Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Chuyên đề Quy hoạch, xây dựng và nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông; nâng cấp đê kè, nền công trình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 14 trang )

Quy hoạch, xây dựng và nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông; nâng cấp đê kè, nền công trình

MỤC LỤC
Trang

MỤC LỤC...............................................................................................1
MỞ ĐẦU..................................................................................................2
CHƯƠNG I.............................................................................................3
TỔNG QUAN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN TỈNH SÓC TRĂNG...3
I.1. ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN...................................................................................3
I.1.1. Vị trí địa lý....................................................................................................................3
I.1.2. Đặc điểm địa hình, địa mạo ..........................................................................................3
I.1.3. Đặc điểm địa chất, thổ nhưỡng .....................................................................................4
I.1.3.1. Địa chất......................................................................................................................4
I.1.3.2. Thổ nhưỡng................................................................................................................4
I.1.4. Đặc điểm chế độ thủy, hải văn tỉnh Sóc Trăng.............................................................5
I.2. ĐẶC TRƯNG KHÍ HẬU ................................................................................................5

Những năm gần đây, lốc thường xảy ra ở Sóc Trăng. Lốc tuy nhỏ
nhưng cũng gây ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân.5
CHƯƠNG II............................................................................................6
QUY HOẠCH, XÂY DỰNG VÀ NÂNG CẤP HỆ THỐNG ĐÊ
BIỂN, ĐÊ SÔNG; NÂNG CẤP ĐÊ KÈ, NỀN CÔNG TRÌNH..........6
II.1. HIỆN TRẠNG ĐÊ SÔNG, ĐÊ BIỂN............................................................................6
II.2. QUY HOẠCH, XÂY DỰNG VÀ NÂNG CẤP HỆ THỐNG ĐÊ BIỂN, ĐÊ SÔNG;
NÂNG CẤP ĐÊ KÈ, NỀN CÔNG TRÌNH........................................................................8

6. Bê tông hóa các kênh dẫn nước chính, quan trọng.......................11
...............................................................................................................11
7. Ứng dụng hệ thống NEOWEB........................................................11
...............................................................................................................11


Ứng dựng hệ thống Neoweb khi tiến hành bê tông hóa các kênh
mương và đê biển..................................................................................12
8. Giải pháp tạo vùng ngập lụt tự nhiên ven biển..............................12
KẾT LUẬN............................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................14

TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)


Quy hoạch, xây dựng và nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông; nâng cấp đê kè, nền công trình

MỞ ĐẦU
Đê điều (gồm đê, kè, cống) là công trình mang tính chất an toàn quốc gia, thực thi
nhiệm vụ bảo vệ mùa màng, giao thông, kinh tế, tài sản của Nhà nước và tính mạng của
nhân dân trong mùa mưa bão. Quan trọng là vậy nhưng chúng lại nằm ở ngoài trời, luôn
luôn bị tác động phá hoại của thiên nhiên (mưa, gió, bão lũ..) của động vật (chuột, cày,
cáo..), của côn trùng (mối, kiến..), của dòng chảy và của con người (đào, xẻ, khoan, chất
tải, nổ mìn,...).Những tác động này luôn luôn diễn ra ngoài ý muốn chủ quan của chúng
ta, rất khó kiểm soát, thường tiềm ẩn ở bên trong, chờ khi có lũ bão lớn mới xuất hiện và
bộc lộ ra ngoài, khiến chúng ta luôn ở trong tình trạng bị động đối phó, đôi khi hậu quả
khó lường.
Hiện tượng BĐKH diễn ra làm cho hệ thống đê điều phải gánh thêm một nhiệm
vụ nặng nề nữa là ứng phó với mực nước biển dâng. Chính vì vậy, việc “quy hoạch, xây
dựng và nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông; nâng cấp đê kè, nền công trình” là rất cần
thiết và cấp bách.

TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)

2



Quy hoạch, xây dựng và nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông; nâng cấp đê kè, nền công trình

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN TỈNH SÓC
TRĂNG
I.1. ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN
I.1.1. Vị trí địa lý
Sóc Trăng là tỉnh ven biển nằm ở phía Nam cửa sông Hậu của khu vực Đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL). Diện tích tự nhiên 3.311,76 km 2, xấp xỉ 1% diện tích của cả
nước và 8,3% diện tích của khu vực ĐBSCL. Dân số trung bình năm 2009 là 1.293.165
người.
Tỉnh hiện có 11 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm: thành phố Sóc Trăng và các
huyện Châu Thành, Kế Sách, Mỹ Tú, Cù Lao Dung, Long Phú, Mỹ Xuyên, Ngã Năm,
Thạnh Trị, Vĩnh Châu, Trần Đề, trong đó thành phố Sóc Trăng là trung tâm chính trị –
kinh tế – văn hóa xã hội của tỉnh.
Sóc Trăng có địa giới hành chính tiếp giáp 4 tỉnh trong vùng ĐBSCL:
-

Phía Tây – Bắc giáp tỉnh Hậu Giang.

