Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

luận văn thạc sĩ một số giải pháp nâng cao chất lƣợng đào tạo tại trƣờng cao đẳng công nghệ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.12 KB, 96 trang )

1
1
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ
Cán bộ chấm phản biện 1:..................................................................
(Ghi rõ họ, tên, học hàm, học vị)
Cán bộ chấm phản biện 2:..................................................................
(Ghi rõ họ, tên, học hàm, học vị)
Luận văn thạc sĩ được bảo vệ tại:
HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN THẠC SĨ
HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ
Ngày ... tháng ... năm 20..


2
2
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BẢN XÁC NHẬN CHỈNH SỬA LUẬN VĂN THẠC SĨ
Họ và tên tác giả luận văn: DƯƠNG THỊ CƯỜNG
Đề tài luận văn: Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo tại Trường
Cao đẳng Công nghệ Hà Nội.
Chuyên ngành: Quản lý khoa học và công nghệ.
Mã số: 60 34 04 12
Cán bộ hướng dẫn: Tiến sĩ, Trịnh Đình Cường.
Tác giả, cán bộ hướng dẫn khoa học và Hội đồng chấm luận văn xác nhận tác
giả đã sửa chữa, bổ sung luận văn theo biên bản họp Hội đồng
ngày….........................………… với các nội dung sau:
…………………………………………………………………………………..
………………..
………………………………………………………………………………………


……………..
………………………………………………………………………………………
……………..……………………
Ngày ..... tháng .... năm 20...
Cán bộ hướng dẫn

Tác giả luận văn

TS. Trịnh Đình Cường

Dương Thị Cường


3
3

CHỦ TỊCH HOẶC THƯ KÝ HỘI ĐỒNG
Tôi xin cam đoan:
Những kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là hoàn toàn trung
thực, của tôi, không vi phạm bất cứ điều gì trong luật sở hữu trí tuệ và pháp luật
Việt Nam. Nếu sai, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Dương Thị Cường


4
4



5
5
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Họ và tên học viên: DƯƠNG THỊ CƯỜNG
Chuyên ngành: Quản lý khoa học và công nghệ;

Khoá: 26A

Cán bộ hướng dẫn: Tiến sĩ, Trịnh Đình Cường
Tên đề tài: Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo tại Trường Cao
đẳng Công nghệ Hà Nội.
Tóm tắt:...


6
6
MỤC LỤC


7
7
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU


8
8
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Số lượng ngành nghề đào tạo của trường CĐCN Hà Nội
Bảng 2.2. Các hình thức đào tạo của trường CĐCN Hà Nội
Bảng 2.3. Số chương trình và học phần của các chuyên ngành đào tạo

Bảng 2.4: Cơ cấu, trình độ đội ngũ giáo viên trong 3 năm 2013 – 2015
Bảng 2.5: Cơ cấu giáo viên theo độ tuổi (đến thời điểm 01/11/2015)
Bảng 2.6. Thực trạng công tác bồi dưỡng trình độ đội ngũ giáo viên
Bảng 2.7. Những thành tích đạt được của cán bộ, giáo viên
Bảng 2.8. Thực trạng nhà làm việc, phòng học và xưởng thực hành
Bảng 2.9: Thực trạng ký túc xá và bếp ăn tập thể tính đến 01/11/2015
Bảng 2.10: Thực trạng thiết bị và máy móc tính đến 01/11/2015
Bảng 2.11: Kết quả học tập năm thứ nhất của SVCĐ khóa 5, 6, 7
Bảng 2.12: Kết quả học tập năm thứ 2, thứ 3 của SVCĐ khóa 5
Bảng 2.13: Kết quả học tập của SV TCCN khóa 2, 3
Bảng 2.14. Kết quả tham gia và dự thi học sinh giỏi
Bảng 2.15: Kết quả phân loại đạo đức, thi tốt nghiệp
Bảng 2.17: Cơ sở xây dựng chương trình đào tạo của Nhà trường
Bảng 2.18: Chất lượng chương trình đào tạo của Nhà trường
Bảng 2.19: Cơ sở vật chất kỹ thuật của Nhà trường
Bảng 2.16: Bảng tổng hợp việc làm của SV tốt nghiệp khóa 3,4,5


