Tải bản đầy đủ (.docx) (93 trang)

luận văn thạc sĩ Giải pháp nâng cao chất lƣợng tín dụng đầu tƣ phát triển tại ngân hàng phát triển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.35 KB, 93 trang )

11
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả

Nguyễn Thu Hương


22
LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc của mình, em xin cảm ơn cô giáo – PGS.TS.Nguyễn
Thị Mùi đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành khóa luận.
Em xin cảm ơn các thầy cô trong tổ bộ môn tài chính ngân hàng, các thầy cô
giảng dạy tại trường Đại học Thương Mại đã giúp đỡ em trong suốt quá trình học
tập và nghiên cứu.
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài tôi luôn nhận được sự động
viên của bạn bè, đồng nghiệp và người thân trong gia đình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


33
MỤC LỤC


44
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
TDĐTPT
NSNN


NHTM
TCTD
NHPT
TDĐT
TDNN
HTPT

Nội dung
Tín dụng đầu tư phát triển
Ngân sách Nhà nước
Ngân hàng thương mại
Tổ chức tín dụng
Ngân hàng Phát triển
Tín dụng đầu tư
Tín dụng Nhà nước
Hỗ trợ phát triển

VNĐ

Việt Nam đồng

USD

Đô la Mỹ

Vinashin

Tổng công ty tàu thuỷ Việt Nam

EVN


Tập đoàn Điện lực Việt Nam

CNH-HĐH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá


55
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ


66

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Sự ra đời và hoạt động của Ngân hàng đánh dấu một bước ngoặt lịch sử phát
triển và tiến bộ của con người. Lê Nin đã coi sự ra đời của Ngân hàng như “Sự phát
minh ra lửa” hay “Sự phát minh ra bánh xe”. Vai trò to lớn của hoạt động Ngân
hàng đối với sự phát triển của nền kinh tế và xã hội được xuất phát từ đặc trưng của
hoạt động Ngân hàng. Ngân hàng có hoạt động hết sức đặc thù khác rất xa với các
doanh nghiệp kinh tế khác, điều này xuất phát từ chức năng kinh doanh tiền tệ với
tư cách là tổ chức trung gian tài chính. Ngân hàng là tổ chức đi vay để cho vay, các
Ngân hàng nắm giữ phần lớn tài sản Có của mình dưới dạng tài sản tài chính, và để
tài trợ cho các tài sản Có này, các Ngân hàng phải huy động tài sản Nợ từ các thị
trường bán lẻ và thị trường bán buôn, thông qua tiền gửi của khách hàng dưới các
hình thức và đi vay tại các tổ chức tài chính quốc tế khác.
Trong tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế, việc gia nhập WTO đặt Việt
Nam vào một môi trường cạnh tranh gay gắt mang tính quốc tế. Trong bối cảnh đó,
các ngân hàng thương mại Việt Nam đã từng bước nâng cao chất lượng hoạt động

để vừa tăng tính cạnh tranh vừa trợ giúp các doanh nghiệp trong nước mở rộng sản
xuất, đổi mới công nghệ, thúc đẩy cạnh tranh quốc tế. Tuy nhiên do đặc thù xuất
phát điểm thấp nên nhu cầu được trợ giúp của các doanh nghiệp Nhà nước thường
vượt quá khả năng đáp ứng của các ngân hàng thương mại. Bên cạnh nhu cầu vốn
lớn, các doanh nghiệp cũng thường cần nguồn vốn rẻ để nâng cao tính cạnh tranh.
Đây là điểm hạn chế của ngân hàng thương mại khi bị ràng buộc bởi lãi suất thị
trường và đặc điểm hoạt động vì lợi nhuận. Do đó, việc cho ra đời mô hình Ngân
hàng Phát triển Việt Nam, với tư cách là định chế tài chính lớn của Nhà nước,
thông qua hoạt động của mình góp phần vào sự phát triển kinh tế đất nước, đảm bảo
an sinh xã hội.
NHPT Việt Nam được thành lập theo quyết định 108/2006-NĐ/CP ngày
19/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ và các hoạt động đều theo sự chỉ đạo của Thủ


77

tướng. Nguồn vốn hoạt động chủ yếu của NHPT là nguồn trái phiếu Chính phủ và
huy động từ các tổ chức trong nền kinh tế. Đặc trưng của NHPT là cho vay cho vay
ưu đãi các dự án thuộc chương trình kinh tế xã hội của Chính phủ với lãi suất ưu đãi
kèm theo hỗ trợ lãi suất đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bảo lãnh cho các
doanh nghiệp vay vốn NHTM. Từ tháng 8/2011 trở về trước, lãi suất cho vay của
NHPT là lãi suất cố định theo cả đời dự án, luôn luôn thấp hơn lãi suất cho vay của
các NHTM với thời gian cho vay dài hơn và mức vốn vay cao hơn. Các chủ đầu tư,
khách hàng vay vốn tại NHPT nhận được sự ưu đãi rất lớn của Nhà nước.
Ngày 22/5/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định 54/2013/NĐ-CP về bổ
sung Nghị định 75/2011/NĐ-CP ngày 30 tháng 08 năm 2011 về tín dụng đầu tư và
tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. Theo đó, thời hạn lãi suất TDĐT phát triển tối đa
là 15 năm và lãi suất TDĐT phát triển không thấp hơn lãi suất bình quân các nguồn
vốn cộng với chi phí hoạt động của NHPT Việt Nam và được điều chỉnh theo từng
lần giải ngân theo lãi suất cho vay được công bố; lãi suất TDXK do NHPT báo cáo

