Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Tìm Hiểu Giá Trị Thẩm Mỹ Của Thiên Nhiên Trong Thơ BASHO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.36 KB, 69 trang )

NGUYỄN THỊ BÍCH DUYÊN
LỚP ĐH 3C2
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGÀNH NGỮ VĂN

TÌM HIỂU GIÁ TRỊ THẨM MỸ CỦA
THIÊN NHIÊN TRONG THƠ BASHO

Giảng viên hướng dẫn
Thạc sĩ Phùng Hoài Ngọc

THÀNH PHỐ LONG XUYÊN 05/2006


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng chân thành cảm ơn Trường Đại học An Giang đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp
tôi hoàn thành luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn thầy cô trong bộ môn Ngữ văn, các GV thỉnh giảng như thầy Phan Nhật
Chiêu Trường Đại học Sư phạm, thầy Đoàn Lê Giang Đại học KHXH-NV tp HCM, đăc biệt thầy Phùng
Hoài Ngọc đã tận tình hướng dẫn người viết hoàn tất luận văn.

Đại học An Giang, ngày 22 tháng 04 năm 2006

Người thực hiện

Sinh viên: Nguyễn Thị Bích Duyên
Lớp ĐH 3C2



MỤC LỤC

Nội dung
PHẦN MỞ ĐẦU

Trang
1
3

I- Lý do chọn đề tài

5

II- Lịch sử vấn đề

5

III- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

6

IV- Mục đích nghiên cứu

6

V- Đóng góp của đề tài

7

VI- Phương pháp nghiên cứu


7

1. Phương pháp tập hợp – khảo sát tư liệu

7

2. Phương pháp phân tích – tổng hợp

7

3. Phương pháp so sánh – đối chiếu

7

4. Phương pháp hệ thống

9

VII- Cấu trúc luận văn

9
9

PHẦN NỘI DUNG

9

Chương I: Thời đại


11

1. Khái quát văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến nay

13

1.1.

Thời cổ đại

14

1.2.

Thời trung đại

14

1.3.

Thời hiện đại

17

1. Thơ haiku

18


2.1.


Nguồn gốc ra đời

18

2.2.

Quá trình phát triển

22

1. Vài nét về tác giả Basho đỉnh cao thơ haiku

23

3.1.

Cuộc đời

23

3.2.

Sự nghiệp sáng tác

23

Chương II: Quan niệm về thiên nhiên của người Nhật
1. Cảm thức về thiên nhiên của người Nhật


23
24

1.1

Thiên nhiên biến đổi theo vòng luân hồi của vũ trụ

25

1.2

Thiên nhiên chứa đựng bí ẩn siêu phàm

25

1.3

Thiên nhiên và con người có một mối tương giao hòa hợp

26

1. Biểu tượng về thiên nhiên trong nghệ thuật Nhật Bản

27

2.1

Biểu tượng “tam tuyệt”

30


2.2

Một số biểu tượng khác

30

1. Những quan điểm mĩ học chi phối văn chương Nhật Bản.
Chương III: Vẻ đẹp thiên nhiên trong thơ Basho
1.

Thiên nhiên tươi đẹp trữ tình

30
35
39

1.1

Thiên nhiên vừa bình dị, nguyên sơ vừa hùng vĩ

43

1.2

Thiên nhiên là một bức tranh hữu tình

47

1.3

bạn bè

Thiên nhiên nơi biểu hiện tình yêu quê hương, đất nước, gia đình,

47

1.4

Thiên nhiên của tấm lòng thương cảm

48
50
1. Thiên nhiên trong thơ Basho nhuốm màu Thiền
56
2.1. Quan niệm về “Thiền”của người Nhật
60
2.2. Hương vị “Thiền” trong thiên nhiên thơ Basho
60
2.3. So sánh thơ “Thiền” trong thơ Basho với thơ “Thiền” Việt Nam
62


1. Thiên nhiên trong thơ Basho mang tính triết lí sâu sắc
Chương IV: Đặc sắc nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong thơ
Basho
1. Nghệ thuật gợi tả thiên nhiên một cách hồn nhiên mộc mạc
2. Nghệ thuật liên tưởng và tính đa nghĩa của hình ảnh
3. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên bằng thể thơ ngắn gọn, cô đọng nhất
64
PHẦN KẾT LUẬN


TÀI LIỆU THAM KHẢO

67


PHẦN MỞ ĐẦU
&

I – LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đất nước Nhật Bản có điều kiện địa lí khá đặc biệt so với nhiều nước trên thế giới. Là một đảo quốc có
vị trí biệt lập. Nhật Bản cách đại lục khoảng chừng 115 dặm. Toàn bộ đất đai Nhật gồm gần 4000 hòn
đảo được bao bọc như một cù lao xanh nổi giữa biển khơi. Với bốn đảo lớn nằm xếp hàng nối nhau từ
Bắc xuống Nam và hàng nghìn đảo nhỏ có tên và không tên ấy tạo thành “một quần đảo dài hình con
ngựa đang giằng sợi dây xỏ mũi để bay lên từ giữa biển khơi” [9, trang 3]. Truyền thuyết kể rằng Nhật
Bản là kết quả của một cuộc tình đẹp thơ mộng của hai vị thần Izanagi (nam thần) và Izanami (nữ thần).
Đó còn được coi là xứ sở thiêng liêng của Mặt Trời Mọc, nơi được cai trị bởi dòng dõi Thiên hoàng con
cháu của Nữ thần Mặt Trời huyền thoại với biểu trưng bộ ba báu vật: thanh kiếm – chiếc gương – vòng
ngọc.
Trong quá khứ xa xưa, nhờ vị trí đảo quốc đặc biệt của mình mà Nhật Bản tránh được nhiều
cuộc xâm lược chiếm cứ đất đai giữa các nước láng giềng lục địa. Nhật Bản là một quốc gia Đông Bắc
Á duy nhất trực tiếp tiếp thu rất nhiều từ Đông Á vá Đông Nam Á các nghề trồng củ, trồng lúa nước,
dệt vải, tín ngưỡng nữ thần… hình thành một đảo quốc luôn tạo ra những chuổi bất ngờ cho thế giới cả
trong quá khứ lẫn hiện đại về một nền văn hóa độc đáo của xứ sở Phù Tang. Nhất là thời kỳ cận đại,
công cuộc Minh Trị Duy Tân một bước chuyển đổi làm cho cả thế giới bất ngờ. Một xứ sở huyền bí của
Thần đạo với vô số các tập tục và nghi lễ. Với vẻ đẹp lãng mạn của những cánh hoa anh đào nở rộ như
những đám mây hoa và “hoa đạo” nên còn gọi là xứ sở hoa anh đào. Với những “thiếu nữ duyên dáng
trong tà áo kimono” [8, trang 12]. Đây còn là xứ sở dũng mãnh của “truyền thống võ sĩ đạo” và “kiếm
đạo”, của những môn phái võ thuật nổi tiếng như: sumo, akido, karate, judo… Một xứ sở thâm trầm của
Thiền đạo và Trà đạo gắn liền với những bài thơ haiku ngắn đến mức tưởng chừng như không thể ngắn

hơn được nữa và ý nghĩa sâu sắc. Đối với thế giới, văn học và văn hóa Nhật Bản là hai nguồn văn minh
lớn.
Nền văn hóa Phù Tang mê hoặc thế giới là như thế đấy. Chúng ta còn có thể thấy sức mê hoặc ấy được
thể hiện tinh tế nhất ở trong thơ văn Nhật Bản. Chúng ta sẽ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác
bởi bên cạnh những bài thơ haiku cực ngắn ấy là những trang tiểu thuyết dài hàng nghìn trang tỏa bóng
mát cho cả nền văn học. Trên sân khấu kịch Noh là những gương “mặt nạ” người trầm lặng không nói
và bất động. Vậy mà đâu đâu cũng lấp lánh chất thơ và cũng chẳng dễ dàng hiểu được trọn vẹn. Những
con người góp phần tạo ra những trang văn học ấy thường là phụ nữ, thiền sư và võ sĩ.
Nền văn học Nhật Bản đến thế giới một cách trầm lặng mà gây ra tiếng vang xa rộng như một bước
nhảy của một con ếch từ trên bờ nhảy “tủm” xuống ao làm mặt nước xao động, cây cối ngỡ ngàng giật
mình mỉm một nụ cười thân thiện trìu mến dịu dàng như những cánh hoa anh đào. Do đâu mà lại như
thế ? Có lẽ đó là do bản chất rất Nhật Bản tự ngàn xưa của xứ sở dân tộc này. Người Nhật ưa chuộng
cái gì thuộc về tự nhiên nên họ có Thần đạo. Họ yêu thiên nhiên, sùng bái tôn thờ thiên nhiên. Vì thế cả
nền văn học văn hóa Nhật Bản thấm đẫm thiên nhiên. Bất cứ cái gì của dân tộc Nhật Bản đều có chứa
một phần nào đó là thiên nhiên hay mang chất thiên nhiên kể cả con người cũng thế từ xưa cho đến nay.
Thiên nhiên Nhật Bản tuyệt đẹp, dịu dàng, tinh tế nhưng cũng rất hung bạo như: động đất, núi lửa, sóng
thần… “thường xuất hiện như những biểu tượng kinh hoàng của nguyên lý hủy diệt” [5, trang 5].