9
9
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1. Quá trình Kiểm soát chất lượng
Sơ đồ 2: Đảm bảo chất lượng như một hệ thống tránh lỗi trước và trong lúc có sự cố
.....................................................................................................................................20
Sơ đồ 3. Quản lý chất lượng tổng thể trong GDĐH
Sơ đồ 2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy của trường CĐCN Hà Nội
Sơ đồ 2.2. Tính liên thông các hệ, ngành đào tạo của trường CĐCN Hà Nội


10


MỞ ĐẦU
Giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của
mỗi quốc gia, dân tộc. Nhiều quốc gia trên thế giới đã đạt được những thành tựu to
lớn trong quá trình phát triển nhờ sớm coi trọng vai trò của giáo dục và đào tạo như:
Nhật Bản với quan điểm coi “Giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu; cần kết hợp
hài hoà giữa bản sắc văn hóa lâu đời phương Đông với những tri thức Phương Tây
hiện đại”; hay Singapore với phương châm “Thắng trong cuộc đua về giáo dục sẽ
thắng trong cuộc đua về phát triển kinh tế”; cường quốc như Mỹ cũng luôn chú trọng
đến việc “Tập trung cho đầu tư giáo dục - đào tạo và thu hút nhân tài”; một người bạn
lớn của Việt Nam là Liên xô trước đây cũng đã khẳng định “Chính sách về con người
là điểm bắt đầu và là điểm kết thúc của mọi chính sách kinh tế - xã hội”.
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn thế hệ trẻ “Non sông Việt
Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang
sánh vai cùng các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần
lớn ở công học tập của các cháu” hay “Vì lợi ích 10 năm phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm phải trồng người”.
Lời dạy của Người chứa đựng toàn bộ giá trị chân lý của thời đại mang tên
Người. Để không bị tụt hậu, để xây dựng và phát triển thành công một đất nước độc
lập tự do theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì rất cần phải nhận thức rõ hơn nữa vị
trí và vai trò của giáo dục và đào tạo.
Trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã luôn khẳng định giáo dục
và đào tạo là quốc sách hàng đầu, được ưu tiên đi trước một bước so với các chính sách
phát triển kinh tế - xã hội khác. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã có nhiều quan điểm
chỉ đạo về phát triển giáo dục và đào tạo. Ngày 03/ 9/1945, trong phiên họp đầu tiên của
Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày sáu nhiệm vụ cấp bách, trong đó
có nhiệm vụ về giáo dục: Diệt giặc dốt.
Giáo dục và đào tạo là nền tảng của sự phát triển khoa học và công nghệ, kinh
tế - xã hội. Khoa học và công nghệ ngày càng phát triển, đòi hỏi giáo dục và đào tạo



11

cần phải đổi mới kịp thời nội dung, phương pháp dạy và học. Việc đổi mới giáo dục
đang diễn ra trên quy mô toàn cầu. Hầu hết các quốc gia hướng tới một nền giáo
dục lành mạnh, hiệu quả, thiết thực, trực tiếp phục vụ cho phát triển, hội nhập và
hợp tác.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định "Đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hóa, dân
chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt” và “Giáo dục và đào tạo
có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần
quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam". Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã định hướng: "Phát triển và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến
lược".
Hiện nay các cơ sở giáo dục và đào tạo được mở rộng, số lượng trường, lớp,
giáo viên học sinh tăng lên, hệ thống các cơ sở dạy nghề, hệ thống các trường cao
đẳng, đại học được tăng về số lượng, phát triển về chất lượng. Trường Cao đẳng
Công nghệ Hà Nội được thành lập năm 2007 cũng nằm trong tiến trình đầu tư cho
phát triển giáo dục và đào tạo.
Giáo dục và đào tạo có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội, đặc biệt là giáo dục cao đẳng - lĩnh vực có nhiệm vụ đào tạo đội ngũ
lao động trình độ thực hành cao. Với vị trí quốc sách hàng đầu, giáo dục và đào tạo có
vai trò là nền tảng, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi nguồn lực con
người được coi là yếu tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia thì phát triển giáo
dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu để quyết định chất lượng con người, là nền
tảng của chiến lược con người.
Trường CĐCN Hà Nội hiểu rõ tầm quan trọng sứ mệnh của mình nên từ khi được
thành lập đến nay luôn đề rõ mục tiêu: đào tạo đội ngũ nhân lực vừa hồng vừa chuyên để

xây dựng và phát triển Thủ đô nói riêng và cả nước nói chung.
Từ những vấn đề nêu trên, với kinh nghiệm thực tế quản lý kết hợp với những
kiến thức khoa học quản lý được trang bị trong khóa học, tác giả chọn đề tài “Một


