Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tìm hiểu các Tôn giáo ở Ấn Độ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104 KB, 14 trang )

Tôn giáo Ấn Độ
Có 4 tôn giáo lớn được khai sinh ngay trên đất nước Ấn Độ. Đó là Ấn Độ
Giáo (Hinduism), Kỳ Na Giáo (Jainism), Phật Giáo (Buddhism), và Đạo Sikh
(Sikhism). 4 tôn giáo này dù được khai sinh tại Đông Phương, nhưng đã truyền
bá ra ngoài biên cương Ấn Độ đến khắp nơi trên thế giới.
Các tôn giáo tại Ấn Độ được phân ra làm 2 loại: hữu thần và vô thần.
Ấn Độ Giáo
Ân Độ Giáo không những là truyền thống tôn giáo lớn và lâu đời nhất của
Tiểu Lục Địa Ấn Độ mà còn của cả thế giới. Ấn Độ Giáo không phải được khai
sáng bởi một vị giáo chủ độc nhất hya có một hệ thống thống nhất về niềm tin
hay tín điều, mà chỉ là một hiện tượng tôn giáo bắt nguồn và dựa vào các
truyền thống Vệ Đà
Ấn Độ Giáo thường được biết có nhiều hệ phái khác nhau. Theo lịch sử,
Ấn Độ Giáo có 6 trường phái tư tưởng chính, nhưng chỉ có 2 trường phái
Vedanta và Yoga là phát triển lâu dài. Hiện nay, Ấn Độ Giáo có các trường
phái chính như Vaishnavism, Shaivism, Smartism, và Shaktism.
Ấn Độ Giáo là một hệ thống tư tưởng phức hợp với những niềm tin sai biệt
gồm nhất thần, đa thần, vô thần, phiếm thần, hoài nghi, v.v… và quan điểm về
Thượng Đế của Ấn Độ Giáo thì phức tạp và tùy thuộc vào mỗi cá nhân và
truyền thống hay triết lý đi theo. Tóm lại, theo Ấn Độ Giáo tiến trình giải thoát
cá nhân chính là tiến trình thể nhập và đồng nhất tiểu ngã (atman) với đại ngã
Brahma.
Phật Giáo
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni Buddha), người khai sáng ra Phật
Giáo, sinh vào năm 624 trước công nguyên tại Thành Phố Lâm Tỳ Ni

1


(Lumbini) mà ngày nay là nước Nepal, phía bắc Ấn Độ. Ngài nguyên là Thái
Tử Sĩ Đạt Ta (Siddhartha) của dòng họ Cồ Đàm (Gautama) thuộc nước Ca Tỳ


La Vệ (Capilavastu). Phụ vương của Thái Tử là Vua Tịnh Phạn (Suddhodana)
và mẫu hậu là Hoàng Hậu Maya. Năm 16 tuổi Thái Tử kết hôn với Công Chúa
Da Du Đà La (Yasodhara). Năm 29 tuổi Thái Tử vào Hy Mã Lạp Sơn để xuất
gia tầm đạo tìm con đường giải thoát khổ đau cho mình và chúng sinh.
Trải qua 6 năm tầm sư học đạo, nhưng Thái Tử Sĩ Đạt Ta vẫn không thỏa
mãn với những giáo thuyết và pháp môn tu của những vị đạo sư mà Ngài theo
học. Cuối cùng vì tu theo khổ hạnh ép xác, Ngài đã kiệt sức và ngã quỵ bên
giòng sông Ni Liên Thiền (Nairanjana) và nhờ bác sữa của nữ thí chủ Tu Xà
Đa (Sujata) mà Ngài hồi phục. Sau Đó Thái Tử quyết định từ bỏ lối tu khổ
hạnh và bắt đầu pháp môn riêng của Ngài. Ngài đến dưới gốc cây Bồ Đề
(Bodhi Tree) ngồi thiền định. Sau 49 ngày đêm thiền tọa, cuối cùng Thái Tử đã
đạt được sự giác ngộ hoàn toàn và trở thành vị Phật có tên là Phật Thích Ca
Mâu Ni, vào năm Ngài 35 tuổi. Sau khi giác ngộ, đức Phật đến Vườn Lộc
Uyển gặp lại 5 người bạn đồng tu lúc trước và dạy cho họ pháp môn giác ngộ
mà Ngài đã thành tựu để họ được chứng đạo. Bài pháp đầu tiên mà đức Phật
giảng -- cũng gọi là chuyển Pháp luân tức lăn bánh xe Chánh Pháp -- cho 5 anh
em ông Kiều Trần Như nghe và tu tập là Tứ Diệu Đế, bốn chân lý mầu nhiệm
(Khổ, Tập, Diệt và Đạo Đế). Và đó cũng là lần đầu tiên đức Phật thiết lập Tăng
Đoàn với 3 ngôi báu là Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng. Đức Phật đã tuần tự đi
bộ khắp lưu vực Sông Hằng để giảng dạy về pháp môn giác ngộ và giải thoát
từ đó cho đến khi Ngài nhập Niết Bàn lúc 80 tuổi tức là vào năm 544 trước
công nguyên.
Nội dung giáo nghĩa Phật Giáo có thể tóm lược trong 4 điểm chính: Vô
Thường (Anitya), Khổ (Duhkha), Không (Sunya), và Vô Ngã (Anatma),
thường được gọi là Bốn Pháp Ấn. Bốn giáo nghĩa này có mặt trong tất cả hệ
thống giáo lý của các trường phái, bộ phái Phật Giáo từ Nguyên Thủy, Tiểu
2


