1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn tốt nghiệp “Hoàn thiện chính sách thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực nông nghiệp” là công trình nghiên cứu
của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Lê Thị Việt Nga.
Các số liệu phân tích và kết quả trong luận văn là trung thực; các tài liệu số
liệu do cá nhân tôi thu thập từ các báo cáo, sách, báo, tạp chí, các kết quả nghiên
cứu có liên quan đến đề tài đã được công bố.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Huyền
2
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và làm luận văn Thạc sỹ tại trường Đại học Thương
mại, tác giả đã nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ của Ban Giám Hiệu,
Khoa Sau Đại học Trường Đại học Thương mại và sự giảng dạy nhiệt tình của các
thầy cô giáo. Nhân dịp này, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới sự quan tâm giúp đỡ
nhiệt tình, có trách nhiệm và quý báu đó.
Cùng với đó, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Lê Thị Việt Nga người đã hướng dẫn tác giả tận tình chu đáo và có những ý kiến đóng góp sâu sắc
và giá trị đối với luận văn này.
Mặc dù đã nỗ lực hết mình trong học tập và nghiên cứu nhưng luận văn không
thể tránh khỏi những thiếu sót và khuyết điểm. Tác giả rất mong nhận được những
góp ý từ các nhà khoa học để tiếp tục bổ sung và hoàn thiện đề tài hơn nữa./.
Tác giả
Nguyễn Thị Huyền
MỤC LỤC
3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BTA
CNH, HĐH
DN
ĐTNN
FDI
FTA
IMF
MIGA
UNCTAD
TNCN
TNDN
TPP
TRIMs
WTO
Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Doanh nghiệp
Đầu tư nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
Quỹ tiền tệ quốc tế
Hiệp định thành lập tổ chức bảo đảm đầu tư đa phương
Diễn đàn thương mại và phát triển Liên hợp quốc
Thu nhập cá nhân
Thu nhập Doanh nghiệp
Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương
Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau gần 30 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn và quan trọng cả về kinh tế và xã hội, góp phần nâng
cao đời sống của nhân dân, ổn định chính trị, củng cố an ninh, quốc phòng. Nông
nghiệp là một trong những trụ cột quan trọng của kinh tế, có nhiều tiềm năng và lợi
thế phát triển, song thu hút FDI vào lĩnh vực này vẫn chưa đạt được kết quả như
mong đợi. Trong khi FDI vào nền kinh tế nói chung vẫn được duy trì ở mức khá thì
FDI vào nông nghiệp lại giảm mạnh.
Trong giai đoạn đầu mở cửa, FDI trong lĩnh vực nông nghiệp là giải pháp hữu
hiệu góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam ra khỏi tình trạng bị bao vây, cấm vận.
Trong các giai đoạn tiếp theo, FDI trong nông nghiệp là nguồn vốn bổ sung quan
trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, góp phần đáng kể thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, tăng năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ, khai thông thị trường quốc
tế, gia tăng kim ngạch xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đóng góp
ngân sách nhà nước, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và tạo thêm việc làm.
Trước bối cảnh đó, Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách thúc đẩy, khuyến
khích đầu tư, chính sách mở cửa, cải thiện nhanh môi trường thu hút đầu tư nước
ngoài nhằm đối phó với tình trạng sụt giảm của luồng vốn FDI vào nông nghiệp và
những diễn biến mới của tiến trình toàn cầu hóa. Mặc dù đã đạt được những kết quả
nhất định, nhưng Việt Nam vẫn chưa tận dụng tối ưu cơ hội thu hút FDI vào nông
nghiệp do việc áp dụng các chính sách còn bị các nhà đầu tư cho là rườm rà, chi phí
cao, thiếu minh bạch, trong khi đó hệ thống tòa án thực thi pháp luật còn nhiều hạn
chế. Việc nghiên cứu, hoàn thiện các chính sách thu hút FDI vào nông nghiệp là rất
cần thiết, trước hết là lý giải những vướng mắc trên, sau đó là góp phần làm tăng
sức hấp dẫn cho môi trường đầu tư, tiếp tục công tác thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp.
5
Để góp phần vào công tác thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta, tác
giả đã chọn đề tài: “Hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) vào lĩnh vực nông nghiệp”.
2. Tình hình nghiên cứu
Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp là
một trong những nội dung quan trọng, một yêu cầu cấp bách của đầu tư nước ngoài
hiện nay. Cho đến nay, đã có không ít công trình nghiên cứu đề cập xung quanh
vấn đề trên. Có thể kể đến như:
- Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương (2007), “ Thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp – Thực trạng và giải pháp”. Bài viết đã khái
quát được đặc điểm của nông nghiệp, những thành tựu và khó khăn trong quá trình
thu hút và sử dụng FDI trong lĩnh vực nông nghiệp. Bài viết cũng phân tích được
các nhóm nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan dẫn đến việc thu hút
FDI hiệu quả thấp. Đồng thời, nhận định để ngành nông nghiệp không “đứng
ngoài” làn sóng FDI đổ bộ vào Việt Nam, và để đạt được mục tiêu huy động 1,5 tỷ
USD cho nông – lâm – ngư nghiệp giai đoạn 2006-2010, tần tập trung vào ba nhóm
giải pháp chủ yếu.
- Chu Tiến Quang và Hà Huy Ngọc (2011): “Đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) vào lĩnh vực nông nghiệp thực trạng và chính sách”. Tạp chí Cộng sản ngày
11/5/2011. Các tác giả đã đi sâu vào phân tích thực trạng thu hút FDI vào lĩnh vực
nông nghiệp trong thời gian qua, từ đó đưa ra các nhận định chuẩn xác về tình hình
vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp, phân tích các nguyên nhân, trở ngại dẫn đến
hạn chế động lực đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp. Qua đó
nhóm tác giả cũng đề xuất các nội dung cần thay đổi của chính sách thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp.
Qua quá trình nghiên cứu các đề tài nêu trên có thể thấy một số vấn đề lý luận
liên quan chính sách thu hút FDI trong lĩnh vực nông nghiệp, đánh giá thực trạng và
đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác thu hút FDI trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy
nhiên, cho đến thời điểm hiện nay chưa có công trình nghiên cứu đầy đủ, sâu sắc
6
về: “Hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh
vực nông nghiệp”. Chính vì thế việc nghiên cứu đề tài này là cấp thiết và có tính
mới, không trùng với những nghiên cứu trước đó.
3. Mục đích nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Góp phần đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn sẽ thực hiện các nội dung chủ yếu sau:
(i) Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp.
(ii) Làm rõ thực trạng chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh
vực nông nghiệp ở Việt Nam.