12

số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo tại trường Cao đẳng Công nghệ Hà Nội”
cho luận văn tốt nghiệp cao học.
Mục đích của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng chất lượng đào tạo ở Trường Cao
đẳng Công nghệ Hà Nội, đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo của nhà trường trong giai đoạn hiện nay.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo tại Trường Trường
Cao đẳng Công nghệ Hà Nội.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận nhằm thu thập các thông tin lý luận để xây dựng cơ sở lý luận
có liên quan đến quá trình đào tạo, lý luận dạy - học, mục tiêu, nội dung, phương pháp
dạy - học, các biện pháp nâng cao chất lượng công tác đào tạo...
Nghiên cứu thực tiễn nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây dựng cơ sở
thực tiễn của đề tài. Thống kê toán học để xử lý các số liệu.
Cấu trúc và nội dung của luận văn gồm: Ngoài phần Mở đầu và Kết
luận, nội dung cơ bản của luận văn kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng đào tạo
Chương 2: Thực trạng về chất lượng đào tạo tại Trường Cao đẳng Công
nghệ Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo tại Trường
Trường Cao đẳng Công nghệ Hà Nội.



13

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
1.1. Một số khái niệm cơ bản
Một xã hội văn minh không thể thiếu một nền giáo dục đại học (GDĐH) tiên
tiến, tạo ra những con người giàu sức sáng tạo. Vai trò của GDĐH càng trở nên vô
cùng quan trọng trong một thời đại được mệnh danh là thời đại của kinh tế tri thứ.
Vì vậy, chất lượng GDĐH có ý nghĩa quan trọng và ảnh hưởng đến sự thịnh suy của
đất nước. Xác định nội hàm khái niệm chất lượng GDĐH hết sức cần thiết trong nỗ
lực đảm bảo và không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo.
Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, chất lượng GDĐH dịch chuyển
từ đảm bảo chất lượng tiến dần sang chất lượng thỏa mãn nhu cầu của khách hàng
và thông qua khách hàng. Điều này làm thay đổi quan điểm về chất lượng GDĐH.
Trong đó, vấn đề thỏa mãn nhu cầu, kì vọng của khách hàng được quan tâm hàng
đầu. Với cách tiếp cận thông qua khách hàng, các trường đại học, cao đẳng, bên
cạnh đảm bảo chất lượng sản phẩm đào tạo còn chú trọng đến việc thỏa mãn nhu
cầu của khách hàng và đánh giá chất lượng sản phẩm đào tạo của nhà trường thông
qua khách hàng.
Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và những thay đổi của môi trường, đòi hỏi
trường đại học, cao đẳng phải có chiến lược tìm hiểu từ khách hàng, đo lường sự hài lòng
của khách hàng và xây dựng mối quan hệ với khách hàng. Nhu cầu của khách
hàng phải được liên kết chặt chẽ với chiến lược của nhà trường. Những thông
tin liên quan đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn của khách hàng đóng vai trò
quan trọng, bởi vì, thông tin này là cơ sở cho việc cải tiến sự thỏa mãn, đáp ứng
nhu cầu của khách hàng. Chỉ có như vậy, sản phẩm đào tạo của các trường đại
học, cao đẳng sẽ đáp ứng được nhu cầu của xã hội và của khách hàng sử dụng
lao động, đồng thời, làm tăng uy tín, thương hiệu của nhà trường.
Giáo dục đại học từ lâu là đòn bẩy của sự phát triển nền kinh tế quốc gia và là

hy vọng thay đổi số phận của hàng triệu con người trên thế giới. Trong đó, GDĐH
luôn đóng một vai trò quan trọng, bởi lẽ, chính GDĐH đóng góp phần lớn trong