Thừa, đến Đại Thừa và ngay cả Kim Cang Thừa của Phật Giáo Tây Tạng. Vô

thường là bản chất của mọi hiện tượng tâm lý và vật lý. Không một hiện tượng
nào trên thế gian này thoát khỏi sự chi phối của vòng sinh, trụ, dị và diệt.
Chính vì các hiện tượng chung quanh chúng ta đều vô thường nên làm cho đời
sống của con người trở nên đau khổ. Khổ vì sinh, già, bệnh, chết; khổ vì mọi
thứ đều tuột khỏi tầm tay kiểm soát của con người, ngay cả chính sinh mệnh
của chúng ta nữa. Mọi hiện tượng đều vô thường và khổ não như thế nói lên
một sự thật rất căn bản là tất cả mọi sự tồn tại đều là giả, không thật, là Không
ngay tự bản chất, tức là Tánh Không. Khi các hiện tượng đều là Không trong tự
tánh thì cũng đồng nghĩa là chúng không hề có tự ngã, chúng chỉ hiện hữu do
các duyên hòa hợp mà thôi. Vì vô ngã, Phật Giáo không chấp nhận sự hiện hữu
của Thượng Đế với ý nghĩa là đấng sáng tạo vũ trụ.
Trên bình diện nhân sinh quan, Phật Giáo cho rằng con người và mọi
chúng sinh có thể tự mình giác ngộ ra chân lý và giải thoát mọi khổ đau ở đời,
bằng con đường tu tập để chuyển hóa nghiệp lực, bởi vì nghiệp lực là do chính
con người tạo ra và cũng phải do chính con người chấm dứt nó. Điều cần lưu ý
là trong giáo thuyết về nghiệp, Phật Giáo không hề chủ trương có một thứ linh
hồn hay bất cứ hiện tượng gì tồn tại trong ý nghĩa có một tự ngã.
Dựa vào nội dung giáo nghĩa và lịch sử phát triển người ta phân Phật Giáo
ra làm 3 truyền thống: Nguyên Thủy, Tiểu Thừa Bộ Phái và Đại Thừa
Phật Giáo tại Ấn Độ đã trải qua nhiều thăng trầm tùy thuộc vào các triều đại
chính trị có hậu thuẫn hay tiêu diệt Phật Giáo, dĩ nhiên, trong đó không thể bỏ
qua yếu tố then chốt là sự hưng thịnh hay suy đồi của nội lực Phật Giáo mà
hàng ngũ Tăng Ni và cư sĩ Phật tử đóng vai trò chủ đạo. Nhưng phải đợi đến
một biến cố lịch sử mà qua đó Phật Giáo tại Ấn Độ đã hầu như bị tiêu diệt hẳn,
đó là cuộc xâm lăng của Hồi Giáo vào Ấn Độ ở thế kỷ thứ 12 sau công nguyên,
với chính sách tiêu diệt Phật Giáo tận gốc bằng việc bắt buộc tu sĩ hoàn tục hay
giết hại hàng chục ngàn Tăng Ni, những người không chịu bỏ đạo, đốt phá tất
3



