Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

nghiên cứu đa dạng sinh học bộ Phù du (Ephemeroptera) ở á đai 300-600m tại Vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.42 MB, 66 trang )

Header Page 1

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH - KTNN

======

TĂNG THỊ THU

ĐA DẠNG SINH HỌC BỘ PHÙ DU (EPHEMEROPTERA)
Ở Á ĐAI 300-600M TẠI VƢỜN QUỐC GIA
HOÀNG LIÊN, TỈNH LÀO CAI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Động vật học

HÀ NỘI, 2016

Footer Page 1


Header Page 2

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến ThS.Nguyễn Văn Hiếu, cán bộ
giảng dạy tổ Động vật, Khoa Sinh – KTNN, Trƣờng Đại học Sƣ Phạm Hà Nội
2, đã tận tình hƣớng dẫn và đƣa ra những ý kiến quý báu trong suốt thời gian
tôi thực hiện đề tài này.
Đồng thời qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban chủ
nhiệm Khoa cùng các thầy, cô giáo Khoa Sinh – KTNN, Trƣờng Đại học Sƣ
Phạm Hà Nội 2, những ngƣời đã truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện thuận


lợi giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình.
Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, thầy cô
những ngƣời đã luôn động viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu khoa học.
Xin chân thành cảm ơn!
Xuân hòa, ngày tháng năm 2016
Sinh viên

Tăng Thị Thu

Footer Page 2


Header Page 3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Khóa luận này là công trình nghiên cứu thực sự của
cá nhân, đƣợc thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của ThS.Nguyễn Văn
Hiếu.
Các số liệu, những nghiên cứu đƣợc trình bày trong khóa luận này
trung thực và chƣa từng đƣợc công bố dƣới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Xin chân thành cảm ơn!
Xuân hòa, ngày tháng năm 2016
Sinh viên

Tăng Thị Thu

Footer Page 3



Header Page 4

MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Danh mục các bảng
Danh mục các hình
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................... 3
1.1. Tình hình nghiên cứu bộ Phù du trên thế giới ........................................ 3
1.2. Tình hình nghiên cứu bộ Phù du ở Việt Nam ......................................... 7
1.3. Tình hình nghiên cứu bộ Phù du ở Vƣờn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào
Cai ............................................................................................................... 11
1.4. Một số đặc điểm tự nhiên của Vƣờn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào
Cai ............................................................................................................... 12
141

t

142

a h nh .......................................................................................... 13

1.4.3.

a ch t và th nh

144


a

...................................................................................... 13
ng .................................................................. 13

h h u ............................................................................................ 14

1.4.5. Mạng

ới th y văn ......................................................................... 15

Chƣơng 2. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM, ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ................................................................................................ 16
2.1. Thời gian nghiên cứu ............................................................................ 16
2.2. Địa điểm nghiên cứu ............................................................................. 16
2.3. Đối tƣợng nghiên cứu ........................................................................... 19
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................... 19
2 4 1 Ph ơng pháp nghiên cứu ngoài tự nhiên ....................................... 19
2 4 2 Ph ơng pháp t ong phòng th nghiệm ............................................ 20
2 4 3 Ph ơng pháp xử lí số liệu ............................................................... 20

Footer Page 4


Header Page 5

CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .................................................. 24
3.1. Đa dạng về loài của bộ Phù du ( Ephemeroptera) ở Vƣờn quốc gia
Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai............................................................................. 24
3.2. Loài ƣu thế và chỉ số đa dạng sinh học Shannon- Weiner (H’) ............ 31

3.3. Phân bố của bộ Phù du theo mùa .......................................................... 34
3.4. Phân bố bộ Phù du theo tính chất của thủy vực .................................... 41
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ............................................................................. 45
1. Kêt luận .................................................................................................... 45
2. Đề nghị ..................................................................................................... 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 47
PHỤ LỤC

Footer Page 5


Header Page 6

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.2. Một số đặc điểm sinh cảnh tại các điểm thu mẫu thuộc Vƣờn quốc
gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai .......................................................................... 17
Bảng 2.3. Quan hệ giữa giá trị chỉ số Shannon- Weiner (H’) và mức độ đa
dạng ................................................................................................................. 23
Bảng 3.1 Tổng hợp số lƣợng các bậc phân loại của bộ Phù du tại Vƣờn quốc
gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai. ......................................................................... 24
Bảng 3.2. Loài ƣu thế, chỉ số DI và H’ ở mùa khô tại khu vực nghiên cứu ... 31
Bảng 3.3. Loài ƣu thế, chỉ số DI và H’ ở mùa mƣa tại khu vực nghiên cứu .. 32
Bảng 3.4. Số lƣợng các taxon thuộc các bậc phân loại của bộ Phù du ở mùa
khô và mùa mƣa tại Vƣờn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai ...................... 35
Bảng 3.5. Thành phần loài bộ Phù du nƣớc tại khu vực nghiên cứu ............. 37
Bảng 3.6. Số lƣợng loài và số lƣợng cá thể bộ Phù du ở nơi nƣớc chảy và
nƣớc đứng ở mùa khô trên đơn vị diện tích 0,25 m2....................................... 42
Bảng 3.7. Số lƣợng loài và số lƣợng cá thể bộ Phù du ở nơi nƣớc chảy và
nƣớc đứng ở mùa mƣa trên đơn vị diện tích 0,25 m2 ..................................... 43


Footer Page 6


Header Page 7

DANH LỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1: Tỉ lệ % số loài theo các họ của bộ Phù du tại Vƣờn quốc gia Hoàng
Liên – Lào Cai. ................................................................................................ 25
Hình 3.3. Số lƣợng các taxon thuộc các bậc phân loại của bộ Phù du ở mùa
khô và mùa mƣa tại Vƣờn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai ...................... 36