Bộ Tài chính công bố theo nguyên tắc phù hợp với lãi suất thị trường. Như vậy, lãi
suất cho vay của NHPT tuy vẫn mang tính ưu đãi nhưng đã được điều chỉnh theo sự
biến động của thị trường. Như vậy, hoạt động của NHPT hiện nay có tính cạnh
tranh cao hơn và điều kiện cho vay chặt chẽ hơn. Chính sách tín dụng thắt chặt hơn
so với trước đây của NHPT cũng là một bất lợi đối với khách hàng đang và sẽ có ý
định vay vốn tại đây cũng như bất lợi của chính Ngân hàng trong việc tìm kiếm
khách hàng để đẩy mạnh hoạt động cho vay.
Vấn đề được đặt ra là làm thế nào để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng đầu
tư phát triển của NHPT mà vẫn đảm bảo mục tiêu chính sách của Nhà nước. Do đó tôi
đã chọn nghiên cứu đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển
tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Ngân hàng Phát triển Việt Nam là một loại hình ngân hàng đặc thù, hoạt động
không vì mục đích lợi nhuận, tỷ lệ dự trữ bắt buộc 0%, được Chính phủ đảm bảo
khả năng thanh toán, mới được thành lập hơn hai mươi năm (trên cơ sở tổ chức lại


88

hệ thống Quỹ HTPT), do đó chưa có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về tín
dụng của loại hình ngân hàng này. Liên quan tới hiệu quả nâng cao chất lượng tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã thu hút nhiều sự quan tâm nghiên cứu. Tuy
nhiên, cho đến nay cách tiếp cận mức độ và phạm vi nghiên cứu về tín dụng đầu tư
phát triển dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu
có liên quan đến đề tài luận văn:
- Luận án tiến sĩ “Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước”
của tác giả Trần Công Hoà, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2007, luận án
đã phân tích và đánh giá một cách hệ thống hiệu quả sử dụng của đầu tư phát triển ở
Việt Nam, đi sâu vào đánh giá hiệu quả đầu tư phát triển tại Ngân hàng Phát triển
Việt Nam, từ đó có những biện pháp như xây dựng chiến lược phát triển dài hạn

cho NHPT, đặc biệt nâng cao năng lực quản trị rủi ro, đưa ra những đề xuất kiến
nghị với Nhà nước, với Chính phủ để ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn.
- Luận văn thạc sĩ “Mở rộng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại Quỹ
Hỗ trợ phát triển- Chi nhánh Hà Nội” của tác giả Đặng Tố Loan, Trường Đại học
Kinh tế quốc dân năm 2003, luận văn tập trung nghiên cứu các giải pháp để mở
rộng và phát triển tín dụng đầu tư của Nhà nước, để từ đó có những giải pháp phù
hợp với hoạt động của ngân hàng.
- Luận văn thạc sĩ “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín
dụng ĐTPT của Nhà nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển” của tác giả Nguyễn
Gia Thế, Trường Đại học Thương mại năm 2004, tác giả cũng đã nêu ra được
những hạn chế và nguyên nhân còn tồn tại trong quá trình sử dụng vốn đầu tư phát
triển, tác giả cũng đưa ra những đánh giá nhận định về thực tế hoạt động để có
những phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng.
- Luận văn thạc sĩ “Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng ĐTPT tại Quỹ Hỗ
trợ phát triển TP.HCM” của tác giả Lê Thị Đinh Hương, Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân TP.HCM năm 2004. Tác giả đã đi sâu đánh giá về hoạt động tín dụng đầu
tư phát triển, đưa ra những nguyên nhân chủ quan và khách quan, đồng thời có
những biện pháp như cải thiện môi trường tín dụng ĐTPT và biện pháp tăng tính


99

chủ động trong công tác huy động vốn…
Trên cơ sở tóm lược các công trình nghiên cứu từ trước đến nay, kế thừa một
số lý luận cơ bản và những kiến thức thu được từ những đề tài trên, các công trình
nghiên cứu đã công bố chỉ đề cập đến hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước và hầu hết các công trình nghiên cứu này công bố từ năm 2014 trở về
trước. Trong điều kiện hiện nay rất cần phải nghiên cứu toàn diện và sâu sắc hơn về
tín dụng đầu tư phát triển của Ngân hàng Phát triển Việt Nam, từ đó đề xuất giải
pháp nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển trong điều kiện thực hiện tái cơ

cấu Ngân hàng.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của
nhà nước.
Phân tích và đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng đầu tư phát triển tại Ngân
hàng Phát triển Việt Nam giai đoạn 2013-2016; đề xuất các giải pháp nâng cao chất
lượng tín dụng đầu tư phát triển tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam đến năm 2020.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện được mục tiêu trên, luận văn cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển.
Thứ hai, phân tích và đánh giá chất lượng tín dụng đầu tư phát triển tại Ngân
hàng Phát triển Việt Nam trong thời gian qua.
Thứ ba, đề xuất các giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng tín dụng đầu
tư phát triển tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu:Chất lượng hoạt động tín dụng đầu tư phát triển tại
Ngân hàng Phát triển Việt Nam; Các vấn đề liên quan và các nhân tố ảnh hưởng đến
chất lượng hoạt động tín dụng đầu tư phát triển tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: chất lượng tín dụng đầu tư phát triển tại NHPT Việt Nam
giai đoạn 2011 - 2015, đề ra giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát


10
10

triển tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam đến năm 2020.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp... kết hợp giữa lý luận
và thực tiễn trong những điều kiện lịch sử nhất định.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn:
Chất lượng tín dụng ngày càng được xem là yếu tố sống còn, quyết định đến
sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng, đặc biệt là trong giai đoạn cạnh tranh và
hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay. Vì vậy, việc phân tích đánh giá chất lượng
tín dụng đầu tư phát triển tại Ngân hàng Phát Triển Việt Nam để có giải pháp thích
hợp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động là hết sức cần thiết, có ý nghĩa khoa học
cũng như về thực tiễn tại NHPT Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 3 phần:
Chương 1: Lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đầu tư phát triển tại Ngân hàng
Phát triển Việt Nam .
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển tại Ngân
hàng Phát triển Việt Nam đến năm 2020.


