Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

luận văn thạc sĩ Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.36 KB, 110 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn
trích dẫn rõ ràng.
Tác giải ký tên
Lê Thị Mai
MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BCTC: Báo cáo tài chính
CBTD: Cán bộ tín dụng
CHH,HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DAĐT: Dự án đầu tư
DA: Dự án
HSC: Hội sở chính
NHCT: Ngân hàng Công thương
NHCTVN: Ngân hàng Công thương Việt Nam
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
NHTM: Ngân hàng Thương mại
SXKD: Sản xuất kinh doanh
TSCĐ: Tài sản cố định
TSBĐ: Tài sản bảo đảm
TSC: Tài sản có
TCT: Tổng công ty
VND: Việt Nam đồng
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hàng loạt các dự
án đầu tư được hình thành, trong khi các nguồn lực của nền kinh tế còn hạn
hẹp. Để lựa chọn dự án đầu tư phù hợp, có hiệu quả, vấn đề thẩm định dự án
đầu tư là một vấn đề cần thiết hơn bao giờ hết.


Đầu tư theo dự án là một trong những phương thức đầu tư được đánh giá
là có hiệu quả nhất. Dự án là điều kiện, là tiền dề của sự đổi mới và phát triển.
Để dự án mang lại hiệu quả thực sự, cần phải thẩm định chính xác các khía
cạnh của dự án về các mặt : pháp lý, thị trường , tài chính, kỹ thuật, tổ chức
quản lý kinh tế - xã hội. Bởi vậy, nghiên cứu về vấn đề "thẩm định dự án đầu
tư" luôn thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư, chủ dự án cũng như các nhà
quản lý. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế nước ta chuyển đổi theo cơ chế
thị trường và thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhu
cầu đòi hỏi cấp bách về vốn đầu tư theo dự án ngày càng mở rộng cả về số
lượng, chất lượng, quy mô .Trong bối cảnh khả năng huy động vốn trong nước
cho đầu tư đã và đang gặp phải những khó khăn nhất định, thì trình độ quản lý
dự án nói chung và thẩm định dự án đầu tư nói riêng chưa đáp ứng được nhu
cầu của xã hội và nhu cầu quản lý. Vì vậy việc mở rộng khối lượng, quy mô
cho vay phải luôn gắn với chất lượng cho vay nhằm hạn chế tối đa những rủi
ro, tổn thất cho ngân hàng.Nhận thức được sự cần thiết phải nâng cao chất
lượng thẩm định dự án đầu tư trong giai đoạn hiện nay, em đã chọn đề tài
"Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh
Ngân hàng Công thương Đống Đa" để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ
kinh tế.
1
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng hoạt động tín dụng, môi trường, điều kiện hoạt
động ngân hàng và đi sâu phân tích tình hình thẩm định cho vay các DAĐT
NHCT Đống Đa giai đoạn từ 1999 đến năm 2002, tìm ra những ưu điểm, hạn
chế về nội dung thẩm định, phương pháp thẩm định cũng như cách thức tổ
chức thẩm định về đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm
định các dự án đầu tư tại chi nhánh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Thẩm định DA đầu tư là vấn đề rộng lớn luận văn
chỉ tập trung nghiên cứu về chất lượng thẩm định DA lấy thực tiễn tại NHCT

Đống Đa làm minh chứng.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn chung vào nghiên cứu về thẩm định DA
đầu tư tại chí nhánh NHCT Đống Đa lấy thực tiễn từ năm 1999 đến 2002 làm
cơ sở minh chứng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu thống kê, tổng hợp, so
sánh, phân tích, phương pháp tiếp cận hệ thống… ngoài ra luận văn còn sử
dụng các bảng, hình, sơ đồ để minh họa.
5. Những đóng góp của luận văn
- Phân tích thực trạng công tác thẩm định các DAĐT tại chi nhánh giai
đoạn tại 1999 - 2002. Đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong nội dung thẩm
định, phương pháp thẩm định cũng như cách thức tổ chức thẩm định của
NHCT Đống đa trong giai đoạn này và tìm ra nguyên nhân của những hạn
chế đó.
2
- Đề xuất số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định DAĐT tại chi
nhánh NHCT Đống Đa.
6. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn gồm 3 chương:
Ch ng 1: Nh ng n i dung c b n v ch t l ng th m nh d án ươ ữ ộ ơ ả ề ấ ượ ẩ đị ự
u t c a NHTM đầ ư ủ
Chương 2: Thực trạng chất lượng thẩm định DAĐT tại NHCT Đống
Đa Hà Nội
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm
định DAĐT tại NHCT Đống Đa Hà Nội
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH
DỰ ÁN ĐẦU TƯ CỦA NHTM
1.1. ĐẦU TƯ VÀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ

1.1.1. NHTM với việc đầu tư theo dự án
NHTM là doanh nghiệp kinh doanh đa năng vì muc tiêu lợi nhuận.
Trong nghiệp vụ tín dụng của NHTM việc cho vay trung và dài hạn chủ yếu
là cho vay theo dự án đầu tư. Đây cũng là một trong những nội dung quan
trọng, phức tạp đối với hoạt động của NHTM vì dự án đầu tư đa dạng về
chủng loại, nội dung với những kỹ thuật, công nghệ ở trình độ cao và khác
nhau.Vậy trước hết cần hiểu thế nàolà đầu tư?
Nói đến đầu tư người ta thường nghĩ ngay tới hoạt động bỏ vốn hiện
tại để nhằm thu được lợi nhuận trong tương lai. Song nếu chỉ dừng lại như
vậy thì chưa đủ bởi hoạt động đầu tư luôn gắn với rủi ro. Rủi ro là một trong
những yếu tố có tác động đến dự quyết định của nhà đầu tư có bỏ vốn hay
không và tuỳ theo từng mức rủi ro mà nhà đầu tư sẽ quyết định bỏ vốn bao
nhiêu và vào đâu. Do vậy, cần hiểu đúng mức và đầy đủ về hoạt động đầu tư
theo những nội dung cơ bản sau:
- Đầu tư là hoạt động bỏ một lượng vốn, nguồn lực ban đầu trong một
thời gian dài.
- Đầu tư luôn gắn với rủi ro, mạo hiểm. Cho nên, nhà đầu tư luôn phải
dự tính trước điều này để có biện pháp phòng ngừa, hạn chế.
- Nhà đầu tư luôn phải cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi ích thu
được trong tương lai.
- Đầu tư gắn với mục tiêu hiệu quả. Song với mỗi nhà đầu tư khác nhau
lại theo đuổi các mục tiêu khác nhau. Đối với nhà đầu tư là doanh nghiệp thì
mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Ngân hàng thương mại hướng tới mục tiêu
4
an toàn và hiệu quả của đồng vốn cho vay, còn đối với một Quốc gia thì đó là
hiệu quả kinh tế xã hội.
Mục tiêu đầu tư được thể hiện dưới các kết quả tài chính, kinh tế và xã
hội. Mỗi nhà đầu tư khi theo đuổi mục tiêu nào sẽ cố gắng đạt được tối đa kết
quả đó. Muốn tối đa hoá hiệu quả đầu tư thì trước khi quyết định đầu tư nhất
thiết phải có dự án đầu tư. Trên thực tế, hoạt động đầu tư được thể hiện tập

trung qua việc thực hiện các dự án đầu tư.
1.1.2. Dự án đầu tư
1.1.2.1. Khái niệm
Đứng trên những phương diện nhìn nhận khác nhau về dự án đầu tư thì
những quan niệm về dự án đầu tư cũng khác nhau. Chẳng hạn :
Xét về bản chất, Dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn
để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được
mục tiêu nhất định trong một khoảng thời gian xác định.
Xét về mặt hình thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày
một cách chi tiết, đầy đủ, khoa học và toàn diện một dự kiến đầu tư trong
tương lai.
Xét trên góc độ quản lý thì dự án đầu tư là cơ sở để các cơ quan quản lý
Nhà nước xem xét, phê duyệt cấp giấy phép đầu tư, là căn cứ quan trọng để
đánh giá và đưa ra những điều chỉnh kịp thời những tồn tại, vướng mắc trong
quá trình thực hiện và khai thác dự án và là cơ sở pháp lý để xem xét, xử lý
khi có tranh chấp giữa các bên tham gia liên doanh đầu tư.
Còn đứng trên phương tiện kế hoạch hoá, dự án đầu tư là một công cụ
thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát
triển kinh tế xã hội, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ.
Song dù đứng trên góc độ nào thì dự án đầu tư cũng có chung một chu trình:
5
1.1.2.2. Chu trình của dự án
Hoạt động đầu tư được bắt đầu từ khi có ý định về dự án đầu tư. Từ ý
định về dự án đến việc xây dựng, thực hiện và kết thúc dự án là cả một quá
trình. Quá trình này có thể chia làm 3 giai đoạn:
- Một là, giai đoạn chuẩn bị đầu tư gồm các bước chính như sau: Nghiên
cứu cơ hội đầu tư, nghiên cứu tiền khả thi; Nghiên cứu khả thi, Thẩm định và
ra quyết định đầu tư.
- Hai là, giai đoạn thực hiện đầu tư gồm các bước chính sau: khảo sát,
thiết kế, lập dự toán; dự kiến mua thiết bị, công nghệ, vật tư kỹ thuật ;tổ chức