cả chùa chiền, kinh sách Phật Giáo. Nhưng, nhờ trước đó, Phật Giáo đã được
truyền bá ra ngoài lãnh thổ Ấn Độ đến các quốc gia lân bang, cho nên, Phật
Giáo đã được phát triển sâu rộng tại nhiều nước ở Châu Á.
Ngày nay, tín đồ Phật Giáo trên khắp thế giới có thể đạt tới con số trên một
tỉ rưỡi người, và Phật Giáo là một trong những tôn giáo phát triển mạnh nhất
tại các nước Âu Mỹ.
Kỳ Na Giáo
Kỳ Na Giáo cũng giống như Ấn Độ Giáo vốn không do một vị giáo chủ -Tirthakar, bậc giác ngộ -- độc nhất nào khai sáng mà do sự đóng góp của nhiều
đời những nhà lãnh đạo, một phần vì lịch sử cổ đại Ấn Độ không được ghi
chép đầy đủ do đặc tính của dân tộc này không xem trọng việc ghi chép sử.
Người ta chỉ biết là theo những gì còn lưu truyền thì vào thế kỷ thứ 9 trước
công nguyên có một vị đạo sĩ tên là Parshvanatha là một trong số các vị có
công phát triển Kỳ Na Giáo.
Đến thế kỷ thứ 6 lại xuất hiện một nhân vật lịch sử uy tín nổi bật khác cũng
có công rất lớn trong việc phát dương Kỳ Na Giáo là Vardhamana Mahavira
(truyền thuyết cho rằng ông sinh năm 599 và mất năm 527 trước công nguyên),
là vị thánh thứ 24 của Kỳ Na Giáo. Chính Mahavira là vị đạo sư hệ thống hóa
giáo nghĩa Kỳ Na Giáo, thành lập tăng đoàn lớn và đưa ra chủ trương tu tập
khổ hạnh và đạt mục tiêu giác ngộ
Thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, vào thời đại đế quốc Kharavela, Kỳ Na
Giáo đã bắt đầu phát triển rộng tại miền Nam Ấn Độ, khi mà vị lãnh đạo của
cộng đồng tăng lữ Kỳ Na Giáo là Badrabadu từ Bihar đến Karnataka. Nhưng
phải đợi tới vị lãnh đạo thứ 23 là Parshavanatha thì sử liệu mới ghi. Tuy nhiên,
sự truyền thừa có tính lịch sử và liên tục về sau này thì phải đợi tới thời vị lãnh
đạo Rishabhdeva. Hoàng đế Chandragupta Maurya lúc tuổi già đã từ bỏ ngôi
vua và gia nhập vào tăng đoàn Kỳ Na Giáo. Hoàng đế Chandragupta là đệ tử
4


của vị lãnh đạo Bhadrabahu. Triều đại Chandragupta Maurya cai trị Ấn Độ từ

năm 321 tới 185 trước công nguyên. Cháu nội của Hoàng đế Ashoka là Samrat
Samprati là người rất sùng mộ Kỳ Na Giáo. Giống như Hoàng đế Ashoka đã
từng gửi nhiều phái đoàn hoằng pháp ra nước ngoài truyền bá Phật Giáo,
Samprati cũng cử nhiều nhà truyền đạo tới Hy Lạp, Trung Đông để truyền bá
Kỳ Na Giáo. Samprati cũng đã xây cất 125,000 ngôi chùa tháp Kỳ Na Giáo
khắp lãnh thổ Ấn Độ mà một số ngôi chùa vẫn còn đến thời đại này.
Kỳ Na Giáo chủ trương bất bạo động đối với tất cả chúng sinh. Triết lý Kỳ
Na Giáo tập trung vào việc nỗ lực thực nghiệm tự thân để chuyển tâm hồn đến
sự tỉnh thức và giải thoát. Bất cứ người nào tự chế được tâm thoát khỏi những
kẻ thù tham lam, sân hận thì đạt tới cảnh giới tối thượng gọi là jina tức là vị
chinh phục hay chiến thắng.
Kỳ Na Giáo không tin vào đấng sáng tạo và bảo hộ vũ trụ vạn vật. Đối với
Kỳ Na Giáo vũ trụ luôn luôn thay đổi theo luật tự nhiên và tin rằng có nhiều
đời sống của nhiều loại chúng sanh khác, hữu tình và vô tình, trong và ngoài
trái đất này. Kỳ Na Giáo cho rằng sân si và tham dục là kẻ thù độc hại của con
người. Nguyên lý bất bạo động dùng để giảm trừ nghiệp lực của tham sân si là
thế lực hạn chế khả tính giải thoát của tâm con người. Kỳ Na Giáo cũng nhấn
mạnh đến sự bìng đẳng của tất cả chúng sinh, cổ võ đời sống không xâm hại
đối với tất cả muôn loài, dù là nhỏ hay lớn. Để thực hành đời sống bất hại đến
mọi loài, tín đồ Kỳ Na Giáo ăn chay trường, nhưng không được chặt hay nhổ
rễ cây vì sẽ làm hại các sinh vật nhỏ sống dưới đó. Kỳ Na Giáo cũng không
cho tín đồ ăn sau khi mặt trời lặn.
Hiện nay, tại Ấn Độ có khoảng 4.2 triệu tí đồ Kỳ Na Giáo. Tính theo tổng
dân số Ấn Độ thì đó chỉ là nhóm tôn giáo thiểu số, nhưng có ảnh hưởng rất lớn
đến đạo đức, chính trị và kinh tế của Ấn Độ. Bên ngoài Ấn Độ, trên thế giới,
hiện thời có khoảng 12 triệu tín đồ Kỳ Na Giáo, và tất nhiên, đó cũng chỉ là
5


