Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Một số kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn bậc THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.89 KB, 26 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định
“GD&ĐT cùng với KH&CN là quốc sách hàng đầu; là nền tảng và là động lực
thúc đẩy CNH – HĐH đất nước. Đầu tư cho giáo duc là đầu tư cho sự phát
triển. Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức, có văn hoá, có kĩ năng nghề
nghiệp… gắn học với hành, tài với đức..”
Để định hướng trên đi vào Giáo dục một cách thiết thực trong nhiều năm
qua các cuộc thi Học sinh giỏi Olympic, thi học sinh giỏi cấp huyện, tỉnh, cấp
quốc gia hay các cuộc thi tìm ra nhân tài trên truyền hình như “Đường lên đỉnh
Olimpia", "Theo dòng lịch sử"… luôn được tổ chức và đi vào chiều sâu. Nhằm
chọn ra nhân tài cho đất nước.
Đối với địa phương Lai Châu - thuộc khu vực vùng cao Tây Bắc, điều
kiện kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn, công việc “Đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài” lại là một thách thức đối với ngành giáo dục. Tuy nhiên, trong
những năm qua, đặc biệt từ khi thay sách đến nay, công tác phát triển, nâng cao
chất lượng giáo dục của tỉnh nhà cũng ngày càng được quan tâm. Bằng chứng là
các cuộc thi học sinh giỏi các cấp luôn được Tỉnh chỉ đạo thực hiện sát sao hàng
năm. Các đơn vị trường trong toàn huyện ngày càng đầu tư vào chất lượng giáo

1


dục. Vì vậy công tác “Bồi dưỡng nhân tài” hay nói một cách khác đi việc bồi
dưỡng học sinh giỏi ngày càng được chú trọng.
Mục tiêu đào tạo của ngành giáo dục địa phương và Trường PTDT Nội
trú Than Uyên là chuẩn bị cho học sinh sau khi học hết cấp ra trường có thể
thích ứng nhanh chóng với sự phát triển của kinh tế xã hội ở địa phương. Cụ thể
là học sinh phải được trang bị kiến thức để có hiểu biết về tổ quốc về cộng đồng


dân tộc thiểu số ở Việt Nam, về nghĩa vụ và quyền lợi công dân, về tinh thần
làm chủ và nếp sống văn minh về nền văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của
các dân tộc thiểu số về những cuộc vận động lớn của Đảng và Nhà nước đang
tiến hành ở miền núi và vùng dân tộc...Học sinh phải được chuẩn bị kiến thức
các môn học ở các lớp như học sinh ở các trường phổ thông trong cả nước. Học
sinh phải được rèn luyện thông qua các hoạt động trong và ngoài nhà trường để
sau khi ra trường có thể tham gia tổ chức và điều khiển các hoạt động cải tạo và
xây dựng xã hội trong cộng đồng dân tộc ở địa phương. Để đạt được mục tiêu
trên trong quá trình giáo dục nhà trường phải thực hiện đầy đủ các nội dung giáo
dục: Đức - Trí - Thể - Mĩ và lao động hướng nghiệp trong đó việc bồi dưỡng và
phát huy tính tích cực học tập của học sinh để nâng cao kết quả là việc làm hết
sức quan trọng và cần thiết.
Trong những năm học qua huyện Than Uyên nói chung, Trường PTDT
Nội trú Than Uyên nói riêng đã thực hiện các công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
khá tốt. Chất lượng học sinh ngày càng được nâng cao, song phương pháp bồi
dưỡng và học tập của các em chưa hiệu quả cao. Do vậy chất lượng học tập nói
chung chưa đạt được kết quả như mong muốn.
2


Trên cơ sở phân tích những lí do khách quan và chủ quan như đã nêu
trên tôi mạnh dạn lựa chọn Sáng kiến “Một số kinh nghiệm bồi dưỡng học
sinh giỏi môn Ngữ văn bậc THCS”.
II. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này tôi xin đề cập đến “Một số kinh nghiên trong công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn cấp THCS” mà bản thân tôi và một số đồng
chí đồng nghiệp trong và ngoài tỉnh Lai Châu đã vận dụng thành công. Trong đó
tôi đã vận dụng cụ thể ở các khối lớp 6,7,8,9 tại các đơn vị: trường THCS xã Pắc
Ta; ôn học sinh giỏi huyện Tân Uyên; Trường PTDT Nội trú Than Uyên - Than

Uyên - Lai Châu.
2. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hình thức tổ chức và hướng ôn luyện học sinh giỏi môn Ngữ
văn cấp THCS. Chương trình Ngữ văn lớp 6,7,8,9 được chia ra làm 6 kiểu văn
bản: tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh, điều hành (hành chính
công vụ) và được phân đều ra các lớp. Khi ôn luyện học sinh giỏi văn mỗi lớp
chủ yếu là các kiểu văn bản sau:
- Lớp 6: kiểu văn bản tự sự, miêu tả
- Lớp 7: kiểu văn bản biểu cảm, nghị luận
- Lớp 8: kiểu văn bản tự sự (kết hợp các yếu tố), nghị luận, thuyết minh.
- Lớp 9: kiểu văn bản nghị luận; thuyết minh (sử dụng một số biện pháp
nghệ thuật, miêu tả; tự sự đặc điểm và sự kết hợp các yếu tố).