(iii) Đưa ra một số giải pháp hoàn chỉnh chính sách thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận, thực trạng về thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Các chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
lĩnh vực nông nghiệp theo qui định của Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam và các
lần điều chỉnh (2001-2014), các chính sách khác có liên quan đến việc thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng hợp và xử lý dữ liệu: Luận văn thu thập, tổng hợp, phân
tích và đánh giá các tài liệu có sẵn từ nghiên cứu trước đây, kế thừa có chọn lọc
những tài liệu đó.
- Phương pháp phân tích: Luận văn nghiên cứu, phân tích chính sách thu hút
FDI trong lĩnh vực nông nghiệp từ đó rút ra những giải pháp để hoàn thiện.
7
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, Luận văn
dự kiến gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và chính sách
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 2: Thực trạng chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh
vực nông nghiệp ở Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới.
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
VÀ CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1 Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư là một trong những nhân tố chủ yếu quyết định đến sự phát triển của
nền kinh tế quốc dân. Đầu tư là việc sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm biến các
8
lợi ích dự kiến thành hiện thực trong tương lai. Tuy nhiên, trong phạm vi khác nhau,
khái niệm về đầu tư cũng có những điểm khác nhau.
Theo Luật Đầu tư năm 2005 của Việt Nam thì “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ
vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các
hoạt động đầu tư theo quy định của luật đầu tư và các quy định khác của pháp luật
có liên quan”. Theo khái niệm này, đã là đầu tư thì phải bỏ vốn, chính là các tài sản
hữu hình và vô hình để tiến hành các hoạt động đầu tư được pháp luật cho phép,
như vậy tất cả các nhà đầu tư đều được tham gia đầu tư vào tất các lĩnh vực trong
nền kinh tế mà không vi phạm các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, quan niệm
này lại chưa phản ánh được mục tiêu của các nhà đầu tư là phải sinh lợi.
Cũng có quan điểm cho rằng đầu tư là “việc sử dụng các nguồn lực hiện tại
nhằm biến các lợi ích dự kiến thành hiện thực trong tương lai", với quan niệm này đã
nhấn mạnh đến mục đích của đầu tư là thu được lợi ích trong tương lai nhưng lại
chưa phản ánh chủ thể mong muốn thu được lợi ích trong tương lai. Xét trên góc độ
kinh tế, đầu tư là hy sinh tiêu dùng hiện tại để hy vọng có được thu nhập cao hơn
trong tương lai. Đối với từng chủ thể trong nền kinh tế, đó là tạo ra hoặc tăng thêm
lợi ích, những giá trị riêng biệt cho các chủ thể. Đối với toàn bộ nền kinh tế, chính là
tạo ra hoặc gia tăng giá trị tổng thể cho toàn xã hội.
Đầu tư nước ngoài là sự dịch chuyển tài sản như tiền, công nghệ, kỹ năng quản
lý… từ nước này sang nước khác để kinh doanh nhằm thu lợi nhuận cao trên phạm vi
toàn cầu. Vốn FDI là một trong những kênh đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về vốn FDI. Theo Diễn đàn thương mại và
phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD), FDI là một khoản đầu tư bao gồm các mối
quan hệ trong dài hạn, phản ánh lợi ích và quyền kiểm soát lâu dài của một thực thể
thường trú ở một nền kinh tế (nhà đầu tư nước ngoài hay công ty mẹ nước ngoài)
trong một doanh nghiệp thường trú ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà
đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh
hoặc chi nhánh nước ngoài).
9
Đối với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), họ quan niệm rằng “Đầu tư trực tiếp nước
ngoài là vốn đầu tư thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp
hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Mục đích là dành
được tiếng nói có hiệu quả trong quản lý doanh nghiệp đó”. Khái niệm này đã nhấn
mạnh đến tính lâu dài của quá trình đầu tư, chủ đầu tư là nước ngoài, việc đầu tư ở
đây gắn liền với quyền kiểm soát, quyền quản lý.
Theo Luật Đầu tư năm 2005 của Việt Nam thì “Đầu tư trực tiếp là hình thức
đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư” còn “Nhà
đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động
đầu tư tại Việt Nam”, theo đó có thể hiểu FDI là hình thức nhà đầu tư nước ngoài bỏ
vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Như vậy, từ các quan điểm đã nêu ở trên, có thể hiểu FDI là hình thức nhà đầu
tư nước ngoài dịch chuyển tiền, công nghệ… từ nước này sang nước khác đồng thời
nắm quyền quản lý, điều hành với mục đích thu được lợi ích kinh tế từ nước tiếp
nhận đầu tư.
1.1.2 Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, đây là loại hình chu chuyển vốn quốc tế, chủ sở hữu vốn tiến hành
hoạt động đầu tư ở nước ngoài, có nghĩa là doanh nghiệp tiếp nhận vốn FDI không
thuộc quốc gia của chủ đầu tư.
Thứ hai, đây là loại hình đầu tư trực tiếp, nhà đầu tư nước ngoài có quyền điều
hành doanh nghiệp tiếp nhận vốn. Quyền này phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của nhà
đầu tư vào vốn pháp định. Trong trường hợp góp 100% vốn pháp định thì nhà đầu
tư có toàn quyền quyết định hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ ba, thu nhập của chủ đầu tư phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh
và lãi hoặc lỗ được phân chia giữa các chủ đầu tư theo tỷ lệ góp vốn của các bên.
Thứ tư, so với các loại hình đầu tư quốc tế khác, FDI ít chịu sự chi phối của
Chính phủ hơn, đặc biệt ít phụ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa nước chủ nhà
với nước đầu tư.
10
Thứ năm, FDI là loại đầu tư dài hạn và trực tiếp. Do đó, FDI là một khoản vốn
dài hạn tương đối ổn định và không phải là vốn vay nên nước chủ nhà có được một
nguồn vốn dài hạn bổ sung cho đầu tư trong nước và không phải lo trả nợ. Hơn nữa,
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu mà còn có
vốn bổ sung trong quá trình đầu tư của các bên nước ngoài.
Thứ sáu, các chủ đầu tư phải tuân thủ các quy định pháp luật của nước sở tại
đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ bảy, do mục đích của các nhà đầu tư nước ngoài là lợi nhuận nên các lĩnh
vực sản xuất kinh doanh của FDI phần lớn là những lĩnh vực có thể mang lại lợi
nhuận cao.
Thứ tám, về hình thức, các nhà đầu tư có thể thực hiện FDI theo các phương
thức như bỏ vốn thành lập doanh nghiệp mới ở nước ngoài hoặc mua lại một phần
hay toàn bộ các doanh nghiệp có sẵn hoặc mua cổ phiếu tiến tới thôn tính, sáp nhập.