Footer Page 7


Header Page 8

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Bộ Phù du (Ephemeroptera) là 1 trong 9 bộ thuộc nhóm côn trùng nƣớc.
Phù du phân bố rộng trên toàn thế giới và có mặt hầu hết trong các dạng thuỷ
vực nƣớc ngọt nhƣ sông, suối, ao, hồ…Thậm chí chúng cũng có thể có mặt ở
những khe hoặc rãnh nƣớc nhỏ, nhƣng phổ biến nhất là các thủy vực dạng
suối. Giai đoạn ấu trùng của Phù du đƣợc phân biệt với tất cả các nhóm côn
trùng sống ở nƣớc khác, bởi có hàng mang ở hai bên phần bụng và có 2 hoặc
3 tơ đuôi dài ở phía cuối cơ thể.
Phần lớn Phù du đều có cấu tạo cơ thể thích nghi với đời sống bám hay
bơi lội tự do. Ngoài ra ấu trùng của một số loài có tập tính đào hang ở dƣới
nền đáy bùn hay cát của các thủy vực và sống ở đó cho đến khi vũ hóa thành
giai đoạn trƣởng thành. Đặc biệt, có một số loài thích nghi với lối sống bám
vào bề mặt của những khối hoặc viên đá trong thủy vực dạng suối. Giai đoạn

ấu trùng của Phù du sống hoàn toàn trong nƣớc, khi phát triển đầy đủ chúng
chuyển lên mặt nƣớc và vũ hóa bƣớc vào giai đoạn trƣởng thành. Thời gian
sống của giai đoạn trƣởng thành ngắn hơn giai đoạn ấu trùng rất nhiều, có loài
chỉ tồn tại 1- 2 giờ sau khi vũ hóa. Con đực sẽ chết sau khi giao phối, còn con
cái chết sau khi đẻ trứng và giai đoạn trƣởng thành chủ yếu làm nhiệm vụ sinh
sản.
Thức ăn chủ yếu của ấu trùng Phù du là các chất mùn bã hữu cơ trong
thuỷ vực hoặc các loài thực vật thuỷ sinh đặc biệt là các loài tảo. Cũng có một
số loài Phù du ăn thịt tuy nhiên tỷ lệ các loài ăn thịt là không cao. Mặt khác
chúng lại là nguồn thức ăn của cá và nhiều nhóm động vật có xƣơng sống ở
nƣớc. Chính vì vậy, Phù du giữ một vị trí quan trọng trong hệ sinh thái. Bên
cạnh đó, do có đời sống chuyển từ nƣớc lên cạn và vòng đời ngắn nên chúng
đƣợc sử dụng là một đối tƣợng lý tƣởng trong các nghiên cứu về sinh học tiến

Footer Page 8

1


Header Page 9

hoá. Ngoài ra, những nghiên cứu gần đây đã khẳng định Phù du là những sinh
vật rất nhạy cảm với sự thay đổi của môi trƣờng nƣớc nên chúng đang đƣợc
sử dụng làm sinh vật chỉ thị chất lƣợng môi trƣờng nƣớc. Với những ý nghĩa
thực tiễn nhƣ vậy nên Phù du đang đƣợc quan tâm nghiên cứu ở Việt Nam.
Vƣờn quốc gia Hoàng Liên nằm trong khu vực Tây Bắc Việt Nam là
một trong những nơi có địa hình đa dạng và phức tạp với hệ thống khe, suối
đa dạng, đặc biệt là mạng lƣới các suối phân bố theo các đai cao và địa hình
khác nhau tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của các loài thuộc bộ Phù
du. Á đai 300-600m là đai khí hậu nội chí tuyến gió mùa khô đến ẩm chân

núi. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về Phù du tại á đai 300-600m còn ít và tản
mạn. Vì vậy, để góp phần tìm hiểu mức độ đa dạng của nhóm sinh vật có ý
nghĩ này, chúng tôi lựa chọn đề tài “Nghiên cứu đa dạng sinh học bộ Phù
du (Ephemeroptera) ở á đai 300-600m tại Vƣờn quốc gia Hoàng Liên,
tỉnh Lào Cai”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu đa dạng về loài của bộ Phù du tại á đai 300-600m
- Nghiên cứu sự phân bố của bộ Phù du theo tính chất dòng chảy và theo
mùa tại á đai 300-600m
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
3.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài cung cấp những dẫn liệu khoa học đa dạng về loài, sự phân bố
theo tính chất dòng chảy và theo mùa ở á đai 300-600m thuộc địa phận Vƣờn
quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài góp phần cung cấp những tƣ liệu phục vụ cho việc
nghiên cứu về bộ Phù du sau này tại Vƣờn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào
Cai.

Footer Page 9

2


Header Page 10

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu bộ Phù du trên thế giới
Phù du (Ephemeroptera) là một trong những bộ côn trùng có cánh cổ

sinh, Bao gồm những côn trùng tƣơng đối nguyên thuỷ. Hoá thạch đầu tiên
của bộ Ephemeroptera đƣợc tìm thấy ở kỷ Cacbon và kỷ Pecma thuộc đại Cổ
sinh cách đây ít nhất 250 triệu năm (Edmund, 1982; Dudgeon,1999) [21], [23]
Nhà tự nhiên học nổi tiếng Lineaus (1758), đã mô tả 6 loài Phù du tìm
thấy ở Châu

u và xếp chúng vào một nhóm, ông đặt tên gọi là Ephemera.

Có thể xem đây là công trình đầu tiên đặt nền móng cho việc nghiên cứu về
Phù du. [25].
Vào thế kỷ XIX, Eaton (1871, 1881, 1883-1888, 1892) đã công bố hàng
loạt các công trình nghiên cứu Phù du của mình, đặc biệt là công trình “A
monograph on the Ephemeridae” đƣợc công bố năm 1871. Công trình đã cung
cấp những kiến thức cơ bản vềPhù du . Nghiên cứu đã mô tả các đặc điểm về
mặt hình thái của cả giai đoạn ấu trùng và trƣởng thành, những kiến thức này
rất hữu ích cho việc xây dựng khóa định loại đến các họ và giống của bộ Phù
du (Dẫn theo Nguyen, 2003) [32]
Nghiên cứu về Phù du thực sự phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XX, điển
hình là các công trình nghiên cứu của Ulmer (1920,1924,1925,1932-1933) và
Navas (1920, 1930), Lestage (1921, 1924, 1927, 1930), Needham và cộng sự
(1935)(Dẫn theo Nguyen,2003)[32]. Edmunds (1963) đã xây dựng hệ thống
phân loại đến họ thuộc bộ Phù du trên toàn thế giới. Ông đã đƣa ra một bức
tranh tổng thể về khóa phân loại bậc cao cũng nhƣ nguồn gốc phát sinh của
Phù du[22]. Sau này, do sự phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực nghiên cứu
về Phù du cả về chiều rộng lẫn chiều sâu nên hệ thống phân loại của ông càng
ngày càng bị hạn chế. McCafferty et al.(1979), [26], đã bổ sung những dẫn