3


Riêng kiểu văn bản điều hành phân phối đều phần cuối năm của tất cả các
khối lớp. Như vậy cách thức bồi dưỡng học sinh giỏi văn phải dựa vào đặc điểm
này để ôn luyện sao cho sát thực tế, trọng tâm kiến thức, kĩ năng của các lớp.
nên đối tượng nghiên cứu ở đây là cách ôn luyện học sinh giỏi văn ở bậc THCS
nói chung.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Với mục đích nâng cao chất lượng giáo dục đặc biệt chất lượng mũi nhọn
trong quá trình học tập môn Ngữ Văn của học sinh cấp THCS. Từ đó giúp chất
lượng giáo dục của địa phương nâng lên và phát huy được năng lực vốn có của
học sinh. Với mục đích cuối cùng là sau khi ra trường học sinh có thể tự tin học
bộ môn ở bậc THPT và có cơ sở thi và học chuyên nghiệp tốt hơn. Từ đó đào
tạo được nhân tài cho địa phương, cho đất nước.
IV. ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ sự vận dụng thành công sáng kiến, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra kinh

nghiệm của mình trao đổi với bạn bè đồng nghiệp trong công tác bồi dưỡng, ôn
luyện học sinh giỏi môn văn. Kinh nghiệm này dựa chủ yếu vào thực tế hoạt
động sư phạm của bản thân mà các nhà nghiên cứu, viết sách chưa đề cập đến
hoặc đề cập một cách chung chung trong khi địa phương tỉnh Lai Châu - khu
vực cư trú, sinh sống, học tập chủ yếu của đồng bào dân tộc thiểu số Thái, H’
Mông, Dao, Khơ Mú…không thể vận dụng được.
Khi viết sáng kiến, người viết xuất phát từ nhận thức đúng về bộ môn:
“Giáo viên văn học tiếp xúc với học sinh của mình là để chỉ đạo hoạt động nhận
thức, giúp các em phát triển nhân cách”- GS Phan Trọng Luận. Ngoài ra còn
4


xuất phát từ yêu cầu kiến thức cơ bản của chương trình văn học THCS để lựa
chọn phương pháp và cách thức ôn luyện và giúp học sinh làm bài có hiệu quả.
Tôi không đưa ra cách tiến hành cụ thể một khối lớp nào mà đề ra phương pháp
bồi dưỡng nói chung để khi vận dụng giáo viên có thể ứng dụng với tất cả các
lớp.

5


PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Bồi dưỡng khả năng học Văn cho học sinh là một việc rất quan trọng và
rất cần thiết vì nó góp phần tạo cho con người Việt Nam phát triển toàn diện. Để
làm được điều đó giáo viên Ngữ văn phải giúp cho các em say mê học Văn.
Việc này chỉ đạt được kết quả cao khi thầy giáo biết động viên khích lệ các em
trong học tập, biết tạo điều kiện để các em tự bộc lộ được khả năng của mình và
say sưa tham gia xây dựng bài, tích cực tự giác, tự học, tự rèn luyện.
Theo Giáo trình "Phương pháp dạy học văn" của Đại học Quốc gia Hà

Nội thì "Bồi dưỡng học sinh giỏi văn hiểu theo nghĩa thông thường tức là giáo
viên - người hướng dẫn biết khơi dậy khả năng, năng lực cảm thụ văn học của
học sinh trên cơ sở vốn hiểu biết học sinh đã có và cao hơn nữa là cung cấp cho
các em những điểm mới, sâu hơn về văn học mà học sinh chưa có. Để từ đó các
em vận dụng vào việc làm văn hiệu quả".
Nói đến thành công của một bài văn là nói đến nhiều phương diện. Bài
văn hay là sản phẩm của vốn sống, vốn văn học, năng lực tư duy, năng lực giao
tiếp, sự thành thạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, sự sáng tạo của cá nhân…Có
thể nói bài văn là sản phẩm tổng hợp nhất của tất cả năng lực của học sinh. Bởi
thế người ta nhìn vào bài văn sẽ biết được năng lực của học sinh song một phần

6


thấy được khả năng bồi dưỡng của người dạy văn. Nói như vậy có nghĩa là công
việc bồi dưỡng khả năng, năng lực vốn có của học sinh là rất qua trọng, sẽ giúp
học sinh phát huy năng lực của bản thân trở thành người giỏi văn thực thụ.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Thuận lợi
Trong những năm gần đây, cùng với sự thay đổi về SGK, phương pháp
dạy học, Bộ GD&ĐT cũng hết sức quan tâm đến công tác nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Trong tỉnh nhà, Sở Giáo dục và
Đào tạo cũng quan tâm, thực hiện chế độ ưu đãi đối với những giáo viên, học
sinh có thành tích tốt trong giảng dạy và học tập... Đây là động lực rất lớn động
viên thày và trò trường PTDT Nội trú Than Uyên thực hiện tốt công tác nâng
cao chất lượng giáo dục mũi nhọn, trong đó có công tác ôn luyện, bồi dưỡng học
sinh giỏi.
2. Khó khăn
Qua trải nghiệm thực tế có thể nhận định: “Bồi dưỡng học sinh giỏi là
công việc mới và khó đối với giáo viên và học sinh. Mới bởi đây là phần việc