14

việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước với phẩm chất đạo đức
tốt, giỏi về chuyên môn, giàu óc sáng tạo, có đủ năng lực bắt kịp với tốc độ hội
nhập và phát triển của thế giới. Sản phẩm đào tạo của các trường đại học, cao đẳng
quyết định gần như toàn bộ chất lượng nguồn nhân lực của đất nước. Chính vì vậy,
chất lượng GDĐH được xem là một trong những yếu tố quan trọng vào bậc nhất
thúc đẩy sự phát triển của đất nước và luôn là vấn đề nhận được sự quan tâm của
toàn xã hội.
Mặc dù, có tầm quan trọng như vậy nhưng chất lượng GDĐH vẫn là một khái
niệm khó định nghĩa, khó xác định, khó đo lường và cách hiểu của người này cũng
khác so với người kia.
Định nghĩa chất lượng GDĐH là việc làm thiết thực nhằm giúp các trường đại
học, cao đẳng thiết lập các chuẩn mực chất lượng và đề xuất các giải pháp đảm bảo và
nâng cao chất lượng của nhà trường. Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, khái
niệm chất lượng GDĐH cần phải được xác định một cách toàn diện với cách tiếp cận
mới, đó là, tiếp cận thông qua khách hàng.
1.1.1. Chất lượng giáo dục đại học
Sự toàn cầu hóa, công nghệ cao, đặc biệt công nghệ thông tin, kinh tế tri thức, xã
hội thông tin, xã hội học tập… Những xu thế mới này đặt ra những vận hội và thách
thức mới cho GDĐH. Hơn thế nữa, trong xu thế hội nhập hiện nay, khi các nền giáo
dục của các châu lục, các quốc gia dần tiến đến việc công nhận bằng cấp, chương trình
đào tạo của nhau thì vấn đề chất lượng GDĐH có ý nghĩa hết sức quan trọng.
1.1.1.1. Các quan điểm về chất lượng giáo dục - đào tạo
Chất lượng là một khái niệm quá quen thuộc với loài người ngay từ thời cổ
đại. Tuy nhiên, khái niệm chất lượng nói chung, chất lượng GDĐH nói riêng là một

khái niệm gây nhiều tranh cãi. Nguyên nhân bắt nguồn từ nội hàm phức tạp của
khái niệm “Chất lượng” với sự trừu tượng và tính đa diện, đa chiều của khái niệm
này. Ví dụ, đối với cán bộ giảng dạy và sinh viên thì ưu tiên của khái niệm chất
lượng phải là ở quá trình đào tạo, là cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho quá trình
giảng dạy và học tập. Còn đối với những người sử dụng lao động, ưu tiên về chất


15

lượng của họ lại ở đầu ra, tức là ở trình độ, năng lực và kiến thức của sinh viên khi
ra trường...
Do vậy, không thể nói đến chất lượng như một khái niệm nhất thể, chất lượng
cần được xác định kèm theo mục tiêu hay ý nghĩa của nó. Điều này đặt ra một yêu
cầu phải xây dựng một hệ thống rõ ràng, mạch lạc các tiêu chí với những chỉ số
được lượng hóa, nêu rõ các phương thức đảm bảo chất lượng và quản lý chất lượng
sẽ được sử dụng trong và ngoài.
Chất lượng GDĐH được định nghĩa rất khác nhau tùy theo từng thời điểm và
giữa những người quan tâm: Sinh viên, giảng viên, người sử dụng lao động, các tổ
chức tài trợ và các cơ quan kiểm định; trong nhiều bối cảnh, nó còn phụ thuộc vào
tình trạng phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước.
Harvey và Green đề cập đến năm khía cạnh chất lượng GDĐH và đã được
nhiều tác giả khác thảo luận, công nhận và phát triển:
- Chất lượng là sự vượt trội;
- Chất lượng là sự hoàn hảo;
- Chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu;
- Chất lượng là sự đáng giá về đồng tiền để đầu tư;
- Chất lượng là sự chuyển đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác.
Ở Anh, các khái niệm “chất lượng” và “đáng giá đồng tiền” đã trở thành những
vấn đề trọng tâm của GDĐH. Các khái niệm này và các nguyên tắc chất lượng được
thể hiện rất rõ ràng trong các mục tiêu GDĐH của Chính phủ. Bộ Thương mại và

Công nghiệp của nước Anh định nghĩa chất lượng như sau: “Chất lượng... đơn giản là
đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng”.
Ở Úc, một trong những định nghĩa về chất lượng GDĐH được nhiều người
đồng ý nhất là: “một đánh giá về mức độ mục tiêu đạt được và các giá trị, sự xứng
đáng với mức độ đạt được đó... Chất lượng là sự đánh giá về mức độ đạt được của
các đặc điểm mong muốn từ các hoạt động và kết quả có được theo một số chuẩn
mực và đối chiếu với một số các tiêu chí hay mục tiêu cụ thể nào đó”.
Ở Việt Nam, khái niệm “chất lượng” và các cách tiếp cận khác nhau về chất
lượng được nhiều nhà nghiên cứu giáo dục đề cập trong các ấn phẩm của mình. Các