Thứ chín, xu hướng đa cực, đa biên và đa hình thức trong FDI ngày càng rõ
nét, thường nhiều bên cùng tham gia với tỷ lệ vốn góp khác nhau và với các hình
thức tư bản khác nhau như tư bản nhà nước và tư nhân cùng tham gia.
Thứ mười, các nhà đầu tư nước ngoài thường rất tinh thông về thị trường thế
giới và tiến bộ kỹ thuật, hơn nữa hiệu quả FDI gắn liền với lợi ích của chủ đầu tư
nên họ có thể lựa chọn công nghệ, kỹ thuật tiên tiến thích hợp, góp phần nâng cao
trình độ công nghệ, chất lượng nhân lực và khả năng quản lý cho nước tiếp nhận
đầu tư, nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên, cần lưu ý
rằng vì lợi nhuận các nhà đầu tư nước ngoài có thể chuyển giao một số công nghệ
lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, khai thác tài nguyên khoáng sản lãng phí, đẩy các
doanh nghiệp của nước sở tại tới bờ vực phá sản, hoặc làm mất cân đối cơ cấu kinh
tế của nước nhận đầu tư.
1.1.3 Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.3.1 Đối với chủ đầu tư
FDI cho phép bành chướng sức mạnh về nền kinh tế, tăng cường ảnh hưởng
của mình trên thị trường quốc tế, nhờ mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm,
11
lại tránh được hàng rào bảo vệ mậu dịch của các nước nhận đầu tư khi xuất khẩu
sản phẩm là máy móc thiết bị sang nước nhận đầu tư (để góp vốn) và xuất khẩu sản
phẩm tại đây sang các nước khác (do chính sách xuất khẩu ưu đãi của các nước
nhận đầu tư nhằm khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, chuyển giao vốn, công
nghệ và sản xuất hàng xuất khẩu của các cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài) nhờ đó
mà giảm được giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh với hàng nhập của các nước
khác. Phần lớn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các nước, về thực chất
hoạt động như là chi nhánh của công ty mẹ ở chính quốc. Việc xây dựng các nhà
máy sản xuất chế tạo hoặc lắp ráp ở nước sở tại sẽ mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm, phụ tùng của công ty mẹ ở nước ngoài. Đặc biệt thị trường tiêu thụ sản phẩm
nội địa của những nước lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia... có sức hấp dẫn
mạnh mẽ đối với nguồn vốn FDI.
FDI giúp các công ty nước ngoài giảm chi phí sản xuất, rút ngắn thời gian thu
hồi vốn và thu lợi nhuận cao. Nhưng công ty này phần lớn là thuộc những nước
công nghiệp phát triển, mà tỷ suất lợi nhuận ở trong nước có hướng giảm. Mặt khác,
có sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển và sản xuất, mức sống thu
nhập giữa các nước nên đã tạo ra chênh lệch về giá cả và các yếu tố đầu vào của sản
xuất. Do đó, đầu tư ra nước ngoài cho phép lợi dụng các chênh lệch này để giảm chi
phí sản xuất, tăng lợi nhuận... Trước hết, đó là chi phí về lao động. Tiền lương của
người lao động ở Nhật Bản gấp hơn 10 lần lương bình quân lao động trong khối
ASEAN, lương bình quân lao động trong các nước NICS Đông Á cũng gấp 12 lần
lương của Việt Nam. Do đó thời gian qua các nước tư bản phát triển và những nước
công nghiệp mới đã chuyển những ngành sử dụng nhiều lao động sang các nước
đang phát triển để giảm chi phí sản xuất. Việc tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
tại các nước sở tại cũng giúp chủ đầu tư giảm chi phí vận chuyển, tiết kiệm chi phí
quảng cáo, tiếp thị... Do chạy theo lợi nhuận độc quyền cao, các nhà đầu tư sẵn sàng
bỏ mặc nạn thất nghiệp ở các nước phát triển để đầu tư sang những nước có chi phí
rẻ, lợi nhuận cao và như vậy tạo ra công ăn việc làm cho các nước nhận đầu tư.
Ngoài ra, mục tiêu của nhiều dự án nước ngoài là tạo nguồn nguyên liệu, nhiên liệu
12
phục vụ cho nhu cầu phát triển để sản xuất kinh doanh của chủ các chủ đầu tư,
chẳng hạn thăm dò khai thác khí, khoáng sản, tài nguyên biển, rừng, sản phẩm cây
công nghiệp. Nguồn tài nguyên của các nước đang phát triển có nhiều nhưng không
có điều kiện chế biến vì thiếu thốn công nghệ. Do đó, đầu tư vào cả lĩnh vực này sẽ
thu được nguyên liệu thô với giá rẻ và qua chế biến sẽ thu được lợi nhuận cao nhất.
Như vậy, đối với việc đầu tư ra nước ngoài để khai thác lợi thế so sánh của các
nước nhận đầu tư các chủ đầu tư trực tiếp sản xuất được sản phẩm với giá thành hạ hơn
so với sản xuất trong nước, nhờ đó mà các chủ đầu tư này có được ưu thế trong việc
tiêu thụ sản phẩm này trên thị trường thế giới. Nếu các sản phẩm này được nhập trở lại
các nước chủ đầu tư với giá hạ hơn giá sản phẩm này trong nước hoặc của một số nước
khác thì khả năng tiêu thụ sản phẩm này ở chính quốc sẽ mạnh hơn. Cùng với việc đem
tiền để đi đầu tư nước khác và nhập khẩu sản phẩm với nhu cầu cao hơn tự sản xuất
trên đây làm cho nhu cầu đồng nội tệ tăng so với đồng ngoại tệ theo chiều hướng giảm
dần. Sự giảm tỉ giá hối đoái này sẽ có tác dụng khuyến khích các nhà sản xuất tăng
cường xuất khẩu nhờ đó tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
FDI cho phép các công ty nước ngoài kéo dài chu kỳ sống của các sản phẩm
mới được tạo ra trong nước, đổi mới cơ cấu sản xuất, áp dụng công nghệ mới, nâng
cao năng lực cạnh tranh. Đổi mới công nghệ là điều kiện sống còn trong cạnh tranh,
do đó các nhà đầu tư nước ngoài thường chuyển những máy móc công nghệ đã lạc
hậu so với trình độ chung của thế giới để sang nước khác. Điều đó, một mặt giúp các
chủ đầu tư thực chất bán được máy móc cũ để thu hồi vốn nhằm đổi mới thiết bị công
nghệ; kéo dài được chu kỳ sản phẩm của hãng ở các thị trường mới; di chuyển máy
móc gây ô nhiễm môi trường ra nước ngoài và trong nhiều trường hợp còn thu được
đặc lợi do chuyển giao công nghệ đã lạc hậu đối với nước chủ đầu tư nước ngoài.