liên quan đến công tác giáo dục chất lượng mũi nhọn nên toàn bộ nội dung, kế
hoạch hoạt động đều không nằm trong phân phối chương trình, không được tiến
hành xuyên suốt trong năm, không có tài liệu biên soạn dành riêng cho công tác
này, việc dạy và học cũng không áp dụng đại trà chung cho mọi đối tượng...Góc
độ tiếp cận vấn đề này của huyện và tỉnh nhà so với phong trào hoạt động chung
của cả nước và quốc tế còn rất khiêm tốn - Thực tế là chúng ta chưa có học sinh
tham gia trong đội tuyển học sinh giỏi cấp quốc gia, quốc tế trong nhiều năm
7


gần đây. Khó bởi mặt bằng chất lượng giáo dục nói chung của chúng ta còn yếu.
Mặc dù công tác bồi dưỡng học sinh giỏi đã được các Trường, Phòng và Sở
GD&ĐT quan tâm rất nhiều song việc kéo gần khoảng cách giữa chất lượng
giáo dục ở địa phương với các vùng miền khác trong nước và quốc tế là rất khó.
Thực tế trên biểu hiện ngay cả ở chất lượng giáo dục phổ thông, đại trà lẫn công
tác giáo dục chất lượng mũi nhọn. Bởi vậy việc lên lớp của giáo viên ở huyện,
tỉnh nhà thông thường vốn đã khó, bồi dưỡng học sinh giỏi lại càng khó hơn.
Qua thực trạng trên đây cho thấy nếu thầy tích cực đổi mới phương pháp
dạy học phù hợp, đa dạng hóa các hình thức bồi dưỡng, hướng dẫn học, tăng
cường kiểm tra đúc rút kinh nghiệm, bổ sung kịp thời phù hợp thì chắc chắn học
sinh sẽ tích cực học tập, say sưa học tập và như thế kết quả dạy và học chắc chắn
tốt.
III. CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Ở sáng kiến kinh nghiệm này, tôi không muốn nói nhiều đến các giải pháp
mang tính chất lí luận mà chủ yếu là chia sẻ với đồng nghiệp một số kinh
nghiệm, việc làm cụ thể qua thực tế việc thực hiện công tác ôn luyện, bồi dưỡng
học sinh giỏi ở các đơn vị trường tôi đã từng công tác và vận dụng.
1. Sự tâm huyết và lòng nhiệt tình
Tiêu chí này cần có ở cả giáo viên và học sinh tham gia công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi. Song ở đây chúng ta bàn nhiều hơn tới các thày cô. Thông

thường qua các cuộc họp Hội đồng, họp Chuyên môn, khi nghe Ban giám hiệu
trưng cầu ý kiến nguyện vọng rằng: “Ai có thể đảm nhận công tác ôn luyện học
sinh giỏi? Người nào? Môn nào?”... Rất thông thường sự đáp lại là biểu hiện im
8


lặng. Bởi tâm lí chung là không ai muốn đương đầu với một công việc khó khăn
mà danh hiệu, kết quả và thù lao là cái không thể nhìn thấy hoặc tính trước
được. Vì vậy việc đầu tiên đặt ra ở đây là: Hãy mạnh dạn đứng lên đảm nhận
công tác này bằng cả tâm huyết và lòng nhiệt tình. Công việc nào cũng vậy, hãy
nhận và làm, tiếp theo rồi sẽ “vỡ vạc” và ít nhiều thu nhận dược thành quả.
2. Việc lựa chọn học sinh
Ở bậc THCS chúng ta hay nói tới công tác ôn luyện học sinh giỏi ở lớp 9.
Các lớp 6,7,8 cũng có tham gia công tác này nhưng mức độ và phạm vi hẹp hơn,
song đó không phải là vấn đề chính. Điều đáng nói ở đây là giáo viên đảm nhận
công tác này cần chú ý quan tâm và lựa chọn học sinh, phát hiện “Nhân tài”
ngay từ các lớp dưới. Bởi học sinh giỏi phải là người có tố chất, năng khiếu, sự
sáng tạo và vốn kiến thức cơ bản vững chắc ... Điều này thể hiện rõ nhất qua kết
quả và hoạt động học tập của các em trên lớp. Giáo viên căn cứ vào đó để lựa
chọn những học sinh thực sự có năng lực và tố chất tham gia vào đội tuyển ôn
luyện học sinh giỏi.
3. Lên kế hoạch chủ động bồi dưỡng, ôn luyện học sinh giỏi ngay từ đầu
năm học
Đã gọi là hoạt động, là công tác “mũi nhọn” thì phải “xuyên suốt”. Một số
trường chỉ thực hiện công tác này trước thời điểm thi học sinh giỏi vài tháng,
thường là vào đầu học kì II của năm học. Nếu thực hiện như vậy thì quỹ thời
gian ôn luyện dành cho các em là rất ngắn. Trong khi như đã nóỉ ở phần đầu:
học sinh của chúng ta xuất phát từ một mặt bằng giáo dục còn thấp. Các trường
nằm ở vùng thuận lợi đã vậy, các trường ở vùng sâu, vùng xa, trường chuyên
9



