắn chặt với công tác tổ chức, quan tâm giải quyết các
lợi ích và quyền lợi chính đáng của cán bộ đảng viên như chính sách tiền lương,
chính sách nhà ở và chính sách khác để cho cán bộ thật sự yên tâm công tác. Đặc
biệt là những chính sách đối với cán bộ làm công tác tư tưởng phải hợp lý, cán bộ
làm công tác tư tưởng phải được chú trọng đào tạo. Bên cạnh việc trả tiền lương
thì cũng cần phải có các chế độ khuyến khích khác như tiền thưởng, tiền phúc lợi
khác…
3.3. Nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác tư tưởng.
Cán bộ là gốc của mọi công việc. Vì vậy cần phải nâng cao chất lượng cho
lực lượng làm công tác trên mặt trận tư tưởng. Đặc biệt là các công việc được
tăng cường xuống cơ sở phải là những người có năng lực, có kiến thức, có năng

lực vận dụng vào hoạt động thực tiễn.
Cần xây dựng qui hoạch đào tạo cán bộ là người dân tộc có kiến thức về
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; có kỹ năng tuyên truyền vận động, có lối
sống trong sáng giản dị, có phẩm chất chính trị cao. Có như vậy mới tạo ra đội
ngũ cán bộ làm tư tưởng đủ cả về số lượng và mạnh về chất lượng.
Bên cạnh đó, đội ngũ những người làm công tác tư tưởng trong vùng đồng
bào dân tộc, tôn giáo không chỉ nắm vững chủ trương, đấu tranh của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, những chủ trương của địa phương, mà còn phải
biết tiếng dân tộc, giỏi liên hệ thực tế, có phương pháp, hình thức tuyên truyền
thích hợp đối với đối tượng có trình độ dân trí còn thấp. Người làm công tác tư
tưởng phải am hiểu phong tục tập quán, đời sống của đồng boà, có tâm huyết và
thường xuyên tiếp xúc với quần chúng. Vì vậy, cán bộ tư tưởng là người địa
phương sẽ thuận tiện rất nhiều cho công tác giáo dục thuyết phục đồng bào.
20


3.4. Kết hợp công tác tư tưởng với xử lý nghiêm minh hiện tượng
truyền đạo trái phép.
Ngoài việc tiếp tục đẩy mạnh hoạt động công tác tư tưởng như tuyên
truyền, giáo dục lý luận chính trị thì cần phải tăng cường công tác quản lý xã hội,
quản lý địa bàn, phát hiện kịp thời hiện tượng truyền đạo trái phép. Xử lý nghiêm
minh có lý, có tình phù hợp với quan điểm đường lối của Đảng và phong tục tập
quán của từng dân tộc. Đối với các phần tử ngoan cố, cầm đầu có thái độ chống
đối, thách thức thì sử dụng đồng bộ các hình thức từ: gọi hỏi, răn đe, phạt hành
chính, quản lý tại địa phương… Nếu qua xử lý mà không tiến bộ thì tiến hành thu
thập chứng cứ, lập đầy đủ hồ sơ chính xác các hành vi thái độ của họ để truy cứu
trách nhiệm hình sự.
Điểm đáng chú ý ở đây là: đối với đồng bào dân tộc đặc biệt là các đồng
bào theo đạo thì cần phải kiên trì thuyết phục. Kết hợp hài hoà giữa việc giữ

nghiêm pháp luật với lưu tâm, linh động tới tâm lý, tập quán, tín ngưỡng đặc thù.
Khéo léo gợi mở những yếu tố văn hoá tín ngưỡng tốt đẹp. Luôn coi đó là nội lực
để chống lại sự xâm nhập của văn hoá ngoại lai, trái với truyền thống bản sắc dân
tộc không có lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội.
3.5. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng đối với công tác tư tưởng
trong cuộc đấu tranh chống truyền đạo trái phép.
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, các cơ quan chức
năng, thường xuyên tuyên truyền rộng rãi cho đồng bào trong vùng có truyền đạo
trái phép về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
về tác hại của việc truyền đạo trái phép. Trên cơ sở chương trình kế hoạch của
tỉnh, các cấp uỷ phải trú trọng công tác phát triển Đảng và xây dựng quần chúng
tốt trong đồng bào các dân tộc. Nêu cao vai trò và nhiệm vụ của các chi bộ, cấp
uỷ viên, đảng viên theo từng địa bàn, từng nội dung công tác. Phân công bố trí các
thành viên trong BCĐ phụ trách các địa bàn, tiến hành điều tra, khảo sát tình hình
hoạt động của “Vàng Chứ”, “Thìn Hùng”. Từ đó, phân tích tổng hợp tình hình
khắc phục những hạn chế, xây dựng các giải pháp thực hiện cho phù hợp với từng
địa phương, cơ sở.