Footer Page 10

3



Header Page 11

liệu mới và chỉnh lý khóa phân loại cho phù hợp với thực tế nghiên cứu đòi
hỏi. Trong khóa định loại của McCafferty và Edmunds ngoài việc mô tả đặc
điểm hình thái thì mối quan hệ họ hàng giữa các loài trong qúa trình tiến hóa
cũng đƣợc các tác giả đề cập đến. Cho đến nay, hệ thống phân loại này vẫn
đƣợc áp dụng trên thế giới khi nghiên cứu về Phù du.
Đến năm 1990, toàn thế giới đã xác định đƣợc khoảng 2000 loài Phù du
thuộc 317 giống trong đó có 61 giống đã hoá thạch của 26 họ khác nhau[32].
Thành phần loài hay nói cách khác sự đa dạng về mức độ loài của Phù du ở
các họ thể hiện rất khác nhau, có những họ chỉ có một vài loài nhƣ
Teloganiella, Teloganidae... hay có những họ có tới hàng trăm loài nhƣ
Heptageniidae, Leptophlebiidae... Tuy nhiên những con số này chƣa phản ánh
hết mức độ đa dạng của Phù du vì còn nhiều khu vực trên thế giới vẫn chƣa
đƣợc khám phá hết, nhất là các khu vực nhiệt đới.
Các nghiên cứu về Phù du ở các khu vực khác nhau trên thế giới cũng
thể hiện sự khác nhau rõ rệt. Đối với khu vực châu Âu và châu Mỹ, Phù du
đƣợc quan tâm nghiên cứu từ rất sớm và kết quả nghiên cứu cũng phong phú
hơn so với các khu vực khác . Ở châu Á, những nghiên cứu đầu tiên về khu hệ
Phù du đƣợc thực hiện bởi các nhà Côn trùng học đến từ châu u nhƣ: Navás
(1922, 1930) )[30][31], Lestage (1921, 1924 )(Dẫn theo Nguyen,2003)[32].
Những nghiên cứu này là cơ sở và nền tảng thúc đẩy việc nghiên cứu về Phù
du ở khu vực đông dân nhất thế giới. Trong thế kỷ XX, đã có nhiều quốc gia
trong khu vực quan tâm nghiên cứu về Phù du, nhƣ Trung Quốc, Hàn Quốc
và Nhật Bản.
Hsu (1931, 1932, 1935, 1936, 1937) tiến hành nghiên cứu Phù du ở
Trung Quốc, ông đã thực hiện một loạt các nghiên cứu về khu hệ Phù du ở
Trung Quốc và đã xây dựng đƣợc hệ khóa phân loại tới loài. Nhƣng các kết

quả nghiên cứu chỉ dừng lại trên đối tƣợng thu đƣợc ở giai đoạn trƣởng thành.

Footer Page 11

4


Header Page 12

Cũng trong thời gian này, Ulmer (1932, 1933)cũng tiến hành nghiên cứu khu
hệ Phù du ở Trung Quốc. Ông đã thực hiện những nghiên cứu của mình trên
đối tƣợng ở giai đoạn ấu trùng của các loài Phù du, điều này đã bổ sung thêm
về thành phần loài của khu hệ Phù du ở Trung Quốc. Trên nền tảng đó, hàng
loạt các công trình nghiên cứu về Phù du ở Trung Quốc đƣợc thực hiện bởi
Wu (1986, 1987), You (1982, 1987), Zhang (1995), Zhou (1995)... (Dẫn theo
Nguyen,2003)[32].
Ulmer (1939), đã mô tả một số lƣợng lớn các loài Phù du ở đảo Sudan
(Indonesia), tài liệu này rất cần thiết cho việc nghiên cứu khu hệ Phù du ở
vùng Đông Nam Á. Tiếp sau đó, Gose (1985) đã tiến hành xây dựng khóa
định loại ấu trùng Phù du ở Nhật Bản. Trong những thập niên 90 của thế kỷ
XX, Bae và cộng sự (1994), Bae & Yoon (1997) đã xây dựng danh lục Phù du
ở Hàn Quốc ( Dẫn theo Nguyen, 2003) [32].
Các kết quả nghiên cứu đã cho thấy, ở châu Á có khoảng 128 giống
thuộc 18 họ của bộ Phù du (Hubbard, 1990; McCaffrty, 1991; McCaffrty &
Wang, 1997, 2000; Dudgeon, 1999) (Dẫn theo Nguyen,2003)[32]. Cho đến
nay, những nghiên cứu liên quan đến phân loại và hệ thống học về Phù du khá
tỉ mỉ, các nhà khoa học đã xây dựng khoá phân loại chi tiết tới loài kể cả giai
đoạn ấu trùng và trƣởng thành. Hiện nay, hƣớng nghiên cứu của các quốc gia
này tập trung vào các vấn đề sinh thái, phục hồi và bảo tồn các loài cũng nhƣ
các nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn của Phù du.

Ngoài các công trình nghiên cứu về đặc điểm phân loại của Phù du,
nhiều nhà khoa học còn quan tâm nghiên cứu các khía cạnh khác nhau liên
quan đến Phù du nhƣ Sinh thái học, Địa động vật, đó là các công trình của
Needham (1935), Lestage (1930) [24]. Về sinh thái học, Needham đã cung
cấp tƣơng đối đầy đủ các số liệu về vòng đời, quá trình lột xác chuyển đổi từ
đời sống dƣới nƣớc lên trên cạn, tập tính dinh dƣỡng, tập tính sinh sản, biến