biệt như trường PTDT Nội trú muốn có học sinh giỏi càng phải tiến hành ôn
luyện sớm hơn. Nói rằng: “Lấy cần cù bù thông minh” cũng chưa hoàn toàn
đúng song tóm lại: Nếu thày và trò chủ động lên kế hoạch, mục tiêu rồi tiến
hành ôn luyện học sinh giỏi ngay từ đầu năm học thì chắc chắn sẽ thu được kết
quả tốt hơn. Đây là một thực tế.
4. Bồi dưỡng, giáo dục học sinh một cách toàn diện, linh hoạt sáng tạo và
chu đáo
a. Bồi dưỡng, giáo dục về tư tưởng
Nhắc đến từ “tư tưởng” ta thường nghĩ đến điều gì đó to lớn, trừu tượng
và phức tạp. Song vấn đề ở đây rất đơn giản, đó là : Động viên học sinh, giúp
các em yêu thích môn học, có mục tiêu, lí tưởng phấn đấu, có động lực quyết
tâm ôn và thi học sinh giỏi đạt giải. Đây là việc dễ làm, nên làm nhưng vô cùng
quan trọng. Tuy nhiên, theo đánh giá: Rất ít giáo viên ôn luyện học sinh giỏi
quan tâm đến vấn đề này, phần đa chỉ chú trọng đến mảng ôn luyện kiến thức.
Điều này cần nhưng chưa đủ bởi sẽ thật khó khơi dậy ở các em lòng đam mê và
nhiệt tình theo đuổi môn học nếu không biết mình đi thi học sinh giỏi sẽ có gì,
được gì trong khi thời gian và các môn học chính khoá với các em đã là cả một
gánh nặng...Chính vì vậy công tác giáo dục về tư tưởng là tối cần thiết và phải
được tiến hành thường xuyên, song hành với việc ôn luyện về kiến thức. Trước
tiên, hãy cho các em biết tham gia đội tuyển học sinh giỏi và đạt giải sẽ có gì,
được gì, ví dụ:

10


- Về kiến thức: Đó là phần kiến thức chuyên sâu liên quan đến sở trường,
năng lực của các em, hỗ trợ cho các em rất hiệu quả, đắc lực khi vào học cấp III
(THPT) và thi tuyển vào các trường chuyên nghiệp sau này.

- Về danh hiệu: Thật vinh dự khi các em thi đạt giải sẽ được cả trường,
huyện, tỉnh biết đến. Đây quả là phần thưởng vô giá và tuyệt vời.
- Về quyền lợi: Các em sẽ được một khoản tiền thưởng nhất định, được
ưu tiên khi xét tuyển vào trường Dân tộc Nội trú của tỉnh hay trường THPT,
được tuyên dương ghi nhớ danh hiệu trong hồ sơ học bạ...
Ví dụ đơn cử trên chỉ là công tác tư tưởng ban đầu định hướng cho học
sinh động cơ học tập, phấn đấu và đạt giải. Ngoài ra, việc động viên khích lệ về
tư tưởng phải được tiến hành thường xuyên trong từng tiết học giờ học bằng lời
nói, hành động việc làm cụ thể: Một lời khen ngợi, động viên, một phần quà nhỏ
như chiếc bút bi, quyển vở, hay gói kẹo “liên hoan”... sẽ giúp các em phấn khởi
và tích cực học tập rất nhiều... Sau mỗi buổi học, giáo viên cần dành thời gian để
rút kinh nghiệm giờ học, tháo gỡ mọi thắc mắc và chỉ rõ ưu, nhược điểm trong
bài viết, hướng suy nghĩ của các em, có sự so sánh, khen ngợi, góp ý cụ thể từng
học sinh trong nhóm, giúp các em tiến bộ từng ngày. Có thể nói: làm tốt công
tác giáo dục về tư tưởng cho học sinh có nghĩa là chúng ta đã thành công một
nửa trong công tác ôn luyện học sinh giỏi.
b. Bồi dưỡng về kiến thức
Nhiều giáo viên, học sinh quan niệm: Giỏi là trên mức bình thường. Vì
vậy kiến thức ôn luyện học sinh giỏi phải cao sâu... Thực tế không hoàn toàn
như vậy. Giống như việc chúng ta xây nhà, phải bắt đầu từ nền móng. Kiến thức
11


và kĩ năng cũng vậy: không có kiến thức, kĩ năng cơ bản sẽ không có chuyên
sâu. Do đó, nên ôn cho học sinh hiểu và nhớ kiến thức cơ bản trọng tâm trong
chương trình phổ thông trước đã. Khi đã có vốn kiến thức cơ bản trọng tâm
vững chắc rồi thì dù có gặp đề khó, các em sẽ biết kết hợp cái nền tảng mình đã
có chính là kiến thức kĩ năng cơ bản với năng khiếu, sự sáng tạo, cùng với áp
lực, động lực thi cử... để giải đáp được mọi câu hỏi mà đề bài yêu cầu. Đương
nhiên việc cung cấp cho các em vốn kiến thức nâng cao và chuyên sâu cũng là