21


KẾT LUẬN
Công tác tư tưởng là một lĩnh vực rất khó, rất phức tạp vì nó liên quan đến
đời sống tinh thần vô cùng phong phú, sâu lắng và thầm kín của con người, của
cộng đồng. Sự khó khăn và phức tạp của công tác tư tưởng ngày càng tăng lên khi
sự nghiệp đổi mới đất nước đang đi vào chiều sâu, thực tiễn ngày càng đặt ra
những yếu tố, những vấn đề mới mẻ; khi thử thách ngày một nặng nề hơn đan xen
với những thuận lợi và vận hội; khi cuộc đấu tranh tư tưởng, từ nhiều cấp độ, trên
nhiều bình diện, ở bên trong và từ bên ngoài ngày càng tinh vi, gay gắt, quyết liệt
hơn. Và đối với huyện Bảo Lạc là một huyện vùng cao biên giới, có địa hình phức

tạp chủ yếu là đồi núi, dân cư không tập trung, đường xá đi lại khó khăn, dân trí
thấp đã không nằm ngoài sự tấn công và việc thực hiện các âm mưu “Diễn biến
hoà bình” của các thế lực thù địch. Các phần tử xấu đã lợi dụng vào đời sống khó
khăn và dân trí thấp của một số đồng bào, đặc biệt là dân tộc Dao, H’Mông, Sán
Chỉ để lôi kéo, dụ dỗ họ đi theo tà đạo “Thìn Hùng”, “Vàng Chứ”. Với sự xuất
hiện của cái gọi là “Thìn Hùng”, “Vàng Chứ” đã gây hoang mang và làm đảo lộn
công việc đồng áng, di cư tự do, mất lòng tin đối với chủ trương, đường lối của
Đảng. Trước tình hình như vậy, trong công tác tư tưởng huyện đã coi trọng trước
hết là bằng nhiều biện pháp nhằm nâng cao nhận thức tư tưởng, chính trị để nhận
định được tác hại của truyền đạo trái phép cho quần chúng nhân dân, để cán bộ,
đảng viên, nhân dân các dân tộc không lạc hậu về chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, về thông tin thời sự có định hướng. Đồng thời cơ quan công tác
tư tưởng các cấp luôn nắm chắc tình hình tư tưởng nội bộ ở cơ sở cũng như âm
mưu, hành động chống phá từ ngoại biên, không để điểm nóng xảy ra bất ngờ.
Bằng những hoạt động như vậy, trong những năm qua công tác tư tưởng
của huyện đã góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo động
lực cho sự phát triển kinh tế, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần, vật chất cho
nhân dân. Những chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước nhằm thực hiện
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn từng bước đi vào
cuộc sống. Nhiều chính sách xã hội được thực hiện, nhất là đối với các đối tượng
chính sách, gia đình có công với nước. Việc thực hiện xoá đói giảm nghèo đã có
những tiến bộ đáng kể. Đồng thời việc truyền đạo “Thìn Hùng”, “Vàng Chứ”
trên địa bàn huyện cũng đã phần nào được hạn chế, giữ vững an ninh biên giới,
trật tự an toàn xã hội, làm cho bộ mặt kinh tế xã hội của huyện có bước chuyển
biến.