Nhưng thiên nhiên cũng trở thành chuẩn thước đo cho mọi cái đẹp. Chính điều này tạo cho dân tộc Nhật
một cảm thức đặc biệt tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Cả thơ, hội họa, Trà đạo, Hoa đạo, Thiền
đạo… đều nhuộm màu thiên nhiên, đều được tẩm hương sắc của thiên nhiên và hơn nữa thiên nhiên đã
trở thành linh hồn của bản sắc văn hóa.
Thiên nhiên trong nền văn học Nhật giữ một vị trí quan trọng tạo nên những vẻ đẹp những bước đột phá
bất ngờ nhất. Trong nền văn học thế giới nói chung, đặc biệt là ở phương Đông, thiên nhiên cũng chiếm
một vị trí đáng kể. Đó là nét tương đồng giữa văn học Nhật Bản và văn học thế giới. Thơ ca Nhật là nơi
thiên nhiên sống trầm lặng với bao ý nghĩa sâu lắng. Thơ haiku Basho đã ngâm mình trong thiên nhiên
và chở mọi vẻ đẹp của thiên nhiên đến với con người Nhật và ra cả thế giới. Từ cái nhỏ bé đơn sơ nhất,
thơ haiku Basho làm rung dộng từng cảm giác tinh vi nhất của con người tưởng chừng như không bao
giờ có, và trở thành một vẻ đẹp không thể nào chối cãi được. Đó là những giá trị thẩm mỹ tuyệt vời của

thiên nhiên mà Basho đã đưa vào thơ. Con người cũng nhờ đó mà nối gần nhau hơn bằng những xúc
cảm qua “thiên nhiên”. Vì vậy, thơ haiku trở thành thể thơ đặc trưng của người Nhật mà thế giới biết
đến. Còn người đưa tên tuổi thơ haiku lên đỉnh cao là thiền sư Basho.

Hiện nay trên thế giới, giới yêu thích văn thơ đang rất ưa chuộng thơ haiku Nhật Bản, thơ haiku
Basho nói riêng bởi nét dung dị của nó như một nhà văn Nhật từng nói: “Nhân lọai gặp nhau trong một
chén trà”.
Thực tế ở Việt Nam cho chúng ta thấy việc nghiên cứu và phổ biến văn học Nhật Bản chưa được rộng
rãi. Trong các nền văn học Châu Á Việt Nam tiếp thu, văn học Trung Quốc có quan hệ lâu đời và gần
gũi với văn học Việt Nam. Do vậy, văn học Trung Quốc rất phổ biến, quen thuộc với người đọc và giới
nghiên cứu Việt Nam. Còn văn học Nhật Bản thì chưa phổ biến và chưa quen thuộc. Ở Việt Nam chỉ là
những bước đầu đang tiếp cận nền văn học Nhật. Sách ngữ văn lớp 10 bộ mới cũng lần đầu tiên đưa vào
giảng dạy thơ haiku Nhật Bản cho học sinh Phổ thông nghiên cứu. Thơ haiku là thành tựu rực rỡ của
nền văn học Nhật Bản. Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu thơ haiku Basho là rất cần thiết và có ý nghĩa.
Do hạn chế nhiều vấn đề nên người viết chỉ có thể tìm hiểu riêng về thơ Basho, về gía trị thẩm mỹ của
thiên nhiên trong thơ haiku của ông.
Phần trình bày trên là lý do người viết chọn đề tài “tìm hiểu giá trị thẩm mỹ của thiên nhiên
trong thơ Basho”.

II - LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Nền văn học Nhật Bản nói chung, thơ haiku nói riêng cũng từ khá lâu rồi được nhiều dịch giả, giới
nghiên cứu và bạn đọc trên thế giới quan tâm, trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam việc quan tâm đến
văn học xứ Phù Tang ngày càng tăng nhưng sách biên soạn về chuyên đề này đang thiếu. Do nhu cầu
tìm hiểu tinh hoa của nền văn học Nhật Bản đã phát sinh từ nhà trường và xã hội mà nó được đón nhận
một cách nồng nhiệt. Việc nghiên cứu tìm hiểu và sáng tác thơ haiku ở Việt Nam đang ở bước đầu. Dù
Việt Nam còn mới mẻ trong việc tiếp cận nền văn học Nhật Bản nhưng Việt Nam và Nhật Bản vốn là
những nước Đông Á nên việc tiếp cận có phần dễ dàng hơn.
Thơ haiku của Basho được dịch sang tiếng Việt chưa nhiều, có nhiều bản dịch khác nhau và về số lượng
được dịch cũng hạn chế. Hình dung trên tổng thể của quá trình phiên dịch rồi đi vào tìm hiểu thơ haiku
các nhà phiên dịch đã đưa ra những điều cần thiết như là nguyên lý để cảm được thơ haiku và sự thật

nhờ những nguyên lý ấy mà thơ haiku được người Việt tiếp cận một cách dễ dàng. Thơ haiku đến với
người Việt bước đầu là từ dịch thơ rồi đi đến khám phá nguyên lý thơ và sau cùng là sáng tác thơ theo


thể haiku bằng tiếng Việt. Giới bạn đọc dần dần hiểu được rồi say mê thơ haiku. Đến ngày nay, thơ
haiku được giới thiệu một cách êm dịu như cách hoa anh đào trước gió rung rinh trên các trang báo Tài
hoa trẻ, Tạp chí Văn học, Báo Văn học và Tuổi trẻ hay sách viết về văn học văn hóa Nhật Bản với các
bài dịch thơ, bài viết của các tác giả nổi tiếng ở Việt Nam như: Nhật Chiêu, Đoàn Lê Giang, Vĩnh Sính,
Nguyễn Thị Bích Hải… khi giới về lịch sử văn hóa phương Đông thì nền văn hóa Nhật Bản là một
trong những thành viên xuất sắc không thể thiếu, đại diện cho nền văn hóa ấy là thơ haiku cùng với
người chủ trì luôn luôn đi theo bên cạnh là đại thi hào Basho lỗi lạc của dân tộc Nhật Bản. Ngày nay
trên các trang web cũng thấy xuất hiện một số bài viết, trang tin đăng tải có liên quan đến thơ haiku và
tác giả Basho. Đặc biệt là Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Thành Phố Hồ Chí Minh
khoa Đông Phương học đã ấn hành và cho ra đời một quyển sách có ý nghĩa vào năm 2003 đó là cuốn
“Nhật Bản trong thế giới Đông Á và Đông Nam Á” trong đó thơ haiku Basho được coi là một phần linh
hồn của văn học văn hóa Nhật Bản. Hiện nay, văn học Nhật Bản đang nở rộ trên thế giới với những tên
tuổi lỗi lạc đã mang những giải Nobel văn học cho đảo quốc Mặt Trời Mọc này như Kawabata, Oe,
nhưng linh hồn thật sự của văn học văn hóa Nhật Bản là thơ haiku Basho. Những vấn đề trên đã đưa
đến một kết quả rất khả quan là nền văn học Nhật Bản đang bước từng bước vào Việt Nam làm những
người yêu thơ đi vào nghiên cứu tìm hiểu thơ haiku Basho.
Ở các trường Đại học sư phạm, ngành Ngữ văn cũng được giới thiệu vào chương trình cho sinh viên
học tập tìm hiểu. Vì vậy, thơ haiku cũng được các bạn sinh viên thích thú tìm hiểu và học sáng tác thơ
haiku bằng tiếng Việt. Người viết còn biết thêm nữa là không chỉ riêng các bạn sinh viên ngành Ngữ
văn mà còn có nhiều bạn sinh viên ngành khác cũng rất thích thơ haiku cùng cái tên Basho giản dị này.
Cụ thể là các bạn hay lên các trang web để truy cập thông tin về thơ haiku.
Trên thế giới cũng như nước ta, nhiều người chưa biết nhiều đến văn học Nhật Bản một cách trọn vẹn.
Trong khoảng chừng 10 năm trở lại đây học sinh Trung học Việt Nam mới được làm quen với truyện
ngắn “Thủy nguyệt” của tác giả Kawabata, sách văn học lớp 11 tập II là đại diện cho nền văn học Nhật
Bản trong chương trình văn học Phổ thông Việt Nam. Hiện nay, bộ sách Ngữ văn cấp III mới phần văn
học Nhật Bản lại được bổ sung vào những bài thơ haiku ngộ nghĩnh và lí thú ở lớp 10 và không quên

tôn vinh ông tổ thơ haiku Basho do tiến sĩ Đoàn Lê Giang biên soạn giới thiệu. Có thể nói sự xuất hiện
của thơ haiku Basho trong chương trình văn học nước ngoài ở Phổ thông Việt Nam đã thực sự đánh dấu
một bước dài cho chân trụ vững chắc của thơ haiku ở Việt Nam.
Ngày nay, Việt Nam đang tiếp thu rất nhiều từ Nhật Bản và mở rộng quan hệ hợp tác bang giao trên
nhiều lĩnh vực. Lĩnh vực văn học Nhật Bản đang được mở rộng cửa đón chào dù còn gặp nhiều mới mẻ
trong việc tiếp cận nền văn học này, nhưng tương lai nền văn học Nhật Bản sẽ được khám phá sâu rộng
ở Việt Nam. Trong đó thơ haiku Basho là một đại diện không thể thiếu bởi nó là chiếc gương soi nhỏ
xinh xinh để soi rọi linh hồn văn hóa Nhật Bản. Với đề tài “Tìm hiểu giá trị thẩm mỹ của thiên nhiên
trong thơ Basho” người viết sẽ đi vào tìm hiểu và giới thiệu những nét đặc sắc về thiên nhiên trong thơ
Basho với hy vọng thơ haiku sẽ đến từng con người Việt Nam bằng nét dung dị tinh tế nhất mà thơ
haiku có thể làm được với bản chất vốn có của nó.

III – ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về giá trị thẩm mỹ của thiên nhiên trong thơ Basho, nên đối tượng nghiên cứu là
thơ Basho. Nhưng thơ Basho chủ yếu là thơ haiku. Vì vậy, có thể gói gọn lại đối tượng nghiên cứu ở
đây là thơ haiku của Basho.


2. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài là: “Tìm hiểu giá trị thẩm mỹ của thiên nhiên trong thơ Basho”, luận văn chỉ đi sâu vào khảo
sát các tác phẩm thơ haiku của Basho đã được dịch sang tiếng Việt do các dịch giả Nhật Chiêu, Đoàn Lê
Giang, Vĩnh Sính… Khảo sát một cách khái quát toàn bộ các bài thơ haiku đã được dịch sang tiếng Việt
để thấy được những giá trị thẩm mỹ của thiên nhiên được tác giả Basho thể hiện như thế nào. Bên cạnh
đó, luận văn còn đi vào tìm hiểu về giá trị nội dung ý nghĩa và nghệ thuật của thiên nhiên trong thơ để
làm nổi bật lên những vấn đề cần nghiên cứu, đặc biệt là những hình ảnh đối tượng thuộc về thiên nhiên
được thể hiện trong thơ như: các mùa, cảm thức thẩm mỹ và biểu tượng của thiên nhiên…

IV – MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Thơ haiku là một thể thơ có cấu tứ mới lạ, khó hiểu gây ấn tượng mạnh song lại rất gần gũi với những ai
muốn tiếp nhận thơ haiku. Tuy thơ haiku Basho đã thuộc về thể thơ truyền thống của một thời đại rực rỡ
đã qua nhưng nó đã để lại những đóng góp to lớn và ảnh hưởng không nhỏ đến thế giới thơ ca hiện đại.
Vì thế việc nghiên cứu “giá trị thẩm mỹ của thiên nhiên trong thơ Basho” của người viết nhằm:
Trước tiên đó là những bài thơ haiku hết sức cô đọng lại có sức chứa đặc biệt những vẻ đẹp của thiên
nhiên. Nghiên cứu giá trị thẩm mỹ của thiên nhiên để thấy được cái hay, cái đẹp và sức hấp dẫn của thơ
haiku Basho. Hơn nữa một nét về những giá trị thẩm mỹ của tác phẩm nghệ thuật, một “thiên nhiên”
đậm chất thiên nhiên không chỉ sản phẩm thuộc về văn học mà nó còn phản ánh chứa đựng tư tưởng
thẩm mỹ vẻ đẹp văn hóa truyền thống của một dân tộc. Thơ haiku Basho là những câu chữ siêu ngắn
chứa đựng thiên nhiên của nước Nhật. Là những “tác phẩm kiệt xuất” của người Nhật. Do vậy, tìm hiểu
giá trị thẩm mỹ của thiên nhiên trong thơ Basho sẽ góp phần khám phá những nét đẹp về tư tưởng thẩm
mỹ trong văn học văn hóa truyền thống của dân tộc xứ Phù Tang.
Kết quả của đề tài này sẽ góp phần thiết thực trong việc phổ biến văn học Nhật Bản ở Việt Nam và phục
vụ đắc lực, cho công tác nghiên cứu giảng dạy văn học Nhật Bản ở các trường Phổ thông.

V – ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Thơ haiku Basho là một trong những thành tựu văn học có giá trị lớn ở nhiều mặt. Thiên nhiên trong thơ
hết sức phong phú và tuyệt mỹ. Nó còn thể hiện tâm hồn của đảo quốc Phù Tang. Ở Việt Nam, việc
nghiên cứu về thiên nhiên thơ haiku Basho cũng chỉ để nhằm giới thiệu thơ haiku và chưa có sự đi sâu
tìm hiểu về giá trị thiên nhiên trong thơ Basho. Vì vậy, việc nghiên cứu thiên nhiên trong thơ Basho một
cách khái quát từ góc độ văn học hy vọng có thể đem lại những đóng góp mới của đề tài.
Ở đề tài luận văn này, những giá trị thẩm mỹ của thiên nhiên với những tầng lớp ý nghĩa, những giá trị
văn học sẽ được khai thác cần thiết để đem đến cho người đọc những rung động thẩm mỹ sâu xa và sâu
sắc nhất cũng như những nét chấm phá mới về văn học văn hóa Nhật Bản một cách giản dị tinh tế nhất
mà người đọc có thể cảm nhận được và đến với thế giới thơ haiku tự nào không hay biết. Bên cạnh đó,
với đề tài “giá trị thẩm mỹ của thiên nhiên trong thơ Basho” người viết mong muốn góp vào đấy một
phần nhỏ bé của mình để giúp cho việc nghiên cứu và phổ biến nền văn học Nhật Bản ở Việt Nam.


VI - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Dựa vào đối tượng nghiên cứu của đề tài mà người viết đã chọn và để
hoàn thành mục đích nghiên cứu, người viết đã sử dụng một hệ thống những phương pháp cụ thể như
sau:

1. Phương pháp tập hợp – khảo sát tư liệu
Thơ haiku của Basho được khá nhiều dịch giả và nhà nghiên cứu quan tâm nên có nhiều bản dịch của
một tác phẩm do nhiều tác giả dịch ra tiếng Việt. Đồng thời, các bản dịch thơ haiku Basho lại nằm rải
rác trên khắp các báo, tạp chí, sách, trang web… Nói chung là không tập trung một chỗ. Và số lượng tác
phẩm được dịch ra tiếng Việt ngày một nhiều thêm. Do vậy, người viết cần thiết sử dụng phương pháp
này để khám phá những giá trị thẩm mỹ của thiên nhiên trong thơ Basho. Đó là vừa tập hợp hay thu
thập tất cả những tác phẩm dịch thơ vừa tiến hành khảo sát tư liệu.

2. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Nhằm làm nổi bật những vấn đề cần khai thác khám phá người viết sẽ tiến hành phân tích các dẫn
chứng sau đó tổng hợp khái quát lại để đi đến đúc kết vấn đề.

3. Phương pháp so sánh – đối chiếu
Trong quá trình phân tích và tìm ra những giá trị thẩm mỹ mà tác giả đã xây dựng thành công qua các
tác phẩm của mình thì người viết cần phải có sự so sánh, đối chiếu để khẳng định được vấn đề tức là
phải đặt các tác phẩm vào trong mối quan hệ lịch sử để so sánh với các tác phẩm cùng thời hoặc trước
và sau đó ở trong cùng một nước hay nước ngoài.

4. Phương pháp hệ thống
Sau khi phân tích, khám phá hình ảnh thiên nhiên của từng tác phẩm cụ thể, người viết hệ thống lại tất
cả các tác phẩm ấy trong mối lên hệ tư tưởng chung của tác giả Basho. Từ đó, người viết rút ra kết luận
về giá trị thẩm mỹ của thiên nhiên trong thơ Basho.

VII – CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Luận văn được chia bố cục theo các phần sau:
Phần mở đầu bao gồm: Lý do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu,

đóng góp của đề tài, phương pháp nghiên cứu, cấu trúc luận văn.


Phần nội dung: Được chia thành 4 chương như sau:
Chương I: Thời đại
Chương II: Quan niệm về thiên nhiên của người Nhật
Chương III: Vẻ đẹp thiên nhiên trong thơ Basho
Chương IV: Đặc sắc nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong thơ Basho
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo

—ª—


PHẦN NỘI DUNG
&

CHƯƠNG I: THỜI ĐẠI

1. Khái quát văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến nay: văn học Nhật Bản có thể chia ra 3 thời kỳ như
sau:

1.1. Thời cổ đại
Khởi đầu là thời Nara (Nại lương) thế kỉ thứ VIII chấm dứt thời kì “di đô” của Hoàng gia, mở đầu thời
kì định đô của Nhật Bản (vì trước kia mỗi lần thiên hoàng mất đi, triều đình lại bỏ cung điện cũ chuyển
đến nơi khác xây dựng cung điện mới). Trước thời Nara tính đã có hơn 60 kinh đô trên đất nước. Từ
nay, Nara được chọn làm nơi đóng đô, gọi là kinh đô Nara hay HeijoKyo (Bình thành kinh) được xây
dựng vào năm 710 theo lệnh nữ thiên hoàng Genmei và theo khôn mẫu là kinh đô Trường An của nhà
Đường ở Trung Quốc. Người Nhật đã tiến những bước dài trong cuộc kiến tạo văn minh trên xứ sở của
mình từ sau khi thống nhất và định đô tại Nara.