điều cần thiết song chỉ nên và chỉ được đưa ra mang tính chất tham khảo và bổ
trợ.
Có thể bồi dưỡng về kiến thức cho học sinh theo những phương pháp sau
đây:
b.1. Cung cấp đầy đủ những kiến thức lí thuyết định hướng thực hành
Không có lí thuyết định hướng học sinh sẽ rơi vào tình trạng nói, viết tuỳ
tiện. Có những giờ bồi dưỡng chỉ nhằm rèn luyện một thao tác, khẳng định một
phần kiến thức nhưng có giờ giáo viên nhằm vào việc củng cố, làm rõ nhiều vấn
đề lí thuyết và nhiều kĩ năng. Những lí thuyết này có thể học sinh chưa học
trong chương trình chính khoá, có thể giáo viên củng cố, khẳng định, nâng cao
hơn lí thuyết học sinh đã học. Bởi vậy, khi cung cấp giáo viên luôn quan tâm
đến từng đối tượng tiếp nhận để học sinh thấy tầm quan trong của lí thuyết và ý
nghĩa của lí thuyết đối với thực hành.
Ví dụ: khi ôn học sinh giỏi lớp 7 phần văn nghị luận - học kì II
Việc đầu tiên giáo viên cung cấp kiến thức đơn giản có trong sách giáo
khoa như: Thế nào là văn nghị luận? đặc điểm của luận điểm, luận cứ, lập luận
12


và phương pháp lập luận trong văn nghị luận. Sau đó, giúp học sinh hiểu cách
làm bài văn nghị luận chứng minh, nghị luận giải thích, nghị luận chứng minh
kết hợp với giải thích.
Tiếp theo, giáo viên cung cấp kiến thức về văn bản như “Tinh thần yêu
nước của nhân dân ta” - Hồ Chí Minh; “Sự giàu đẹp của tiếng Việt” - Phạm
Văn Đồng... học sinh hiểu kiến thức nội dung, nghệ thuật của văn bản và khắc
sâu hơn kiến thức về đặc điểm của văn nghị luận.
Từ lí thuyết đã cung cấp, học sinh có cơ sở để thực hành.
b.2. Chuẩn bị tốt nội dung viết
Chỉ có kiến thức lí thuyết về các kiểu bài văn và các thao tác làm văn, học
sinh chưa thể tạo ra một bài văn tốt. Học sinh sẽ không biết viết gì trong bài làm

của mình khi chưa có hiểu biết đầy đủ về đối tượng trình bày. Bởi vậy tư liệu,
kiến thức càng sâu, rộng, phong phú, đa dạng thì nội dung càng hàm súc, chặt
chẽ. Giáo viên cần cung cấp thêm kiến thức sâu, rộng của vấn đề từ đó học sinh
có cái nền vững chắc cho bài viết. Giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh,
không phải tất cả hiểu biết đều đưa vào bài mà cần biết chọn lọc, lựa chọn cái gì
trong vốn hiểu biết của mình cho phù hợp với đề bài. Do vậy việc chuẩn bị tốt
những nội dung cho học sinh lựa chọn là điều không thể thiếu trước khi làm bài.
Chẳng hạn, với đề văn “Hãy phân tích tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn
Trãi thể hiện trong đoạn trích “Nước Đại Việt ta” - Ngữ Văn 8, tập II, ít ra học
sinh phải nắm các nội dung cụ thể: Thế nào là tư tưởng nhân nghĩa? và có thêm
kiến thức như: thời đại, thân thế và sự nghiệp thơ văn của Nguyễn trãi… càng
nhiều càng tốt. Hay khi bồi dưỡng về mảng “Truyện Kiều” của Nguyễn Du -Văn
13


9, tập I, giáo viên không thể không cung cấp những câu chuyện xoay quanh
những điển tích, điển cố được tác giả sử dụng trong các đoạn trích.Thiếu những
hiểu biết đó, đặc biệt những kiến thức phục vụ trực tiếp cho đề bài, học sinh
không thể không tránh khỏi lúng túng khi triển khai bài viết của mình.
C. Bồi dưỡng về kĩ năng làm bài
C.1. Kĩ năng xác định nội dung, yêu cầu của đề bài và phương hướng
triển khai bài viết:
Để xác định nội dung, yêu cầu của đề bài và vạch ra phương hướng triển
khai bài viết một cách đúng đắn, học sinh cần phải:
- Đọc kĩ đề bài, chú ý tới các dữ kiện đề bài đưa ra và những yêu cầu mà
đề bài đòi hỏi. Khi đề có lời dẫn thì hết sức thận trọng, tìm hiểu cẩn thận từng từ
ngữ, từng mối quan hệ giữa các thành phần câu để có thể hiểu một cách chính
xác nội dung mà đề được nêu.
Giả dụ: lời dẫn là một câu tục ngữ, châm ngôn hoặc lời nói có ngụ ý sâu
xa cần phải xem xét cả nghĩa đen và nghĩa bóng để có thể hiểu đúng hướng,

tránh sự hiểu lầm hoặc suy diễn thiếu cơ sở.
- Xác định những yêu cầu chính của đề: nội dung, giới hạn, dạng đề, mức
độ cần giải quyết…
Để có thể định được phương hướng triển khai bài viết, học sinh cần trả lời
được các câu hỏi: viết cái gì? Viết để làm gì? viết cho ai? Viết theo cách nào?
Việc trả lời các câu hỏi này càng rõ ràng, cụ thể, chính xác thì hiệu quả của bài
viết càng cao. Đặc biệt câu hỏi “Viết cái gì?”. Nếu không xác định rõ sẽ dẫn tới
chỗ lạc đề, loãng đề hoặc phá vỡ nội dung bố cục bài viết.
14