-

Phía Đông – Bắc giáp tỉnh Trà Vinh và Vĩnh Long qua sông Hậu.

-

Phía Tây – Nam giáp tỉnh Bạc Liêu.

-


Phía Đông và Đông Nam giáp biển Đông với chiều dài bờ biển 72 km.

I.1.2. Đặc điểm địa hình, địa mạo
Sóc Trăng có địa hình tương đối thấp và bằng phẳng, địa hình bao gồm phần đất
bằng xen kẽ những vùng trũng và các giồng cát. Toàn bộ tỉnh Sóc Trăng nằm ở phía Nam
của vùng cửa sông Hậu, cao độ biến thiên không lớn, chỉ từ 0,2 – 2m so với mực nước
biển, vùng nội đồng có cao độ trung bình từ 0,5 – 1,0m. Địa hình của tỉnh có dạng hình
lòng chảo thoải, hướng dốc chính từ sông Hậu thấp dần vào phía trong, từ biển Đông và
kênh Quản lộ thấp dần vào đất liền với những giồng đất ven sông, biển.
Dựa vào địa hình có thể chia tỉnh Sóc Trăng thành 3 vùng như sau:
-

Vùng địa hình thấp, vùng trũng: Tập trung ở huyện Mỹ Tú, Châu Thành, Thạnh
Trị, Ngã Năm và một phần phía Bắc huyện Mỹ Xuyên, thường bị ngập dài vào
mùa mưa.

-

Vùng địa hình cao ven sông Hậu và ven biển, gồm các huyện Vĩnh Châu, Trần
Đề, Long Phú, Cù Lao Dung, cao trình từ 1,2 – 2 m, giồng cát cao đến 2m.

-

Vùng địa hình trung bình: gồm có thành phố Sóc Trăng và huyện Kế Sách.

Với địa hình thấp, bị phân cắt nhiều bởi hệ thống các sông rạch và kênh mương
thủy lợi, lại tiếp giáp với biển cho nên dễ bị nước biển xâm nhập (nhiễm mặn), nhất là
vào mùa khô.
Địa hình vùng biển ven bờ tỉnh Sóc Trăng có sự phân bậc rõ rệt ở 3 mức độ sâu:

- Độ sâu từ 0 – 10m nước: nhìn chung địa hình khá thoải và bằng phẳng. Khu
vực cửa sông có địa hình khá phức tạp, thay đổi theo mùa do tương tác động lực
sông biển, có nhiều cồn và doi cát ngầm đan xen với các luồng lạch.
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)

3


Quy hoạch, xây dựng và nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông; nâng cấp đê kè, nền công trình

-

Độ sâu từ 10 – 20m nước: địa hình có dạng sườn dốc. Địa hình khu vực cửa
sông (phía Đông Bắc) dốc hơn phía Tây Nam. Đây là giới hạn ngoài của khu
vực lắng đọng trầm tích hiện đại và vì thế địa hình thường thay đổi theo thời
gian.

-

Độ sâu 20 – 30m nước: địa hình khá thoải và rộng, có nhiều sóng cát, một số
khu vực phân bố các cồn ngầm thoải.

I.1.3. Đặc điểm địa chất, thổ nhưỡng
I.1.3.1. Địa chất
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh Sóc Trăng nói riêng được hình
thành bởi các loại trầm tích nằm trên nền đá gốc Mezoic xuất hiện từ độ sâu gần mặt đất
ở phía Bắc đồng bằng cho đến độ sâu khoảng 1.000 m ở gần bờ biển. Các dạng trầm tích
có thể chia thành những tầng chính sau:
- Tầng Holocene: nằm trên mặt, thuộc loại trầm tích trẻ, bao gồm sét và cát.
Thành phần hạt từ mịn tới trung bình.