11
11

CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNGTÍN DỤNG ĐẦU TƯ
PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC
1.1. Tổng quan về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước:
1.1.1. Một số khái niệm:
1.1.1.1. Khái niệm về đầu tư:
Đầu tư hiểu theo nghĩa rộng là việc một cá nhân, tổ chức, quốc gia bỏ thời
gian, công sức, tiền vốn trong hiện tại để tiến hành triển khai thực hiện hoạt động
nào đó với hy vọng sẽ thu lại lợi ích lớn hơn trong tương lai. Như vậy các hoạt động
về đầu tư rất rộng, nó bao trùm lên mọi hoạt động đời sống kinh tế - xã hội của mọi

cá nhân, tổ chức và đất nước.
Trong thực tế, có rất nhiều hình thái biểu hiện cụ thể của đầu tư. Tùy từng góc
độ tiếp cận với những tiêu thức khác nhau người ta cũng có thể có các cách phân
chia hoạt động đầu tư khác nhau. Một trong những tiêu thức thường được sử dụng
đó là tiêu thức quan hệ quản lý của chủ đầu tư. Theo tiêu thức này, đầu tư được chia
thành đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp.
- Đầu tư gián tiếp: Là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn không trực tiếp
tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Chẳng
hạn như nhà đầu tư thực hiện hành vi mua các cổ phiếu hoặc trái phiếu trên thị
trường chứng khoán thứ cấp. Trong trường hợp này nhà đâu tư có thể được hưởng
các lợi ích vật chất (như cổ tức, tiền lãi trái phiếu), lợi ích phi vật chất (quyền biểu
quyết, quyền tiên mãi) nhưng không được tham gia trực tiếp quản lý trực tiếp tài sản
mà mình bỏ vốn đầu tư.
- Đầu tư trực tiếp: Là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham
gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư trực
tiếp lại bao gồm đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển.Trong đó, đầu tư dịch
chuyển là một hình thức đầu tư trực tiếp trong đó việc bỏ vốn là nhằm dịch chuyển
quyền sở hữu giá trị của tài sản. Thực chất trong đầu tư dịch chuyển không có sự


12
12

gia tăng với mức khống chế để có thể tham gia hội đồng quản trị một công ty, các
trường hợp thôn tính, sáp nhập doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.Phân theo lĩnh
vực hoạt động, có các khái niệm về đầu tư trong từng lĩnh vực cụ thể, baọ gồm đầu
tư phát triển, đầu tư tài chính và đầu tư kinh doanh thương mại.
- Đầu tư phát triển: Là một phương thức của đầu tư trực tiếp.Hoạt động đầu tư
này nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh
hoạt đời sống của xã hội.Đây là hình thức đầu tư trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền

kinh tế, đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ. Hình thức đầu tư này đóng vai trò rất
quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế tại mỗi quốc gia.
- Đầu tư tài chính: Là loại đầu tư trong đó người có vốn bỏ ra cho vay hoặc
mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất, lợi tức trong tương lai với các kỳ hạn
cụ thể được tính theo ngày, tháng, năm. Loại đầu tư này không trực tiếp tạo ra tài
sản cố định cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá
nhân đã thực hiện đầu tư.
- Đầu tư thương mại:Là đầu tư theo đó người đầu tư (tổ chức hoặc cá nhân) bỏ
vốn của mình để mua sắm, tích trữ hàng hoá và sau đó bán lại cho thị trường nhằm
mục tiêu mang lại lợi nhuận từ chênh lệch giữa giá mua với giá bán và các chi phí
phát sinh khi tiêu thụ hàng hoá.
Đầu tư là tiền đề để thúc đẩy phát triển kinh tế của các qụốc gia trên thế giới,
việc hướng các mục tiêu đầu tư để phát triển kinh tế luôn được Nhà nước quan tâm
hàng đầu.
1.1.1.2. Khái niệm về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước:
Tín dụng đầu tư phát triển (TDĐTPT) của Nhà nước là kênh hỗ trợ vốn cho
các dự án đầu tư của các thành phần kinh tế thuộc các ngành, lĩnh vực, các vùng
khó khăn và đặc biệt khó khăn cần được khuyến khích đầu tư và các chương trình
kinh tế lớn quan trọng của Nhà nước nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần quan trọng vào việc
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.


13
13

1.1.2. Mục đích, vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước:
1.1.2.1. Mục đích:
Cũng như các nước trên thế giới, ngay từ khi bắt đầu triển khai các chính sách
TDĐTPT, Chính phủ xác định mục đích của việc ban hành các cơ chế chính sách