nhóm tôn giáo rất nhỏ. Các cộng đồng Kỳ Na Giáo có mặt khắp nơi trên thế

giới tại Hoa Kỳ, Anh Quốc, Gia Nã Đại, Kenya, Tanzania và Uganda, Nepal,
South Africa, Nhật, Tân Gia Ba, Mã Lai Á, Úc Đại Lợi, Fiji, Suriname, Bỉ,
v.v.... Ngôi chùa Kỳ Na Giáo được xây dựng đầu tiên bên ngoài Ấn Độ là tại
thành phố Mombasa của Kenya, Phi Châu, vào thập niên 1960. Kỳ Na Giáo
thực sự truyền bá đến Tây Phương vào cuối thập niên 1970 và đầu thập niên
1980.
Đạo Sikh
Đạo Sikh được sáng lập vào thế kỷ thứ 15 tại khu vực Punjab thuộc Ấn Độ
bởi Đạo Sư Nanak. Chữ Sikh bắt nguồn từ tiếng Phạn, có nghĩa là “đệ tử” hay
sự giáo huấn. Theo giáo điển của Đạo Sikh thì một tín đồ Sikh được định nghĩa
như là “bất cứ người nào tin thành thật vào một Đấng Bất Tử; 10 vị Đạo Sư, từ
Đạo Sư Nanak trở xuống; là lời dạy của 10 vị Đạo Sư và tôn giáo được truyền
lại bởi 10 vị Đạo Sư; và người không có bất cứ lòng trung thành nào với bất cứ
một tôn giáo nào khác.”
Đạo sư Guru Nanak sinh ngày 15 tháng 4 năm 1469 và mất ngày 22 tháng
9 năm 1539 trong một gia đình Ấn Độ Giáo ở làng Rai Bhoi di Talwandi mà
ngày nay gọi là Nankana Sahib, gần Lahore của Pakistan. Guru Nanak lập gia
đình với Mata Sulakhni năm 19 tuổi. Hai vợ chồng có được với nhau 2 người
con trai là Sri Chand và Lakhmi Chand.
Truyền thống Đạo Sikh kể rằng vào khoảng năm 1499, Đạo sư Nanak, ở
tuổi 30, đã đắc đạo. Sau khi cử hành lễ tắm gội, ngài đã biến mất. Người ta
phát hiện y áo trên bờ một con sông ở địa phương có tên là Kali Bein. Người
dân địa phương cho rằng ngài đã chết đuối dưới sông. Họ cùng nhau lặn xuống
sông để tìm thi thể của ngài, nhưng không ai thấy gì cả. Ba ngày sau, Đại Sư
Nanak lại trở về và im lặng không nói gì. Ngày hôm sau, ngài tuyên bố:
“Không có con đường nào của Ấn Độ Giáo hay Hồi Giáo để ta theo. Ta chỉ đi
6