16

định nghĩa về khái niệm chất lượng đều thể hiện “chất lượng là sự phù hợp với
mục tiêu”.
Theo tác giả Nguyễn Đức Chính (2002) hiện nay trên thế giới có sáu quan
điểm về chất lượng GDĐH như sau:
(1) Chất lượng được đánh giá “đầu vào”: Theo quan điểm này, một trường ĐH
có chất lượng cao nếu tuyển được nhiều sinh viên giỏi, có đội ngũ cán bộ giảng dạy
có uy tín, có cơ sở vật chất tốt và trang thiết bị hiện đại... Tuy nhiên, theo quan điểm
này, sẽ khó giải thích trường hợp một trường dại học, cao đẳng có nguồn lực dồi
dào nhưng chỉ có hoạt động đào tạo hạn chế; hoặc ngược lại, một trường có những
nguồn lực khiêm tốn, nhưng đã cung cấp cho sinh viên một chương trình đào tạo
hiệu quả.
(2) Chất lượng được đánh giá “đầu ra”: Trường đại học, cao đẳng có chất lượng
cao nếu đào tạo được nhiều sinh viên tốt nghiệp giỏi, thực hiện được nhiều công trình
khoa học có giá trị, nhiều khóa học thu hút người học... Trên thực tế, quan điểm này
chưa hoàn toàn phù hợp vì một trường có khả năng tiếp nhận các sinh viên xuất sắc,
không có nghĩa là sinh viên của họ sẽ tốt nghiệp loại xuất sắc. Hơn thế nữa cách đánh
giá đầu ra của các trường rất khác nhau.

(3) Chất lượng được đánh giá bằng “giá trị gia tăng”: Trường đại học, cao
đẳng có chất lượng cao nếu tạo được sự khác biệt lớn trong sự phát triển về trí tuệ
và cá nhân sinh viên sau quá trình đào tạo tại trường. Điểm hạn chế của quan điểm
này là khó có thể thiết kế một thước đo thống nhất để đánh giá chất lượng “đầu
vào” và “đầu ra” để tìm ra được hiệu số của chúng và đánh giá chất lượng của
trường đó.
(4) Chất lượng được đánh giá bằng “giá trị học thuật”: Trường đại học, cao
đẳng có chất lượng cao nếu có được đội ngũ cán bộ giảng dạy, các nhà khoa học có
uy tín lớn. Tuy nhiên điểm yếu của quan điểm này là ở chổ, liệu có thể đánh giá
được năng lực chất xám của đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khi có xu
hướng chuyên ngành hóa ngày càng sâu, phương pháp luận ngày càng đa dạng.
(5) Chất lượng được đánh giá bằng “văn hoá tổ chức riêng”: Trường đại học,
cao đẳng có chất lượng cao nếu có được một truyền thống tốt đẹp về hoạt động


17

không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo. Quan điểm này được mượn từ lĩnh vực
công nghiệp và thương mại nên khó có thể áp dụng trong lĩnh vực GDĐH.
(6) Chất lượng được đánh giá bằng “kiểm định”: Trường đại học, cao đẳng có
chất lượng cao nếu kết quả kiểm định chất lượng cho thấy nhà trường có thu thập
đủ thông tin cần thiết và những người ra các quyết định về GDĐH có đủ thông tin
cần thiết, sự hợp lý và hiệu quả của quá trình thực hiện các quyết định về chất
lượng. Điểm yếu của quan điểm này là sẽ khó lý giải những trường hợp khi một cơ
sở đào tạo có đầy đủ phương tiện thu thập thông tin, song vẫn có thể có những
quyết định chưa phải là tối ưu.
Trên cơ sở phân tích sáu quan điểm nêu trên, tác giả Nguyễn Đức Chính nêu rõ
“chất lượng là một khái niệm tương đối, động, đa chiều” và “chất lượng là sự phù hợp
với mục đích hay đạt được các mục đích đề ra trước đó”.
Trong văn bản Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục các cơ sở