C.2. Kĩ năng lập dàn ý
Lập dàn ý là cách sắp xếp nội dung chủ yếu của bài viết theo một chiến
lược nhất định. Đó là cách tổ chức các luận điểm của bài sao cho bộc lộ được
nội dung và lô gíc vấn đề, có tác động tới tư tưởng, tình cảm và hành động của
người đọc.
Giáo viên nên hướng dẫn học sinh chia nội dung các ý thành những nhóm
nhỏ theo quy định của tiểu chủ đề. Mỗi chủ đề thể hiện một ý riêng không trùng
lặp với ý chủ đề khác. Cũng cần lưu ý học sinh nhất thiết phải vạch ra dàn ý.
Không cần quá chi tiết, song việc dành ra 5- 10 phút cho xác định ý là điều
không thể thiếu.
C.3. Kĩ năng viết đúng theo dàn ý
Hiện nay, nhiều học sinh khi làm bài có lập dàn ý nhưng khi viết không
điều khiển được ngòi bút, suy nghĩ nên bài viết không bám sát dàn ý, hoặc thoát
li hoàn toàn dàn ý. Việc này làm cho dàn ý mất hết ý nghĩa nên việc lập dàn ý
trở thành hình thức, máy móc. Bởi vậy, việc rèn kĩ năng viết đúng dàn ý là điều
cần thiết với học sinh.
Để học sinh viết đúng dàn ý, giáo viên hướng dẫn học sinh lập dàn ý sát
với đề bài, chu đáo, có như vậy khi viết mới liên tục, chủ động. Khi làm bài
không có dàn ý chẳng khác nào người đi trong rừng rậm hoặc đi biển mà không

có la bàn, học sinh sẽ viết lung tung, phá vỡ sự tập trung của chủ đề, thiếu ý
hoặc loãng ý.

15


Khi viết bài, học sinh có thể bổ sung ý vào bài viết của mình khi cần thiết
song phải đảm bảo mạch lạc sự phát triển của vấn đề, không được tạo ra sự gãy
khúc trong khi trình bày văn bản.
C.4. Kĩ năng lập luận
Lập luận là cách thức đưa vấn đề, trình bày vấn đề sao cho có tính thuyết
phục và luôn luôn đảm bảo sự nhất quán trong suốt quá trình trình bày. Luận
điểm, luận cứ, luận chứng là những yếu tố quan trọng của lập luận. Luận điểm là
mội dung quan trọng mà người viết muốn đề cập đến, phục vụ cho việc làm sáng
rõ nội dung của bài viết. Luận điểm được coi là một tiểu chủ đề. Còn luận cứ là
những lí lẽ mà người viết đưa ra nhằm thuyết minh, làm sáng tỏ luận điểm. Đây
chính là những ý phụ của luận điểm. Một luận điểm có thể chia làm nhiều luận
cứ. Như vậy luận điểm không cùng bậc với luận cứ, nó thuộc bậc trên, bậc lớn
hơn. Còn luận chứng là những tài liệu, dẫn chứng minh hoạ… làm sáng tỏ luận
cứ. Chính vì vậy lập luận chính là sự xâu chuỗi các luận cứ, luận chứng sao cho
hợp lí, thuyết phục người đọc nhất, giúp người đọc nhận ra luận điểm, tin ở luận
điểm.
Để lập luận chặt chẽ, yêu cầu học sinh sử dụng một số cách triển khai
đoạn văn như liệt kê, quy nạp, móc xích, song hành, hỏi đáp, tương phản.
C.5. Kĩ năng hành văn
Trong thực tế ôn luyện, nhiều học sinh lầm tưởng rằng khi viết văn càng
dùng nhiều hình ảnh, nhiều sự ví von, so sánh hoặc nhiều từ ngữ sinh động bài
viết càng đạt kết quả cao. Vì sự ngộ nhận này mà nhiều lúc các em cố tình dùng
từ ngữ sáo mòn, diễn đạt vòng vèo, cầu kì, không phù hợp với phong cách của
16



bài viết. Vì vậy trong khi ôn luyện cần rèn cho học sinh viết đúng phong cách,
phù hợp với nội dung bài viết.
Muốn viết đúng phong cách, bài hay cần có vốn từ, nắm vững các kiểu kết
cấu ngữ pháp của câu, thường xuyên vận dụng, luyện tập. Muốn vậy giáo viên
phải luôn kiểm tra, sửa chữa bài viết của mỗi học sinh thì bài làm của các em
mới đạt đến cái đích: trong ý và sáng trong lời.
C.6. Kĩ năng hoàn thiện bài viết
Giáo viên ôn luyện phải thường xuyên đòi hỏi học sinh có năng lực biết tự
nhận xét, tự đánh giá, điều chỉnh bài viết của mình. Biết tìm ra chỗ mạnh, chỗ
yếu; phân tích để thấy đâu là cái đúng, đâu là cái sai… trong bài viết.
Việc hoàn thiện, điều chỉnh có thể tiến hành ngay sau khi học sinh thực
hành viết xong, cũng có thể ở buổi ôn sau rồi giáo viên mới thu, chấm và nhận
xét, chỉ ra những lỗi để học sinh điều chỉnh cho đúng, dựa theo sự gợi ý của giáo
viên.
Tóm lại các kĩ năng đã nêu trên, giáo viên phải hình thành thuần thục cho
học sinh trong quá trình ôn luyện. Không phải lúc nào giáo viên cũng tiến hành
đồng thời tất cả các kĩ năng này. Song giáo viên cần có kế hoạch cụ thể để rèn
toàn bộ các kĩ năng. Cái đích cuối cùng cần đạt đến là trước khi thi, học sinh
phải thuần thục vận dụng các kĩ năng, trở thành kĩ xảo - mức độ cao của kĩ năng.
d. Linh hoạt sáng tạo và chu đáo trong công tác ôn luyện học sinh giỏi
Mỗi đối tượng học sinh đều có điểm mạnh, điểm yếu khác nhau, mỗi dạng
đề cũng có những cách tiếp cận khác nhau. Bởi vậy thày cô phải biết được đặc
điểm riêng của từng đối tượng học sinh, từng kiểu bài để từ đó đề ra phương
17