đấu thầu, chọn thầu, giao nhận thầu; thi công theo đúng thiết kế, tiến độ đã đề
ra; tiến hành chạy thử; bàn giao đưa công trình vào khai thác.
- Ba là, giai đoạn vận hành kết quả đầu tư gồm các bước chính như: tổ
chức sản xuất, kinh doanh; kết thúc dự án; đánh giá sau dự án.
Như vậy, thẩm định dự án đầu tư là một khâu trong cả chu trình, nhưng
nó có vai trò hết sức quan trọng, và được xem là có tính quyết định đối với sự
thành bại của một dự án đầu tư.
1.2. THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1.2.1. Khái niệm
Các dự án đầu tư sau khi được soạn thảo xong dù được nghiên cứu tính
toán kỹ lưỡng thì cũng mới chỉ qua bước khởi đầu. Để đánh giá tính hợp lý,
tính hiệu quả, khả thi của dự án và ra quyết định dự án có được thực hiện hay
không phải trải qua quá trình kiểm tra, đánh giá một cách độc lập, tách biệt
với quá trình soạn thảo dự án. Quá trình đó gọi là thẩm định dự án đầu tư.
Vậy, thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức, xem xét, phân tích một cách
khách quan toàn diện, độc lập những nội dung cơ bản của Dự án đầu tư đồng
thời đánh giá chính xác những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi
của dự án nhằm đưa ra quyết định cho vay một cách hiệu quả, an toàn.
6
Trên thực tế việc cho vay dự án đầu tư thường là cho vay trung dài hạn.
Vì vậy, thẩm định dự án đầu tư trung dài hạn là một nghiệp vụ chính trong
công tác tín dụng của NHTM. Nếu ngân hàng làm tốt công tác này sẽ tạo tiền
đề cho việc thu hồi cả vốn và lãi đúng hạn, tạo điều kiện cho vốn tín dụng
luân chuyển nhanh, an toàn và hiệu quả.
1.2.2. Cơ sở của việc thẩm định dự án đầu tư
Để có căn cứ thẩm định dự án đầu tư, các cán bộ tín dụng phải điều tra,
thu thập, tổng hợp và phân tích các nguồn thông tin về khách hàng bao gồm
những nguồn sau:
- Phỏng vấn trực tiếp người vay:
Những thông tin do khách hàng cung cấp: là bộ hồ sơ vay vốn do Ngân

hàng yêu cầu, bao gồm: giấy tờ chứng nhận tư cách pháp nhân hoặc thể nhân;
hồ sơ tài chính khách hàng; hồ sơ về dự án; hồ sơ bảo đảm tiền vay; các văn
bản, giấy tờ khác có liên quan (nếu cần); hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch
vụ; giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu hoặc qua nhập khẩu…
- Những thông tin từ Ngân hàng về quan hệ thanh toán, tiền gửi, tín dụng
với khách hàng.
- Các nguồn thông tin của các tổ chức có liên quan và thông tin từ thị trường.
- Điều tra thực tế tại nơi hoạt động kinh doanh của khách hàng xin vay vốn.
1.2.3. Quy trình thẩm định dự án đầu tư:
Mỗi Ngân hàng tự xây dựng và áp dụng cho nội bộ đơn vị mình một quy
trình thẩm định riêng sao cho phù hợp với điều kiện của ngành, của Ngân
hàng mình và tuân thủ theo đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước. Tuy
nhiên, về cơ bản một quy trình thẩm định bao gồm 7 bước (xem sơ đồ 1.1)
7
Sơ đồ 1.1. Quy trình thẩm định dự án đầu tư

Bước 1 của quy trình nhằm đảm bảo tính đầy đủ, hợp pháp và thống nhất
của các hồ sơ. Mặt khác, kiểm tra thực tế đối với khách hàng ở bước này giúp
cho cán bộ tín dụng có những hình dung ban đầu cần thiết về cơ sở vật chất,
con người và cách tổ chức quản lý kinh doanh của đơn vị xin vay.
Bước 2 nhằm thu thập các thông tin tín dụng theo những nguồn thông tin
như đã nêu trên.
8
Kiểm tra hồ sơ vay vốn và kiểm tra
thực tế đối với khách hàng
Tập hợp các căn cứ để thẩm định
Thẩm định khách hàng vay vốn
Thẩm định dự án đầu tư và
phương án cho vay, thu nợ
Thẩm định các điều kiện kinh tế ảnh

hưởng đến dự án đầu tư
Thẩm định biện pháp đảm bảo
tiền vay
Lập tờ trình kết quả thẩm định
Bước 1
Bước 2
Bước 3
Bước 4
Bước 5
Bước 6
Bước 7
Các bước còn lại 3, 4, 5, 6 là những bước chính của quy trình, thường
được xem là những yếu tố của thẩm định dự án sẽ được nghiên cứu cụ thể
trong phần sau.
1.2.4. Nội dung thẩm định dự án đầu tư
Nghiệp vụ cho vay hiện nay đang là một hoạt động chủ yếu và cũng là
nguồn thu chính của NHTM. Trên góc độ nhà tài trợ vốn, Ngân hàng đánh giá
dự án chủ yếu trên tính khả thi, hiệu quả của dự án và khả năng thu nợ của
Ngân hàng theo các nội dung sau :
1.2.4.1. Thẩm định Khách hàng vay vốn
Mục đích của Ngân hàng khi thẩm định khách hàng vay vốn là để xác
định khả năng và ý định trả nợ của khách hàng. Như vậy, Ngân hàng thẩm
định khách hàng thực chất là thẩm định tư cách và uy tín khách hàng, và thẩm
định năng lực tài chính cuả khách hàng có đáng tin cậy không. Muốn vậy
Ngân hàng cần xem xét các vấn đề như :
- Thẩm định tư cách và uy tín khách hàng
Tư cách của khách hàng thể hiện ở nguyện vọng và tư cách pháp lý của
khách hàng bao gồm khách hàng là thể nhân và khách hàng là pháp nhân.
Đối với thể nhân vay vốn, người vay vốn phải có quyền công dân, có
sức khoẻ, kỹ thuật, tay nghề trong lĩnh vực sử dụng vốn vay, có phẩm chất