Footer Page 12

5


Header Page 13

động số lƣợng theo mùa, … của nhiều loài Phù du. Về địa động vật học,
Lestage đã nhận xét về phân bố của Phù du cho rằng các loài Phù du ƣa sống
ở những thuỷ vực nƣớc chảy với hàm lƣợng ôxy hoà tan trong nƣớc cao. Bên
cạnh đó, cấu trúc nền đáy của các thủy vực cũng là yếu tố quan trọng quyết
định độ đa dạng loài của Phù du do ấu trùng của chúng chủ yếu sống bám đá
hay sống vùi mình trong bùn cát. Qua nghiên cứu cho thấy những thủy vực
nƣớc chảy mà ở đó cấu trúc nền đáy là các khối đá với nhiều kích thƣớc khác
nhau và có chứa mùn bã hữu cơ thì thành phần loài Phù du rất đa dạng.
Ngoài ra, các yếu tố tự nhiên khác nhƣ độ cao, độ che phủ của rừng tự
nhiên, … cũng ảnh hƣởng đến sự phân bố của Phù du . Điều đó chứng tỏ
rằng, các điều kiện tự nhiên có ảnh hƣởng lớn đến sự phân bố của Phù du
nhƣng thể hiện khác nhau giữa các loài, các giống do khả năng thích nghi,
sức chịu đựng của các loài khác nhau. Cụ thể khi tập trung nghiên cứu đối với
các họ thuộc bộ Phù du , nhận thấy có sự chênh lệch khá lớn về thành phần
loài giữa chúng. Nhƣ các họ Baetidae, Heptageniidae, Ephemerellidae,
Leptophlebiidae và Caenidae là những họ có thành phần loài chiếm ƣu thế

trong các thủy vực, trong khi các họ Oligoneuridae, Potamanthidae,
Polymitarcyidae và Prosopistomatidae lại có số lƣợng loài rất nhỏ, chẳng hạn
nhƣ họ Prosopistomatidae cho đến nay trên toàn thế giới chỉ có một giống
Prosopistoma với 3 loài (Dudgeon, 1999)[21]. Với dẫn liệu này, một lần nữa
khẳng định vai trò của điều kiện tự nhiên cũng nhƣ tính chất lí hóa của thủy
vực sống đối với sự phân bố của Phù du. Về khía cạnh ứng dụng, các nghiên
cứu ứng dụng của Phù du hiện nay tập trung vào việc dùng Phù du làm sinh
vật chỉ thị môi trƣờng. Quan tâm đến vấn đề này, có các công trình nghiên
cứu của Landa và Soldan (1991), Bufagni (1997). Khi nghiên cứu khía cạnh
này, các tác giả cho rằng việc sử dụng Phù du làm sinh vật chỉ thị dễ thực
hiện và có nhiều ƣu điểm. Hai ƣu điểm nổi bật là: thứ nhất có nhiều công

Footer Page 13

6


Header Page 14

trình nghiên cứu phân loại đã đƣợc thực hiện, nên việc định loại tới loài dễ
dàng hơn. Thứ hai là hầu hết các loài Phù du rất nhậy cảm với sự biến đổi của
môi trƣờng nên sự việc sử dụng chúng làm sinh vật chỉ thị sẽ mang lại những
hiệu quả thiết thực (Dẫn theo Nguyen, 2003)[32].
1.2. Tình hình nghiên cứu bộ Phù du ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trong những năm đầu của thế kỷ XX, các mô tả về Phù du
cũng đƣợc đề cập và quan tâm nghiên cứu. Mở đầu cho những nghiên cứu về
Phù du ở Việt Nam, nhà côn trùng học Lestage (1921), đã mô tả một loài
mới của bộ Phù du cho khoa học, dựa vào mẫu vật đƣợc lƣu giữ ở bảo tàng
Pari (mẫu vật thu đƣợc ở miền Bắc Việt Nam). Ông đặt tên loài là Ephemera
duporti, do các loài thuộc giống Ephemera có kích thƣớc lớn, phân bố khá

rộng và dễ thu thập nên nó đƣợc tiếp tục nghiên cứu ở giai đoạn này. Ngay
sau đó, Navas (1922, 1930)[30][31] đã công bố hai loài Ephemera
longiventris Navas và Ephemera innotata Navas, cũng dựa trên các mẫu vật
thu đƣợc ở miền Bắc Việt Nam. Cho đến nay, hai loài này cũng chƣa tìm
thấy ở các khu vực phân bố khác, nên có thể xem chúng nhƣ là loài đặc hữu
cho khu hệ Phù duở Việt Nam.
Đặng Ngọc Thanh (1967), cũng đã đề cập đến thành phần loài của Phù
du (Ephemeroptera), ông đã mô tả một loài mới thuộc họ Heptageniidae khi
nghiên cứu về khu hệ Động vật Không xƣơng sống ở miền Bắc Việt Nam.
Đặng Ngọc Thanh (1980), xác định khu hệ Phù du (Ephemeroptera) ở Bắc
Việt Nam bao gồm 54 loài, 29 giống thuộc 13 họ khác nhau. Tuy nhiên trong
số này chỉ có 13 loài là đƣợc định tên đầy đủ, số còn lại chỉ ở mức độ giống .
Đặc biệt trong nghiên cứu này ông đã mô tả hai loài mới cho khoa học đó là
Thalerosphyrus vietnamensis và Neopheieridae cuaraoensis [18][32], Đặng
Ngọc Thanh và cộng sự (2002), ở Việt Nam đã biết 56 loài thuộc 30 giống
của Phù du. Trong đó, giống Baetis có 8 loài, giống Ephemerella có 6 loài.

Footer Page 14

7


Header Page 15

Đặc điểm thành phần loài của Phù du ở Việt Nam có sắc thái nhiệt đới rõ rệt,
bên cạnh đó lại có những giống phân bố rộng trong vùng ôn đới, cận nhiệt đới
[1].
Trong cùng thời gian này, một số nhà Côn trùng học ngƣời nƣớc ngoài
tiếp tục công bố một số loài mới dựa vào các mẫu vật thu đƣợc ở Việt Nam.
Tshernova (1972) , dựa vào mẫu vật Phù du thu đƣợc ở khu vực suối vùng núi

tỉnh Hòa Bình đã mô tả một giống mới cho khoa học là Vietnamella (họ
Ephemerellidae) với loài chuẩn Vietnamella thani Tshernova. Sau này, giống
Vietnamella tiếp tục đƣợc tìm hiểu và bổ sung bởi Allen (1980), McCafferty
&

Wang

(1997,

2000).