1.1.3.2 Đối với bên tiếp nhận đầu tư
a. Tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng
Vốn cho đầu tư phát triển bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước
ngoài. Đối với các nước đang phát triển, sản xuất còn ở trình độ thấp nguồn vốn
trong nước còn hạn hẹp thì vốn FDI có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình
13
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ở các nước này, có nhiều tiềm năng về lao động, tài
nguyên thiên nhiên nhưng do trình độ sản xuất còn thấp kém, cơ sở vật chất kỹ
thuật nghèo nàn, lạc hậu nên chưa có điều kiện khai thác các tiềm năng ấy. Các
nước này chỉ có thể thoát khỏi sự nghèo đói bằng cách tăng trưởng đầu tư, phát triển
sản xuất, tạo ra mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Để thực hiện được việc này
các nước đang phát triển cần có nhiều vốn để đầu tư.
Trong điều kiện hiện nay, khi mà trên thế giới có nhiều nước đang nắm trong
tay một khối lượng vốn khổng lồ và có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài thì đó là cơ hội
để các nước đang phát triển có thể tranh thủ nguồn vốn ngắn hạn huy động từ các
ngân hàng hoặc thông qua các khoản đầu tư tài chính khác, FDI có tính ổn định hơn
rất nhiều. Có thể thấy rõ điều này qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-1998.
Trong 18 tháng trước khi cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra, dòng vốn chảy vào bốn
nước bị tác động nặng nề nhất sau này là Inđônêxia, Hàn Quốc, Philippin, Thái Lan
lên tới 86,8 tỷ USD chỉ 18 tháng sau đã có 77,9 tỷ USD thoát lui khỏi các nước này.
Ngược lại, dòng vốn đi vào các nước Châu Á vẫn liên tục tăng từ 71,1 tỷ USD năm
1996 lên 86,9 tỷ USD năm 1999.
Ở nhiều nước đang phát triển, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm tỉ lệ đáng
kể trong tổng nguồn vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế, trong đó có một số nước
hoàn toàn dựa vào vốn FDI, đặc biệt ở giai đoạn đầu của phát triển kinh tế. Ở
Inđônexia sau khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài năm 1967, FDI đã cung cấp một
lượng vốn bình quân trong 27 năm (1967-1994) là 1,15 tỷ USD/năm. FDI đã thực
sự đóng vai trò to lớn đối với phát triển kinh tế và nếu chỉ căn cứ vào thực tại vốn
đầu tư của toàn bộ nền kinh tế thì có thể đánh giá FDI có ý nghĩa quyết định đến
tăng trưởng kinh tế của các nước này.
b. Chuyển giao công nghệ
Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ chuyển vào nước đó
bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...
(hay còn gọi là công nghệ cứng) và vốn vô hình như chuyên gia kỹ thuật công nghệ,
tri thức khoa học, bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị trường... (hay còn gọi là
14
công nghệ mềm). Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, quá trình
chuyển giao công nghệ được thực hiện nhanh chóng và thuận tiện cho cả bên đầu tư
cũng như bên nhận đầu tư. Thực tế cho thấy rằng, kỹ thuật và công nghệ nước ngoài
đã giúp cho Malaixia từ chỗ là một nước kinh tế lạc hậu, kỹ thuật thủ công phân tán,
lực lượng sản xuất kém phát triển đến giữa những năm 1980 đã trở thành một nước
phát triển nhất về găng tay cao su, thứ hai thế giới về chất bán dẫn và tinh thể sơ đồ
tích phân và thứ ba thế giới về máy điều hoà nhiệt độ.
Một trở ngại lớn nhất trên con đường phát triển kinh tế của hầu hết các nước
đang phát triển là trình độ chuyển giao công nghệ còn lạc hậu. Trong thời đại khoa
học kỹ thuật phát triển như hiện nay, thì việc các nước đang phát triển tự phát triển
khoa học kỹ thuật cho kịp với tốc độ phát triển kỹ thuật hiện nay là phải biết tận
dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài thông qua hoạt
động chuyển giao công nghệ. Tiếp nhận FDI là một phương thức cho phép các nước
đang phát triển tiếp nhận khoa học kỹ thuật - công nghệ hiện đại trên thế giới, tuy
nhiên, mức độ hiện đại còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nhưng dù thế nào thì đây
cũng là lợi ích căn bản của các nước tiếp nhận FDI. Trong điều kiện hiện nay, trên
thế giới có nhiều công ty của các quốc gia khác nhau có nhu cầu đầu tư ra nước
ngoài và chuyển giao công nghệ cho nước nhận đầu tư, thì đây là cơ hội cho các
nước đang phát triển có thể tiếp thu được kỹ thuật công nghệ thuận lợi nhất. Nhưng
không phải các nước đang phát triển được "đi xe miễn phí" mà họ phải trả một
khoản học phí không nhỏ cho việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ này. So với
việc nhập khẩu thiết bị và mua bản quyền những cách được áp dụng trước kia để
nâng cao trình độ công nghệ, thì FDI có lợi hơn hẳn bởi "đó là một kênh chuyển
giao trình độ quản lý và kỹ thuật, đi kèm với các nhà máy, thiết bị nước ngoài cũng
như mạng lưới tiếp thị và phân phối". Hơn nữa, trong mọi trường hợp các nước
đang phát triển cũng ít có sự lựa chọn nào khác ngoài việc mở cửa thu hút FDI, bởi
cách mua bản quyền để thay thế cho FDI hiện đã khó khăn hơn rất nhiều so với
trước. Theo các chuyên gia, thách thức mà các nước đang phát triển phải đối mặt là
các nước đang phát triển vẫn phải liên tục xoá đi khoảng cách với những nước dẫn
15
đầu công nghiệp, song họ sẽ phải chuyển dần từ mẫu hình phát triển dựa vào tích
luỹ theo mẫu hình dựa theo sự đổi mới.
c. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tranh thủ vốn và công nghệ của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn sử
dụng nó để thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế.
Đây cũng là điểm nút để các nước đang phát triển ra khỏi vòng luẩn quẩn của sự đói
nghèo. Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy quốc gia nào thực hiện
chiến lược mở cửa với bên ngoài, biết tranh thủ các nhân tố với bên ngoài nó trở
thành nhân tố bên trong thì quốc gia đó sẽ tạo được sự tăng trưởng kinh tế cao.