đạo đức tốt.
Đối với pháp nhân vay vốn, phải có đầy đủ hồ sơ chứng minh pháp
nhân đó được thành lập hợp pháp, có giấy đăng ký kinh doanh , điều lệ hoạt
động, quyết định bổ nhiệm người đại diện pháp nhân trước pháp luật, kế toán
trưởng hoặc người quản lý về tài chính của Doanh nghiệp. Trường hợp khách
hàng vay vốn là tổ chức kinh tế tập thể, Công ty cổ phần, xí nghiệp liên
doanh, Công ty TNHH… phải kiểm tra tính pháp lý của người đại diện đứng
ra ký hồ sơ thủ tục vay vốn phù hợp với điều lệ hoạt động của tổ chức đó và
9
phải có văn bản uỷ quyền vay vốn của các cổ đông, các sáng lập viên hoặc
những người đồng sở hữu tài sản thế chấp, cầm, cố, bảo lãnh.
Tất cả các loại giấy tờ đều phải được Ngân hàng kiểm tra , đối chiếu với
các quy định trong các luật và các văn bản dưới luật.
Uy tín khách hàng được đánh giá qua năng lực lãnh đạo và quản lý của
người đứng đầu pháp nhân.
Uy tín của khách hàng được khẳng định và kiểm nghiệm thực tế trong
cách ứng xử đối với chủ nợ, trong quan hệ tín dụng trước đây đối với các
Ngân hàng khác, trong quan hệ làm ăn sòng phẳng…
Thẩm định tư cách và uy tín khách hàng là điều kiện ban đầu và rất quan
trọng giúp cho Ngân hàng hạn chế được các rủi ro chủ quan do khách hàng
gây ra như: rủi ro đạo đức, rủi ro về thiếu năng lực, trình độ, kinh nghiệm, khả
năng thích ứng với môi trường, đề phòng và phát hiện những âm mưu lừa đảo
ngay từ đầu của một số khách hàng.
- Thẩm định năng lực tài chính khách hàng
Ngân hàng phải tiến hành thẩm định năng lực tài chính của khách hàng
nhằm đánh giá xác định thực trạng tài chính, khả năng độc lập tự chủ của
doanh nghiệp trong kinh doanh, khả năng tự cân đối các nguồn tiền có thể sử
dụng chi trả khi cần thiết mà đặc biệt là khả năng thanh toán và khả năng sinh
lời. Căn cứ vào các báo cáo tài chính mà khách hàng cung cấp theo quy định
(tối thiểu là 3 năm hoạt động gần thời điểm xin vay nhất). Để đảm bảo cho

tính chính xác của các số liệu trên báo cáo tài chính, Ngân hàng có quyền yêu
cầu khách hàng cung cấp tài liệu đầy đủ, trung thực, được kiểm toán bởi cơ
quan kiểm toán độc lập.
Báo cáo tài chính của một Công ty bao gồm 4 báo cáo: Bảng cân đối kế
toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Bảng thuyết
minh các báo cáo tài chính.
10
Khi tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp, Ngân hàng cần xem xét
đến tất cả các chỉ tiêu của báo cáo tài chính.
* Phân tích khả năng tài chính của doanh nghiệp.
Nhóm các chỉ tiêu về tình hình, khả năng thanh toán:
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp là khả năng mà doanh nghiệp có thể
hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn bằng việc chuyển nhanh chóng các tài sản lưu
động thành tiền để trả nợ, nhóm chỉ tiêu này bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu sau:
+ Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn
=
Giá trị Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Hệ số này phản ảnh mức độ đảm bảo của các tài sản có thể chuyển đổi
thành tiền trong mội giai đoạn tương ứng với thời hạn của khoản nợ, Yêu cầu
của tỉ lệ này phải lớn hơn 1 và từ 1,2 – 2 tốt nhất.
+ Hệ số khả năng TT nhanh
=
Vốn tiền + Chứng khoán NH + Các
khoản phải thu có khả năng thu hồi ngay
Nợ ngắn hạn
Tỷ lệ cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc
vào việc bán tài sản dự trữ, tỷ lệ này lớn hơn 0,5 là tốt.
+ Hệ số khả năng thanh toán tức thời =
Vốn bằng tiền

Nợ đến hạn phải trả
Thể hiện mức tiền mặt có thể đáp ứng ngay cho các khoản nợ đến hạn
phải trả. Yêu cầu hệ số này phải lớn hơn 1.
+ Khả năng TT cuối cùng
=
Gtrị TSLĐ +
Gtrị TS
thiếu chờ
xử lý
+
Chênh lệch tỷ
giá và chỉ số giá
chưa xử lý
Nợ ngắn hạn NH và TCTD + các khoản phải trả
Hệ số này thể hiện khả năng thanh toán nợ ngắn hạn thực tế, nếu tỷ lệ
khả năng thanh toán cuối cùng bé hơn 1 thì tình hình tài chính của doanh
nghiệp là rất xấu. Tuỷ lệ này càng cao càng tốt và lớn hơn 1.
 Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính
11
Nhóm chỉ tiêu này phản ánh khả năng tự chủ tài chính và rủi ro tài
chính của doanh nghiệp.
Khả năng tự chủ tài chính là khả năng tự cân đối về tài chính của
doanh nghiệp.
Khả năng tự chủ tài chính là khả năng tự cân đối về tài chính của kinh
doanh để đáp ứng các khoản nợ phải trả. Khái niệm tự chủ tài chính được thể
hiện thông qua hệ số tài trợ và năng lực đi vay.
+ Hệ số tài trợ =
Nguồn vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn DN đang sử dụng
+Năng lực đi