theo con đường của Thượng Đế. Thượng Đế không phải Ấn Độ Giáo hay Hồi

Giáo và con đường mà ta đi theo chính là của Thượng Đế.” Đạo sư Nanak kể
rằng ngài đã được dẫn đến gặp Thượng Đế. Ở đó, ngài đã được trao cho một ly
rượu tiên và được bảo rằng “Đây là tách rượu yêu quý của Thượng Đế. Hãy
uống đi. Ta sẽ ở với ngươi. Ta gia hộ ngươi và dưỡng dục ngươi. Bất cứ ai
tưởng nhớ đến ngươi thì là được lòng ta. Hãy đi, vinh danh ta và giáo hóa
người khác cũng làm vậy. Ta đã ban cho ngươi món quà của ta cho ngươi. Hãy
để cho điều này là của ngươi.” Kể từ lúc đó trở đi, Nanak được tôn xưng là
Đạo Sư, và Đạo Sikh được khai sinh.
Đạo Sikh chủ trương đồng nhất thể tâm với Thượng Đế. Tín đồ Sikh tu tập
để tư tưởng và hành động thoát khỏi sự ô nhiễm của tham lam, giận dữ, dục
vọng, vật chất, và bản ngã và từ đó hợp nhất tâm với Thượng Đế. Đạo Sikh tin
rằng vòng sanh tử luân hồi là thoát ra từ đồng nhất thể này. Đạo Sikh cho rằng
tất cả mọi người đều bình đẳng, và tình huynh đệ bao trùm khắp vũ trụ giữa
con người và Thượng Đế Tối Cao. Năm nguyên lý căn bản mà tín đồ Đạo Sikh
đặt niềm tin và thực hành là Sự Thật, Bình Đẳng, Tự Do, Công Lý, và Nghiệp.
Tín đồ Đạo Sikh được nhận dạng dựa vào 5 chữ K: 1) Kesh là tóc để dài và
quấn lại; 2) Kara là vòng đeo tay bằng sắt tượng trưng cho sự bất diệt; 3)
Kirpan là cây kiếm nhỏ mang theo người; 4) Kashera là cái quần lót làm bằng
bông vải đặc biệt để nhắc nhở giữ gìn trinh bạch; và 5) Kanga là cái lược bằng
gỗ thường để ở dưới chiếc khăn.
Bảo vệ quyền tự do tôn giáo và chính trị của tất cả mọi người và ngăn chận
sự kỳ thị là một trong những phần quan trọng của niềm tin trong Đạo Sikh. Đạo
Sikh còn bênh vực quyền bình đẳng và tôn trọng phụ nữ nữa. Đạo sư Nanak đã
từng nói rằng, “Từ phụ nữ mà đàn ông được sinh ra; với phụ nữ đàn ông được
cưu mang; với phụ nữ mà đàn ông được đính hôn và làm đám cưới. Phụ nữ trở
thành bạn của đàn ông; nhờ phụ nữ mà các thế hệ tương lai được có mặt. Khi
7


người phụ nữ của đàn ông chết, ông ấy đi tìm người phụ nữ khác để lấy lại sức

sống. Đã như vậy, tại sao gọi phụ nữ là xấu? Từ phụ nữ mà phụ nữ được sinh
ra; nếu không có phụ nữ thì cũng không có ai cả
Hồi Giáo Ở Ấn Độ
Hồi Giáo là nhất thần giáo, là tôn giáo cũng từ tổ phụ Abraham nhưng dựa
trên Kinh Quran, mà tín đồ Hồi Giáo tin là lời mặc khải của Thượng Đế cho
Giáo Chủ Muhammad – sinh năm 570 tại Thành Phố Mecca của nước Ả Rập
Saudi, Trung Đông, và mất năm 632 sau công nguyên.
Hồi Giáo tin rằng Thượng Đế là độc nhất và Hồi Giáo giữ được thông điệp
nguyên thủy dù những thiên khải cũng từng bị đổi thay một phần nào đó qua
thời gian, nhưng Kinh Quran thì được xem như là lời mặc khải tối hậu từ
Thượng Đế. Những thực hành của tín đồ Hồi Giáo gồm có cầu nguyện mỗi
ngày, ăn chay trong thời gian mùa lễ Ramadan, giúp đỡ người nghèo, và hành
hương vùng Thánh Địa Mecca ít nhất một lần trong đời.
Hồi Giáo đến Ấn Độ vào thế kỷ thứ 7 sau công nguyên theo đường buôn
bán của các thương gia Ả Rập gốc tín đồ Hồi Giáo vào Bờ Biển Malabar. Mãi
cho đến thế kỷ thứ 12, Hồi Giáo mới truyền bá tới miền Bắc Ấn Độ đầu tiên
được xây dựng tại Ấn Độ vào năm 629 sau công nguyên, tại và cũng kể từ đó
thâm nhập vào văn hóa và tôn giáo của Ấn. Đền thờ Hồi Giáo Kodungallur,
Kerala, lúc Giáo chủ Muhammad còn sống.
Từ thế kỷ thứ 7 tới thế kỷ thứ 13, Hồi Giáo dựa vào thế quyền trong và
ngoài nước đã thực hiện nhiều cuộc phá hoại chùa chiền, tàn sát tu sĩ, trấn áp
tín đồ của Phật Giáo và Ấn Độ Giáo. Trong số cơ sở Phật Giáo bị Hồi Giáo phá
hoại có Đại Tu Viện và cũng là Đại Học đầu tiên và lớn nhất của Phật Giáo là
Nalanda, nơi mà Ngài Huyền Trang vào thời Nhà Đường của Trung Quốc đã
có dịp đến học hỏi trong thời gian 5 năm (631-636), trong chuyến hành hương
tham bái và nghiên cứu Kinh Điển Phật tại Ấn Độ từ năm 627 tới 641 sau công
8