Một

vài

loài

thuộc

họ

Potamanthidae,

Neoephemeridae và Ephemerellidae đƣợc nghiên cứu bởi Bae và McCafferty
(1991, 1998); Aleen (1971). Cũng trong năm 1972, Tshenova công bố thêm
một giống mới là Asiatella (họ Ephemerallidae) với loài chuẩn là Asiatella
fermorata (Dẫn theo Nguyen, 2003)[32].
Braasch và Soldan (1979, 1984, 1986, 1988) đã mô tả 10 loài mới
thuộc họ Heptageniidae thu đƣợc từ một số suối, cho khu hệ Ephemeroptera ở
Việt Nam, trong đó thành lập thêm 2 giống mới là Asionurus và

Trichogeniella (Dẫn theo Nguyen, 2003)[32].
Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001), khi xây dựng khoá định loại
các nhóm động vật không xƣơng sống nƣớc ngọt thƣờng gặp ở Việt Nam đã
đƣa ra khoá định loại tới họ ấu trùng Phù du. Kết quả của công trình này là cơ
sở khoa học cho các nghiên cứu phân loại về Phù du cũng nhƣ việc sử dụng
đối tƣợng này là sinh vật chỉ thị cho các thuỷ vực nƣớc ngọt ở Việt Nam [13].
Các nghiên cứu sâu hơn về Phù du (Ephemeroptera), là hàng loạt các
công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn Vịnh và Yeon Jae Bae (2001, 2003,
2004, 2005, 2006, 2007, 2008) [15], ở một số Vƣờn quốc gia của Việt Nam.
Những nghiên cứu này, đã công bố hàng loạt các kết quả về khu hệ Phù du ở

Footer Page 15

8


Header Page 16

Việt Nam, và đã bổ sung danh sách thành phần loài, mô tả các loài mới, cũng
nhƣ xây dựng các khóa định loại tới loài của tất cả các họ.
Nguyễn Văn Vịnh (2003), trong nghiên cứu khu hệ Phù du ở Việt Nam
đã xác định đƣợc 102 loài thuộc 50 giống và 14 họ. Trong đó, có 23 loài đã
đƣợc biết đến trong các nghiên cứu trƣớc, 30 loài lần đầu tiên đƣợc ghi nhận
ở Việt Nam, 37 loài mới cho khoa học và 12 loài dự đoán là loài mới cho Việt
Nam. Trong nghiên cứu này, tác giả đã xây dựng khóa định loại và mô tả đặc
điểm hình dạng ngoài của các loài thuộc bộ Phù du ở Việt Nam, nghiên cứu
này là cơ sở để phục vụ cho các hƣớng nghiên cứu tiếp theo về bộ Phù du ở
nƣớc ta [32].
Nguyễn Văn Vịnh (2004), khi nghiên cứu về Phù du ở Vƣờn quốc gia
Tam Đảo đã xác định đƣợc 32 loài thuộc 24 giống và 8 họ. Trong đó, có 10

loài lần đầu tiên ghi nhận cho khu hệ động vật Việt Nam cũng nhƣ vƣờn quốc
gia Tam Đảo, Vĩnh Phúc, đó là: Platybaetis edmundsi Muller - Liebenau,
1980; Baetiella trispinata Tong and Dudgeon, 2000; Serratella albostriata
Tong and Dudgeon, 2000; Torleya arenosa Tong and Dudgeon, 2000;
Cincticostella boja Allen, 1975; Ephemera serica Eaton, 1871; Choroterpes
trifrucata Ulmer, 1939; Habrophlebiodes prominens Ulmer, 1939; Caenis
cornigera Kang and Yang, 1994; Isonychia formosana Ulmer, 1912 [12].
Ngoài việc phân loại các loài thuộc bộ côn trùng này, tác giả còn nhận xét về
sự phân bố của chúng theo độ cao của suối Thác Bạc.
Đặng Mỹ Tâm (2005), khi nghiên cứu về thành phần loài Phù du ở
Vƣờn quốc gia Tam Đảo đã xác định đƣợc 36 loài thuộc 24 giống và 8 họ.
Kết quả này so với nghiên cứu của Nguyễn Văn Vịnh (2004), thì đã bổ sung
thêm 4 loài là: Serratelle sp, Caenis sp.2, Baetis sp.3, Labiobbaetis sp.2 cho
Vƣờn quốc gia Tam Đảo, Vĩnh phúc [7].

Footer Page 16

9


Header Page 17

Nguyễn Văn Vịnh (2005), trong dẫn liệu bƣớc đầu về Phù du ở Vƣờn
quốc gia Ba Vì, Hà Tây, đã thu đƣợc 27 loài thuộc 22 giống và 9 họ.Trong
đó, có một loài mới cho khoa học là Polyplocia orientalis. Trong nghiên cứu
này, tác giả cũng chỉ ra sự phân bố của các loài thuộc bộ Phù du theo tính chất
dòng chảy ( chủ yếu là các loài thuộc họ Heptageniidae và Leptophlebiidae),
7 loài phân bố ở nói nƣớc đứng ( chủ yếu là các loài thuộc họ Baetidae và
Caenidae) và 4 loài bắt gặp nơi nƣớc đứng và nƣớc chảy[16].
Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2007), trong kết quả bƣớc đầu điều tra

thành phần loài Phù du tại Vƣờn quốc gia Bi Doup - Núi Bà, tỉnh Lâm Đồng,
đã xác định đƣợc 48 loài thuộc

30 giống và 7 họ. Trong đó, họ

Heptagennidae có 10 giống và 16 loài, họ Ephemerellidae có 5 giống với 12
loài, họ Baetidae có 7 giống và 11 loài, họ Leptophlebiidae cos4 giống và 5
loài, họ Caenidae có 2 giống và 2 loài, hai họ Ephemeridae và
Teloganodidaae mỗi họ co 1 giống và 1 loài [16].
Nguyễn Văn Vịnh và Nguyễn Thị Minh Huệ (2008), trong nghiên cứu
về thành phần loài của bộ Phù du (Ephemeroptera) ở Vƣờn Quốc gia Bạch
Mã, Thừa Thiên Huế, đã xác định đƣợc 56 loài thuộc 33 giống và 11 họ.
Trong đó loài Roenanthus distafurus lần đầu tiên phát hiện ở Việt Nam. Các
loài thuộc họ Baetidae, Heptageniidae, Leptophlebiidae phân bố rộng. Trong
khi đó các loài thuộc họ Neoephmeridae, Polymitarcyidae, Potamanthidae,
Prosopistomatidae, và Vietnamellidae lại có sự phân bố hẹp[17].
Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2014) đã xác định đƣợc 49 loài thuộc 34
giống 12 họ của bộ Phù du tại Vƣờn quốc gia Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Kết
quả phân tích cho thấy họ Baetidae có số lƣợng giống và loài cao nhất với 8
giống và 11 loài; họ Heptageniidae có 8 giống và 10 loài; họ Ephemerellidae
có 5 giống, 7 loài; họ Leptophlebiidae với 4 giống, 9 loài; họ
Potamananthidae có 2 giống, 2 loài; họ Ephemeridae có 1 giống 3 loài; họ