Vào khoảng đầu công nguyên, Nhật Bản có trên 100 xứ nhỏ (theo xử liệu Trung Quốc Hậu Hán Thư),
thực ra đó chỉ là những bộ tộc tranh giành quyền lực với nhau. Trong đó Yamato (Đại hòa) là xứ hùng
mạnh nhất và là nơi khởi nghiệp của các thiên hoàng. Nên “Yamato” cũng được dùng để chỉ nước Nhật
xưa.
Theo bộ sử thi Nihonsoki (Nhật Bản thư kỉ) thì vào năm 552 Phật giáo đã theo người Triều Tiên du
nhập vào xứ đảo quốc này và ít lâu sau được tôn làm Quốc giáo. Cùng với Phật giáo là Thần đạo truyền
thống vẫn tồn tại bên cạnh. Cả hai đã liên kết dung hòa để phát triển bên nhau. Đồng thời, Nhật Bản còn
tiếp thu các nền văn hóa Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên… để xây dựng nền văn hóa của dân tộc mình.
Vào thời kì này, nền văn học viết bắt đầu xuất hiện như: thơ, tùy bút, nhật ký, tiểu thuyết viết bằng chữ
Hán, cũng ưa dùng điển tích Hán nhưng mang đậm chất Nhật Bản, bởi nó chứa đựng trong đấy là thiên
nhiên và tâm hồn người Nhật. Những tác phẩm như Kojiki (Cổ kí sự) có nghiã là “ghi chép chuyện
xưa” viết bằng tiếng Nhật qua dạng chữ Hán do Yasumaro – một học giả ưu tú đương thời biên soạn.
Hay Nihonsoki (Nhật Bản thư kỉ) gọi tắt là Nihongi (Nhật bản kỉ) do thái tử Toneri và Yasumaro biên
soạn. Hay Fudoki (Phong thổ kí), Kogoshui (Cổ ngữ thập di), các Norito (Chúc từ), Nihon Ryoiki (Nhật
Bản linh di kí) năm 822, hợp tuyển thơ ca Kaifusso (Hoài phong tảo hay còn gọi là Hoài niệm thơ ca)
năm 751 với 126 bài thơ chữ Hán làm theo lối Đường luật. Đặc biệt là tập thơ Manyoshu (Vạn diệp tập)
“Nghìn chiếc lá” do thiên hoàng tổ chức và phát hành hoàn thành khoảng năm 771 với 4500 bài thơ
trong ngôn ngữ Nhật bản với hầu hết là thể tanka của rất nhiều tác giả hữu danh và vô danh. Có thể nói


Manyoshu là nơi quy tụ mọi tâm hồn trên toàn cõi Nhật. Đó là khúc hát giao mùa của thiên nhiên và cả
tâm hồn con người
Đàn nhạn bay về
Cây phong của ta ơi
Đến lượt em rồi đó
Đã sang mùa
Em hãy đổi màu đi.
( bài 2183 – vô danh)
Tóm lại, nền văn học Nhật Bản thời Nara là “buổi bình minh văn học Phù Tang” [6, trang 11] nên chưa
định hình rõ phong cách.


Thời Heain (Bình an) từ 794-1185: Vào năm 794, thiên hoàng Kanmu dời đô về Heian (Kyoto) chấm
dứt những rối ren ở Nara mở đầu cho thời đại thái bình kéo dài ngót bốn thế kỉ. Heian nghĩa là Bình an
là một trong những kinh đô có cuộc sống kéo dài từ thời cổ đại đến cận đại tức năm 1868.
Thời kì này văn hóa Nhật Bản phát triển trong một tinh thần độc lập và tự tin. Với phong trào tân hưng
Phật giáo như: chủ trương đọc kinh, không phân biệt nam nữ, đề cao nghệ thuật. Sau đó là hệ thống văn
tự Kana thay thế cho cách mượn chữ Hán để phiên âm tiếng Nhật.
Thời Heian, gia tộc Fujiwara chiếm một địa vị quan trọng trong cung đình cũng như lịch sử Nhật Bản
và thật sự thống trị triều đình. Giới quý tộc vui hưởng cuộc sống xa hoa, ngắm trăng, đốt hương… Đó là
sự tôn thờ cái đẹp trong nghệ thuật lẫn thiên nhiên. Cái đẹp trở thành tiêu chí của văn hóa. Cái đẹp được
tôn thờ như là một tôn giáo. Chính nhờ xã hội quý tộc này những kiệt tác văn chương thể hiện một
phong cách diễm lệ và tao nhã gọi là Miyabi của sự giao hòa êm ái giữa con người với nhau và với thiên
nhiên.
Văn chương thời Heian “nở rộ như hoa cỏ mùa xuân”. Đặc biệt là sự đăng quang của các cây bút thiên
tài nữ quý tộc và tác phẩm của họ trở thành tiêu biểu cho cả nền văn học thời Heian. Đây cũng là thời
đại mà yếu tố “dân tộc” và “nữ lưu” đã phát tiết vẻ đẹp huy hoàng chưa từng có cho văn chương. Đến
nỗi bước vào thế giới văn chương Heian là ta cảm nhận lập tức sự thoát ra một không khí diễm tình, đa
cảm đầy mùi hương nữ tính.
Văn học giai đọan này đã bắt đầu hình thành phong cách Nhật khá ổn định và mang nét truyền thống
sâu sắc chẳng hạn như những xúc cảm tinh tế về thiên nhiên, về nỗi buồn và cái đẹp đã trở thành đặc
trưng truyền thống của mỹ cảm Nhật Bản “mononoaware” (bi cảm Nhật Bản). Về thể loại thì phong
phú đa dạng: thơ ca, tiểu thuyết, nhật ký, tùy bút… với các tác phẩm: Các tập cổ kim tập, Thần nhặt bụi
trần, Tiểu thư ánh trăng, Tiểu thư yêu sâu bọ, Sách gối đầu, Phù du ký và đặc biệt là tiểu thuyết truyện
Genji Monogatari của nữ sĩ Murasaki. Đấy là quyển tiểu thuyết vĩ đại nhất của năn học Nhật Bản là một
trong những kiệt tác vào bậc nhất của thế giới. Tiểu thuyết Genji Monogatari dài khoảng 1000 trang kể
về chuyện tình của thái tử Genji hào hoa phong nhã. Qua cuộc đời Genji, Murasaki đã miêu tả lại hiện
thực xã hội cung đình và đời sống người Nhật thế kỉ XI. Ngoài ra còn có sân khấu Noh với những
gương “mặt nạ” người bất động ra đời.



Có thể nói thời Heian là thời của cái đẹp là thời rực rỡ nhất của văn học Nhật Bản từ trước đến nay.

1.2. Thời trung đại (“Thời khói lửa”) từ thế kỉ XIII – XV
Mạc phủ Kamakura (Liêm thương): Đây là thời kì mà sự vinh quang của tầng lớp quý tộc bị rơi
xuống thì ngọn sóng lịch sử lại đẩy lên một quyền lực mới thuộc về giới võ sĩ gọi là Bushido hay
Samurai.
Năm 1192 Yoritomo trở thành tướng quân và thiết lập chế độ Mạc phủ (Bakufu) ở Kamakura. Đến năm
1333 Ashikaga đảo chính lật đổ tướng Kamakura và sau đó chiếm luôn Kyoto, lập thiên hoàng mới là
Komyo. Thiên hoàng Godaigo về núi Yoshino lập triều đình mới. Từ đó diễn ra tranh chấp Nam Bắc và
kết thúc 1392 chỉ còn lại thên hoàng Kyoto. Sau đó nữa là cuộc chiến tranh giữa các lãnh chúa địa
phương kéo dài hơn một thế kỉ, 60 xứ “bốc mùi khói lửa” [6, trang 143]. Năm 1542 Nhật Bản được
người Bồ Đào Nha phát hiện và từ đấy súng đạn phương Tây cũng xen vào khói lửa. Văn hóa thời Mạc
Phủ chịu sự ảnh hưởng của khói lửa chiến tranh và tư tưởng tôn giáo Thiền tông (Zen). Các loại hình
nghệ thuật gắn liền với Thiền tông cũng phát triển rất mạnh như: Trà đạo, kiếm đạo, hoa đạo, thi đạo…
Một nền văn học dịu dàng trong sáng của Heian đã bị “khói lửa” làm nhòa đi thay vào đó là bóng tối bi
đát trong từng trang tùy bút, trong lời ca ngâm của nghệ sĩ hát rong và trên sân khấu u huyền của kịch
Noh. Có thể nói đây là thời kì võ sĩ và tu sĩ là lực lượng sáng tác chủ yếu của văn học. Cả hai loại thơ ca
và văn xuôi đều phát triển với những tác phẩm tiêu biểu như: Nhà trên núi, Mây hoang dại, Ghi chép
trong lều, Trầm tư trên cỏ, Những truyện kể theo tiếng đàn tì bà… và một loại hình nghệ thuật mới: sân
khấu Noh phát triển mạnh vào thời kì này. Thời Mạc phủ là thời văn chương của võ sĩ và tu sĩ.

Thời Edo (“văn chương Phù thế”): Cuộc chiến tranh dai dẳng cũng đã đến hồi kết thúc. Tướng quân
Tokugama Iegasa mở ra một thời đại mới gọi là thời Tokugana hay thời Edo (vì Edo được chọn làm
Thủ phủ trở thành trung tâm văn hóa mới), với một nền hòa bình kéo dài gần 3 thế kỉ (từ 1600 – 1868).
Dưới chế độ Mạc phủ Tokugana, học vấn phát triển mạnh mẽ cả Nho học lẫn Quốc học đến cả việc hình
thành văn hóa và đạo lí của tầng lớp võ sĩ trên toàn cõi Nhật Bản. Đó là tinh thần võ sĩ đạo “Bushido”.
Ngoài ra văn hóa Edo còn bị chi phối bởi hiện tượng chính trị khép mình theo lệnh tỏa quốc hay “bế
quan tỏa cảng”. Nhưng hiện tượng nổi bật của văn hóa Edo lại chính là tầng lớp thị dân, chính vì vậy
mà văn hóa Edo còn gọi là “Văn hóa thị dân” [6, trang 215]. Là thời của thị dân, nghệ sĩ, kĩ nữ… của
những “Thành phố không đêm” [6, trang 215], của nhà hát, lữ quán… là nguồn đề tài phong phú cho