nguyên. Sau thế kỷ thứ 13, Phật Giáo tại Ấn Độ đã bị mai một hoàn toàn cho

đến gần đây mới bắt đầu hồi phục lại phần nào. Trong thời kỳ xâm nhập vào
Ấn Độ, Hồi Giáo đã thực hiện phương pháp cải đạo rất tàn ác. Đó là bắt người
Ấn phải chọn lựa 1 trong 3 cách: theo Hồi Giáo, bị giết chết, hay bị đóng thuế
nặng nề. Công cuộc cải đạo chính thức bắt đầu có hệ thống vào thế kỷ thứ 8 khi
mà đoàn quân Ả Rập xâm lăng miền Bắc Ấn và lãnh thổ thuộc Pakistan ngày
nay. Điểm đặc biệt là hầu hết những người cải đạo theo Hồi Giáo đều là thành
phần giai cấp nghèo khổ của xã hội Ấn Độ. Ngoài ra cũng có người cải đạo
theo Hồi Giáo thuộc các gia tộc vua chúa, trong đó có các vị vua thuộc Ấn Độ
Giáo.
Nói chung, Hồi Giáo ở Ấn Độ cũng có 2 giáo phái chính như Hồi Giáo trên
khắp thế giới, đó là phái Sunni và phái Shia và luôn luôn có sự căng thẳng,
xung đột giữa 2 giáo phái này. Mỗi giáo phái đều có nhiều hệ phái khác nhau.
Vào đầu thế kỷ 20, một số tổ chức Hồi Giáo cải cách thâm nhập vào Ấn Độ và
muốn áp dụng triết lý Hồi Giáo vào thế giới hiện đại. Những tổ chức này muốn
bãi bỏ tục lệ đa thê và cổ võ nền giáo dục cho nữ giới.
Thiên Chúa Giáo Ở Ấn Độ
Thiên Chúa Giáo là tôn giáo lớn hàng thứ 3 tại Ấn Độ, với gần 25 triệu tín
đồ, chiếm 3% tổng dân số.
Có thể nói, Thiên Chúa Giáo có một quan hệ đặc biệt với Ấn Độ mà ngoại
trừ các tôn giáo được khai sáng tại Ấn Độ không một tôn giáo nào bên ngoài có
được, kể cả Hồi Giáo là tôn giáo được truyền vào đây lâu đời. Lý do Thiên
Chúa Giáo có mối quan hệ đặc biệt với Ấn Độ là vì chính Chúa Jesus – từ năm
12 đến 30 tuổi -- đã từng đến Ấn Độ để học đạo [phần nhiều là học Đạo Phật]
rồi trở về Do Thái để khai sáng Thiên Chúa Giáo. Chưa hết, sau khi Chúa Jesus
bị đóng đinh trên thập tự giá nhưng được cứu sống, Ngài đã trở lại Ấn Độ sống
thời gian còn lại của cuộc đời và từ trần ở đó.
9