đào tạo, Bộ Giáo dục & Đào tạo nêu rõ “chất lượng giáo dục trường đại học, cao
đẳng là sự đáp ứng mục tiêu do nhà trường đề ra, đảm bảo các yêu cầu về mục tiêu
GDĐH của Luật Giáo dục, phù hợp với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước”.
Chất lượng GDĐH được quan niệm là sự phù hợp với mục tiêu của cơ sở giáo
dục - đào tạo, cao đẳng; mà mục tiêu theo nghĩa rộng bao gồm sứ mạng, mục đích,
đối tượng và các đặc trưng khác của nhà trường. Sứ mạng và mục tiêu GDĐH của
một quốc gia nói chung được xác định là thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực được đào tạo ở những trình độ
nhất định.
Sứ mạng trên của trường đại học, cao đẳng có thể không đổi; nhưng để đáp
ứng được mục tiêu của GDĐH thông qua hai hoạt động đề cập trên, chất lượng
GDĐH phải là một khái niệm động, không thể bất biến do sự vận động không
ngừng của đời sống kinh tế, chính trị - xã hội của đất nước. Tiến trình phát triển
kinh tế xã hội đòi hỏi ngày càng cao hơn về chất lượng nguồn nhân lực; do đó, đảm
bảo và không ngừng nâng cao chất lượng GDĐH là một yêu cầu bắt buộc đối với
một trường đại học, cao đẳng.


18

1.1.1.2. Khái niệm chất lượng GDĐH với cách tiếp cận thông qua khách hàng
Trong giai đoạn hội nhập quốc tế toàn diện và sâu sắc như hiện nay, quan tâm
và tập trung vào chất lượng là vấn đề sống còn của bất kì cơ sở đào tạo nào, dù đó,
là nhà trường phổ thông hay trường đại học, cao đẳng. Trong xu thế đó, chất lượng
GDĐH dịch chuyển từ đảm bảo chất lượng tiến dần sang chất lượng thỏa mãn nhu
cầu của khách hàng và thông qua khách hàng. Sự chuyển động này không phải xuất
phát từ đảm bảo chất lượng với một vài yếu tố của chất lượng thông qua khách hàng
mà chủ yếu từ khái niệm chất lượng thông qua khách hàng có sự hỗ trợ của đảm
bảo chất lượng.

Cách tiếp cận khái niệm chất lượng thông qua khách hàng làm thay đổi quan
điểm về chất lượng GDĐH. Thay vì, như cách tiếp cận truyền thống trước đây, khái
niệm chất lượng GDĐH được thiết lập bởi các trường đại học, cao đẳng hay bởi các
chuyên gia, các nhà nghiên cứu giáo dục. Nhiệm vụ các trường đại học, cao đẳng là
quản lý theo kế hoạch nhằm đảm bảo sản phẩm đào tạo đáp ứng được chuẩn chất
lượng đã thiết kế mà không lưu tâm đến nhu cầu của khách hàng, không tiến hành
đánh giá, lấy ý kiến phản hồi của khách hàng về chất lượng sản phẩm đào tạo. Đây
là cách tiếp cận chưa toàn diện bởi lẽ khách hàng hiện nay không chỉ đơn thuần
mong chờ họ được cung ứng cái gì, mà được cung ứng như thế nào, bao giờ và ở
đâu với những kỹ năng và con người cung ứng như thế nào. Vì vậy, khái niệm chất
lượng GDĐH cần được đề cập với cách tiếp cận mới toàn diện và phù hợp với bối
cảnh, xu thế phát triển GDĐH hiện nay đó là tiếp cận thông qua khách hàng.
Cách tiếp cận chất lượng GDĐH thông qua khách hàng thể hiện khái niệm chất
lượng GDĐH. Trong đó vấn đề đáp ứng nhu cầu, kì vọng của khách hàng được ưu tiên
hàng đầu. Chất lượng sản phẩm được thể hiện qua các tính năng của sản phẩm và phải
thỏa mãn nhu cầu sử dụng của khách hàng.
Khách hàng là quan tòa của chất lượng. Vì vậy, các trường đại học, cao đẳng,
bên cạnh đảm bảo chất lượng sản phẩm đào tạo, quan tâm thỏa mãn nhu cầu của
khách hàng sẽ yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đầu vào cũng như uy tín, thương
hiệu của một nhà trường. Chất lượng sản phẩm đào tạo của các trường phải được
đánh giá bởi khách hàng và kết quả đánh giá là cơ sở để các trường xây dựng kế


19

hoạch cải tiến và tiến hành cải tiến nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo
của nhà trường.
Các trường cần cam kết với khách hàng về chất lượng sản phẩm đào tạo. Điều
này thật sự mang lại niềm tin cho khách hàng đồng thời một khi khách hàng hài lòng,
chính họ sẽ quảng cáo thương hiệu của nhà trường.