các nhà soạn kịch, tiểu thuyết gia, họa sĩ và cả nhà thơ. Chính cái thị tứ ấy đã tạo nên một “nền văn hóa
Phù thế”. Đời sống thường ngày và con người thường dân bắt đầu xâm nhập vào một thế giới mà mới
đây dường như hãy còn là một cõi xa lạ đó là văn chương và nghệ thuật. Nho giáo được xem là chính
thống. Đạo Thiên chúa bị cấm đoán. Thời kì đầu của Edo trải dài hơn một thế kỉ rưỡi. Nhật Bản được
cai trị bởi mười tướng quân kể từ Ieyasu.
Sân khấu, nghệ thuật, điêu khắc, hội họa… phát triển mạnh. Hai loại hình sân khấu nổi trội là múa rối
Joruri và Kabuki, trong hội họa là “hình ảnh ngọn sóng chính là biểu tượng của một thời đại đầy khát
vọng” [3, trang 203]. Riêng văn học với nhiều thể loại để lại những thành tựu văn học đặc sắc như: tiểu
thuyết gia bậc nhất Saikaku và “thế gian gia đình”, hay các tác gia tiểu thuyết khác như: Akinai, Ikku và
Bakin…
Thơ thời Edo cũng xuất hiện với hình thức mới mẻ và giản dị vào hiện thực đời sống như thơ và văn
xuôi vậy. Đó là thể thơ 17 âm tiết hay còn gọi là thơ haiku với bậc thầy của nó là Basho, bên cạnh còn
có các tác gia khác như: Buson, Issa, Kikaku, Chiyo, Onitsuro… Có thể nói đây là thời rực rỡ nhất của
thơ haiku đã làm cho Basho trở thành thi hào Nhật Bản.


Thời Edo là thời tự trị của văn chương Phù thế, vì văn chương Phù thế là văn chương của những ngọn
sóng trần gian chỉ biết “con người tại thế” mà quay lưng lại với thần linh xưa cũ. Văn học cổ điển Nhật
Bản kết thúc vào cuối thời Edo.

1.3. Thời hiện đại (1868 đến nay)
Đến giữa thế kỉ XIX Nhật Bản mới mở cửa giao lưu với các nước ngoại quốc kể từ sau chính sách “tỏa
quốc” [3, trang 292] thế kỉ XVI. Rồi các hiệp ước được kí kết với Mĩ, Anh, Pháp, Hà Lan và Nga lần
lượt ra đời. Chế độ Mạc phủ tướng quân bị tan rã. Quyền lực thuộc về thiên hoàng được phục hồi. Thiên
hoàng mới là Meiji mới 15 tuổi. Từ đây, năm 1868 thời đại Meiji bắt đầu. Kinh đô Edo được đổi thành
Tokyo. Nước Nhật lao vào cuộc Duy tân. Nền văn hóa, giáo dục phương Tây được du nhập vào Nhật
Bản. Sinh viên Nhật Bản du học sang các nước phương Tây như ở thời Nara, Heian người Nhật từng
sang Trung Quốc. Cuộc Duy tân Meiji đã làm bùng nổ sức mạnh của Nhật. Nhật gây chiến tranh với
Trung Quốc, Nga rồi ngang nhiên sáp nhập Triều Tiên vào quần đảo của mình. Khi thiên hoàng Meiji
qua đời vào năm 1912 và cuối thế chiến thứ nhất Nhật trở thành cường quốc lớn của thế giới. Sau đó,

Taisho kế vị. Năm 1926, kỉ nguyên Showa bắt đầu với những rối loạn chính trị và tập đoàn Quân phiệt
gây chiến dẫn đến nước Nhật thảm bại trong điêu tàn. Trong sáu năm tiếp theo, nước Nhật chịu sự
chiếm đóng của quân Đồng minh là Mĩ. Năm 1947 Nhật Bản thi hành hiến pháp mới xem thiên hoàng
“chỉ là biểu tượng của quốc gia” [3, trang 294] từ bỏ vũ lực quân sự… Từ đó, Nhật khôi phục kinh tế.
Sau hai thập kỉ, Nhật trở thành quốc gia cường thịnh của thế giới.
Trong thời kì này, nền giáo dục Nhật Bản đã thành công rực rỡ với các công trình nghiên cứu khoa học
đoạt giải Nobel như: Yukawa, Hideki và Tomogana Shinichiro. Còn về nghệ thuật ngành điện ảnh đã
nhanh chóng phát triển. Về phương diện văn học làn sóng văn học phương Tây đã bắt đầu tràn vào Nhật
Bản từ những năm 1880 qua các bản dịch. Tác phẩm đầu tiên của văn học Nhật hiện đại là tiểu thuyết
Ukigumo (Phù vân) 1887 của Futabotei Shibei. Sau đó hàng loạt các nhà văn lớn thời Meiji là Mori
Ogai, Nagaikafu, Natrumei, Soseki… Họ thể hiện những băn khoăn đau khổ của con người trong cuộc
sống đầy những giằng xé giữa mới và cũ. Đến thời Taisho xuất hiện truyện ngắn xuất sắc của Akutagwa
Ryunosuke. Sang kỉ nguyên Shona lại là thời đại cực kì phong phú của văn học Nhật. Kawabata
Yasunari và Oe Kenzaburoo đã vượt lên trên các nhà văn thơ cùng thời vươn ra thế giới nhận giải Nobel
mang về vinh quang cho nền văn học xứ sở Phù Tang. Nhìn chung, tác phẩm của nhà văn hiện đại Nhật
Bản ngày càng có tính quốc tế hơn trong đề tài và phong cách, nhưng vẫn giữ được nét đẹp riêng độc
đáo của Nhật Bản.
Hiện nay, Nhật Bản đang đối đầu với những bất ổn của xã hội và kinh tế. Nước Nhật đã hiện đại hóa với
một tốc độ chóng mặt và dường như tâm hồn Nhật cũng chịu sự căng thẳng và khủng hoảng nên những
giá trị văn hóa là những gì ổn định nhất cần phải bảo tồn và phát triển.
Thời hiện đại của Nhật Bản là thời mọi giá trị của Nhật bản được vươn mình, soãi cánh ra thế giới trong
đó có cả văn học Nhật Bản cũng đang là đối tượng được thế giới quan tâm. Đây cũng là thời kì đăng
quang của các cây bút văn xuôi lỗi lạc.

2. Thơ haiku
Dân tộc Nhật Bản có hai thể thơ chính là tanka và haiku. Thơ haiku là một thể thơ rất Nhật Bản, là linh
hồn văn hóa xứ Phù Tang. Cho nên, nói đến văn học Nhật Bản người ta không quên nói đến thơ haiku.
Ngày nay, thơ haiku không còn là của riêng dân tộc Nhật Bản mà nó trở thành thể thơ của quốc tế – một
thể thơ của mọi người cảm nhận và sáng tác. Vậy từ đâu có tên gọi là haiku ? Haiku có nghĩa là gì ?



2.1. Nguồn gốc ra đời
Như chúng ta đã biết thể thơ khởi đầu của dân tộc Nhật bản là thể tanka (tức Đoản ca hay còn gọi là
Wa-ka hay Hòa ca) với 31 âm tiết, ngắt nhịp theo kiểu: 5-7-5-7-7 và bài thơ tanka sau đây được xem là
bài thơ mở đầu cho thơ ca Nhật Bản
Tám tầng mây dựng
Ở xứ Izumo
Ta làm tám tầng mây xa
Tám tầng mây ấy
Che chở người vợ ta.
Là bài thơ mà thần Susanoo làm tặng người vợ yêu quý của mình là nàng Kushinada. Theo H. H. Honda
thì một bài thơ tanka tựa như “Hoa anh đào ẩn hiện trong sương mờ mùa xuân”. Còn thơ haiku thì ngắn
hơn nữa. Từ haiku theo âm Hán Việt là “hài cú”. Nó không xuất hiện vào thời Basho mà về sau mới có.
Thử nhìn vào một bài thơ haiku sau đây sẽ dễ hiểu hơn
Dậy đi thôi
Cùng ta kết bạn
Cánh bướm ngủ say ơi !
Đấy là một bài thơ rất ngắn. Cả bài chỉ có 17 âm tiết (17 onji), đôi khi cũng không nhất thiết phải thế.
Một bài thơ như thế, Basho gọi là hokku (phát cú) tức là thơ khởi xướng của một bài renga (liên ca).
Thơ renga được giải thích như sau:
Thơ renga là thơ xướng họa có từ rất lâu đời trong văn học Nhật. Từ một bài tanka 31 âm tiết, 5 dòng
được tách ra hai phần để cho mọi người xướng thơ với nhau (phần ba câu đầu gọi là thượng cú, phần
hai câu sau gọi là hạ cú). Renga ra đời là như thế. Ví dụ như một bài thơ trong Shui shu (Thập di tập
997).
Qua rồi nửa đêm
Chờ nhau chi nữa
Cho thêm ưu phiền
Một tiểu thư đã gửi cho người tình của mình phần đầu bài tanka với ba câu như trên với ý trách móc
người yêu lỗi hẹn. Sau đó, người ấy nhận được và làm tiếp phần còn lại thành một bài tanka trọn vẹn.
Muốn gặp em trong mộng

Nhưng rồi anh ngủ quên.