Bảng 1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tổng sản phẩm trong nước
của một số nước năm 2001 và 2013
2001
2013
Tên nước
FDI
GDP
FDI/GDP
FDI
GDP
FDI/GDP
(Tr.USD) (Tr.USD)
(%)
(Tr.USD) (Tr.USD)
(%)
(A)
(1)
(2)
(3=2/1)
(4)
(5)
(6=4/5)
Singapore
15.087
89.285
16,9
63.772
297.941
21,4
Australia
8.261
378.642
2,2
49.396
1.560.597
3,2
Nhật Bản
6.191
4.159.860
0,1
3.715
4.901.530
0,1
Thái Lan
5.067
115.536
4,4
12.833
387.252
3,3
Philippin
195
76.262
0,3
3.860
272.017
1,4
Malaysia
554
92.784
0,6
11.583
312.435
3,7
Việt Nam
1.300
35.291
3,7
8.900
171.392
5,2
Nguồn:World Bank
Xem xét tình hình tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển trên thế
giới, có thể rút ra một số nhận xét sau:
- Có mức tăng trưởng tỉ lệ thuận giữa tăng trưởng kinh tế với khối lượng vốn
FDI được huy động và sử dụng.
- Sự tăng trưởng gắn liền với mức tăng trưởng xuất khẩu, mức tăng trưởng
kinh tế chủ yếu ở các nước đang phát triển thường do nhân tố đầu tư chủ yếu, nhờ
đó mà các nhân tố khác như tổng số lao động cũng được sử dụng và năng suất lao
16
động cũng tăng theo. Vì vậy, có thể thấy qua tỷ lệ đóng góp của FDI trong GDP để
đánh giá vai trò của FDI với tăng trưởng kinh tế.
d. Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự phát
triển nội tại của nền kinh tế, mà nó còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hoá đời sống
đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, FDI là một hoạt động quan trọng của hoạt động kinh
tế đối ngoại, thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình
phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi từng quốc
gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự
chuyển dịch của mỗi quốc gia phù hợp với trình độ chung trên thế giới sẽ tạo điều
kiện thuận lợi hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ngược lại, chính đầu tư trực tiếp
nước ngoài lại góp phần thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bởi vì:
- Thông qua FDI đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành nghề mới ở nước
nhận đầu tư.
- FDI góp phần vào sự phát triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật công nghệ ở
nhiều ngành kinh tế góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở các ngành này làm
tăng tỉ phần của chúng trong nền kinh tế.
- Một số ngành được khuyến khích phát triển bởi FDI nhưng cũng có nhiều
ngành bị mai một rồi đi đến bị xoá sổ.
e. Trong quan hệ kinh tế quốc tế
Quan hệ kinh tế quốc tế xuất hiện từ khi con người bắt đầu thực hiện hành vi
trao đổi mua bán hàng hoá giữa các quốc gia. Quy mô và phạm vi trao đổi ngày
càng mở rộng, hình thành nên các quan hệ quốc tế gắn bó và phụ thuộc vào nhau
giữa các nước.
FDI là một hoạt động kinh tế đối ngoại ra đời muộn hơn các hoạt động kinh tế
đối ngoại khác vài ba thập kỷ. Nhưng ngay từ khi xuất hiện, vào khoảng cuối thế kỷ
19, FDI đã có vị trí đáng kể trong quan hệ kinh tế quốc tế. Cùng với quá trình phát
triển mạnh mẽ của các quan hệ kinh tế quốc tế, hoạt động FDI không ngừng được
mở rộng và ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Đến
17
nay, FDI đã trở thành xu hướng của thời đại và là nhân tố cơ bản quy định bản chất
các quan hệ kinh tế.
Ngoài những vai trò trên FDI còn có một số vai trò sau:
- Đóng góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước thông qua việc
nộp thuế, phí tiền thuê đất... của các đơn vị đầu tư nước ngoài. Bởi vì, hầu hết
các dự án FDI là sản xuất ra các sản phẩm hướng vào xuất khẩu.
- Cùng với việc tăng khả năng sản xuất, nhập khẩu hàng hoá, FDI còn giúp mở
rộng thị trường trong nước và ngoài nước. Đa số các dự án FDI đều có phương án
bao tiêu sản phẩm. Đây là hiện tượng đa chiều đang trở thành khá phổ biến ở các
nước đang phát triển hiện nay.
- Về mặt xã hội, FDI đã tạo ra nhiều công ăn việc làm mới, thu hút được một
khối lượng đáng kể ở các nước nhận đầu tư vào các đơn vị đầu tư nước ngoài, nâng
cao thu nhập cho người lao động, đồng thời góp phần đào tạo một đội ngũ công
nhân có trình độ kỹ thuật cao.
Điều này góp phần vào việc làm giảm bớt nạn thất nghiệp vốn là tình trạng
nan giải ở nhiều quốc gia. Đặc biệt, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam
nơi có lực lượng lao động dồi dào nhưng không có điều kiện khai thác và sử dụng
được, thì FDI được coi là chiếc chìa khoá quan trọng để giải quyết vấn để này. Bởi
vì, FDI tạo nên điều kiện vốn và kỹ thuật cho phép khai thác và sử dụng tiềm năng
của nền kinh tế trong đó có tiềm năng về lao động.
1.2 Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông
nghiệp.
1.2.1 Đặc điểm, vai trò của nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế- xã hội
1.2.1.1 Đặc điểm của nông nghiệp nước ta
a. Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những cơ thể sống, là các loại cây,
con, các loài sinh vật. Nước ta có nguồn thực vật phong phú đa dạng đặc biệt trong
nền nhiệt cao, ẩm lớn phát triển mạnh các ngành chăn nuôi. Mỗi loại yêu cầu một
điều kiện thích hợp với nó, do đó đòi hỏi xây dựng quy trình sản xuất, có những
cách thức riêng trong quá trình sản xuất, canh tác cho từng loại, từng giống cây
18
trồng, vật nuôi. Cần có kế hoạch để luôn chủ động bảo đảm đủ giống tốt và kịp thời
cho sản xuất.
b. Đất đai là “địa bàn phân bổ cơ sở vật chất xã hội”, là “tư liệu sản xuất cơ
bản của sản xuất nông nghiệp”, đất đai cũng là tài sản đặc biệt ở chỗ diện tích là
hữu hạn, năng suất là vô hạn, có nghĩa là nếu quản lý tốt, sử dụng có hiệu quả thì
với nguồn tài nguyên về đất đai có hạn có thể tạo ra nguồn của cải vô hạn cho đất
nước và nhân dân. Ngành nông nghiệp gắn liền với đất đai, trong nông nghiệp đất
đai là tài sản quý giá nhất. Cùng với sự phát triển nhanh của loài người, của quá
trình đô thị hóa thì đất đai cho nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp (mỗi năm nước ta
mất khoảng 72000 ha đất nông nghiệp), chưa kể đến việc màu mỡ của đất đai đang
ngày càng đi xuống, không thể canh tác được.