Về mặt sử liệu hiện có, thì Thiên Chúa Giáo được truyền tới Ấn Độ vào

năm 52 sau công nguyên do một trong những tông đồ của Chúa Jesus là Thánh
Thomas lần đầu tiên đến Kodungallur tại Kerala để thành lập cộng đoàn Thiên
Chúa Giáo cho người Do Thái di dân sống ở đây. Như thế, sự có mặt của Thiên
Chúa Giáo tại Ấn Độ cũng đồng thời với sự có mặt đầu tiên của Thiên Chúa
Giáo trên thế giới. Đây cũng là điểm đặc biệt của Thiên Chúa Giáo tại Ấn Độ.
Kiến trúc nhà thờ có mặt xưa nhất trên thế giới mà được xây dựng bởi Thánh
Thomas vào năm 57 sau công nguyên có tên là Thiruvithamcode Arappally hay
Thomaiyar Kovil tại Quận Kanyakumari của Tamil Nadu, Ấn Độ. Ngôi nhà
thờ này hiện đã trở thành trung tâm hành hương quốc tế có tên St. Thomas.
Đa phần Thiên Chúa Giáo tại Ấn Độ thuộc Công Giáo La Mã. Vào năm
1320, vị sứ thần đầu tiên của đức Giáo Hoàng Công Giáo La Mã, và cũng là
người Âu Châu đầu tiên đến Ấn Độ là Hồng Y Jordanus Catalani, người Pháp
thuộc giòng tu Dominican. Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đầu tiên đến Ấn
Độ là những tông đồ của thời đại mới cùng đi với nhà thám hiểm Vasco da
Gama. Họ đến Kappad gần Kozhikode vào ngày 20 tháng 5 năm 1498. Cùng đi
với đoàn thám hiểm thứ 2 của Bồ Đào Nha gồm 13 chiếc tàu, có 18 linh mục,
dưới quyền điểu khiển của Thuyền Trưởng Pedro Alvares Cabral, đến Ấn Độ
vào ngày 26 tháng 11 năm 1500 và thiết lập phái bộ truyền giáo Bồ Đào Nha
đầu tiên tại Ấn Độ cũng vào năm này. Ngày nay, Thiên Chúa Giáo điều hành
hàng ngàn cơ sở bất vụ lợi trong lãnh vực giáo dục và xã hội tại khắp đất nước
Ấn Độ.
Phái bộ truyền giáo Tin Lành đầu tiên đến Ấn Độ là 2 mục sư Lutheran từ
Đức Bartholomaus Ziegenbalg và Heinrich Pluetschau vào năm 1705. Họ
chuyển dịch Kinh Thánh Tân Ước sang tiếng địa phương Tamil và sau đó dịch
sang tiếng Hindustani. Trong thế kỷ thứ 19, nhiều nhà truyền giáo Tin Lành
thuộc giáo hội Baptist Mỹ đã đến miền đông bắc Ấn Độ. Nhiều Giáo Hội lớn

10



của Tin Lành có mặt tại Ấn Độ như Church of South India (CSI), Church of
North India (CNI), Presbyterian Church of India, Baptist, Lutheran, v.v…
Tôn giáo ở Trung Quốc :
đại đa số người dân vẫn còn giữ phong tục thờ cúng tổ tiên do ảnh hưởng của
Khổng Giáo, cũng như kết hợp với Phật Giáo và Đạo Giáo trở thành "Tam giáo
đồng nguyên" (hoặc "Tôn giáo cổ truyền Trung Hoa" mà Phật Giáo Đại Thừa
giữ vai trò chính), số còn lại theo những tôn giáo chính sau với tỉ lệ chỉ mang
tính ước lượng có thể không chính xác:


Lão giáo: xuất hiện dưới nhiều trạng thái khác biệt và khó phân ranh rõ

ràng với những tôn giáo khác nên người ta không nắm rõ số người theo. Theo
các tài liệu gần đây nhất thì có khoảng 400 triệu người (30% tổng dân số) theo
Đạo Giáo.


Phật giáo: khoảng 8% (quy y Tam Bảo), bắt đầu du nhập vào Trung Quốc

khoảng từ thế kỷ thứ nhất Công nguyên. Số người theo chủ yếu là Đại thừa,
còn Tiểu thừa thì không đáng kể. Ngoài ra, còn có những người theo Phật giáo
Tây Tạng, chủ yếu tại Tây Tạng và Nội Mông Cổ. Con số thực của số lượng
Phật tử trên danh nghĩa có thể đạt trên 660 triệu đến 1 tỷ người (50% - 80%).
Nhờ vậy mà Trung Quốc đương nhiên trở thành quốc gia Phật Giáo đông dân
nhất, theo sau là Nhật Bản và Việt Nam, chiếm khoảng 2/3 trong tổng số 1,5 tỷ
người theo Phật Giáo trên khắp Thế Giới. Lưu ý là đa số người gốc Hán
thường tôn thờ Phật Giáo cùng chung với các tôn giáo truyền thống Trung Hoa
khác (như Đạo Giáo hay Khổng Giáo).