- Tầng Pleistocene: có chứa cát sỏi lẫn sét, bùn với trầm tích biển.
- Tầng Pliocene: có chứa sét lẫn cát hạt trung bình.
- Tầng Miocene: có chứa sét và cát hạt trung bình.
I.1.3.2. Thổ nhưỡng
Theo kết quả nghiên cứu cho thấy, đất Sóc Trăng gồm 6 nhóm chính:
Bảng 1.1: Thống kê các loại đất chính tỉnh Sóc Trăng
TT

Loại đất

Diện
tích (ha)

Tỷ lệ
(%)

Phân bố

Dọc ven biển thuộc huyện Vĩnh Châu,
Mỹ Xuyên.
2 Đất phù sa
6.372
2,00 Tập trung ở các huyện Kế Sách, Mỹ Tú.
3 Đất gley
1.076
0,33
Các xã phía Bắc huyện Kế Sách
Tập trung với diện tích lớn ở các huyện
4 Đất mặn
158.547 49,50

Vĩnh Châu, Long Phú và Mỹ Xuyên.
Tập trung thành diện tích lớn ở các
5 Đất phèn
75.823 23,70 huyện Mỹ Tú, Ngã Năm, Mỹ Xuyên và
một phần ở Thạnh Trị, Vĩnh Châu.
Tập trung nhiều nhất ở huyện Kế Sách
6 Đất nhân tác
46.146 21,82
và Long Phú.
Nguồn: Quy hoạch phát triển KTXH tỉnh Sóc Trăng đến năm 2020, năm 2009
1

Đất cát

8.491

2,65

Đất đai trong tỉnh Sóc Trăng thuộc loại trầm tích hỗn hợp sông biển, có hàm lượng
sét cao, chứa nhiều chất hữu cơ. Do nằm trong vùng ảnh hưởng mặn, có nhiều vùng
trũng, khó tiêu thoát, nên phần lớn đất đai bị nhiễm mặn và chua phèn. Diện tích đất mặn
và phèn không những ảnh hưởng đến việc phát triển sản xuất nông nghiệp, mà còn ảnh
hưởng đến nguồn nước sử dụng cho tưới tiêu cũng như cung cấp cho ăn uống và sinh
hoạt (đất phèn hoạt động và đất phèn tiềm tàng là nguồn gốc gây ra nước chua), đặc biệt
là thời kỳ đầu mùa mưa.
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)

4



Quy hoạch, xây dựng và nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông; nâng cấp đê kè, nền công trình

I.1.4. Đặc điểm chế độ thủy, hải văn tỉnh Sóc Trăng
Sông rạch tỉnh Sóc Trăng đa phần thuộc vùng ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều
không đều, cao độ mực nước của hai đỉnh triều và hai chân triều không bằng nhau. Đỉnh
triều cao nhất là 160 cm (vào tháng 10, 11), thấp nhất là 123 cm (vào tháng 5, 8), chân
triều cao nhất là -24 cm (tháng 11), thấp nhất là -103 cm (tháng 6), biên độ triều trung
bình từ 194 – 220 cm.
Nguồn nước trên hệ thống sông rạch tỉnh Sóc Trăng là kết quả của sự pha trộn
giữa lượng mưa tại chỗ, nước biển và nước thượng nguồn sông Hậu đổ về. Dòng cửa
sông Hậu khá mạnh vào mùa mưa, ảnh hưởng ra xa quá 4 hải lý, đây cũng là thời kỳ mùa
lũ ở sông Hậu. Dòng tổng hợp ven bờ khoảng 1m/s. Dòng hải lý theo mùa và dòng chảy
ven bờ lấn át dòng chảy sông tại vùng cửa Định An – dòng chảy theo hướng Tây – Nam
là chủ yếu trong mùa khô và theo hướng Đông – Bắc trong mùa mưa.
Do ảnh hưởng bởi dòng thủy triều và hải triều nên nước trên sông trong năm có
thời gian bị nhiễm mặn vào mùa khô, vào mùa mưa nước sông được ngọt hóa, có thể sử
dụng cho tưới nông nghiệp. Phần sông rạch giáp biển bị nhiễm mặn quanh năm, do đó
không thể phục vụ tưới cho nông nghiệp, nhưng bù lại nguồn nước mặn, lợ ở đây lại tạo
thuận lợi trong việc nuôi trồng thủy sản.
I.2. ĐẶC TRƯNG KHÍ HẬU
Khí hậu tỉnh Sóc Trăng có đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo và
chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11. Mùa khô bắt đầu từ
tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
- Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình năm 26,6°C (năm 2008). Nhiệt độ cao nhất trong
năm vào tháng 4 (28,2°C) và nhiệt độ thấp nhất vào tháng 1 (25,4°C).
- Nắng: Tổng lượng bức xạ trung bình trong năm tương đối cao, đạt 140 – 150
kcal/cm2. Tổng giờ nắng bình quân trong năm 2.292,7 giờ (khoảng 6,28 giờ/ngày), cao
nhất thường vào tháng 3 là 282,3 giờ, thấp nhất thường vào tháng 9 là 141,5 giờ.
- Mưa: Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.660 – 2.230 mm, chênh lệch lớn theo
mùa, mùa mưa chiếm 90% tổng lượng mưa, mùa khô rất ít, có tháng không mưa.