Footer Page 17

10


Header Page 18


Caenidae với 1 giống và 2 loài. Các họ Teloganodidae, Polymitacrydae,
Neoephemeridae, Isonychiidae và Austremerellidae mỗi họ có 1 giống, 1 loài.
Bên cạnh nghiên cứu đa dạng về loài, các tác giả còn nghiên cứu về phân bố
của Phù du theo tính chất dòng chảy ở khu vực nghiên cứu[18]
So với nhiều bộ Côn trùng nƣớc khác, Phù du ở Việt Nam đã đƣợc
nghiên cứu một cách có hệ thống và khá đầy đủ. Tuy nhiên, các nghiên cứu
về Phù du ở Việt Nam mới chỉ tập trung vào việc nghiên cứu đa dạng về loài
và phân loại học dựa vào hình thái ngoài của giai đoạn ấu trùng. Các nghiên
về phân bố của Phù du đã đƣợc quan tâm nghiên cứu nhƣng còn ít và tản mạn,
đặc biệt là các nghiên cứu phân bố của Phù du theo mùa vẫn chƣa đƣợc quan
tâm nghiên cứu nhiều.
1.3. Tình hình nghiên cứu bộ Phù du ở Vƣờn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh
Lào Cai.
Vƣờn Quốc gia Hoàng Liên nằm trong khu vực Tây Bắc Việt Nam, là
một trong những nơi có địa hình đa dạng và phức tạp, với nhiều núi cao và hệ
thống suối tự nhiên dày đặc, do vậy rất phù hợp cho sự tồn tại và phát triển
của bộ Ephemeroptera. Ở Việt Nam nói chung và Vƣờn quốc gia Hoàng Liên
nói riêng cho đến nay những nghiên cứu về Ephemeroptera còn rất tản mạn.
Tuy nhiên, Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2005, 2006, 2007), đã công bố một
số dẫn liệu ban đầu về bộ Phù du ở Vƣờn quốc gia Hoàng Liên, Lào Cai.
Nguyễn Văn Vịnh (2005), khi điều tra thành phần loài thuộc bộ Phù du
tại suối Mƣờng Hoa thuộc Vƣờn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai, đã xác
định đƣợc 53 loài thuộc 31 giống và 11 họ. Trong số 53 loài thu đƣợc có 24
loài vẫn chƣa xác định đƣợc đầy đủ tên khoa học. Các loài này chủ yếu thuộc
họ

Baetidae,

Ephemerellidae,


Heptageniidae,

Neoephemeridae,

Prosopistomatidae. Kết quả đã công bố đƣợc 4 loài mới cho khoa học dựa vào
các mẫu chuẩn thu đƣợc tại Sapa, đó là: Isca fasica Nguyen and Bae, 2003;

Footer Page 18

11


Header Page 19

Rhoenanthus sapa Nguyen and Bae, 2004; Afronurus meo, Nguyen and Bae,
2003; Iron longintibius, Nguyen and Bae, 2004. Đồng thời, xác định đƣợc 10
loài lần đầu tiên ghi nhận cho khu hệ động vật của Việt Nam[14].
Nguyễn Văn Quân (2006), khi nghiên cứu về thành phần loài Phù du
tại suối Mƣờng Hoa, Sapa, tỉnh Lào Cai đã xác định đƣợc 57 loài thuộc 29
giống và 9 họ. Kết quả này, đã bổ sung cho khu hệ Phù du ở Sapa, Lào Cai 6
loài đó là: Eatonigenia sp.1; Drunella perculta, Eburella brocha; Isonychia
formosana; Asionurus primus và Labiobaetis sp. Và một họ là Isonychiidae
với một loài Isonychia formosan. Hầu hết các loài này chỉ phân bố ở những
khu vực suối thấp[11].
Nhâm Thị Phƣơng Lan (2007), khi nghiên cứu về đa dạng thành phần
loài của 3 bộ côn trùng nƣớc, trong đó có bộ Phù du tại suối Mƣờng Hoa,
Sapa, tỉnh Lào Cai, đã xác định đƣợc 60 loài thuộc 28 giống và 9 họ. Khu
vực nghiên cứu này, có mức độ đa dạng loài Phù du cao, mặc dù trong đó
nhiều họ nhƣ Baetidae, Caenidae, hầu hết các loài chƣa xác định đƣợc tên cụ
thể, điều này tiềm ẩn nhiều loài mới cho khoa học[3].

Nhƣ vậy, các nghiên cứu về Phù du tại Vƣờn quốc gia Hoàng Liên,
tỉnh Lào Cai tập trung chủ yếu vào nghiên cứu về khu hệ và phân loại học, đã
bổ sung danh sách thành phần loài, mô tả các loài mới, cũng nhƣ xây dựng
các khóa định loại tới loài của tất cả các họ. Tuy nhiên, các nghiên cứu về
phân bố Phù du theo tính chất dòng chảy,theo mùa vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu
1 cách đầy đủ.
1.4. Một số đặc điểm tự nhiên của Vƣờn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào
Cai
Theo kết quả báo cáo của Vƣờn quốc gia Hoàng Liên về Dự án Bảo vệ và
phát triển rừng, ổn định dân cƣ tại Vƣờn quốc gia Hoàng Liên giai đoạn
2010- 2015; Báo cáo xác định vùng đệm Vƣờn quôc gia Hoàng Liên, tỉnh

Footer Page 19

12


Header Page 20

Lào Cai[19], [20] và kết quả nghiên cứu của Nguyễn Nghĩa Thìn (2008)[10].
Điều kiện tự nhiên của Vƣờn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai có những nét
cơ bản sau:
Vƣờn quốc gia Hoàng Liên nằm trong khu vực Tây Bắc Việt Nam, có
vị trí địa lý từ 22009’- 23030’ độ vĩ Bắc và 103000- 103059’ độ Kinh Đông.
Về địa giới hành chính gồm 6 xã: San Sản Hồ, Lao Chải, Tả Van, Bản Hồ,
Mƣờng Khoa, Thân Thuộc thuộc huyện Sa Pa và huyện Than Uyên, tỉnh Lào
Cai. Diện tích vƣờn quốc gia là 51.800 ha. Trong đó vùng l i là 29. 845 ha, là
phần cuối cùng của dãy Himalaya chạy dọc sông Hồng theo hƣớng Tây BắcĐông Nam.
Hoàng Liên là một hệ thống các đỉnh núi cao trên 2000 m chạy theo
hƣớng Tây Bắc – Đông Nam. Đặc biệt ở Vƣờn quốc gia có đỉnh núi