22


Mặc dù đã có những đóng góp thiết thực như vậy, thế nhưng do Bảo Lạc

điểm xuất phát thấp, kinh tế hàng hoá kém phát triển, đời sống chậm được cải
thiện, mà lại phải thường xuyên đối mặt với tình hình biên giới phức tạp, có lúc
rất căng thẳng, luôn chịu sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường cùng với các
hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội gia tăng, hiện tượng truyền đạo trái phép vẫn
còn hoạt động trong một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Vì vậy đòi hỏi phải
tăng cường công tác tư tưởng, phải nâng cao nhận thức về vai trò công tác tư
tưởng trong cuộc đấu tranh chống truyền đạo trái phép, nâng cao chất lượng cán
bộ làm công tác tư tưởng, xây dựng cơ chế chính sách, phù hợp, kết hợp công tác
tư tưởng với xử lý nghiêm minh hiện tượng truyền đạo trái phép. Đồng thời cần
phải tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng đối với việc đấu tranh chống truyền
đạo trái phép. Cần phát huy mạnh mẽ vai trò công tác tư tưởng trong cuộc đấu
tranh chống truyền đạo trái phép nói chung và chống truyền đạo “Thìn Hùng”,
“Vàng Chứ” trên địa bàn huyện Bảo Lạc nói riêng để giúp đồng bào các dân tộc
nhận rõ hậu quả và tai hại của việc theo đạo và truyền đạo trái phép ở nước ta
hiện nay, đồng thời nâng cao nhận thức, củng cố lòng tin vào sự lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước sẵn sàng đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả âm mưu của các phần
tử phản động, bảo vệ vững chắc an ninh biên giới, trật tự an toàn xã hội tạo sự
đồng thuận, nhất trí, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trở thành động lực để
phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương cũng như của cả nước.
Đồng thời, trước âm mưu không bao giờ từ bỏ của chủ nghĩa đế quốc lợi
dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động, phá hoại chính trị, hoạt động truyền
đạo trái phép đang và sẽ có những diễn biến phức tạp lúc âm thầm, lúc gay gắt,
quyết liệt, chính vì vậy việc nắm rõ tình hình diễn biến và dự báo xu hướng biến
đổi của nó không chỉ có ý nghĩa riêng phục vụ cho sự lãnh đạo, chỉ đạo của các
cấp uỷ Đảng ở huyện Bảo Lạc mà còn có ý nghĩa đối với các vùng có truyền đạo
trái phép, để có các giải pháp chủ trương đúng đắn ngăn chặn, hạn chế có hiệu
quả, làm cho đồng bào các dân tộc luôn yên tâm sản xuất, ổn định đời sống, sẽ là
một trong những điều kiện để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế – xã hội, vươn
lên xoá đói giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng,

dân chủ văn minh”.
Với đề tài này sinh viên muốn xin góp một ít sức lực của mình trong việc
nghiên cứu tìm ra các giải pháp nhằm phát huy vai trò công tác tư tưởng trong
cuộc đấu tranh chống truyền đạo trái phép có hiệu quả. Mặc dù đã có nhiều cố
23


gắng nhưng vốn kiến thức còn ít, kinh nghiệm còn nhiều hạn chế, mà nội dung thì
vô cùng mới mẻ, phức tạp nên chỉ nghiên cứu được một số nội dung mà đề tài nêu
ra. Kính mong được sự giúp đỡ, chỉ bảo của các thầy giáo để em từng bước tìm
hiểu được sâu sắc hơn về đề tài này.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
2. Đào Duy Quát: Về công tác tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
3. Đoàn Triệu Long: Một số ý kiến về khái niệm truyền đạo trái phép. Tạp chí
sinh hoạt lý luận. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Đà
Nẵng, số 2/2005.
4. Hà Học Hợi: Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
5. Huyện uỷ Bảo Lạc: Báo cáo tham luận tại Hội nghị chuyên đề TB255 tỉnh Cao
Bằng, tháng 7/2005.
6. Khoa Tuyên truyền: Giáo trình Nguyên lý Công tác tư tưởng, Hà Nội, 2004.
7. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Trung ương: Các văn bản ban hành năm 2005.
8. Tỉnh uỷ Cao Bằng: Một số Thông báo, Chỉ thị ban hành năm 2004.


25


×