- Độ ẩm: Độ ẩm trung bình cả năm là 84% (cao nhất 89% vào mùa mưa, thấp nhất
75% vào mùa khô).
- Gió: nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, tỉnh Sóc Trăng có các hướng gió
chính như sau: Tây, Tây Nam, Đông Bắc, Đông Nam và gió được chia làm hai mùa rõ rệt
là gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam. Mùa mưa chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây
Nam là chủ yếu; còn mùa khô chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc là chủ yếu với tốc
độ gió trung bình là 1,77m/s.
- Các yếu tố khác: Tỉnh Sóc Trăng nằm trong khu vực rất ít gặp bão. Theo tài liệu
về khí tượng thủy văn ghi nhận, trong 100 năm qua chỉ có 2 cơn bão đổ bộ vào Sóc Trăng
(năm 1952, 1997) gây thiệt hại rất lớn.
Những năm gần đây, lốc thường xảy ra ở Sóc Trăng. Lốc tuy nhỏ nhưng cũng gây
ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân.

TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)

5


Quy hoạch, xây dựng và nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông; nâng cấp đê kè, nền công trình

CHƯƠNG II
QUY HOẠCH, XÂY DỰNG VÀ NÂNG CẤP HỆ THỐNG
ĐÊ BIỂN, ĐÊ SÔNG; NÂNG CẤP ĐÊ KÈ, NỀN CÔNG
TRÌNH
II.1. HIỆN TRẠNG ĐÊ SÔNG, ĐÊ BIỂN
Tuyến đê biển tỉnh Sóc Trăng dài 91 km, bao gồm đê biển huyện Long Phú
12,5km, huyện Vĩnh Châu 49,9km và đê biển cù lao Dung 23,3km. Các thông số kỹ thuật
của đê biển tỉnh Sóc Trăng: Cao trình đỉnh đê 3-3,5m; Chiều rộng mặt đê B=6m; Hệ số
mái dốc phía biển m = 1,5-3m, phía đồng m =1,5- 2m. Đê biển huyện Vĩnh Châu ngoài
nhiệm vụ ngăn mặn, giữ ngọt bảo vệ sản xuất, còn là lộ giao thông quan trọng nối liền

Vĩnh Châu với Bạc Liêu.
Trên thực tế , nhìn chung đê biển tỉnh Sóc Trăng đã có sự thay đổi lớn, đỉnh đê đã
bị lún thấp, có nhiều đọan đê bị sạt lở, hư hỏng, bị xuống cấp. Qua điều tra thực địa trong
các năm 2007 và 2008 cho thấy đoạn đê biển từ khu vực thị trấn Vĩnh Châu đến giáp
ranh với Bạc Liêu có mặt cắt khá ổn định, mặt đê được trải sỏi đỏ, mái đê trồng cỏ bảo
vệ. Riêng đoạn đê từ vị trí cống số 7 đến thị trấn Vĩnh Châu dài khỏang 3 km hiện mặt đê
đã được rải đá. Ngoài đê có rừng phòng hộ khá tốt, chủ yếu là cây mắm với chiều dày
150 - 200m, tuy vậy vẫn có đoạn khu vực cống số 5 trên chiều dài khỏang 600m rừng
phòng hộ bị sóng biển phá hủy, sạt lở bờ biển đã tiến sát chân đê, chính quyền địa
phương đã phải xây dựng kè rọ đá bảo vệ. Đoạn đê Long Phú đã được ngành giao thông
nâng cấp thành tuyến giao thông nam sông Hậu. Mặt đê đã được trải nhựa, vì vậy tuyến
đê này khá ổn định. Đê cù lao Dung có nhiệm vụ bảo vệ 29.310 ha diện tích đất tự nhiên
và khỏang hơn 80.000 dân sinh sống, được khôi phục nâng cấp năm 2002, đang vận hành
tốt. Rừng phòng hộ chủ yếu là dừa nước, mắm và bần với bề dày rừng phía cửa Trần Đề
lên tới gần 1000m. Riêng đoạn đê phía cửa Định An rừng phòng hộ đang bị suy thóai
mạnh, vì vậy hiện mái ngoài của đoạn đê này đã phải bảo vệ bằng kè đá xây.
Phía ngoài đê có đai rừng ngập mặn với chức năng phòng hộ khá tốt, chủ yếu là
cây mắm xen với một số cây đước (đoạn Vĩnh Châu), hoặc mắm, đước, bần, dừa nước (ở
Cù Lao Dung) với chiều dày 150 - 300m, làm nhiệm vụ che chắn sóng, bảo vệ an toàn
cho đê. Mặt khác, chính quyền và nhân dân địa phương có nhiều cố gắng trong bảo vệ và
nâng cấp tuyến đê. Mặt đê được trải sỏi đỏ, mái đê trồng cỏ bảo vệ, đoạn đê biển khu vực
thị trấn Vĩnh Châu, ở huyện Long Phú có mặt cắt đê khá ổn định, được trải nhựa chắc
chắn làm thành đường giao thông ven biển.
Tuy vậy, vẫn có những đoạn đê ở khu vực cống số 5, chiều dài khoảng 600m bị
sóng biển phá hủy, sạt lở mạnh, nhiều chỗ bờ biển đã tiến sát chân đê, hiện chính quyền
địa phương đã phải xây dựng kè rọ đá bảo vệ, nhưng đó chỉ là giải pháp tạm thời vì rọ đá
không thể chống chọi với sóng biển. Nguyên nhân cơ bản xói lở đê Vĩnh Châu ở đoạn
gần giáp Bạc Liêu là bởi nhiều lý do khác nhau đai rừng ngập mặn với chức năng phòng
hộ bị tàn phá nặng nề, không còn khả năng giảm nhẹ cường độ sóng biển khi triều cường,
hoặc có áp thấp nhiệt đới và bão.


TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)

6


Quy hoạch, xây dựng và nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông; nâng cấp đê kè, nền công trình

Hình II.1: Cảnh sinh hoạt trên đê

Hình II.2: Cống ngăn mặn đang bị con
người xâm nhập

Với hiện tượng mực nước biển dâng sẽ tác động tiêu cực mạnh đến nhiệm vụ chắn
sóng của công trình thủy lợi mà ở đây chính là đê biển. Ví dụ như khu vực đê xã Vị
Thanh, sóng đã lên cao khỏi đê. Khả năng phòng, chống thiên tai của hệ thống đê, bờ bao
còn nhiều hạn chế, nhất là khu vực các huyện Cù Lao Dung, Vĩnh Châu, Long Phú và Kế
Sách. Hệ thống đập dọc tuyến sông Hậu thuộc huyện Cù Lao Dung đã xuất hiện dấu hiệu
sạt lở trong những năm gần đây. Đê biển Vĩnh Châu huyện Vĩnh Châu (493m), đê bao
cồn An Công thuộc huyện Kế Sách (550m), đê sông Long Phú – Tiếp Nhựt (đoạn gần
cống Chín Hậu) đã bị sạt lở và nước biển vượt qua cao trình mặt đê. Đê, bờ bao bị tràn,
hư hại: dài 239.5m (Cù Lao Dung), đê Biển Vĩnh Châu bị tràn : 250m.
Hiện tượng sạt lở bờ diễn ra với tốc độ cao, ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt và
sản xuất người dân. Các tuyến đê sông, đê biển có nguy cơ bị phá vỡ do không đủ khả
năng ngăn mực nước cao nhất và cường độ của thủy triều. Diện tích đất sản xuất, công
trình xây dựng bị đe dọa, yêu cầu giữ nước chống tràn bị động.

Hình II.3 : Cống đập nằm cách bờ biển
hiện tại 300m, 10 năm
trước cống đập này là một

phần của tuyến đê biển

Hình II.4 : Hiện trạng xói lở tại bờ
biển Đông (Ấp Âu Thọ B,
xã Vĩnh Hải)

TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)

7


Quy hoạch, xây dựng và nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông; nâng cấp đê kè, nền công trình

Hình II.5: Xói lở ở đê biển Vĩnh Tân
Một số các cống đập hiện nay đang gây ra những ảnh hưởng tai hại đối với môi
trường nước là ngăn chặn sự luân lưu, nhất là ở vùng hạ nguồn và ven biển, cả bên trong
lẫn bên ngoài hệ thống đê đập ngăn mặn, khiến cho nguồn nước bị ô nhiễm và đặc biệt
nghiêm trọng là xảy ra tranh chấp giữa hai sinh thái mặn - ngọt. Ví dụ tại kênh Năm
Kiệu, có đập ngăn mặn nhưng do người dân mở cửa lấy nước mặn vào nuôi trông thủy
sản cộng với triều cường biển Tây từ Kiên Giang xâm nhập đã đẩy khối nước mặn lấn
sâu.
II.2. QUY HOẠCH, XÂY DỰNG VÀ NÂNG CẤP HỆ THỐNG ĐÊ BIỂN, ĐÊ
SÔNG; NÂNG CẤP ĐÊ KÈ, NỀN CÔNG TRÌNH
Sóc Trăng có hệ thống đê biển trải dài hết các xã ven biển và bao bọc xung quanh
khu vực Cù Lao Dung. Dự kiến đến năm 2020 các công trình đê biển, đê sông sẽ được
quy hoạch như trong hình dưới đây:

Hình II.6: Sơ đồ định hướng hệ thống thủy lợi tỉnh Sóc Trăng đến năm 2020
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)


8


Quy hoạch, xây dựng và nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông; nâng cấp đê kè, nền công trình

Thực hiện một số các dự án:
- Dự án khôi phục và nâng cấp đê tả hữu Cù Lao Dung
- Dự án thủy lợi phục vụ sản xuất tôm lúa tiểu vùng 2 vùng sáu xã huyện Mỹ
Xuyên.
- Dự án di dời dân sống ngoài đê biển vào bên trong để ổn định cuộc sống: Trên
tuyến đê biển thuộc địa bàn huyện Cù Lao Dung hiện còn hàng 100 hộ dân sống ngoài đê
biển, đa số là hộ nghèo, không có đất sản xuất và hàng năm khi đến mùa mưa, bão, triều
cường dâng cao phải di dời các hộ này đến nơi an toàn ở tạm.
- Dự án Đê biển Cù Lao Dung, huyện Cù Lao Dung.
- Dự án Đê biển từ cầu Mỹ Thanh 1 - cầu Mỹ Thanh 2.
- Dự án Đê biển từ cầu Mỹ Thanh 2 - rạch Bạc Liêu, huyện Vĩnh Châu.
- Dự án gia cố đê bao các cồn Mỹ Phước.
Tuy nhiên quy hoạch này vẫn dựa trên hệ thống đê cũ được xây dựng từ lâu. Để hệ
thống đê này đảm bảo được chức năng của mình cần phải tiến hành xây dựng, hoàn thiện
hệ thống đê sông, đê biển theo hướng thích ứng với BĐKH:
+ Hệ thống đê biển: Nâng cấp, sửa chữa 92,5 km đê biển Vĩnh Châu và Cù Lao
Dung, Trần Đề đảm bảo các yêu cầu sau: Cao trình đê đạt 4,7 m; Chiều rộng đê 9,0 m để
kết hợp giao thông, mái trong 2 - 3m, mái ngoài 3 - 4m, lưu không 10 m phía đồng và 50
m phía biển; bên ngoài đê là rừng phòng hộ để bảo vệ và giảm sóng; Các công trình dưới
đê bố trí theo quan điểm vừa đảm bảo phòng chống thiên tai, vừa bảo đảm kiểm soát
mặn, giữ ngọt, tiêu úng, xổ phèn, thoát lũ, nuôi trồng thủy sản giao thông thủy và các nhu
cầu khác.
+ Hệ thống đê sông: Xây dựng các tuyến đê sông có đủ cao trình ngăn đỉnh triều
khi có nước biến dâng. Nâng cấp, hoàn thiện hệ thống đê sông (Tam Sóc, Mỹ Phước,
Nhu Gia, Trà Quýt, Thạnh Mỹ...): cao trình đê đạt 3,5 - 4m; chiều rộng đê 6m kết hợp

giao thông, mái trong 2 - 2.5 m, mái ngoài 2,5 - 3 m, bên ngoài đê trồng rừng phòng hộ
để bảo vệ đê. Đồng thời làm mới các tuyến đê thuộc huyện Long Phú, Trần Đề, Mỹ
Xuyên và Kế Sách, đặc biệt là đê sông Mỹ Thanh từ cầu Mỹ Thanh II về hướng Bạc
Liêu.
- Chủ động thích nghi với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, tiếp tục triển khai
các chương trình ngọt hóa kết hợp với phát triển thủy sản, gắn với giao thông thủy bộ và
phát triển nông thôn tại các khu vực không bị ngập úng. Xây dựng các kênh trục tạo
nguồn nước ngọt từ sông Hậu. Đồng thời tiến hành nghiên cứu thực hiện các giải pháp
đưa nước ngọt về cung cấp cho các huyện Vĩnh Châu, Trần Đề, Cù Lao Dung như: xây
dựng các kênh, hồ trữ nước ngọt. Xây dựng các công trình ngăn cửa Định An – Trần Đề
và 2 cống ngăn lũ dọc theo tuyến QL 1A thuộc địa bàn huyện Mỹ Xuyên. Đẩy mạnh tiến
trình ngọt hóa cho vùng quản lộ Phụng Hiệp mở rộng …
- Làm “đê mềm” bằng cách trồng rừng ngập mặn ở tất cả những nơi có thể trồng
được các loại cây: mắm, đước, bần, sú, vẹt, dừa nước... với chiều rộng 500-1.000 m, phía
bên trong là đê kết hợp với đường giao thông.
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CẦN THỰC HIỆN ĐỂ GIA CỐ ĐÊ SÔNG, ĐÊ BIỂN
1. Đối với hệ thống đê yếu cần phải xây dựng lại. Nên nghiên cứu để tận dụng tối đa
khả năng tuyến đê kết hợp với đường giao thông ven biển, cầu qua sông, cống kiểm
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)