vay
=
Nguồn vốn chủ sở hữu
Vốn thường xuyên
(Vốn thường xuyên = Vốn chủ sở hữu + Nợ vay dài hạn)
Doanh nghiệp có khả năng tự cân đối tài chính là doanh nghiệp có các
hệ số ngày càng tăng và lớn hơn 0,5
Thông thường để thẩm định khả năng tự cân đối tài chính thì chỉ xem
xét trên hai chỉ tiêu trên với mục đích đo lường phần vốn góp của các chủ sở
hữu doanh nghiệp so với tổng nguồn vốn mà doanh nghiệp đang sử dụng bởi
vì nó thể hiện khả năng tự chủ về tài chính và sự bảo đảm an toàn cho các
khoản vay của họ.
Ngoài ra có thể sử dụng các chi tiêu khác như:
+ Hệ số nợ trên tài sản
=
Nợ phải trả
Gtrị Tổng tài sản
+ Hệ số nợ trên vốn tự có
=
Nợ phải trả
Vốn chủ sở hữu
+ Thông số đòn bẩy (tỷ số nợ dài hạn); đòn bảy tài chính dùng để chỉ mức
độ nợ dài hạn và cổ phiếu ưu tiên mà doanh nghiệp dùng trong cơ cấu vốn.
+ Tỷ số nợ dài hạn
=
Vốn trung và dài hạn
Vốn chủ sở hữu
12
Các hệ số ngày thể hiện nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ
nợ. Các hệ số này càng thấp thì các khoản nợ càng được đảm bảo.

+ Khả năng thanh toán lãi vay
=
Lợi nhuận trước thuế và lãi
Lãi tiền vay
Tỷ lệ này thể hiện mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm.
Tỷ lệ này yêu cầu phải lớn hơn hoặc bằng tỷ lệ trung bình của ngành, tỷ lệ
càng cao càng tốt.
 Nhóm các chỉ tiêu về năng lực hoạt động
Các chỉ tiêu về khả năng hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả
sử dụng nguồn được đầu tư vào các tài sản khác nhau cho nên không chỉ quan
tâm đến việc đo lường hiệu quả sử dụng vốn mà phải chú trọng tới hiệu quả
sử dụng của từng bộ phận cấu thành nguồn vốn của doanh nghiệp. Khả năng
hoạt động được thể hiện thông qua các chỉ tiêu sau:
+ Vòng quay vốn =
Doanh thu thuần
Tổng tiền mặt + các TS tương đương với tiền trong
năm
Hệ số này cho biết số vòng quay của tiền trong năm. Số vòng quay
càng lớn thì đồng vốn được sử dụng càng hiệu quả.
+ Vòng quay hàng tồn kho =
Doanh thu thuần
Giá trị hàng tồn kho bình quân trong năm
Là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
+ Kỳ thu tiền bình quân
=
Các khoản phải thu x 360
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này nhằm đánh giá khả năng thu hồi vốn trong thanh toán trên
cơ sở các khoản phải thu và doanh nghiệp tiêu thụ bình quân một ngày.

+ Hệ suất sử dụng TSCĐ =
Doanh thu thuần
Gtrị TSCĐ bình quân (theo giá trị còn
lại)
13
Chỉ số này cho biết một đồng TSCĐ tạo được bao nhiêu đồng doanh thu
trong năm, chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng TSCĐ có hiệu quả không.
- Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Đánh giá kết quả kinh doanh
- Đánh giá sự biến động tuyệt đối và tương đối của các chỉ tiêu: Doanh
thu thuần. Doanh thu xuất khẩu; Lợi nhuận ròng từ hoạt động sản xuất kinh
doanh.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến các chỉ tiêu:
+ Lợi nhuận ròng từ hoạt động kinh doanh = DT thuần – Giá vốn – Chi
phí ngoài sản xuất kinh doanh.
+ Lợi nhuận trước thuế = LN ròng từ hoạt động kinh doanh + Thu nhập
ròng từ hoạt động tài chính + Thu nhập ròng bất thường.
Khả năng sinh lời tài chính
Phân tích khả năng sinh lời là một yếu tố chính đo độ bền kinh tế và tài
chính của doanh nghiệp, Ngân hàng đặc biệt quan tâm đến chỉ tiêu này, vì qua
đó phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý
của doanh nghiệp, cơ sở để Ngân hàng có thể thu hồi món vay, thể hiện thông
qua một số chỉ tiêu sau:
+ Tỷ suất lợi nhuận trên DT
=
Lợi nhuận sau thuế trong năm
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh lợi nhuận thu được sau thuế là bao nhiêu trong
một đồng doanh thu.
+ Tỷ suất LN trên vốn chủ sở hữu