này là để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, phát triển
kinh tế xã hội, góp phần xoá đói giảm nghèo, phát triển các vùng khó khăn, giải
quyết việc làm cho người lao động. Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu của chính
sách TDĐT đang được Chính phủ hướng tới là thực hiện các mục tiêu phát triển bền
vững, đó là phát triển bền vững về kinh tế, phát triển bền vững về xã hội và phát
triển bền vững về môi trường. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, TDĐTPT của Nhà nước thực hiện các dự án có tính lợi ích xã hội
lâu dài.TDĐTPT của Nhà nước chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực then chốt hoặc
một số ngành, một số vùng, hay một số khu vực có vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế quốc dân.
TDĐTPT của Nhà nước được coi là đồng vốn mới để xây dựng cơ sở hạ tầng,
tạo nền tảng thúc đẩy sự phát triển ở một số ngành nghề trọng điểm, thực hiện các
công trình xây dựng có tính chiến lược. Bên cạnh đó TDĐTPT của Nhà nước sẽ tập
trung vào các lĩnh vực để giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước như việc làm
cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, giảm khoảng cách giàu nghèo giữa các
vùng, bảo đảm an ninh, trật tự xã hội, chính trị.
Thứ hai, TDĐTPT của Nhà nước nhằm bảo đảm lợi ích cho các nhà đầu tư
vào các lĩnh vực, ngành nghề khu vực có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc
dân vì một số lĩnh vực có tính hiệu quả kinh tế thấp nên để khuyến khích các thành
phần kinh tế tham gia đầu tư, Nhà nước cần phải có chế độ ưu đãi nhất định mà
không ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của nền kinhtế.
Với các mục đích hoạt động nêu trên, Chính phủ ban hành các cơ chế chính
sách, danh mục đối tượng được hỗ trợ đầu tư là các chương trình đầu tư, các dự án
cần được ưu tiên đầu tư của Nhà nước trong các thời kỳ. Việc tổ chức triển khai đầu
tư có hiệu quả đối với cácchương trình này là nhiệm vụ của nguồn vốn tín dụng của
Nhà nước, qua đó để thực hiện các mục đích đã được Chính phủ định hướng.


14
14


1.1.2.2. Vai trò:
Trong quá trình hoạt động của mình từ những năm cuối của thập kỷ 80, vai trò
củaTDĐTPT của Nhà nước đối với nền kinh tế từng bước được khẳng định, đến nay
được coi là một trong những kênh chuyển vốn quan trọng đáp ứng nhu cầu vốn cho
đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, một số vai trò nổi bật mà tín dụng
đầu tư cửa Nhà nước đã đóng góp cho nền kinh tế trong các năm qua là:
Thứ nhất,tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật thúc đẩy sản xuất phát triển.
Mục tiêu TDĐTPT của Nhà nước là hỗ trợ vốn khuyến khích các doanh
nghiệp đầu tư phát triển sản xuất thuộc các ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế
lớn của Nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư. Đó chính là đầu
tư để sữa chữa, thay thế khôi phục tài sản cố định, cảitiến kỹ thuật, đổi mới quy
trình công nghệ, xây dựng mới các công trình hạ tầng kinh tế kỹ thuật và xã hội có
khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Kết quả mang lại là máy móc thiết bị được tăng
cường không những nhiều hơn về số lượng mà còn cao hơn về trình độ công nghệ
đem lại năng lực sản xuất cao hơn.
Khi một dự án đầu tư đi vào hoạt động với máy móc thiết bịcông nghệ, cơ sở
vật chất kỹ thuật được trang bị đầy đủ làm cho năng lực sản xuất kinh doanh tăng
lên, sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra nhiều hơn về số lượng, đa dạng về mẫu
mã, phong phú về chủng loại và chất lượng cao, có thể kích thích được nhu cầu xã
hội, tạo điều kiện để người tiêu dùng tiếp cận với sản phẩm mới, giá cả hợp lý, chất
lượng đảm bảo và xa hơn thế là xuất khẩu ra nước ngoài.
Thứ hai,thúc đẩy hoạt động xnất nhập khẩu.
Nhờ có nguồn vốn đầu tư dài hạn mà các doanh nghiệp có thể đầu tư phát triển
cơ sở vật chất và năng lực sản xuất với máy móc, trang thiết bị, công nghệ hiện đại.
Nhờ đó hàng hoá sản xuất ra có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới và sẽ
tăng trưởng được kim ngạch xuất khẩu, Như vậy tín dụng trung dài hạn còn thúc
đẩy mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu.
Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì kim ngạch xuất nhập
khẩu được mở rộng tức là khẳng định sản phẩm của chúng ta cạnh tranh được trên



15
15

thị trường thế giới và như vậy là máy móc thiết bị, trình độ công nghệ của chúng ta
tương đương với thế giới; vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu lựa chọn đầu tư những
máy móc như thế nào để có hiệu quả cao nhất, tránh tình trạng đầu tư những loại
máy móc lạc hậu, không đồng bộ gây ra những lãng phí không cần thiết.
Thứ ba, tăng nguồn thu cho ngân sách.
TDĐTPT của Nhà nước nhằm hỗ trợ cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất
do đó khi sản xuất phát triển tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá để tiêu thụ trong nước
cũng như để xuất khẩu. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước do đó
trong trường hợp sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ với khối lượng lớn, ổn định sẽ
tạo ra nguồn thu cho ngân sách từ thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế sử dụng
tài nguyên.
Ngoài ra, khi các doanh nghiệp làm ăn có lãi thì Nhà nước còn có khoản thu từ
thuế thu nhập, trong trường hợp sản phẩm sản xuất ra được xuất khẩu sang các nước
thì chúng ta sẽ có điều kiện thu được ngoại tệ đảm bảo chi trả cho nhu cầu nhập
khẩu, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
Thứ tư, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá
hiện,đại hoá.
Thông qua công tác TDĐTPT của Nhà nước có thể tập trung cho vay phát
triển đối với ngành này cũng có thể hạn chế đối với một số ngành nghề kinh tế
khác. Như vậy, chính sách tín dụng đối với các ngành kinh tế có thể thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hoá. Công nghiệp
hoá không chỉ đơn giản là tăng tỷ trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế mà
là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ tạo nền tảng
cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân.

Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá - hiện đại hoá nước ta là đặc biệt quan
tâm tới công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đẩy mạnh
các hoạt động kinh tế đối ngoại. Nâng cấp, cải tạo là chính và xây dựng mới có
trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế, trước hết là những khâu ách tắc và yếu kém nhất


16
16

đang cản trở sự phát triển. Xây đựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng
trong những nghành trọng yếu mà nhu cầu đòi hỏi bức bách phải có điều kiện về
vốn, công nghệ, thị trường phát huy tác dụng nhanh và hiệu quả. Như vậy,
TDĐTPT của Nhà nước góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Thứ năm,tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Việc giải quyết việc làm là vấn đề hết sức quan trọng và được Đảng, Nhà nước
rất quan tâm. Khi thực hiện đầu tư phát triển sản xuất, ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế
là thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng thu ngân sách, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế... còn cần phải tạothêm nhiều việc làm cho người lao động, góp phần ổn
định xã hội, xóa đói giảm nghèo, giảm bớt bất bình đẳng xã hội, giảm sự chênh lệch
về mức độ phát triển của các vùng miền, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.
Tóm lại, TDĐTPT của Nhà nước có vai trò rất quan trọng góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
1.1.3. Đối tượng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước:
Tùy theo từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế đất nước mà Chính phủ ban hành
danh mục đối tượng được vay vốn TDĐTPT của Nhà nước, các đối tượng này sau khi
đầu tư hoàn thành đưa vào hoạt động đã góp phần nâng cao năng lực sản xuất của
nhiều ngành, nhiều lĩnh vực góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại
hóa, xóa đói giảm nghèo theo các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
Theo Nghị định 75/2011/NĐ-CP, đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển

của Nhà nước bao gồm:
Các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội:
(1) Cấp nước sạch phục vụ sản xuất và sinh hoạt;
(2) Công trình xử lý nước thải, rác thải tại các khu đô thị, khu công nghiệp,
khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao, bệnh viện và các cụm công nghiệp,
làng nghề;
(3) Xây dựng quỹ nhà ở tập trung cho người thu nhập thấp;
(4) Mở rộng, nâng cấp, đầu tư thiết bị, xây dựng mới đối với các dự án xã hội


17
17

hóa giáo dục, y tế, thể thao, môi trường;
(5) Đầu tư hạ tầng khu công nghiệp, khu công nghiệp hỗ trợ, khu chế xuất,
khu công nghệ cao.
Các dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn:
(1) Dự án nuôi, trồng thủy, hải sản gắn với chế biến công nghiệp;
(2) Dự án phát triển giống cây trồng, giống vật nuôi, giống cây lâm nghiệp;
(3) Dự án chăn nuôi gia súc, gia cầm gắn với chế biến công nghiệp.
Các dự án công nghiệp:
(1) Dự án đầu tư chế biến sâu từ quặng khoáng sản:
- Sản xuất fero hợp kim sắt có công suất tối thiểu 1 nghìn tấn/năm;
- Sản xuất kim loại màu có công suất tối thiểu 5 nghìn tấn/năm;
- Sản xuất bột màu đioxit titan có công suất tối thiểu 20 nghìn tấn/năm;
(2) Dự án đầu tư sản xuất thuốc kháng sinh, thuốc cai nghiện, vắc xin thương
phẩm và thuốc chữa bệnh HIV/AIDS; sản xuất thuốc thú y đạt tiêu chuẩn GMP;
(3) Dự án đầu tư xây dựng nhà máy phát điện sử dụng các nguồn năng lượng:
gió, mặt trời, địa nhiệt, sinh học và các tài nguyên năng lượng khác có khả năng tái tạo;
(4) Dự án đầu tư xây dựng thủy điện nhỏ, với công suất nhỏ hơn hoặc bằng

50MW thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn;
(5) Dự án đầu tư sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm theo Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ;
(6) Dự án thuộc danh mục các ngành công nghiệp hỗ trợ theo Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ;
Các dự án khác:
(1) Các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt
khó khăn; dự án tại vùng đồng bào dân tộc Khơ me sinh sống tập trung, các xã thuộc
chương trình 135 và các xã biên giới thuộc chương trình 120, các xã vùng bãi ngang;
(2) Các dự án cho vay theo Hiệp định Chính phủ; các dự án đầu tư ra nước
ngoài theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.


18
18

1.1.4. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước:
Nguồn vốn TDĐTPT của Nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng, đây là
điều kiện tiên quyết để đảm bảo các hoạt động tín dụng đầu tư được triển khai, nó
quyết định đến tính hiệu quả của hoạt động này bao gồm hiệu quả mang lại cho tổ
chức tín dụng cũng như hiệu quả cho người sử dụng nguồn vốn này.
Về cơ bản thì các điều kiện tạo lập nguồn vốn TDĐTPT cũng tương tự như
đối với các nguồn vốn tín dụng của ngân hàng thương mại, có nghĩa là nguồn vốn
để cho vay đầu tư cũng được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu, vốn huy động,
vốn đi vay và nguồn vốn khác. Tuy nhiên, do đặc điểm của hoạt động TDĐTPT của
Nhà nước nên có một số khác biệt so với nguồn vốn của NHTM, Nhà nước tạo một
số điều kiện để tổ chức thực hiện nhiệm vụ TDĐTPT của Nhà nước được tiếp cận
huy động một số nguồn vốn có lợi thế về thời hạn và lãi suất so với các NHTM.
Nhưng có một số nguồn vốn sẽ không được huy động như huy động tiền gửi của
dân cư do tính chất nguồn vốn này là ngắn hạn, không ổn định.