9


Quy hoạch, xây dựng và nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông; nâng cấp đê kè, nền công trình

soát lũ, mặn, giữ ngọt. VD như xây hệ thông đê kết hợp với đường giao thông từ thị xã
Vĩnh Châu qua Vĩnh Hải, Trần Đề
Đê Long Phú nâng cấp thành tuyến giao thông Nam sông Hậu.
Kết hợp đê Vĩnh Châu với tuyến giao thông quan trọng nối liền Vĩnh Châu với bạc Liêu


Hình II.7: Kết hợp đường giao thông và đê biển trong tương lai
2. Thực hiện kiểm tra, phát hiện và xử lý ngay những chỗ gọi là: “cửa sổ địa chất”
nằm ở 02 bên chân đê phía sông và phía đồng (từ chân đê ra ít nhất khoảng 50,0m).
“Cửa sổ địa chất” bao gồm cả kênh mương, thùng đào, thùng đấu, hồ ao, giếng nước, hố
khoan địa chất - đó là những nơi mà khi có lũ cao chúng được ăn thông và tạo thành dòng
thấm dưới nền đê gây ra mạch đùn, mạch sủi, lỗ phụt ở chân đê phía đồng rất nguy hiểm,
dễ dẫn đến sự cố vỡ đê.
3. Cần kiểm tra và thống kê xem mỗi tuyến đê hiện còn bao nhiêu đoạn mái đê là
mái kè? Cần phải có biện pháp đề phòng bất trắc vì đê sát sông thực chất là gia tải ngay
trên đỉnh kè rất dễ gây lún nền và sạt trượt mái. Khi đã sạt trượt mái thì dòng chảy lũ trực
tiếp uy hiếp ngay đến an toàn của đê gây bị động, xử lý hết sức khó khăn, phức tạp và tốn
kém dễ dẫn đến vỡ đê.
4. Nghiên cứu có thể thực hiện xây dựng hệ thống đê có 2 tuyến với tuyến 1 đủ vững
để chống được bão và đủ chiều cao để giảm sóng cho tuyến đê 2 và đê 2 có chiều cao vừa
phải để giữ được lượng nước giữa hai tuyến đê.
5. Tổ chức trồng và bảo vệ rừng, nhất là rừng ngập mặn với sự tham gia tích cực của
cả chính quyền địa phương, các cơ quan chuyên môn và cộng đồng dân cư. VD như mô
hình trồng và phục hồi rừng ngập mặn đã thành công ở xã Vĩnh Hải (huyện Vĩnh Châu,
Sóc Trăng). Rừng ngập mặn nơi đây được phân thành 4 khu để quản lý, gồm khu rừng
phòng hộ (nhằm bảo vệ nơi trú ngụ, sinh sản tự nhiên của các loài thủy sản, duy trì tính
đa dạng của hệ sinh thái rừng ngập mặn), phân khu phục hồi bên trong (nơi có mật độ
thưa, đang được trồng bổ sung để ngăn cản sóng và làm nơi trú ẩn của sinh vật biển), khu
phục hồi bên ngoài rừng (rừng mới trồng, nhằm giúp tăng bề rộng đai rừng, để ngăn cản
sóng biển và che chở cho các loài sinh vật biển) và khu sử dụng bền vững (là phần đai
rừng bên trong, nơi có nhiều cây rừng đã phát triển rậm rạp, có thể cung cấp tài nguyên
cho con người, nếu được sử dụng bền vững).

TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)

10



Quy hoạch, xây dựng và nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông; nâng cấp đê kè, nền công trình

Phương pháp trồng rừng ngập mặn trực tiếp phía trước đê để tạo thành tường phá
sóng sẽ được thử nghiệm tại một khu thí điểm ở Vĩnh Tân. Mô hình này kết hợp việc
khôi phục rừng ngập mặn với các biện pháp công trình sẽ trở thành một phần của chiến
lược quản lý tổng hợp vùng ven biển.
6. Bê tông hóa các kênh dẫn nước chính, quan trọng

Hình II.8: các con kênh dẫn nước được bê tông hóa trong tương lai
7. Ứng dụng hệ thống NEOWEB
Hệ thống Neoweb là mạng lưới các ô ngăn hình mạng dạng tổ ong được đục lỗ và
tạo nhám. Các mạng lưới ô ngăn hình mạng tổ ong sẽ phân bố tải trọng trên một diện tích
rộng hơn, tạo ra một lớp đệm ba chiều có cường độ chịu uốn và độ cứng cao. Lớp đệm
này làm giảm độ lún thẳng đứng trong nền đất yếu, nó cải thiện được sức chống cắt và
tăng cường độ chịu tải của kết cấu.

Hình II.9: Hệ thống ô ngăn cách Neoweb
Hệ thống ô ngăn hình mạng Neoweb được ứng dụng trong các công trình thuỷ lợi
trong các lĩnh vực sau:
- Bảo vệ các hệ thống kênh, mương và công trình thoát nước chống xói và sạt lở .
- Bảo vệ đê biển chống sóng đánh và sự xâm thực của nước mặn.
- Bảo vệ các hệ thống đê sông, các bờ hồ, kè và đập.
- Làm các công trình tiêu năng, đập tràn.

TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)

11



Quy hoạch, xây dựng và nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông; nâng cấp đê kè, nền công trình

Hình II.10: Ứng dụng của hệ thống Neoweb vào các công trình thủy lợi
Ứng dựng hệ thống Neoweb khi tiến hành bê tông hóa các kênh mương và đê biển
8. Giải pháp tạo vùng ngập lụt tự nhiên ven biển
Một phương án mới chống xói lở và lụt lội bờ biển đang được các nhà khoa học
thử nghiệm ở miền đông nước Anh. Theo đó, người ta phá một đoạn đê biển, cho nước
tràn vào bãi đất thấp, tạo ra một vùng ngập mặn, có vai trò như một barrie tự nhiên chống
lại sự công phá của thủy triều.
Dự án được thực hiện trên một dải bờ biển dài 8 km của vùng Lincolnshire, gần
thị trấn Boston. Người ta đã dỡ 50 mét đê bao vòng ngoài để cho nước biển tràn vào 78
hecta đất nông nghiệp. Theo các nhà khoa học, bãi đất ngập mặn này sẽ triệt tiêu bớt
năng lượng sóng và nâng cao khả năng bảo vệ của con đê bao phía trong. Về thực chất,
quá trình này nhằm tạo ra một hình thái ngập lụt tự nhiên, giúp bờ biển “chung sống” với
các lực tác động của thuỷ triều, thay vì kiểm soát nó.

TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)

12


Quy hoạch, xây dựng và nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông; nâng cấp đê kè, nền công trình

KẾT LUẬN
Trước những thách thức về nguy cơ của nước biển dâng do biến đổi khí hậu toàn
cầu và những đòi hỏi trong phát triển kinh tế, xã hội vùng ven biển. Khi “quy hoạch, xây
dựng nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông; nâng cấp đê kè, nền công trình” phải tính đến
yếu tố nước biển dâng. Và nếu thực hiện việc này sẽ đem lại lợi ích to lớn cho người dân
trong tỉnh Sóc Trăng. Việc thực hiện này cần có sự phối hợp của nhiều cơ quan ban

ngành cùng thực hiện. Tuy nhiên việc bảo vệ đê không chỉ là trách nhiệm của chính
quyền mà còn của người dân sống xung quanh đê. Vì vậy đi đôi với việc nâng cấp đê cần
có biện pháp tuyên truyền giáo dục người dân tham gia bảo vệ đê vì chính lợi ích của họ.

TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)

13


Quy hoạch, xây dựng và nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông; nâng cấp đê kè, nền công trình

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Quốc Dũng - Tiêu chuẩn thiết kế đê biển- Viện Thủy Công, 2002.
2. Viện Khoa Học Thủy Lợi – Giải pháp đắp đê bằng vật liệu địa phương và đắp đê trên
nền đất yếu - Hà Nội, 2009.
3. PGS.TS. Hồ Sĩ Minh - Một số phương pháp tính toán thủy lực chặn dòng khi xây
dựng công trình vùng triều và quai đê lấn biến - Trường Đại Học Thủy Lợi, 2000.

TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)

14



×