=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu
Chỉ số này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu.
+ Khả năng sinh lợi của =
Lợi nhuận sau thuế + Lãi vay dài hạn phải trả
Nguồn vốn thường xuyên
+ Doanh lợi vốn =
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Tổng tài sản
14
Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi
của một đồng vốn đầu tư Người ta cũng xem xét nó trong mối quan hệ với
chi phí vốn để đánh giá hiệu ứng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp. Chừng
nào doanh lợi vốn còn cao hơn mức lãi suất chi phí vốn thì Ngân hàng còn có
thể tiếp tục tài trợ cho doanh nghiệp mà vẫn đảm bảo đồng vốn được bù đắp
và có lãi.
Trên đây là những chỉ tiêu cơ bản để Ngân hàng phân tích tài chính
doanh nghiệp. Trong quá trình thẩm định khách hàng Ngân hàng không nhất
thiết phải sử dụng tất cả các chỉ tiêu trên, nhưng phải nắm bắt được những nét
tiêu biểu trong bức tranh tài chính có ích cho công tác thẩm định, phải xác
định các vùng rủi ro cần cân nhắc trước khi xử lý, kết quả phân tích phải kết
hợp với các yếu tố khác để đưa ra quyết định đúng đắn cuối cùng, hạn chế
những tổn thất ban đầu trong quá trình kinh doanh.
* Phân tích tình hình lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho phép phân tích khả năng thanh toán của
doanh nghiệp một cách sát thực bởi nó cung cấp thông tin cần thiết cho việc
đánh giá khả năng tạo tiền của các doanh nghiệp trong kỳ báo cáo, đồng thời
dự báo thanh toán khoản trong tương lai, sức mạnh tài chính của một doanh
nghiệp được đánh giá bằng khả năng tạo tiền từ nội tại hay nói cách khác là

khả năng tạo tiền từ hoạt động kinh doanh chứ không phải từ hoạt động đầu
tư hay hoạt động tài chính.
Tóm lại, thông qua phân tích tài chính của doanh nghiệp, Ngân hàng có
thể biết được một phần tình hình SXKD, tình hình tài chính của doanh nghiệp
khả quan hay khó khăn, xu hướng phát triển của doanh nghiệp để từ đó có
quyết định cho vay đúng đắn, đảm bảo thu hồi nợ đầy đủ, đúng hạn.
1.2.4.2. Thẩm định dự án đầu tư
15
Nếu coi thẩm định chủ đầu tư là bước tiền đề quan trọng để đánh giá tư
cách và năng lực tài chính của chủ đầu tư, tạo cơ sở tin tưởng ban đầu giữa
khách hàng với Ngân hàng thì thẩm định dự án đầu tư mới là mấu chốt của
vấn đề, bởi nó có tính chất quyết định đối với chất lượng một khoản vay. Có
thể nói, nếu một dự án được thẩm định một cách hiệu quả và kỹ lưỡng, khi dự
án được chấp nhận Ngân hàng sẽ chỉ phải chịu rủi ro thị trường, còn những
rủi ro khác thì đã được nhận biết, xử lý và hạn chế ở mức thấp nhất bởi khi
tiến hành thẩm định dự án, Ngân hàng phải tiến hành thẩm định trên tất cả các
khía cạnh có liên quan đến dự án, thông thường bao gồm:
- Thẩm định sự cần thiết của dự án đầu tư
Khi tiến hành thẩm định dự án, trước hết Ngân hàng phải xem xét đến
mục tiêu, định hướng của dự án. Bởi vì, dự án được thực hiện sẽ ảnh hưởng
không nhỏ đến đời sống, kinh tế, xã hội, ảnh hưởng đến cung cầu hàng hoá,
hoạt động xuất nhập khẩu trong nước, môi trường tự nhiên,… Như vậy, cần
phải thẩm định, đánh giá xem dự án có thực sự cần thiết trong tình hình hiện
nay hay không, có tuân thủ theo đúng quy hoạch, kế hoạch đầu tư, định
hướng phát triển do các Bộ, ngành có liên quan công bố không và có tác động
như thế nào đến sự phát triển chung của đất nước….Muốn vậy, Ngân hàng
cần đối chiếu mục tiêu và phương hướng phát triển của dự án với mục tiêu,
định hướng chung, với những quy định của Nhà nước và các xu thế phát triển
trong tương lai. Tuỳ theo từng dự án theo đuổi mục tiêu nào, Ngân hàng sẽ
chú trọng đến mục tiêu đó mà quyết định đầu tư, song điều quan trọng là dự