Đặc điểm, tính chất của nguồn vốn TDĐTPT của Nhà nước phụ thuộc vào đối
tượng sử dụng vốn tín dụng đầu tư là các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp
thuộc danh mục các dự án chương trình do Chính phủ quyết định cho từng thời kỳ,
các dự án đầu tư vào các vùng sâu, vùng xa vùng khó khăn theo quy định của Chính
phủ. Đây là các dự án đầu tư dài hạn, nhiều rủi ro, thời gian hoàn vốn dài (thường
trên 5 năm, trong đó một số dự án có thời gian thu hồi vốn đến 15 năm) bao gồm
các dự án, chương trình giúp cho việc thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện dại
hóa đất nước, các dự án tạo việc làm cho người lao động, góp phần cải tạo môi
trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại các vùng khó khăn đề góp phần xóa đói giảm
nghèo. Các dự án này đều là những lĩnh vực không hấp dẫn đối với các nhà đầu tư,
thời hạn thu hồi vốn kéo dài, lãi suất thấp và chịu nhiều rủi ro, nếu không có sự hỗ
trợ đầu tư của Nhà nước thì không khuyến khích được các nhà đầu tư, dẫn đến sự
phát triển của nền kinh tế không bền vững, là mất cân đối về kinh tế giữa các vùng
miền, gia tăng khoảng cách giàu nghèo, môi trường không được cải thiện, việc nâng
cao chất lượng, cuộc sống không đảm bảo.


19
19

Xuất phát từ yêu cầu sử dụng vốn của các đối tượng vay vốn TDĐTPT của
Nhà nước; nguồn vốn để cho vay đầu tư có hai đặc điểm như sau:
- Là nguồn vốn có tính chất dài hạn, đảm bảo cân đối giữa bình qúân thời
hạn sử dụng vốn với bình quân thời hạn huy động vốn, đảm bảo khe hở huy động
vốn ở mức thấp nhất. Điều này có thể chưa phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội
của Việt Nam hiện nay nhưng qua đó cho thấy để đảm bảo an toàn đối với tổ
chức cho vay đầu tư của Nhà nước thì cần có cơ chế hỗ trợ của Nhà nước đế phát
huy tối đa khả năng huy động các nguồn vốn có thời hạn sử dụng phù hợp với
thời hạn cho vay dự án.
- Chi phísử dụng vốn thấp so với các tổ chức tíndụng khác.Đây là điều kiện

quan trọng để giảm lãi suất cho vay đầu tư của Nhà nước, nâng cao khả năng hỗ trợ
đối với các dự án, qua đó nâng cao hiệu quả dự án, thể hiện được vai trò của TDĐT
đối với nền kinh tế. Để đảm bảo điều kiện này thì Nhà nước cần có cơ chế để hạn
chế rủi ro đối với các tổ chức cho vay qua đó tạo dựng được lòng tin đối với các nhà
đầu tư đối với tổ chức được giao thực hiện nhiệm vụ cho vay đầu tư của Nhà nước.
NHPT Việt Nam, đơn vị thực hiện nhiệm vụ cho vay đầu tư của Nhà nước
được Chính phủ giao cho các công cụ để thực hiện nghiệp vụ tạo lập vốn phù hợp
với đối tượng sử dụng vốn, hiện nay Chính phủ cho phép NHPT Việt Nam được
hưởng các chính sách:
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước bằng
0% (không phần trăm); không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi; được Chính phủ
đảm bảo khả năng thanh toán, được miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách Nhà
nước (NSNN) theo quy định của pháp luật.
- Được phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo đảm khả năng thanh toán,
được chỉ định huy động vốn có lãi suất thấp từ một số tổ chức như Bảo hiểm xã hội.
- Được Nhà nước cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý đối với hoạt đông tín
dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu quy định tại Quy chế quản lý tài chính.
Từ những thực tế nêu trên, các kênh huy động vốn chủ yếu của NHPT hiện
nay gồm:


20
20

Thứ nhất,nguồn vốn NSNN.
Trong cơ cấu chi NSNN hàng năm, ngoài chi thường xuyên và chi ĐTPT, luôn
có một phần nhất định dành cho ĐTPT dưới hình thức tín dụng. Đối với các nước
đang phát triển thì tỷ lệ nguồn vốn NSNN dành cho tín dụng của Nhà nước tăng dần
lên cùng với việc hoàn thiện cơ cấu chi ngân sách, cắt giảm dần các khoản chi
ĐTPT có tính bao cấp. Nguồn NSNN dành cho tín dụng của Nhà nước có thể được

chia làm hai phần: nguồn vốn tích lũy trong nước và nguồn vốn viện trợ, vay nước
ngoài. Nguồn vốn viện trợ, vay nợ của nước ngoài ở đây là nguồn Chính phủ tiếp
nhận viện trợ và vay ưu đãi từ các Chính phủ và các tổ chức quốc tế.
Thứ hai,nguồn vốn vay nợ, viện trợ của nước ngoài.
Là một định chế tài chính của Chính phủ, ngoài phần vốn vay nợ, viện trợ
được chuyển từ NSNN sang, nguồn vốn cho ĐTPT của Nhà nước dưới hình thức
tín dụng có thể được tạo dựng bằng cách trực tiếp thực hiện việc vay nợ và nhận
viện trợ của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Đặc điểm của nguồn vốn này là
không thường xuyên nhưng có lãi suất thấp và ưu đãi về thời hạn thanh toán,....
Đây là khoản vay rất quan trọng đối với việc phát triển cơ sở hạ tầng và thực hiện
các chính sách TDĐT,TDXK của Nhà nước đặc biệt đối với các dự án có nguồn thu
trực tiếp bằng ngoại tệ. Tuy nhiên, đối với việc vay nợ nước ngoài, chi phí thực
(chi phí vốn) còn bao gồm cả sự biến động về tỉ giá, về tính rủi ro trong quá trình
tiếp nhận các thiết bị, công nghệ... Chính vì vậy, bên cạnh vấn đề lãi suất, cần
quan tâm tới xu hướng biến động của tỉ giá để thực hiện các nghiệp vụ phòng
chống rủi ro tỷ giá, hoặc có các biện pháp sử dụng vốn đạt hiệu quả hơn.
Thứ ba,nguồn vốn thu hồi nợ hàng năm.
Hoạt động cấp tín dụng với nguồn vốn của Nhà nước là hoạt động vay trả và
được thực hiện thường xuyên, nên hàng năm luôn có một lượng vốn nhất định
được thu hồi từ các dự án cho vay trước đó. Vốn thu hồi nợ được sử dụng để trả
nợ, bù đắp chi phí hoạt động và phần còn lại được bổ sung vào nguồn vốn tín
dụng của Nhà nước.