Một bài tanka được sáng tác như trên gọi là renga. Giới quý tộc thời Heian rất thích lối sáng tác như thế
và trở thành cuộc vui xướng thơ của họ. Sang thời Mạc Phủ Kamakura thì thể renga từ một bài tanka
như thế được nối dài ra thành một chuỗi thơ vô tận với hàng chục đoạn, hàng trăm đoạn… do các nhà
thơ họa nối theo nhau.
Đến thế kỷ XIV, lý luận về thơ renga ra đời với quy tắc chặt chẽ do nhà thơ tanka Nijo Yoshimoto nổi
tiếng lúc bấy giờ biên soạn.
Bước sang thế kỷ XV thì thơ renga đã vươn lên đến đỉnh cao thực sự của mình. Thơ renga trở thành
niềm say mê đế mức được tôn thờ như một tín ngưỡng “thiêng liêng hóa”. Người ta mua các bài thơ
renga từ các nhà thơ đem đến vườn chùa để cầu phúc trước khi đi chiến đấu hay sinh nở. Cũng trong
giai đoạn này các trường phái renga ra đời. Đó là phái Ushin (hữu tâm) theo phong cách tao nhã của thơ
ca truyền thống và phái Mushin (vô tâm) của sự dung tục và đùa cợt trong thơ. Ban đầu phái Ushin
chiếm ưu thế với đỉnh cao là Sogi. Lúc này, đoạn thơ khởi xướng phần thượng cú gọi là hokku viết với
hình thức 17 âm tiết (5-7-5) đã chiếm một vị trí đặc biệt thường do các nhà thơ nổi tiếng soạn trước.
Phần còn lại dành cho các đối tác khác thích xướng họa. Về sau đến thời Edo thì phái Mushin lại tạo
được danh thế với thể renga trào lộng còn gọi là haikai no renga (bài hài liên ca), gọi tắt là haikai, do
tầng lớp thị dân thích đùa cợt phóng túng. Đồng thời thể haikai cũng dễ sa vào sự dung tục chắp nối,
gượng ép thiếu tâm hồn thơ. Chính Soin (1605-1682) đã góp phần đưa haikai ra khỏi sự dung tục và
giải trí đơn thuần. Rồi định mệnh lại an bài haikai cho Basho. Thiên tài Basho đã đưa haikai thoát khỏi
lối chơi tầm thường bằng sự dung hợp cả cái vô tâm lẫn hữu tâm, sự trào lộng đời thường của haikai
hiện đại với sự tao nhã tâm linh của renga cổ điển vào trong 17 âm tiết của một bài hokku. Từ đấy,
hokku không phụ thuộc vào renga nữa, nó trở thành một thể thơ độc lập và có tên là haikai hay haiku.
Tên gọi này có từ thời nhà thơ Shiki (1867-1902) trở đi. Haiku là do cách ghép thu gọn của hai từ haikai
và hokku lại thành. Có thể nói renga đã làm nảy sinh một thể thơ độc đáo là haiku. Thơ haiku là một thể
thơ độc đáo mang phong vị Thiền. Mỗi bài thơ được ví như một chiếc gương soi rọi thiên nhiên của bốn
mùa và tâm hồn của nghìn đời.
Từ đấy, thơ haiku phổ biến trên khắp thế giới nên các bài thơ 17 âm tiết như thế của Basho và người
cùng thời với ông vẫn gọi tên ấy. Tên gọi haiku rất phổ biến trên sách báo tiếng Anh. Các từ haiku,

hokku, haikai vẫn dược dùng lẫn lộn. Khi đến Việt Nam cũng thế, đặc biệt, ở trường Phổ thông gọi là
haiku. Thơ haiku khi dịch ra tiếng nước ngoài thường được xếp thành ba dòng trông như ba câu. Còn
trong chữ Nhật thì một bài haiku thường nằm gọn trên một dòng. Đây là nét riêng biệt của thơ haiku
không thể lẫn với bất cứ thể thơ nào khác.
Thơ haiku là khúc ca của bốn mùa. Mỗi bài thơ haiku đều có quí ngữ (kigo hay từ ngữ báo hiệu mùa).
Nội dung thơ cô đọng trong cái cực ngắn. Thơ haiku chỉ miêu tả những cái gì ở thực tại và lặng thinh.
Khoảng lặng ấy là “khoảng trống” của “chân không”. Ở thực tại là sự vật xuất hiện ngay thời khắc tinh
khôi nhất như một đóa hoa triêu nhan
A ! Hoa asagao
Chiếc gàu vương hoa bên giếng
Đành xin nước nhà bên.
(Chiyo)
Thơ haiku lấy thiên nhiên làm chủ đề và bộc lộ cảm xúc cô tịch (sabi), aware (bi ai), wabi (đà), karumi
(khinh). Thơ haiku còn thể hiện triết lí về “thiên nhiên”. Tác giả Nhật Chiêu cảm nhận về thơ haiku như
sau: “Một bài thơ haiku có thể chứa ba chiều của vũ trụ. Còn chiều thứ tư để dành cho người đọc” [5,


trang 22]. Hay nhà thơ Paul (Pháp) cũng nói: “Tôi viết nửa bài thơ. Người đọc viết phần còn lại.” [5,
trang 22]. Đó là những nội dung mà thơ haiku diễn đạt.
Vậy, thơ haiku có nguồn gốc từ thơ ca truyền thống Nhật Bản.

2.2. Quá trình phát triển
Thơ haiku có một quá trình ra đời lâu dài và phát triển thật mạnh mẽ. Thơ haiku ra đời từ thế kỉ XVI
đến thế kỉ XVII, nó đạt tới đỉnh cao với Basho. Sau Basho còn có rất nhiều nhà thơ đã chọn haiku làm
“con đường” để bước vào trong nghệ thuật, vào trong một lối sống, vào một “đạo” và mang những triết
lí sâu sắc gọi là “hài cú đạo” (haikudo) hay “haiku no michi”. Đó là các nhà thơ Buson (1716-1784) “thi
sĩ của mùa xuân” [6, trang 279], là Issa (1762-1826) “nhà thơ của nhân tình” [6, trang 282], là shiki
(1867-1902), Onitsura (1660-1738), là Ryokan – “kẻ đại ngu” [6, trang 285]… Đối với họ sáng tác thơ
haiku không chỉ là niềm vui mà còn là lối sống. Thơ haiku đến với họ bằng “con đường”, tức cái đạo
mà thơ haiku chứa ở trong nó. Đấy là con đường sâu thẳm trong cái bình thường giản dị nhất giữa cuộc

đời như Tagore đã từng nói: “Trong vội vã, ta bỏ quên những bông hoa bên hàng giậu ven đường…”.
Hiện nay, Nhật Bản “tiếp tục” phát triển thơ haiku. Bài thơ haiku sau do Tiến sĩ Đoàn Lê Giang dịch từ
thơ của tác giả Ozakihosai trong báo Tài hoa trẻ số 325
Chỉ một tiếng ho thôi
Cũng một con người.
Thay vì haiku cổ điển gồm ba câu nhưng ở đây tác giả chỉ dùng hai câu như để thể nghiệm cho thơ ở
bước hiện đại. Xét đến cùng thì thơ haiku vẫn đến với mọi người bằng tinh thần Thiền tông đề cao thiên
nhiên, đề cao cái đẹp thô sơ, mộc mạc, tầm thường, nhỏ bé nhưng chẳng tầm thường chút nào.
Khi thơ haiku tỏa ra thế giới hay “haiku đã vươn xa ra ngoài biên giới Nhật, trở thành một dòng thơ của
thế giới, ảnh hưởng đến thơ ca hiện đại. Thơ ca phương Tây trong những tìm kiếm và thể nghiệm của
mình, đã nhiều lần đi theo phong thái haiku” [6, trang 183]. Thơ haiku được mọi người đón nhận nồng
nhiệt. Người ta dịch thơ haiku từ tiếng Nhật, rồi nghiên cứu, khám phá những gì mà linh hồn thơ haiku
chất chứa. Giới yêu thơ còn sáng tác thơ haiku bằng tiếng dân tộc mình như tác giả Nhật Chiêu đã trình
bày: “Nói một cách chừng mực hơn, thơ haiku mà Basho đã hoàn thiện bằng thiên tài của mình, trở nên
thể thơ quốc tế trong thế kỉ XX. Bên ngoài Nhật Bản, haiku chẳng những được nghiên cứu rộng rãi mà
còn được các nhà thơ ở nhiều xứ khác nhau sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ của mình, trong đó có cả Paul
Eluard của Pháp, Octavio Paz của Tây Ban Nha và George Seferis của Hi Lạp”. [6, trang 274]. Ở Việt
Nam, Trịnh Công Sơn, Chế Lan Viên… cũng đã từng tiếp thu, ảnh hưởng thơ haiku.
Vậy, Thơ haiku bắt đầu hình thành vào thế kỉ XVI, đạt đỉnh cao ở thế kỉ XVII với Basho. Đến cuối thế
kỉ XIX được nhà thơ Shiki định danh la haiku. Ngày nay, haiku lan ra thế giới thành một thể thơ được
quốc tế đón nhận.