Phansipan cao 3.143m so với mặt nƣớc biển. Các hệ chính của dãy núi thoải
dần theo hƣớng Đông Bắc và Tây Nam tạo thành hai sƣờn chính của dãy
Hoàng Liên trong đó sƣờn Đông Bắc thuộc huyện Than Uyên. Các dạng địa
hình chủ yếu của Vƣờn Quốc Gia Hoàng Liên gồm núi cao, thung lũng, sƣờn
núi đồi. Mức độ chia cắt theo chiều ngang và chiều thẳng đứng rất mạnh tạo
ra sức phức tạp của địa hình và độ dốc lớn. Độ dốc trung bình phổ biến từ 20300, có nơi 400 và dốc đứng.
Hoàng Liên đƣợc cấu tạo từ các loại đá nguồn gốc mắc-ma nhƣ granit,
amphibolit, filit, đá vôi, trong đó đá granit là phổ biến nhất (Vũ Tự Lập,
1999). Địa chất và địa hình, kết hợp với khí hậu làm nên thổ nhƣỡng, qui luật
phân bố các loại đất đai ở Vƣờn quốc gia Hoàng Liên theo đai độ cao đƣợc
thể hiện khá r . Nhìn chung, các loại đất ở đây có, hàm lƣợng mùn cao, phần

Footer Page 20

13


Header Page 21

lớn là dạng viên nhỏ, quá trình xói mòn và rửa trôi yếu, độ tơi xốp cao, độ ẩm
lớn, độ dầy tầng đất phổ biến là ở mức trung bình (từ 50- 120cm), phần cơ
giới thịt nhẹ, thịt trung bình, thịt nặng. Tính chất đất rừng còn thể hiện r ,
thuận lợi cho việc trồng rừng và phục hồi rừng. Trên địa hình dốc đất dễ bị
rửa trôi và bào mòn, kết hợp với quá trình hoạt động địa chất lâu dài, những
hoạt động xâm thực, phong hóa, bồi tụ đã hình thành nên các thung lũng phủ
đầy phù sa màu mỡ nằm rải rác trong Vƣờn quốc gia Hoàng Liên.
Với vị trí ở phía Đông của dãy Hoàng Liên, có địa hình phức tạp nên
khí hậu ở Vƣờn Quốc gia Hoàng Liên cũng bị phân hóa mạnh mẽ theo độ cao
và hƣớng địa hình. Một đặc trƣng của khí hậu Hoàng Liên là hầu nhƣ quanh
năm duy trì tình trạng ẩm ƣớt. Độ ẩm tƣơng đối trung bình năm khoảng trên

85%, tháng mƣa ít nhất trung bình cũng đạt 20 - 30 mm. Tổng bức xạ mặt trời
có chỉ số phổ biến từ 100-135 Kcal/cm2/năm. Nhiệt độ không khí trung bình
năm từ 13 - 21 C, lớn ở sƣờn Tây, nhỏ ở sƣờn Đông. Nhiệt độ cao đạt đỉnh
vào tháng 6 - 7 có chỉ số 16 - 25 C. Nhiệt độ thấp nhất vào các tháng 12 và
tháng 1, nhiều năm xuống dƣới 5 C. Vào mùa đông thƣờng có băng giá và
tuyết rơi đôi khi có thể xuống dƣới -3 C. Lƣợng mƣa phân bố không đều giữa
các tháng trong năm, đặc biệt vào các tháng mùa h , lƣợng mƣa tƣơng đối cao.
Mùa mƣa bắt đầu từ giữa tháng 3 đến giữa tháng 10, trong đó có hai tháng có
lƣợng mƣa lớn nhất là tháng 7 ( 454,3 mm) và tháng 8 ( 453,8 mm). Vào mùa
đông, do nhiệt độ hạ thấp, hạn chế lƣợng bay hơi nƣớc, vì vậy, đây là khoảng
thời gian mƣa ít nhất trong năm, lƣợng mƣa trung bình trong tháng khoảng
50-100 mm, thấp nhất vào tháng 12 (63,6 mm) nhƣng do nhiệt độ thấp nên
thấy rằng khu vực Hoàng Liên không có tháng nào khô. Lƣợng ẩm không khí
ở khu vực Hoàng Liên tƣơng đối cao, trung bình năm khoảng 86%. Tháng có

Footer Page 21

14


Header Page 22

độ ẩm lớn nhất là tháng 9 và tháng 11 với giá trị 90%, tháng có độ ẩm nhỏ
nhất là tháng 4 có giá trị 82 %( Nguyễn Nghĩa Thìn, 2008) .
Ngoài những yếu tố thời tiết chung, Vƣờn Quốc gia Hoàng Liên còn có
những hiện tƣợng thời tiết đặc biệt nhƣ: sƣơng mù, băng giá, mƣa phùn,
giông, sƣơng muối, tuyết… Trong đó sƣơng mù và mƣa phùn là hai hiện
tƣợng thời tiết phổ biến ở Vƣờn Quốc gia Hoàng Liên, thƣờng xuất hiện vào
những tháng mùa đông xuân từ tháng 11 đến tháng 3 của năm sau. Giông và
mƣa đá là hai hiện tƣợng thời tiết thƣờng xảy ra vào mùa hạ. Tuyết và sƣơng

muối là những hiện tƣợng thời tiết ít gặp, nhƣng để lại nhiều thiệt hại cho cây
trồng, vật nuôi và ảnh hƣởng mạnh mẽ đến đời sống của ngƣời dân nơi đây
1.4.5. Mạ