pháp giảng dạy cho hợp lí. Yêu cầu này không mới và không khó. Nếu chúng ta
thực sự tâm huyết với công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, tin chắc sẽ làm được.

Sự chu đáo cũng bắt nguồn từ tâm huyết. Nên quan tâm rèn nắn cho học sinh
đến từng câu văn, nét chữ... đưa các em đi thi, nhắc nhở các em chuẩn bị giấy
vở, bút mực trước khi vào phòng thi... Những cử chỉ, hành động, sự quan tâm
tưởng chừng như nhỏ nhoi ấy, đời thường ấy thực ra lại có sức lan toả rất lớn, là
động lực giúp các em lập nên kì tích.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Qua quá trình vận dùng cho đối tượng học sinh giỏi ở trường THCS Pắc
Ta - Tân Uyên, học sinh giỏi huyện Tân Uyên, học sinh giỏi trường PTDT Nội
trú Than Uyên và được sự quan tâm của của các cấp lãnh đạo, các Tổ chức đoàn
thể trong nhà trường, với sự nỗ lực và cố gắng của bản thân tôi, trong những
năm học gần đây, khi còn giảng dạy tại trường THCS xã Pắc Ta - Tân Uyên Lai Châu tôi liên tục có đội tuyển học sinh tham gia và đạt giải trong các kì thi
học sinh giỏi cấp Huyện và cấp Tỉnh, cụ thể:
+ Năm học 2006-2007 có 01/02 học sinh tham gia và đạt giải HSG cấp
Huyện; 01/02 học sinh tham gia và đạt giải HSG cấp Tỉnh.
+ Năm học 2007-2008 có 03/05 học sinh tham gia và đạt giải HSG cấp
Huyện; 02/05 học sinh tham gia và đạt giải HSG cấp Tỉnh.
+ Năm học 2008-2009 có 01/02 học sinh tham gia và đạt giải HSG cấp
Huyện; 01/02 học sinh tham gia và đạt giải HSG cấp Tỉnh.

18


+ Năm học 2009-2010 có 01/02 học sinh tham gia và đạt giải HSG cấp
Huyện. Ôn luyện đội tuyển HSG huyện Tân Uyên có 04/05 học sinh đạt
giải cấp Tỉnh.
+ Năm học 2010-2011 có 02/02 học sinh tham gia và đạt giải HSG cấp
Huyện; 02/02 học sinh tham gia và đạt giải HSG cấp Tỉnh. Ôn học sinh
giỏi huyện Tân Uyên cấp Tỉnh với 11 học sinh, trong đó có 6 em đạt giải
cấp Tỉnh.


PHẦN KẾT LUẬN
I. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Để công tác ôn luyện đạt hiệu quả cao trước hết cần lòng tâm huyết, nhiệt
tình của giáo viên bồi dưỡng. Bởi chỉ có lòng tâm huyết với nghề, với công việc
mình đang làm mới tìm tòi nghiên cứu, tích luỹ và thêm kinh nghiệm trong công
tác ôn luyện.
Trong khi bồi dưỡng, giáo viên cần có nhiều tài liệu tham khảo, mở rộng
có thể là những bài văn hay, những bài văn mẫu, các đề thi và bài làm đạt giải
của học sinh giỏi cấp Huyện, Tỉnh, Quốc gia trong các năm học để học sinh đọc
tham khảo. Tham khảo ở đây không phải là học vẹt, học tủ theo những bài đã
viết sẵn mà để học sinh học cách hành văn, sử dụng từ, cách khai thác đề… Đây
cũng có thể được coi là dẫn chứng cho lí thuyết mà giáo viên đưa ra.
Luôn động viên, khuyến khích kịp thời với những tiến bộ dù nhỏ nhất của
học sinh cũng là một biện pháp. Đối với học sinh, khi nhận xét đánh giá một bài
viết cần nghiêm khắc chỉ ra ưu khuyết điểm để các em sửa chữa đồng thời cần