Cơ Đốc giáo: khoảng 1 đến 4% tùy nguồn, một số nhánh của đạo này

được truyền rải rác vào Trung Quốc thành nhiều đợt bắt đầu từ thế kỷ thứ 8.
Ngoài ra còn có những người Trung Quốc gốc Nga ở phía bắc và tây bắc Trung
Quốc theo Chính Thống giáo với số lượng tương đối nhỏ.

11




Nho giáo: không rõ số người theo, đây là tôn giáo xuất phát từ Khổng Tử

mà các triều đại Trung Quốc cố gắng truyền bá theo chiều hướng có lợi cho
chính quyền, tuy nhiên theo nhiều học giả thì bản chất của nó không phải như
vậy.


Hồi giáo: 1% đến 2%, có ở Tân Cương và các vùng có người dân tộc

thiểu số theo Hồi Giáo sinh sống rải rác. Đạo này phát triển mạnh vào thời nhà
Nguyên (1271-1368).


Tôn giáo cổ truyền Trung Quốc: tôn giáo đa thần của phần lớn dân Trung

Quốc trước năm 1949, là kiểu tín ngưỡng pha trộn giữa một số trường phái
Đạo giáo và Phật giáo và các tín ngưỡng khác.
Ngoài ra còn có Pháp Luân Công được coi là một phương pháp tập luyện
tinh thần dựa chủ yếu trên nền tảng Phật giáo và Lão giáo. Một số khác coi nó

là một tôn giáo, còn chính phủ CHND Trung Hoa thì không chính thức công
nhận và coi nó là một tà giáo độc hại. Theo Pháp Luân Công thì số người theo
nó ước lượng là khoảng 70-100 triệu người.
Thành tựu văn hoá TQ
thành tựu
*tư tưởng tôn giáo+được ra đời khoảng thế kỉ 5
+người sáng lập khổng tử
+nho giáo là hệ thống lí thyuết, thể hiện quan điểm nhìn nhận của con người vs
xã hội, con ng vs con ng
+ hệ thống học thuyết nho giáo thể hiện ở tam cương-Ngũ thường
+nho giáo đạo giáo là cơ sở đường lối trị nc
*phật giáo(dài lắm)
*sử học là mọt trong những khoa học lịch sử đầu tiên ra đời ở TQ, nó ghi chếp
những hoạt động của 1ông vua và hệ thống quan lại
+phản ánh hiện thực của CĐPK
+người TQ gọi Tư Mã Thiên là ng đặt nền móng cho lịch sử
12


+thời đường:sử quán và sử quan thành lập
*văn học: đạt dc những phát triển rực rỡ trên nhiêu phương diện nhất là về mặt
thơ ca..............
*khoa học kĩ thuật
+toán học..........tư thời nhà hán , ng TQ đã biên soạn dc cuốn cửu chương toán
thuật,phương pháp tính diện tích và khối lượng băng nhau.thời nam bắc triều
tìm ra số pi (3.14)
thiên văn học:phát hiện ra nông lịch.phát hiện ra địa động nghi
-y dược: từ xa xưa đã xuất hiện thầy thuốc giỏi như hoa đà = phương pháp
phẫu thuật............
-kĩ thuật:phát inh ra kĩ thuạt in, la bàn ,giấy

kiến trúc nghệ thuật:nhiều kiến trúc đò sộ như vạn lí trương fthanh, cố cung
bắc kinh,nhữg bức tượng mang cảm hứng Phật giáo
Thành tựu văn hoá Ấn Độ
* Tôn giáo:
- Phật giáo:
+ Do Thích ca mâu ni sáng lập
+ Nêu ra chân lí về nỗi khổ và con đường giải thoát nỗi khổ cho con người.
- Đạo Phật: phát triển mạnh
+ Tiếp tục dc truyền bá rộng khắp.
+ Xây dựng nhiều ngôi chùa hang đẹp (A - gian - ta)
+ Tạo nhiều tượng phật tinh xảo.
- Đạo Hin - đu:
+ Bắt nguồn từ tín ngưỡng tôn giáo.
+ Thờ 4 vị thần chủ yếu:
Thần Inđra (sấm sét)
Thần Brama (sáng tạo)
Thần Siva (hủy diệt)
Thần Visnu (bảo hộ)

13


* Chữ viết:
- Xuất hiện khá sớm (từ 3000 năm TCN - 1000 năm TCN)
- Ban đầu là chữ cổ Bra - mi sau phát triển và hoàn thiện thành chữ Phạn.
* Văn học cổ điển Ấn Độ - văn học Hinđu giáo: Mang tinh thần và triết lí
Hinđu giáo

14




×