3. Tác giả Basho đỉnh cao của thơ haiku

3.1. Cuộc đời


Basho là một trong những nhà thơ lớn của Nhật Bản. Basho nói về mình như sau:
Tên tôi trên đời
“một người lữ khách”

mưa mùa thu ơi
Ông chính là “một người lữ khách”, cuộc đời hành hương hành giả qua bao nhiêu mùa gió bụi. Có
người bảo rằng ông đi trong im lặng “như ngày đi, như đêm đi, như mùa đi” [7, trang 15]. Cuộc đời
thiền sư, nhà thơ Basho là như thế đấy.
Matsuo Basho tên thật là Matsuo Munefusa sinh ngày 15-11-1644, trong một gia đình thuộc dòng dõi
võ sĩ đạo samurai cấp thấp, ở thị trấn Ueno xứ Iga. Năm lên chín tuổi làm tiểu đồng cho con trai lãnh
chúa xứ Iga là Yoshitada lớn hơn Basho hai tuổi. Hai người kết thành đôi bạn thân cùng vui chơi, học
tập, làm thơ. Họ học làm thơ dưới sự hướng dẫn của thầy Kigin. Một số bài thơ do hai người sáng tác đã
bắt đầu được đăng trên vài hợp tuyển thơ ca lúc bấy giờ là thời Tokugawa (Thời Bình an 1600-1868).
Nhưng chẳng bao lâu Yoshitada mất lúc 24 tuổi. Sau đó, Basho lên núi Koya để đặt nạm tóc của bạn
vào chùa. Chính nơi đây Basho cảm nhận được nỗi “vô thường” và niềm “cô tịch” sẽ dần thấm sâu vào
từng câu chữ của ông. Basho quyết định rời khỏi xứ Iga dù không được phép của lãnh chúa Đại danh.
Những năm tiếp theo ông sống ở Tyoto để tiếp tục học cổ văn Nhật và nghiên cứu cổ văn Trung Quốc
cũng như thư pháp. Ông lại về thăm quê vài tháng.
Năm 28 tuổi, Basho lên Edo, một thành phố thị dân (sau này là Tokyo). Ông học Thiền đạo và gia nhập
văn giới Edo một cách nhanh chóng. Nơi đây có nhiều trường phái thơ. Thơ haiku lúc ấy còn gọi là
hokku hay haikai chưa thành một thể thơ độc lập. Ban đầu Basho thử làm nhiều công việc khác nhau
nhưng rồi dần dần ông trở thành người dạy sáng tác thơ haikai. Chính Basho đã dung hợp sự trào lộng
đời thường của thể haikai hiện đại với sự tao nhã tâm linh của renga truyền thống làm nảy sinh thể
haiku độc lập. Đặc biệt là năm 1675, Basho được mời tham dự renga với Soin. Cuộc gặp gỡ này là một
ảnh hưởng có ý nghĩa trong đời Basho.
Ở những năm gần 40 tuổi, Basho mới thật sự viết những bài haiku mang phong cách Basho tức “giải
thoát haiku khỏi trò chơi chữ và ông là một với haiku, là một với vĩnh cửu” [7, trang 22].
Những năm cuối đời, để nuôi dưỡng tinh thần và cảm hứng thơ của mình. Basho làm cuộc du hành khắp
đất nước. Ông vừa đi vừa viết du kí và sáng tác thơ haiku. Cuộc đời thi hào Basho có thể chia ra các
giai đọan như sau:

“Ba tiêu am”: một thương gia giàu có, ngưỡng mộ Basho xây cho ông một ngôi nhà ở Fukagawa, gần
dòng Sumida. Cạnh nhà có trồng một cây chuối đọc là Basho (ba tiêu). Cũng từ đây, ông lấy “Basho”
làm bút danh cho mình. Còn ngôi nhà ông ở gọi là Bashoan (Ba tiêu am). Nơi này ông cảm nhận được

âm thanh của tiếng mưa rơi trên tàu lá chuối như những vần thơ của Bạch Cư Dị (Trung Quốc)
Cách song tri dạ vũ
Ba tiêu tiên hữu thanh
mà ông viết bài thơ sau:


Lá chuối tả tơi
đêm nghe mưa tí tách
xuống chậu sành không ngơi.
(Đoàn Lê Giang dịch thơ)
Từ đây ông bắt đầu học thiền đạo dưới sự hướng dẫn của thiền sư Butcho nên các bài thơ của ông thấm
sâu tinh thần Thiền tông hay phong thái Basho định hình như Issa từng nói: “Basho rất khó bắt chước
nhưng ở đó có sự hoàn thiện phong cách và tâm hồn” [6, trang 285]. Bài thơ sau là ví dụ
Trên cành khô
cánh quạ đậu
chiều thu.
Bài thơ đưa ta vào thế giới u huyền, cô tịch, thế giới “chân không” của Thiền (Zen).
Được hai năm thì Ba tiêu am bị cháy trong một cuộc hỏa hoạn lớn ở thành phố Edo. Bạn bè và đệ tử xây
lại nhà mới cho ông. Một năm sau, tức mùa thu năm 1684, Basho từ bỏ Ba tiêu am lên đường phiêu
lãng làm “lữ nhân của phù thế”.

“Những bước đường phiêu lãng”: Kể từ đây Basho dấn thân vào con đường gió bụi như các nhà thơ
nổi tiếng: Lí Bạch, Đỗ Phủ của Trung Quốc; Sogi của Triều Tiên; Saigyo của Nhật Bản. Sau “những
bước đường phiêu lãng” là bút ký Nozarashi kiko (Dã sái kỉ hành, tức Nhật kí gió mưa đồng nội) 1865
ra đời.
Hai năm sau, Basho làm “chấn động” thế giới văn học bằng bước nhảy của một con ếch trong hợp tuyển
thơ của ông và đồ đệ là “Hurunohi” (Xuân nhật), tức Mặt trời muà xuân
Ao cũ
con ếch nhảy vào
vang tiếng nước xao.

Có rất nhiều lời bình luận về bài thơ kì bí này.
Basho lên đường đi tiếp về Kashima hành trình được kể lại trong tác phẩm Kashima kiki (1687). Ông về
đây để thăm lại sư phụ là thiền sư Butcho và người bạn yểu mệnh năm xưa.
Nhiều điều xiết bao
gợi hồn ta nhớ
những cánh hoa đào.


Tiếp theo, Basho lang thang từ Edo đến bờ biển Suma, từ Akashi đến Sarahina để hưởng mùa trăng trên
đỉnh Obasute. Nhưng chuyến đi dài nhất của Basho được thực hiện trong cuộc du hành lên phương Bắc
năm 45 tuổi.

“Con đường sâu thẳm”: Đây là cuộc du hành đầy khó khăn trắc trở và gian khổ để đến nơi còn sự
hoang dã và huyền bí sâu xa. Mùa xuân 1689, Basho rời Edo đi lang thang suốt ba năm qua các thị trấn
mới lạ như Nikko, Shirakawa, Sendai… rồi băng qua Honshu đến Sakata ở phía Tây biển Nhật Bản.
Ông lặn lội xuống miền duyên hải và tạm dừng ở Ogaki. Kết quả “con đường sâu thẳm” là một cuộc
hành trình nổi tiếng nhất trong văn học Nhật Bản vì nó để lại cho đời một kiệt tác văn xuôi xen lẫn thơ
Oku no hosomichi (Áo chi tế đạo), tức Áo rơm cho khỉ.
Basho lại tiếp tục bước lãng du, đến mùa đông 1691 ông trở về Edo. Trên đường đi, ông đã qua cố đô
Kyoto, rồi về thăm quê nhà và cùng các bạn thơ du quan hồ Biwa. Ngoài ra ông còn ghé vào một mái
lều nhỏ tên là Genjuan (Huyễn trú am) gần hồ Biwa. Và tùy bút Genjuan noki (Huyễn trú am chi ký) ra
đời 1690 cùng một số tác phẩm khác. Trên “con đường sâu thẳm” Basho đã ghi lại biết bao cảnh đời,
biết bao giấc mơ cũng như những nỗi buồn nhân thế…
Chung một mái trọ
phòng bên những du nữ ngủ
trăng và hoa thu.
(Đoàn Lê Giang dịch thơ)
Hay:
Hãy rung lên, nấm mồ
giọng ta than khóc

là gió mùa thu.
“Con đường sâu thẳm” là sự cảm nghiệm của Basho về sự “vô thường” và “vĩnh cửu” của đời sống.
Nhà thơ không chỉ trải nghiệm được cái huyền diệu của cuộc sống mà còn có thể truyền đạt được nó.
Chính con đường sâu thẳm ôm lấy mọi phương diện của cuộc sống. Là cuộc hành trình đi tìm cái diệu
kỳ của cuộc sống, cái đẹp cuộc sống đã bị xã hội Edo đánh mất. Đó cũng chính là Basho đang quay lại
với thiên nhiên, với một nền văn hóa truyền thống mà phương Bắc xa xôi vẫn còn lưu giữ được.

“Huyễn trú am” là niềm hạnh phúc ở am đời hư huyễn mà Basho đã kể lại: “và tôi lê chân dọc theo bờ
biển hoang dại của phương Bắc, nơi mỗi bước chân băng qua cồn cát đều khốn khó. Tôi lang thang ven
bờ hồ tìm nơi trú ngụ, một nhánh lau sậy mà chiếc tổ chim cộc trắng sẽ tấp vào trên dòng nước chảy.
Đây là nơi Huyền trú của tôi, và nó đứng bên mạn núi gọi là Kokubi. Gần đây có một đền thờ xưa cũ,
nơi tôi cảm thấy mình gột sạch cát bụi trần gian.
Chủ nhân của nó đã bỏ đi từ tám năm trước, am còn lại phía sau giữa ngã tư đời hư huyễn”.