Địa hình nước ta đa dạng đi kèm với nguồn nước dồi dào nên có nhiều hình
thức canh tác nông nghiệp như: Đồng bằng thích hợp trồng các cây lương thực, thực
phẩm đặc biệt là cây lúa nước, các cây công nghiệp ngắn ngày, tiến hành thâm canh
tăng vụ, nuôi trồng thủy sản. Miền núi thích hợp trồng cây công nghiệp lâu năm,
chăn nuôi gia súc lớn. Tuy nhiên, nước ta có nhiều đồi núi, bị cắt xẻ mạnh, mưa
nhiều vì vậy tình trạng xói mòn, sạt lở diễn ra gây khó khăn cho hoạt động sản xuất
nông nghiệp.
Đất đai có nhiều loại đất thích hợp với các loại cây trồng khác nhau: Đất
ferarit thích hợp với các loại cây công nghiệp nhiệt đới lâu năm, chăn nuôi gia súc
lớn. Đất phù sa phân bổ chủ yếu ở các đồng bằng thuận lợi phát triển cây lương
thực thực phẩm, hoa màu, chăn nuôi gia súc nhỏ, gia cầm. Tuy vậy, ở trong điều
kiện nhiệt cao, ẩm lớn, đất ra bị thoái hóa cũng là một trong những khó khăn đối với
việc phát triển nông nghiệp nhiệt đới ở nước ta.
c. Phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên:
- Khí hậu: Hiếm có nước nào trong khu vực có điều kiện khí hậu đặc thù như
Việt Nam. Trải dài trên 15 vĩ tuyến, nước ta có nền khí hậu đa dạng: Nam bộ và
Nam Trung bộ là 2 vùng khí hậu nhiệt đới điển hình. Tây Nguyên là vùng khí hậu
nhiệt đới trên cao nguyên, từ Thừa Thiên- Huế trở ra Bắc là vùng khí hậu cận nhiệt
19
đới, trong đó, có một số tiểu vùng khí hậu ôn đới. Nền nhiệt độ đa dạng đó cùng với
lượng mưa hàng năm lớn, ánh sáng dồi dào tạo điều kiện tự nhiên để phát triển nền
nông nghiệp mang bản sắc riêng của Việt Nam. Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa với
nền nhiệt cao, độ ẩm lớn, thiên nhiên phân hóa đa dạng tạo điều kiện cho hoạt động
sản xuất nông nghiệp của nước ta diễn ra quanh năm; áp dụng hiệu quả các biện pháp
thâm canh, xen canh, tăng vụ; có sự chuyển dịch mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi
đa dạng gồm những cây trồng, vật nuôi nhiệt đới, cận nhiệt, ôn đới. Tuy nhiên, nước
ta có nhiều thiên tai (lũ lụt, hạn hán, bão, rét đậm, rét hại…) tạo ra tính bấp bênh
không ổn định của sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra khí hậu còn có sự phân hóa theo
mùa, cùng với điều kiện kỹ thuật chưa mạnh nên sản xuất nông nghiệp còn mang
tính chất mùa vụ, bấp bênh, năng suất cây trồng, vật nuôi chưa cao. Hơn nữa, còn có
một vụ khô diễn ra sâu sắc (đặc biệt các tỉnh phía Nam), tình trạng thiếu nước nghiêm
trọng ảnh hưởng rất lớn tới quy mô, cơ cấu, năng suất cây trồng, vật nuôi.
d. Là ngành sản xuất mang tính chất thời vụ, có tính chu kỳ sản xuất kéo dài:
Trong ngành nông nghiệp, mỗi loại sản phẩm chỉ sản xuất được trong một
mùa nhất định do những yêu cầu tính chất sinh lý của nó. Tính thời vụ trong sản
xuất nông nghiệp dẫn tới tính thời vụ trong việc sử dụng các yếu tố sản xuất, nhất là
sức lao động và công cụ lao động. Do vậy, khi thực hiện chuyên môn hóa phải chú
ý phát triển sản xuất đa dạng, kết hợp hợp lý các ngành sản xuất, xây dựng cơ cấu
cây trồng và hệ thống luân canh khoa học. Có kế hoạch và tổ chức thực hiện tốt các
khâu chăm sóc, thu hoạch, bảo quản chế biến, tiêu thụ nông sản. Hơn nữa, chu kỳ
sản xuất trong ngành nông nghiệp là kéo dài, không như ngành khác có chu kỳ sản
xuất ngắn, chu kỳ của ngành nông nghiệp thường không giống nhau có những giống
cây trồng có chu kỳ là 3-4 tháng, hoặc 1 năm hoặc thậm chí là 5 năm hay lâu hơn
nữa (cà phê, tiêu, điều, các loại cây ăn quả lâu năm...).
e. Khả năng sinh lợi ngành nông nghiệp là không cao.
Yếu tố này được khẳng định bởi tính chất của hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Chu kỳ sản xuất kéo dài, giá trị sản phẩm nông nghiệp không cao, sản phẩm chủ
yếu là hàng thứ cấp, giá cả không ổn định, lại phụ thuộc vào tự nhiên nên không thể
20
lường trước được kết quả sản xuất kinh doanh, nếu được mùa, giá cả nông sản sẽ
giảm theo quy luật cung cầu, nếu mất mùa, giá tăng nhưng tính ra nông dân cũng
không được lợi do sản lượng thấp. Nếu muốn tăng giá trị cho nông sản thì kéo dài
chuỗi giá trị của nó, tức là gắn liền với công nghiệp chế biến.
Bên cạnh đó, nền nông nghiệp Việt Nam cũng có nhưng đặc điểm riêng. Nền
nông nghiệp Việt Nam là nền nông nghiệp mang tính chất lạc hậu, tự cung tự cấp do
thói quen canh tác lâu đời, năng suất lao động thấp do chủ yếu lao động chân tay.
Ruộng đất canh tác thì đang giảm đi nhanh chóng do nhiều nguyên nhân trong đó có
sự phát triển nhanh của quá trình đô thị hóa, cũng một phần do công tác quy hoạch
chưa cao. Khí hậu Việt Nam lại rất khắc nghiệt do nằm trong vùng nhiệt đới gió
mùa, gây ảnh hưởng và tổn thất không nhỏ cho sản xuất nông nghiệp. Mục đích
của các nhà đàu tư luôn là lợi nhuận cao, thu hồi vốn nhanh. Nhưng do đặc điểm
của ngành nông nghiệp mà việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông ngiệp
còn hạn chế, vốn đầu tư thu hút vào nông nghiệp có tỷ lệ nhỏ hơn nhiều so với
ngành khác.