Với cách tiếp cận chất lượng thông qua khách hàng, cần làm rõ khái niệm
khách hàng. Đối với các tổ chức kinh doanh hàng hóa và dịch vụ thì khách hàng của
họ được xác định và phân loại dễ dàng. Nhưng đối với các cơ sở giáo dục thì khách
hàng của họ là ai? Có phải là sinh viên, phụ huynh sinh viên, giảng viên, người sử
dụng lao động và xã hội... Vì vậy, các cơ sở giáo dục cần xác định ai là khách hàng
chính của mình để thiết lập các biện pháp thỏa mãn nhu cầu của họ.
Đối với giáo dục - đào tạo, khách hàng được hiểu theo nghĩa rộng nhất là
những người sử dụng sản phẩm giáo dục. Như vậy, có khách hàng bên ngoài và
khách hàng bên trong dịch vụ. Theo đó, khách hàng bên ngoài của trường là nhà
tuyển dụng; phụ huynh sinh viên; sinh viên tốt nghiệp. Khách hàng bên trong
(khách hàng nội bộ) có thể được hiểu là mối quan hệ qua lại giữa giảng viên với
sinh viên thông qua quá trình dạy học.
Từ những quan điểm về chất lượng GDĐH và phân tích nêu trên cùng với cách tiếp
cận mới - tiếp cận thông qua khách hàng, chất lượng GDĐH được hiểu là:
- Khái niệm tương đối, động, đa chiều;
- Phù hợp với mục tiêu của nhà trường, mục tiêu đó phải phù hợp với yêu cầu
phát triển của xã hội;
- Thỏa mãn nhu cầu, kì vọng của khách hàng.
1.1.1.3. Định nghĩa của Tổ chức đảm bảo chất lượng giáo dục - đào tạo quốc
tế
Ngoài cá c định nghĩa trên, Tổ chức Đảm bảo chất lượng giáo dục - đào tạo
quốc tế đã đưa ra 2 định nghĩa về chất lượng GDĐH là:
- Tuân theo các chuẩn quy định.
- Đạt được các mục tiêu đề ra.
Theo định nghĩa thứ nhất, cần có bộ tiêu chí chuẩn cho giáo dục - đào tạo về
tất cả các lĩnh vực và việc kiểm định chất lượng một trường đại học sẽ dựa vào


20


bộ tiêu chí chuẩn đó. Khi không có bộ tiêu chí chuẩn thì việc thẩm định chất
lượng GDĐH sẽ dựa trên mục tiêu của từng lĩnh vực để đánh giá. Những mục
tiêu này sẽ được xác lập trên cơ sở trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước và những điều kiện đặc thù của trường đó.
Như vậy, để đánh giá chất lượng đào tạo của một trường cần dùng bộ tiêu chí có
sẵn; hoặc dùng các chuẩn đã quy định; hoặc đánh giá mức độ thực hiện các mục tiêu
đã định sẵn từ đầu của trường. Trên cơ sở kết quả đánh giá, các trường đại học sẽ
được xếp loại theo 3 cấp độ (1) Chất lượng tốt; (2) Chất lượng đạt yêu cầu; (3) Chất
lượng không đạt yêu cầu. Cần chú ý là các tiêu chí hay các chuẩn phải được lựa chọn
phù hợp với mục tiêu kiểm định.
Chất lượng là một khái niệm động nhiều chiều và nhiều học giả cho rằng
không cần thiết phải tìm cho nó một định nghĩa chính xác. Tuy vậy, việc xác
định một số cách tiếp cận khác nhau đối với vấn đề này là điều cần thiết
và có thể làm được.
1.1.2. Những cách tiếp cận khác nhau đối với vấn đề chất lượng
1.1.2.1 Khái niệm truyền thống về chất lượng
Theo khái niệm truyền thống về chất lượng, một sản phẩm có chất lượng là
sản phẩm được làm ra một cách hoàn thiện, bằng các vật liệu quý hiếm và đắt tiền.
Nó nổi tiếng và tôn vinh thêm cho người sử hữu nó. Trong giáo dục - đào tạo, chất
lượng có thể tương đồng với các trường đại học như Oxford và Cambridge.
Tuy nhiên, khái niệm về chất lượng như vậy khó có thể dùng để đánh giá chất
lượng trong toàn bộ hệ thống giáo dục - đào tạo. Nếu mỗi trường đại học được
đánh giá bằng các tiêu chuẩn như đã sử dụng cho trường đại học Oxford và
Cambridge thì đa số các trường sẽ bị quy là có chất lượng kém. Vả lại, không cần
thiết phải làm cho tất cả các trường đại học đều giống như Oxford hay Cambridge.
Cách tiếp cận truyền thống đã tuyệt đối hoá khái niệm chất lượng.
1.1.2.2. Chất lượng là sự phù hợp với các tiêu chuẩn (thông số kỹ thuật)
Cách tiếp cận chất lượng từ góc độ tiêu chuẩn hay các thông số kỹ thuật có
nguồn gốc từ ý tưởng kiểm soát chất lượng trong các ngành sản xuất và dịch vụ.
Trong bối cảnh này, tiêu chuẩn được xem là công cụ đo lường, hoặc bộ thước đo -