21
21

1.2. Chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước:
Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ trọng tâm của tất cả các ngân hàng nên chất
lượng tín dụng cũng là mối quan tâm hàng đầu. Chất lượng tín dụng đi cùng với chất

lượng của các khoản vay, nó biểu hiện khả năng quản lý, giám sát và trình độ của ngân
hàng trong việc thẩm định cho vay và giám sát khoản vay. Đồng thời chất lượng tín
dụng là chỉ tiêu kinh tế phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng với môi trường bên
ngoài, thể hiện sức mạnh của ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
Để làm rõ nội dung của chất lượng tín dụng đầu tư phát triển, trước hết cần
hiểu Khái niệm chất lượng tín dụng đầu tư phát triển là gì.
1.2.1. Khái niệm chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng (người gửi tiền và
người vay tiền) phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại và
phát triển của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng thể hiện ở tính an toàn cao của hệ thống ngân hàng. Tín
dụng ngân hàng đảm bảo được chất lượng thì khả năng thanh toán chi trả cao, tránh
được rủi ro hệ thống. Nâng cao chất lượng tín dụng là cho hệ thống ngân hàng lớn
mạnh, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế vĩ mô, thúc đẩy nền kinh tế phát triển hoà
nhập với kinh tế quốc tế.
Nguồn vốn tín dụng của Nhà nước với vai trò là công cụ trong quá trình thúc
đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm mục
đích hỗ trợ đầu tư cho các lĩnh vực ngành nghề: ưu đãi nhằm phát triển kinh tế của
đất nước, góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. Do vậy chất lượng
TDĐT được thể hiện ở các mặt sau :
- Hoạt động TDĐTPT của Nhà nước phải đúng quy hoạch, đúng theo chương
trình vả chiến lược phát triển kinh tế Xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, đem lại sự
tăng trưởng bền vững cho nền kình tế, tiến bộ trong xã Hội do tập trung đầu tư vào
những lĩnh vực then chốt; thể hiện ở sự chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng kinh tế,
tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, môi trường được cải thiện,
tiến tới công bằng xã hội, phát triển công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật....


22
22


- Hoạt động TDĐTPT của Nhà nước thực hiện đúng đối tượng, đảm bảo
nguyên tắc bảo toàn vốn, tăng trưởng tín dụng tốt, giảm cấp bù ngân sách đến mức
thấp nhất.
- Chất lượng TDĐTPT của Nhà nước được thể hiện thông qua thành công của
các dự án mà nó tài trợ, từ đó góp phần tạo ra giá trị gia tăng cho doanh nghiệp thể
hiện ở sự tăng doanh thu, giảm chi phí, tặng lợi nhuận, tạo sự phát triển bền vững
cho doanh nghiệp.
Tổng hợp lại các phân tích ở trên có thể khái quát “Chất lượng TDĐTPT của
Nhà nước là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng phù hợp với sự phát triển kinh tế
xã hội, đồng thời đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng”. Chất lượng tín
dụng được hình thành và bảo đảm từ hai phía là bên cung ứng vốn và bên sử dụng
vốn, được thể hiện thông qua hiệu quả kinh tế xã hội của các dự án mà nó tài trợ.
Do vậy, nếu dự án có hiệu quả kinh tế xã hội thì hoạt động tín dụng có chất lượng,
nếu dự án có hiệu quả kinh, tế xã hội thấp hoặc không hiệu quả thì hoạt động tín
dụng có chất lượng thấp.
1.2.2. Một số tiêu chí đánh giá chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước:
1.2.2.1. Các chỉ tiêu định lượng.
Quy mô cho vay:
Quy mô cho vay (doanh số cho vay) là chỉ tiêu phản ánh chính xác và trung
thực nhất về tình hình tín dụng mà ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế.Chỉ tiêu này
có thể đánh giá ở mọi thời điểm và nó thể hiện quy mô hoạt động của ngân hàng
qua các năm.
Tuy nhiên để đánh giá được chất lượng tín dụng còn cần sử dụng chỉ tiêu tổng
dư nợ. Nếu doanh số cho vay và tổng dư nợ thấp chứng tỏ ngân hàng có quy mô
nhỏ, điều này có thể đánh giá được một phần khả năng hoạt động yếu kém của ngân
hàng, cán bộ tín dụng làm việc chưa hiệu quả. Mặt khác, kết cấu dư nợ phản ánh tỷ
trọng các loại dư nợ trong tổng dư nợ, giúp ngân hàng biết được cần đẩy mạnh cho
vay theo loại hình nào để cân đối.