án đó phải đem lại lợi ích cho chủ đầu tư, Ngân hàng và cho đất nước.
- Thẩm định trên phương diện thị trường
Có thể nói thị trường là nơi quyết định sự thành công của dự án và là
yếu tố quyết định nguồn trả nợ cho dự án. Một dự án càng có khả năng đứng
16
vững và chiếm lĩnh thị trường thì khả năng thu hồi vốn của Ngân hàng cần
đánh giá:
* Quan hệ cung – cầu của sản phẩm
Khi nghiên cứu quan hệ cung – cầu sản phẩm cần xem xét tổng thể cả
thị trường trong nước và ngoài nước với mục đích làm rõ xu thế trong tương
lai của sản phẩm. Người nghiên cứu thị trường cần quan tâm xem xét các vấn
đề sau:
Tình hình tiêu thụ sản phẩm cùng loại trong thời gian trên địa bàn mà
doanh nghiệp dự kiến sẽ xâm nhập chiếm lĩnh.
Sự chấp thuận của sản phẩm đó trên thị trường hiện nay, nhu cầu của
người tiêu dùng đang ở cấp độ nào. Sự chấp thuận và mức độ thoả mãn của
người tiêu dùng đối với sản phẩm của mình và so với những sản phẩm cùng
loại trên thị trường và sản phẩm có thể thay thế.
Dự báo nhu cầu sản phẩm trong tương lai và mức độ đáp ứng sản
phẩm đó trên thị trường, các kênh đáp ứng các sản phẩm tương tự và sản
phẩm thay thế ra sao.
Tính hợp pháp, hợp lý và mức độ tin cậy của hợp đồng bao tiêu sản
phẩm, các văn bản giao dịch sản phẩm, tránh sự giả mạo có thể xẩy ra.
Tình hình sản xuất sản phẩm này ở nước ngoài như thế nào (xét về giá
thành, chí phí, mẫu mã, giá cả có phù hợp không?)
* Đối tượng, phương thức tiêu thụ sản phẩm của dự án
Đối tượng tiêu thụ sản phẩm của dự án là bán buôn, bán lẻ hay bán qua
đại lý. Các hợp đồng tiêu thụ hoặc bao tiêu sản phẩm về chất lượng, giá cả,
chủng loại và đặc biệt là phương thức thanh toán như thế nào.
* Khả năng cạnh tranh của dự án

Số lượng, chất lượng giá cả các sản phẩm cùng loại được sản xuất trong
nước và nhập khẩu từ nước ngoài.
17
- Thẩm định phương diện kỹ thuật
Thẩm định phương diện kỹ thuật là công việc rất phức tạp, đòi hỏi cán
bộ thẩm định phải nắm chắc các đặc tính sản phẩm, thông thường Ngân hàng
phải thuê các chuyên gia. Nội dung cơ bản cần xem xét.
Quy mô dự án
Qui cách, phẩm chất, mẫu mã của sản phẩm như thế nào được thực hiện
với công suất bao nhiêu. Với công suất này có đủ để đáp ứng với nhu cầu trên
thị trường hay không và có phù hợp hay không.
Công nghệ và trang thiết bị
+ Đưa ra một số phương án để so sánh lựa chọn công nghệ thiết bị, ưu
nhược điểm của từng phương án. Lý do chọn công nghệ hiện tại.
+ Thẩm định số lượng, công suất, qui cách, chủng loại, danh mục máy
móc thiết bị, tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất.
+ Đối với thiết bị nhập ngoại cần đấu thầu cạnh tranh quốc tế hoặc chọn
thầu nhằm đảm bảo về chất lượng cũng như giá cả. Đồng thời phải kiểm tra
hợp đồng cung ứng, các điều kiện giao hàng, phương thức thanh toán quốc tế.
+ Xem xét phương thức lựa chọn nhà cung cấp thiết bị: Chỉ định thầu
hay đấu thầu.
Nguồn nguyên, nhiên, vật liệu cung ứng và các yếu tố đầu vào khác:
+ Xác định nhu cầu về nguyên nhiên vật liệu chủ yếu trên phương diện
các định mức kinh tế kỹ thuật so sánh với mức tiêu hao thực thế. Cần xác định
số lượng, chất lượng nguồn cung cấp, điều kiện cung cấp của nguyên, nhiên
vật liệu trong nước cũng như nhập ngoại, và kiểm tra tính đúng đắn của các
tài liệu điều tra, cấp giấy phép khai thác… đối với dự án khai thác nguyên liệu
phục vụ sản xuất.
+ Xác định mức nguyên nhiên vật liệu dự trữ hợp lý để bảo đảm cung
cấp thường xuyên tránh lãng phí.

18
Lựa chọn điểm xây dựng dự án:
Yêu cầu của việc lựa chọn địa điểm: Tuân thủ qui định của Nhà nước về
quy hoạch đất đai kiến trúc; gần nơi cung cấp nguyên vật liệu và nơi tiêu thụ
sản phẩm; giao thông thuận lợi, chi phí vận chuyển, bốc dỡ hợp lý; Thuận tiện
đi lại cho cán bộ công nhân viên; Tận dụng cơ sở hạn tầng sẵn có; Mặt bằng
phù hợp với quy mô hiện tại và dự phòng cho phát triển mở rộng tương lai,
đạt yêu cầu vệ sinh công nghiệp, xử lý ô nhiễm môi trường…
Qui mô, giải pháp kiến trúc, kết cấu xây dựng để xem có phù hợp với
công suất và qui mô của dự án hay không. Nhu cầu về vốn cho từng hạng mục
như thế nào. Nhằm tận dụng tối đa các hạng mục công trình có sẵn, tiết kiệm
vốn đầu tư và thời hạn thi công.
- Thẩm định tính hợp lý về kế hoạch tiến độ thực hiện dự án
Điều này liên quan đến kế hoạch sử dụng vốn, sản xuất và cho vay thu
nợ cuả Ngân hàng để xác định thứ tự ưu tiên tập trung vốn, hoàn thành dứt
điểm toàn phần để đưa vào sử dụng. Tránh thi công dàn đều không hiệu quả.
Thẩm định phương diện tổ chức, quản lý thực hiện và vận hành dự
án để chọn được đơn vị thiết kế thi công làm việc có hiệu quả nhất.
Thẩm định tính khả thi dự án trên phương diện tài chính
Đây là yếu tố không kém phần quan trọng có tính chất quyết định đầu tư
của Ngân hàng. Trước khi đánh giá tính khả thi của dự án, Ngân hàng cần
kiểm tra tiềm lực tài chính của khách hàng tức là mức tham gia đóng góp của
khách hàng đối với dự án, Ngân hàng cần sử dụng một số chỉ tiêu:
- Tỷ lệ vốn chủ sở hữu tham gia đầu tư vào dự án thông thường? 50%
Đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài? 30% (Luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam)
- Tỷ lệ vốn vay trên vốn đầu tư thường 50%
19
Cán bộ thẩm định phải phân tích đánh giá tính khả thi dự án dựa trên 2
nhóm chỉ tiêu: Nhóm chỉ tiêu hiệu qủa sử dụng vốn và nhóm chỉ tiêu an toàn