19


khích lệ các em đặc biệt với học sinh dân tộc - vùng khó khăn lại càng cần điều
này. Sự mềm dẻo, linh hoạt của giáo viên trong các tình huống sư phạm cũng là
điều giúp ôn luyện học sinh thành công.
II. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, công tác “Bồi dưỡng nhân
tài” là đặc biệt cần thiết. Điều đó không những giúp đơn vị, địa phương nâng
cao chất lượng giáo dục mà điều quan trọng từ việc nâng cao đó học sinh có
điều kiện phát huy khả năng trong các năm học THPT và học chuyên nghiệp, và
trưởng thành tiến tới góp mình xây dựng quê hương, đất nước. Tính đến thời
điểm hiện tại những học sinh đạt giải trong các kì thi do tôi ôn luyện nhiều em
đã trở thành giáo viên, cán bộ , nhà báo. Nhiều em đang theo học tại các trường

chuyên nghiệp danh tiếng như: Đại học Luật, Đại học Công đoàn, Đại học Sư
phạm, Đại học KHXH và Nhân văn…Để được điều đó - như các em tâm sự cũng là nhờ vào quá trình bồi dưỡng của các thầy cô giáo từ cấp II.
III. KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG VÀ TRIỂN KHAI
Sáng kiến có thể áp dụng ở tất cả các vùng miền trên cả nước. Đặc biệt
thích hợp với học sinh vùng núi như khu vực Lai Châu. Bởi đặc điểm vùng
miền, học sinh ở đây không chỉ cần bồi dưỡng cho giỏi kiến thức, kĩ năng mà
còn cần cả sự động viên, khích lệ của nhà giáo đối với phụ huynh, học sinh. Có
như vậy, gia đình các em mới tạo điều kiện cho các em đi học, các em mới có
niềm vui khi đến trường.
IV. NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT

20


Trong nhng nm gn õy cụng tỏc ụn luyn, bi dng hc sinh gii ó
nhn c s quan tõm, ng viờn rt ln t cỏc cp lónh o Ngnh. Tuy nhiờn,
nh ó núi, õy l cụng vic ht sc khú khn ũi hi nhiu cụng sc, tõm huyt
v thi gian ca c thy v trũ khi tham gia i tuyn. Chớnh vỡ vy kớnh mong
cỏc cp lónh o Ngnh, c bit l S, Phũng Giỏo dc v o to sm cú vn
bn mang tớnh phỏp quy, quy nh c th v ch khen thng u ói ng
thi quan tõm hn na ti ch ng viờn, khen thng v vt cht, tinh thn
i vi cỏc tp th, cỏ nhõn giỏo viờn v hc sinh cú nhiu úng gúp cú thnh
tớch trong cụng tỏc ụn v thi hc sinh gii nhm nõng cao hiu qu, thnh tớch v
cht lng ca cụng tỏc ụn luyn hc sinh gii núi riờng v mt bng cht lng
giỏo dc ca huyn, tnh nh núi chung.

Nhà văn Xô Viết Alexandor Phadeep viết; Ngời thầy giáo, cái từ mới đẹp
làm sao...! Tơng lai của trẻ em chúng ta, của nhân dân chúng ta ở trong tay các
thầy giáo, ở trong trái tim vàng của thầy giáo. Giáo viên với t cách là nhà giáo
dục phải không ngừng nâng cao nhận thức, hiểu biết, nâng cao năng lc chuyên

môn, phấn đấu là một nhà chuyên môn giỏi, một thầy giáo dạy Văn giỏi, đào tạo
đợc nhân lực, bồi dỡng đợc nhân tài phục vụ đất nớc. Để làm đợc điều đó phải
không ngừng học hỏi nhng trên hết phải có trách nhiệm với học sinh. Chúng ta
không thể đào tạo đợc những học sinh phát triển về Văn học mà chính bản thân
thầy giáo cha có sự chuyển hoá về chất lợng và giới hạn t tởng tình cảm- GS.
Phan Trọng Luận.

21


Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân đã đúc rút trong các năm
học để hình thành kỹ năng tổ chức hoạt động Bồi dỡng học sinh giỏi môn Ngữ
Văn THCS. Mặc dù có nhiều cố gắng nhng trong quá trình nghiên cứu và vận
dụng chắc không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong đợc sự đóng góp ý
kiến của quý đồng nghiệp.
Tôi chân thành cảm ơn!

Than Uyờn, ngy 05 thỏng 03 nm 2012
Ngi vit:

Nguyn Duy Tỳ

22


HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG PTDT NỘI TRÚ THAN UYÊN
Nhận xét:

.................................................................................................................................
.................................................................................................................................

.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
Tổng điểm:..................; Xếp loại:.................

Ngày......tháng......năm 2012
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

23


TÀI LI ỆU THAM KHẢO
1. Lê A - Nguyễn Quang Ninh - Bùi Minh Toán, Phương pháp dạy hoc tiếng
vịêt, Nhà xuất bản Giáo dục, 239 trang.
2. Bồi dưỡng chuyên môn chu kì III năm 2004 - 2007, quyển 1,2,3, Nhà xuất
bản Giáo dục.
3. Phan Trọng Luận - Trương đĩnh - Nguyễn Thanh Hùng - Trần Thế Phiệt,
Phương pháp dạy học Văn, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 415 trang.
4. SGK và SGV Ngữ Văn lớp 6,7,8,9 THCS - Nhà xuất bản Giáo dục.

24


MỤC LỤC
NỘI DUNG
Phần mở đầu

TRANG

I. Lý do chọn đề tài


1

II. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

2

1. Phạm vi nghiên cứu

2

2. Đối tượng nghiên cứu

2

III. Mục đích nghiên cứu

3

IV. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu

4

Phần nội dung
25


×