23
23

Công tác thu nợ:
- Thu gốc:do các khoản vay tại NHPT thường lớn và có thời hạn cho vay dài,
cần phải theo dõi sát sao. Thu hồi nợ gốc càng đủ và đúng hạn, chất lượng tín dụng
càng cao.
- Thu lãi: Mặc dù các đơn vị thụ hưởng chỉ phải chịu mức lãi suất nhỏ, song
khoản thu từ lãi cần đúng và đủ về số lượng và thời điểm thì khoản nợ đó mới được
coi là có chất lượng tốt. Cần theo dõi sổ lãi thu thực tế, số thực tế so với kế hoạch
(hợp đồng cam kết hai bên), những khoản thu lãi đến hạn chưa trả (lãi treo).
Nợ quá hạn:
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khi đến hạn khách hàng không thanh toán cho
ngân hàng. Lãi suất nợ quá hạn được tính bằng 150% lãi suất nợ trong hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm được tính cho tổng dư nợ quá hạn trên tổng
dư nợ tại một thời điểm.
Nếu tỷ lệ nợ quá hạn cao ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong kinh doanh, dễ dẫn
đến nguy cơ mất vốn, giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Nợ quá hạn tồn
đọng lâu gây ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng tín dụng chung của toàn ngân
hàng. Trên thực tế, phần lớn các khoản nợ quá hạn là khoản nợ khó đòi, có khả
năng mất vốn. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì chất lượng tín dụng của ngân hàng
càng thấp.
Để đánh giá chính xác hơn có thể chia ra làm hai loại nợ quá hạn: nợ quá hạn
có khả năng thu hồi và nợ quá hạn không có khả năng thu hồi:

Hai chỉ tiêu này cho chúng ta thấy được bao nhiêu phần trăm nợ quá hạn có
khả năng thu hồi được và bao nhiêu phần trăm nợ quá hạn không có khả năng thu
hồi. Điều này cho phép đánh giá sát thực hơn chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Chỉ tiêu nợ xấu:



24
24

Tổng nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu( % )

=

x

100

Tổng dư nợ

Bên cạnh chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn, người ta còn dùng chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu để
phân tích thực chất tình hình chất lượng tín dụng tại ngân hàng, tổng nợ xấu của
ngân hàng bao gồm nợ quá hạn, nợ khoanh, nợ quá hạn chuyển về nợ trong hạn,
chính vì vậy chỉ tiêu này cho thấy thực chất tình hình chất lượng tín dụng tại ngân
hàng, đồng thời phản ánh khả năng quản lý tín dụng của ngân hàng trong khâu cho
vay, đôn đốc thu hồi nợ của ngân hàng đối với các khoản vay.
Tỷ lệ nợ xấu càng cao thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng càng kém
và ngược lại.
Lãi đến hạn trả chưa trả:
Lãi đến hạn trả chưa trả (lãi treo) là lãi tính trên dư nợ gốc chưa thu hồi được.
Tổng các khoản lãi treo trên các món nợ càng thấp càng tốt bởi tất cả các ngân hàng
đều yêu cầu khách hàng trả lãi trước, trả gốc sau, nếu lãi treo quá cao, ngân hàng có
nguy cơ mất cả vốn lẫn lãi.Điều này ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng và kết quả
hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Tỷ lệ sử dụng vốn sai mục đích của chủ đầu tư:
Trước khi cấp tín dụng, ngân hàng phải thẩm định phương án tài chính,
phương án sản xuất kinh doanh, mục đích sử dụng vốn vay của chủ đầu tư khi muốn
vay vốn. Trên thực tế không ít trường hợp chủ đầu tư cố tình sử dụng vốn vay sai
mục đích. Những khoản vay này thường được sử dụng vào mục đích không lành
mạnh như vay để trả nợ, hay dùng số vốn đó cho người khác vay lại, thậm chí số
tiền vay còn được sử dụng vào hoạt động kinh doanh bất hợp pháp (buôn lậu, kinh
doanh hàng cấm,…). Điều này làm tăng nguy cơ rủi ro tín dụng, tăng khả năng


25
25

khách hàng không trả được nợ cho ngân hàng, làm giảm chất lượng tín dụng của
ngân hàng.

Tỷ lệ này càng cao thì chất lượng tín dụng càng thấp và ngược lại.
Tỷ lệ tài sản được phát mại để thu hồi nợ:
Trong trường hợp doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, không có lợi nhuận hoặc lợi
nhuận không đủ bù đắp chi phí, hoặc cũng có trường hợp doanh nghiệp sử dụng vốn
sai mục đích nên khi đến thời hạn trả nợ doanh nghiệp không có nguồn trả nợ cho
ngân hàng. Tình trạng này kéo dài gây ra nợ quá hạn. Ngân hàng tiến hành thu hồi nợ
bằng cách phát mại tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng. Dù số tiền bán được đủ
để trả nợ cho cho ngân hàng thì trường hợp này vẫn bị đánh giá là có chất lượng tín
dụng thấp, bởi doanh nghiệp khi đó càng gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh do
không đảm bảo lượng tài sản cố định, khả năng trả nợ cho ngân hàng về sau càng
thấp. Đây là một vòng luẩn quẩn trong thu nợ, các ngân hàng cần tính toán tận thu từ
tất cả các nguồn thu của khách hàng trước khi thực hiện thanh lý tài sản bảo đảm.
Tỷ lệ này càng cao thì chất lượng tín dụng càng thấp và ngược lại.
Vòng quay vốn tín dụng:

Vòng quay vốn tín dụng càng cao, số vòng chu chuyển của vốn tín dụng càng
lớn thì tình hình vốn của ngân hàng luân chuyển càng nhanh, tổ chức quản lý vốn
tín dụng càng tốt, chất lượng tín dụng được đảm bảo. Vòng quay vốn tín dụng
thường được tính cho từng loại vay cụ thể: vay ngắn hạn, vay trung và dài hạn,…
nhằm có được các kết luận chính xác về tình hình tín dụng của ngân hàng.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu định tính.
Có thể nói thước đo chất lượng tín dụng của một ngân hàng chính là sự hài
lòng của khách hàng, đồng thời ngân hàng cũng phải đảm bảo tính hài hoà với an


×