tài chính.
*Nhóm chỉ tiêu hiệu quả tài chính
Thông thường có 2 phương pháp phân tích tài chính: phương pháp giản
đơn và phương pháp chiết khấu. Tuy nhiên, phương pháp chiết khấu cho ta
kết luận chính xác hơn vì nó quy tất cả các dự án về cùng một thời điểm dễ so
sánh, hơn nữa nó còn xét đến chi phí cơ hội, một khái niệm không thể bỏ qua
khi ra quyết định đầu tư. Do vậy, ở đây ta chỉ thẩm định dự án dựa trên một
phương pháp chiết khấu, phương pháp mà hiện nay các Ngân hàng trên Thế
giới đang dùng phổ biến.
Trước khi sử dụng phương pháp này, chúng ta cần hiểu một số khái
niệm cơ bản:
Giá trị theo thời gian của tiền: Tiền có giá trị khác nhau tại thời điểm
khác nhau. Một đồng hôm nay có giá trị hơn một đồng ngày mai bởi nó có thể
có thể được đầu tư sinh lời hoặc tiêu dùng ngay. Vì vậy, tỷ lệ lãi suất là giá
của tiền tệ, nó phản ánh chi phí cơ hội mà người sử dụng tiền phải bỏ ra để
thu được lợi.
Lãi kép: là phương pháp tính lãi trong đó lãi của kỳ trước được nhập
vào gốc để tính lãi cho kỳ sau:
FV = PV (1 + r)
n
Trong đó: FV : Giá trị tương lại của tiền
PV : Giá trị tiền phát sinh hiện tại
r : Lãi suất
n : Số kỳ tính lãi.
Chiết khấu: Là việc quy đổi đồng tiền ở các thời điểm về cùng một thời
điểm bất kỳ (thường là hiện tại). Vì trong các dự án đầu tư, lợi ích và chi phí
20
phát sinh ở các thời điểm khác nhau, chúng ta không thể so sánh những giá trị
như vậy mà không quy về một thời điểm dựa trên cơ sở giá trị thời gian của tiền.
Ta có: giá trị hiện tại của dòng tiền trong tương lai:

PV =
n
)r1(
FV
+
r: tỷ lệ chiết khấu hoặc tỷ lệ hiện đại hoá
+ Giá trị hiện tại ròng (NPV: Net Present Value)
Giá trị hiện tại ròng đo lường lợi nhuận của dự án đầu tư sau khi đã bù
đắp rủi ro và vốn bỏ ra ban đầu.
Công thức tính:
NPV =

=
+

n
1t
t
tt
)r1(
CB
-

=
+
n
t
t
t
r

S
1
)1(
NPV ; Giá trị hiện tại ròng r: tỷ lệ chiết khấu
B
t
: LN sau thuế + Khấu hao năm t n: Thời gian thực hiện dự án
Ct: Chi phí cho dự án năm t
Chỉ tiêu NPV cho biết giá trị thu nhập ròng tại chi phí cận biên của vốn.
Việc xác định chính xác tỷ lệ chiết khấu cho mỗi dự án là khá khó khăn.
Người ta có thể lấy r bằng lãi suất đầu vào, đầu ra trên thị trường nhưng thông
thường là chi phí bình quân của vốn (WACC).
Sử dụng chỉ tiêu NPV để đánh giá dự án đầu tư theo nguyên tắc:
Nếu các dự án đầu tư độc lập thì chọn những dự án có NPV = 0. Nếu
các dự án loại trừ nhau thì chọn dự án nào có NPV = 0 và lớn nhất sẽ được
lựa chọn.
+ Phương pháp tỷ suất nội hoàn (IR: Internal Rate of Return)
Để sử dụng phương pháp này, trước hết ta phải giả định dòng tiền trong
các năm được tái đầu tư với tỷ lệ đúng bằng tỷ lệ sinh lời của dự án.
Tỷ suất nội hoàn là mức chiết khấu cao nhất mà dự án có thể chấp nhận
được. Nó là tỷ lệ chiết khấu làm cân bằng giá trị hiện tại của tổng vốn đầu tư
21

×