Khi trở về Edo, Basho được mọi người đón tiếp trong niềm vinh quang của một nhà thơ lừng danh.
Những năm tiếp sau đó, Basho sống trong cô tịch theo ý nguyện của mình “niềm cô tịch sẽ là bạn tôi và
sự nghèo nàn là của cải tôi. Trong tuổi năm mươi, đấy là điều tôi tự nguyện”. Thời gian này thơ ca của
ông cũng hướng về một lý tưởng gọi là karumi (khinh) tức sự nhẹ nhàng thanh thoát mà ông tìm thấy
giữa ngay cuộc đời.
Mưa mù sương
phù dung một đóa
làm mùa lên hương.
Mùa xuân 1694 đến, Bashon lại một lần nữa quyết định tiếp tục dấn bước trên con đường “lữ nhân” để
thăm phương Nam. Điểm dừng sẽ là Kyusu. Nhưng trên đường đi, Basho lâm trọng bệnh khi đến
Usaka. Đệ tử khắp nơi tụ về bên giường bệnh của thầy mà họ yêu quý. Basho đã soạn một bài thơ từ
biệt thế gian vào một đêm mùa đông (còn gọi là bài Từ thế chi ca).
Đau yếu giữa hành trình
chỉ còn mộng tôi phiêu lãng
trên những cánh đồng hoang.

Nhà thơ Basho đã ra đi vào ngày 12-10-1694 theo đúng như lời người đã dự đoán “tôi sẽ chết trên
đường, đó là định mệnh” lúc tuổi năm mươi.
Basho mất đi, được chôn cất ở một ngôi chùa “được phong thần trong nhiều ngôi đền thần đạo, có đền
còn lấy tên theo câu thơ của ông về tiếng vang của nước do con ếch nhảy vào” [7, trang 42].
Mười ba năm sau khi Basho mất, nhà thơ lớn Onit Sura đã đọc bài thơ sau:
Những giấc mơ hoa
những cánh đồng cháy rụi
cơn gió thở than qua.
để tưởng nhớ về nhà thơ về bài Từ thế chi ca của ông. Trên khắp Nhật Bản nơi nào Basho đi qua dường
như đều được dựng lên những tấm bia kỉ niệm và đã có hơn 300 tấm như thế, thường thì những tấm bia
có khắc các bài thơ haiku của Basho.

3.2. Sự nghiệp sáng tác
Cả đời thiền sư Basho gắn liền sự nghiệp sáng tác với những bước đường phiêu lãng du hành khắp nơi
làm cảm hứng sáng tác. Những trang bút ký và những bài thơ haiku huyền bí để lại cho hậu thế. Sau khi
nhà thơ mất đi, một số đệ tử của ông đã tập hợp các bài thơ của ông thành Basho shi chi bu shu (Ba tiêu
thất bộ tập) tức là bảy tác phẩm. Sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Basho để lại cho đời là: Ngày đông
(1684), Cánh đồng hoang (1689), Áo tơi cho khỉ (1691), Bao đựng than (1694), Du kí Lang thang đồng
nội (1685), Đoản văn trong đẫy (1688), Nẻo đường Đông Bắc (1689)… góp phần đưa Basho thành bậc


vĩ nhân của văn hóa Nhật Bản: “Nước Nhật sinh ra cùng với Basho vào năm 1644. Ông chính là người
sáng tạo ra linh hồn của Nhật Bản” [6, trang 274].
—ª—


CHƯƠNG II: QUAN NIỆM VỀ THIÊN NHIÊN CỦA
NGƯỜI NHẬT

1. Cảm thức về thiên nhiên của người Nhật

Đối với mỗi xứ sở dân tộc, mỗi con người, thiên nhiên lúc nào cũng hiển hiện ngay trước mắt nhưng nó
lại được cảm nhận khác nhau ở mọi lúc mọi nơi. “Thiên nhiên” còn tượng trưng cho văn hoá của từng
dân tộc. Chúng ta đi tìm hiểu thiên nhiên cũng chính là tìm hiểu văn hóa của dân tộc hay nói khác đó là
tìm hiểu cách giao cảm với con người và giao cảm với chính thiên nhiên của dân tộc đó. Đồng thời, mỗi
xứ sở dân tộc đều có những quan niệm khác nhau về thiên nhiên. Người Hy Lạp cổ đại xem thiên nhiên
như “Một năng lực sáng tạo”. Còn dân tộc Nhật thiên nhiên lại mang ý nghĩa huyền bí sâu xa. Do vậy,
người Nhật có cảm thức riêng về thiên nhiên của dân tộc mình. Họ tìm thấy từ thiên nhiên mọi cái đẹp,
tình yêu và thơ ca. Thiên nhiên là nơi để con người gửi hồn vào tha hồ ngụp lặn, cảm nhận được mọi vẻ
đẹp nảy sinh bao tình cảm và là linh hồn của thơ ca. Cảm thức thiên nhiên của người Nhật dựa trên ba
yếu tố sau:

1.1. Thiên nhiên biến đổi theo vòng luân hồi của vũ trụ
Thiên nhiên trong cảm nhận của người Nhật giống như trong Kinh Dịch: “Nam nữ cấu tinh, vạn vật hóa
sinh”. Thiên nhiên không đứng yên một chỗ mà di chuyển theo vòng xoay vô tận của các mùa để “ biến
đổi hóa sinh”, ra đi rồi lại trở về.
Đã rơi năm nào
tuyết mà ta ngắm
bây giờ lại rơi ?
(Basho)
Trong thiên nhiên biến đổi ấy, con người, cỏ cây, muông thú không ngừng sản sinh. Đó là yếu tố thứ
nhất trong cảm thức thiên nhiên của người Nhật.

1.2. Thiên nhiên chứa đựng bí ẩn siêu phàm
Tính thần linh là yếu tố thứ hai trong cảm thức thiên nhiên của người
Nhật. Người Nhật luôn tự hào là con cháu của Nữ thần mặt trời. Đất nước của họ là vương quốc Mặt
trời mọc. Với họ, cỏ cây sông núi đều có bóng dáng của thần linh hay ẩn chứa một cái gì đấy siêu phàm.
Thiên nhiên của họ được coi là có tính thần linh. Họ sùng bái tôn thờ thiên nhiên biểu hiện cho niềm tin
ấy. Vì vậy, họ có “Thần đạo”.



Trong cảm nhận của người Nhật, thiên nhiên còn có sự hòa, hợp trật tự mà biểu trưng là bộ ba vật “đế
biểu” (thanh kiếm – chiếc gương – vòng ngọc). Do đó, họ tìm thấy cái thần và vẻ đẹp của thiên nhiên.
Khi ngắm hoa đào hay ngồi dưới bóng hoa, người Nhật không chỉ thưởng thức vẻ đẹp của hoa mà còn
muốn giao cảm với linh thần của cây. Hay khi ngắm núi Fuji (Phú Sĩ) cũng thế, tức có một linh thần của
núi trong tư tưởng họ
Nơi mặt trời mọc
người là một linh thần.
(Vạn diệp tập)
Tóm lại, tính thần linh của thiên nhiên là tín ngưỡng từ xa xưa của người Nhật.

1.3. Thiên nhiên và con người có một mối tương giao hòa hợp
Người Nhật luôn tinh tưởng rằng con người được sống, được bao bọc chở che trong lòng thiên nhiên.
Thiên nhiên hiện hữu bình đẳng với con người. Cả hai quan hệ gắn bó kết giao tình thân thiết. Thiên
nhiên không phải là cái để con người chinh phục và đối lập với con người. Vì thiên nhiên và con người
là những biểu hiện vòng luân hồi của vũ trụ nên con người hòa đồng vào thiên nhiên bằng sự giao cảm
từ tâm hồn trong trạng thái “chân không” của Thiền tông. Thế giới chân không là nơi sâu thẳm của sự
an lạc “sung thực không hư” [8, trang 247]. Đó là một chân không đầy ắp thiên nhiên, là nơi con người
tìm lại mình từ trong lòng thiên nhiên. Sự hòa hợp giao cảm của con người và thiên nhiên được thể hiện
qua bài thơ haiku sau đây của Basho
Tôi vỗ bàn tay
dưới trăng mùa hạ
tiếng dội về ban mai !
Con người và thiên nhiên trong bài thơ hòa vào nhau để đổi trao tâm sự, đồng cảm với nhau. Vào một
đêm trăng bên dòng sông Sumida, Basho đứng trước Ba tiêu am ngắm trăng. Ông vỗ bàn tay thoát ra
một âm vang. Âm vang đó là “Tiếng dội về ban mai !”. Vũ trụ đã trả lời với nhà thơ bằng ánh ban mai
đã mọc. Nhưng thật ra ánh ban mai đó có sẵn trong lòng nhà thơ từ bao giờ và trả lời cho nhà thơ.
Chẳng qua đó là sự giao cảm của nhà thơ với thiên nhiên.
Sự giao cảm của con người với thiên nhiên làm thiên nhiên nhuộm màu “Thiền” (Thiền hay còn gọi là
Zen “là một trong nhiều trường phái Phật giáo ở Nhật Bản, được xây dựng trên cơ sở đào tạo con người
qua trầm tư mặc tưởng” [3, trang 312], hay trạng thái tĩnh tâm). Và trong cảm nhận con người là “khi

người ta cảm nhận được chân không trong hiện hữu và hiện hữu trong chân không thì nhờ cả hai người
ta tìm thấy Bình An mà sống” [8, trang 250]. Đó cũng là sự giao cảm giữa cái đẹp của thiên nhiên với
cái đẹp của con người trong thiên nhiên.
Tóm lại, người Nhật cảm nhận thiên nhiên trong văn hóa Thần đạo, Thiền tông nên “Thiên nhiên, tự
nhiên (shizen) là thần linh (kami) và ngược lại thần linh là thiên nhiên” [8, trang 251]. Thiên nhiên lại là
biểu hiện của chân không và chân không đầy thiên nhiên. Đấy là nét rất Nhật Bản trong cảm nghiệm
thiên nhiên của người Nhật dù có ảnh hưởng Thiền Tông (Trung Quốc).


×