ới

Do đặc điểm địa hình của khu vực, Vƣờn Quốc gia Hoàng Liên đƣợc
tạo thành từ hai sƣờn chính: sƣờn Đông Bắc dốc thoải về phía sông Hồng và
sƣờn Tây Nam dốc thoải về phía sông Đà, vì vậy trong khu vực cũng tạo nên
hai hệ suối chính:
- Hệ thống suối thuộc khu vực Đông Bắc gồm 3 suối chính: Mƣờng Hoa
bắt nguồn từ Phanxipan, Séo Trung Hồ bắt nguồn từ Tả Van, Tả Trung Hồ
bắt nguồn từ Bản Hồ. Ba suối này gặp nhau tại khu vực Bản Dền tạo thành
ngòi Bo đổ ra sông Hồng. Vì địa hình dốc, chia cắt mạnh, nên về mùa đông
chúng chỉ là suối cạn song về mùa mƣa, đặc biệt là vào các tháng có lƣợng
mƣa tập trung (7,8,9) thƣờng có lũ và lũ quét.
- Hệ thống suối thuộc khu vực Tây Nam dãy Hoàng Liên gồm hai suối
chính: Suối Nậm Bé bắt nguồn từ Phansipan và suối Nậm Pao, Nậm Chăng.
Cả hai suối này đều chảy ra con ngòi lớn Nậm Mu và đổ ra sông Đà. Ngoài
hai hệ thống suối chính thuộc hai sƣờn của dãy Hoàng Liên, còn một con suối
bắt nguồn từ lƣu vực thuộc xã Sa Pả và một phần từ Sa Pa, chảy theo hƣớng
Đông Bắc đổ vào sông Hồng tại thị xã Lào Cai.

Footer Page 22

15


Header Page 23


Chƣơng 2
THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM, ĐỐI TƢỢNG VÀ
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian nghiên cứu
Thời gian tiến hành nghiên cứu đƣợc thực hiện từ tháng 09/2015 đến
tháng 05/2016. Mẫu vật sử dụng trong nghiên cứu đƣợc thực hiện ở hai đợt
điều tra ngoài thực địa. Các điểm điều tra thuộc khu vực Vƣờn quốc gia
Hoàng Liên tỉnh Lào Cai.
Đợt 1 đƣợc tiến hành từ ngày 27/05/2013 đến ngày 31/05/2013 (thuộc
mùa mƣa).
Đợt 2 đƣợc tiến hành từ ngày 24/10/2013 đến ngày 29/10/2013 (thuộc
mùa khô).
Toàn bộ mẫu vật thu ngoài tự nhiên đƣợc bảo quản và lƣu trữ tại phòng
thí nghiệm Đa dạng sinh học, Bộ môn Động vật không xƣơng sống, Khoa Sinh
hoc, Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội.
2.2. Địa điểm nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành thu mẫu tại 9 điểm nghiên cứu thuộc hệ thống suối
chính của Vƣờn Quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai và các điểm thu mẫu đƣợc
đánh số thứ tự từ S1 đến S9. Trong quá trình thu mẫu các thông số về sinh
cảnh tại mỗi điểm thu mẫu đều đƣợc ghi đầy đủ (Bảng 2.2).

Footer Page 23

16


Header Page 24

Bảng 2.2. Một số đặc điểm sinh cảnh tại các điểm thu mẫu thuộc
Vƣờn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai

Kí hiệu

Điểm thu mẫu

Độ cao (m) /
Tọa độ

Khái quát đặc điểm sinh cảnh
Nƣớc suối chảy tƣơng đối mạnh.

625

(220 14,968’; Suối nhiều mùn bã thực vật. Nền
Suối nhánh Tả
S1

1030 57,190’) đáy của suối chủ yếu là đá nhỏ và
cát, đôi khi có đá tảng. Một bên

Trung Hồ

suối là rừng với nhiều cây gỗ, một

(xã Bản Hồ)

bên là ruộng bậc thang. Độ che
phủ 30-70%.
Nƣớc suối chảy mạnh. Nền đáy

580

Suối Nậm Cang
S2

1

(220 13,085’; của suối chủ yếu là đá nhỏ và
1030 01,659’) trung bình, ít đá tảng lớn. Suối ít
mùn bã thực vật. Độ che phủ 0-

(xã Nậm Cang)

5%. Nƣớc suối tƣơng đối trong.
Lòng suối rộng.
532

Hai bên suối là ruộng canh tác của

Suối Nậm Cang (220 14,362’; ngƣời dân. Nền đáy của suối chủ
S3

2

1040 00,457’) yếu là đá nhỏ và trung bình. Nƣớc
chảy tƣơng đối mạnh. Độ che phủ

(xã Nậm Sài)

0-5%.
Suối Nậm Cang
S4


3
(xã Nậm Sài)

S5

Footer Page 24

Suối Nậm Cang
4

Nƣớc suối chảy mạnh. Nền đáy

452

(220 14,670’; của suối là đá tảng và đá trung
1030 59,540’) bình. Độ che phủ 5-8%.
Nền đáy của suối chủ yếu là đá

448

(220 15,020’; nhỏ và trung bình. Một bên suối là
17


Header Page 25

(xã Nậm Sài)

1030 59,363’) ruộng canh tác, một bên suối là

vƣờn cây. Lòng suối rộng. Độ che
phủ 0-2%.
Nền đáy chủ yếu là đá nhỏ và

417
S6

Suối Lave 1

(220 15,725’; trung bình. Suối bị tác động mạnh

(xã Bản Hồ)

1030 58,067’) của ngƣời dân trong sinh hoạt
hằng ngày. Độ che phủ 0-5%.
Nền đáy chủ yếu là đá tảng cõ

404

S7

Mƣờng Hoa
(xã Bản Hồ)

(220 15,956’; lớn. Ven bờ có nhiều cây bụi nhỏ.
1030 58,048’) Suối bị tác động mạnh của ngƣời
dân trong việc khai thác sỏi, cát.
Độ che phủ thấp 0-2%.
Nền đáy của suối chủ yếu là đá có


398
S8

Suối Lave 2

(220 15,742’; kích thƣớc trung bình. Suối ít mùn

(xã Bản Hồ)

1030 58,395’) bã thực vật. Độ sâu của suối
tƣơng đối lớn. Độ che phủ 0-5%.
Nƣớc suối chảy mạnh. Suối bị tác

377

(220 15,544’; động mạnh của con ngƣời qua
Suối Nậm Cang 1030 58,790’) việc khai thác cát và sỏi của suối.
S9

5

Nền đáy của suối chủ yếu là đá có

(xã Bản Hồ)

kích thƣớc lớn và trung bình. Suối
ít mùn bã thực vật. Độ che phủ
khoảng 0-5%.

Footer Page 25


18


×