1.2.1.2 Vai trò của nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế- xã hội
Nông nghiệp có đóng góp quan trọng cho nền kinh tế, đặc biệt trong giai đoạn
khủng hoảng kinh tế. Sản xuất nông nghiệp đã có sự tăng trưởng khá toàn diện theo
hướng sản xuất hàng hóa, bước đầu đã hình thành một nền sản xuất hàng hóa, nhiều
vùng chuyên canh đã được xác lập, một số hàng nông sản của Việt Nam đã được thị
trường thế giới biết đến và khẳng định vị thế trên thị trường thế giới. Từ khi ra đời
đến nay, nông nghiệp luôn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế nói
chung và đảm bảo sự sinh tồn của loài người nói riêng, nông nghiệp có ý nghĩa
quyết định đối với toàn bộ thế giới. Vai trò to lớn của nông nghiệp được thể hiện ở
các điểm sau:
Thứ nhất: Nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm cho nhu cầu của xã hội.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản, giữ vai trò to lớn trong việc
phát triển kinh tế ở hầu hết cả nước, nhất là ở các nước đang phát triển. Ở những
nước này còn nghèo, đại bộ phận sống bằng nghề nông. Tuy nhiên ở những nước có
21
nền công nghiệp phát triển cao, mặc dù tỷ trọng GDP nông nghiệp không lớn,
nhưng khối lượng nông sản cuả các nước này khá lớn và không ngừng tăng, đảm
bảo cung cấp đủ cho đời sống cho con người những sản phẩm tối cần thiết đó là
lương thực, thực phẩm. Lương thực thực phẩm là yếu tố đầu tiên, có tính chất quyết
định sự tồn tại phát triển của con người và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Xã hội càng phát triển, đời sống của con người ngày càng được nâng cao thì nhu
cầu của con người về lương thực, thực phẩm cũng ngày càng thay đổi cả về số
lượng, chất lượng và chủng loại. Điều đó do tác động của hai nhân tố: sự gia tăng
dân số và nhu cầu nâng cao mức sống của con người.
Thực tiễn lịch sử các nước trên thế giới đã chứng minh, chỉ có thể phát triển
kinh tế một cách nhanh chóng, chừng nào quốc gia đó đã có an ninh lương thực.
Nếu không đảm bảo an ninh lương thực thì khó có sự ổn định chính trị và thiếu sự
đảm bảo cơ sở pháp lý, kinh tế cho sự phát triển, từ đó sẽ làm cho các nhà kinh
doanh không yên tâm bỏ vốn vào đầu tư dài hạn.
Thứ hai: Nông nghiệp cung cấp yếu tố đầu vào cho phát triển công nghiệp và
khu vực đô thị.
Nông nghiệp của các nước đang phát triển là khu vực dự trữ và cung cấp lao
động cho phát triển công nghiệp và đô thị. Khu vực nông nghiệp còn cung cấp
nguồn nguyên liệu to lớn cho công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Thông
qua công nghiệp chế biến, giá trị của sản phẩm nông nghiệp nâng lên nhiều lần,
nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hoá, mở rộng thị trường…
Khu vực nông nghiệp là nguồn cung cấp vốn lớn nhất cho sự phát triển kinh tế
trong đó có công nghiệp, nhất là giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, bởi vì đây là
khu vực lớn nhất, xét cả về lao động và sản phẩm quốc dân. Nguồn vốn từ nông
nghiệp có thể được tạo ra bằng nhiều cách, như tiết kiệm của nông dân đầu tư vào
hoạt động phi nông nghiệp, thuế nông nghiệp, ngoại tệ thu được do xuất khẩu nông
sản trong đó thuế có vị trí rất quan trọng.
Thứ ba: Là thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm hàng hóa của nông nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ.
22
Đối với nước ta hiện nay hơn 70% dân số sống ở nông thôn đang đòi hỏi công
nghiệp, dịch vụ phải cung cấp một khối lượng lớn các loại tư liệu sản xuất cũng như
hàng tiêu dùng. Sản xuất nông nghiệp phát triển, đời sống kinh tế của nông dân
được đảm bảo sẽ góp phần ổn định chính trị - xã hội, an ninh trật tự được giữ vững,
từng bước đô thị hóa nông thôn.
Thứ tư: Nông nghiệp là ngành cung cấp khối lượng hàng hóa lớn để xuất khẩu
mang lại nguồn ngoại tệ cho đất nước.
Nông nghiệp được coi là ngành đem lại nguồn thu nhập ngoại tệ lớn. Các sản
phẩm nông, lâm, thủy sản dễ dàng gia nhập thị trường quốc tế hơn so với các hàng
hóa công nghiệp. Vì thế, ở các nước đang phát triển, nguồn xuất khẩu để có ngoại tệ
chủ yếu dựa vào các sản phẩm nông, lâm, thủy sản. Tuy nhiên xuất khẩu nông, lâm
thuỷ sản thường bất lợi do giá cả trên thị trường thế giới có xu hướng giảm xuống,
trong lúc đó giá cả sản phẩm công nghiệp tăng lên, tỷ giá kéo khoảng cách giữa
hàng nông nghiệp và hàng công nghệp ngày càng mở rộng làm cho nông nghiệp,
nông thôn bị thua thiệt so với công nghiệp và đô thị. Gần đây một số nước đa dạng
hoá sản xuất và xuất khẩu nhiều loại nông, lâm, thuỷ sản, nhằm đem lại nguồn
ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Bộ Nông nghiệp cho biết, kim ngạch xuất khẩu
nông, lâm, thủy sản năm 2014 đạt 30,54 tỷ USD; tăng 10% so với năm 2013. Theo
Tổng cục Thống kê tính chung 9 tháng năm nay, về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, hai
nhóm hàng nông, lâm, thủy sản giảm, trong đó hàng nông, lâm sản đạt 12,8 tỷ USD,
chiếm 10,6% tổng kim ngạch xuất khẩu (cùng kỳ 2014 chiếm 12,3%), giảm 5,6% so
với cùng kỳ năm trước (cà phê và gạo giảm nhiều cả về lượng và giá trị); hàng thủy
sản đạt 4,7 tỷ USD, chiếm 3,9% (cùng kỳ năm trước chiến 5,2%) và giảm 17%.
Trong khi đó, thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn nhất của nước ta vẫn là Hoa Kỳ với
kim ngạch là đạt 24,9 tỷ USD, tăng 19,6% so với cùng kỳ năm 2014. Tiếp đó là các
thị trường như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc…
Thứ năm: Nông nghiệp là khu vực cung cấp lao động phục vụ công nghiệp và
các lĩnh vực hoạt động khác của xã hội.
23
Nông nghiệp là nơi tập trung nhiều lao động nhất ở nước ta, tuy nhiên năng
suất lao động trong nông nghiệp lại thấp, điều đó có nghĩa là có khả năng chuyển
lao động ra khỏi nông nghiệp và đưa vào hoạt động có năng suất cao hơn, tức là bổ
sung lực lượng lao động cho công nghiệp và các ngành khác của nền kinh tế quốc
dân. Nhưng thực tế cung lao động “không hạn chế” nghĩa là tiền lương khu vực
hiện đại sẽ không tăng khi lao động di chuyển từ ngành truyền thống sang ngành
hiện đại. Từ đó tạo ra lợi nhuận để tái đầu tư vào công nghiệp.
Thứ sáu: Nông nghiệp trực tiếp tham gia vào việc giữ gìn cân bằng sinh thái,
bảo về tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
Quá trình phát triển nông nghiệp gắn liền với việc sử dụng thường xuyên đất
đai, nguồn nước, các loại hóa chất... với việc trồng và bảo vệ rừng, luân canh cây
trồng, phủ xanh đất trồng, đồi trọc... Tất cả điều đó đểu có ảnh hưởng lớn tới môi
trường. Chính việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái đó là
điều kiện để sản xuất nông nghiệp có thể phát triển và đạt hiệu quả cao.
Tại các nước đang phát triển như ở nước ta, nông nghiệp là ngành có liên quan
trực tiếp đến việc làm, thu nhập và đời sống của đại đa số dân cư. Vì vậy, nông
nghiệp có tầm quan trọng hàng đầu đối với môi trường sinh thái.
1.2.2 Khái niệm về chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nếu xét trên phương diện cụ thể, trong quản lý và điều hành nền kinh tế của
Nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, có thể khái quát: Chính sách đầu tư
nước ngoài là các quyết định của nhà nước, của các cấp nhằm quản lý và sử dụng
có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản.
Chính sách đầu tư nước ngoài phản ánh các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp,
công cụ, các nguyên tắc và phương thức hành động của Nhà nước trong hoạt động
đầu tư nước ngoài nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng của
đất nước.
Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm một hệ thống các quy
định, chính sách thích hợp mà Nhà nước áp dụng để tạo điều kiện thuận lợi, tăng
tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài khi nhà đầu tư nước ngoài thực hiện
24
đầu tư vào các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế quốc gia trong một thời kỳ nhất
định, nhằm đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô đã định trong chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của quốc gia đó.
Chính sách thu hút vốn FDI tại Việt Nam đã được thực hiện ngay từ khi Việt
Nam tiến hành cải cách kinh tế và được thể chế hóa thông qua ban hành Luật Đầu
tư Nước ngoài năm 1987. Cho đến nay, Luật Đầu tư Nước ngoài đã được sửa đổi và
hoàn thiện nhiều lần. Những thay đổi quan trọng trong chính sách thu hút FDI qua
các kỳ sửa đổi Luật Đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam chủ yếu là về hoàn thiện trình
tự đăng ký; khuyến khích đầu tư, ban hành danh mục dự án kêu gọi đầu tư; đất đai;
về tỷ giá; xuất nhập khẩu; thuế. Xu hướng chung của thay đổi chính sách Việt Nam
là ngày càng nới rộng quyền, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước
ngoài và thu hẹp sự khác biệt về chính sách đầu tư giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư
trong nước. Những thay đổi này thể hiện nỗ lực của Chính phủ trong cải thiện, tạo
môi trường đầu tư chung theo xu hướng hội nhập của Việt Nam.
Bên cạnh diễn biến về thu hút vốn FDI và thực tiễn hoạt động của khu vực có
vốn FDI, những thay đổi trong chính sách thu hút FDI của Việt Nam trong gần 30
năm qua còn xuất phát từ ba yếu tố khác, đó là: (1) sự thay đổi về nhận thức và
quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với khu vực có vốn FDI; (2) chính sách thu
hút FDI của các nước trong khu vực và trên thế giới, tạo nên áp lực cạnh tranh đối
với dòng vốn đầu tư FDI vào Việt Nam và; (3) những cam kết quốc tế của Việt Nam
về đầu tư nước ngoài. Phân tích dưới đây sẽ đề cập tới từng yếu tố đó, đồng thời
nêu lên những thách thức đối với việc tiếp tục hoàn thiện chính sách và luật pháp về
FDI tại Việt Nam trong những năm tới.
1.2.3 Vai trò của chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh
vực nông nghiệp.
1.2.3.1 Bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp
Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp tạo
điều kiện thuận lợi để thu hút một lượng lớn vốn ĐTNN vào nông nghiệp và mức
độ tác động phụ thuộc quan trọng vào chính sách của nước chủ nhà. Những nước có
25
chính sách thu hút đầu tư nước ngoài hợp lý thường thành công trong thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài và mang lại nguồn vốn lớn. Ngoài ra các chính sách thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp còn có thể lái được các nhà
đầu tư hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế, địa bàn kinh tế mà chúng ta lựa chọn.
Sau gần 30 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, FDI là nguồn bổ sung vốn
cho quá trình phát triển khi mà nguồn vốn trong nước không đáp ứng nhu cầu, đối
với ngành nông nghiệp lại có vai trò quan trọng hơn do đặc điểm của ngành nông
nghiệp mà nguồn vốn vào ngành này lại càng trở lên ít ỏi. Hiện nay, tỷ trọng vốn
đầu tư nước ngoài vào trong nông nghiệp là chưa cao, Trong năm 2014, Theo số
liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, Việt Nam thu hút
được 1843 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mới, và 749 dự án đăng ký tăng
vốn với tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm đạt 21,92 tỷ USD. Tuy nhiên,
lĩnh vực nông, lâm, thủy sản chỉ thu hút được 28 dự án mới và 17 dự án tăng vốn,
với tổng vốn đăng ký đạt 136,4 triệu USD, chiếm hơn 0,6% tổng vốn đầu tư FDI.
Như vậy, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp là rất lớn, trong khi, vốn
FDI vào nông nghiệp còn thấp. Nhưng không thể phủ nhận vai trò của chính sách
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp trong việc bổ sung
nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp.
1.2.3.2 Góp phần chuyền đổi cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại
hóa, đa dạng hóa và nâng cao giá trị sản phẩm
Mặc dù nguồn vốn đầu tư còn hạn chế song các dự án FDI đã góp phần không
nhỏ trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển sản xuất hàng hóa
quy mô lớn, nâng cao giá trị xuất khẩu cho nông sản Việt Nam, trên cơ sở phát huy
các lợi thế so sánh và áp dụng các công nghệ mới, công nghệ cao có khả năng canh
tranh khi tham gia hội nhập. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính từ
năm 1998 đến năm 2012, lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp đã thu hút 562 dự án FDI
với tổng vốn đăng ký là trên 2,942 tỷ USD và tổng vốn thực hiện 2,958 tỷ USD, 89
dự án liên doanh và các hình thức khác với tổng vốn đăng ký là 233,731 triệu USD