21

một phương tiện trung gian để miêu tả những đặc tính cần có của một sản phẩm
hay dịch vụ. Chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ được đo bằng sự phù hợp của
nó với các thông số hay tiêu chuẩn được quy định trước đó.
Trong giáo dục đại học, cách tiếp cận này tạo cơ hội cho các trường đại học
muốn nâng cao chất lượng đào tạo có thể đề ra các tiêu chuẩn nhất định về các
lĩnh vực trong quá trình đào tạo và nghiên cứu khoa học của trường mình và phấn
đấu theo các chuẩn đó.
Nhược điểm của cách tiếp cận này là nó không nêu rõ các tiêu chuẩn này được
xây dựng nên trên cơ sở nào. Hơn nữa, thuật ngữ tiêu chuẩn cho ta ý niệm về một
hình mẫu tĩnh tại, nghĩa là một khi các thông số kỹ thuật đã được xác định thì không
phải xem xét lại chúng nữa. Trong khi khoa học, kỹ thuật và công nghệ đang có
những bước tiến mới, tri thức loài người ngày càng phong phú thì “tiêu chuẩn” của
giáo dục đại học không thể là một khái niệm tĩnh.
Trong một vài trường hợp, tiêu chuẩn trong giáo dục đại học với nghĩa là những
thành tựu của sinh viên khi tốt nghiệp được xem là chất lượng trong giáo dục - đào tạo và
được sử dụng để chỉ đầu ra của giáo dục đại học với ý nghĩa là trình độ, kiến thức, kỹ
năng đạt được của sinh viên sau quá trình học tập tại trường.
1.1.2.3. Chất lượng là sự phù hợp với mục đích
Cách tiếp cận khái niệm chất lượng được đa số các nhà hoạch định chính sách
và quản lý giáo dục đại học, kể cả tổ chức Đảm bảo chất lượng giáo dục đại học quốc
tế sử dụng là tính phù hợp với mục đích hay đạt được các mục đích đề ra trước đó.
Những người ủng hộ cách tiếp cận này cho rằng chất lượng không có ý nghĩa gì nếu
không gắn với mục đích của sản phẩm hay dịch vụ đó. Chất lượng được đánh giá bởi
mức độ mà sản phẩm hay dịch vụ đáp ứng được mục đích đã tuyên bố.
Cách tiếp cận này cho phép cung cấp một hình mẫu để xác định các tiêu chí
mà một sản phẩm hay dịch vụ cần có. Nó là một khái niệm động, phát triển theo

thời gian, tuỳ thuộc vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và tuỳ thuộc
vào đặc thù của từng loại trường và có thể sử dụng để phân tích chất lượng
giáo dục - đào tạo ở các cấp độ khác nhau.
Còn nếu để xét chất lượng về một khoá học nào đó thì chất lượng sẽ được xem
xét trên góc độ là khối lượng, kiến thức, kỹ năng, mà khoá học đã cung cấp, mức độ


22

nắm, sử dụng các kiến thức và kỹ năng của sinh viên sau khoá học v.v. Nhược điểm
của cách tiếp cận này là rất khó xác định mục tiêu của giáo dục - đào tạo trong từng
thơì kỳ và cụ thể hoá nó cho từng khối trường, từng trường cụ thể, thậm chí cho từng
khoa, hay khoá đào tạo. Hơn nữa giáo dục đại học có thể có nhiều mục đích, một số
mục đích cụ thể có thể xung đột với nhau (như giữa yêu cầu tăng quy mô và nâng cao
chất lượng) và trong trường hợp đó cũng khó có thể đánh giá chất lượng của một
trường đại học.
1.1.2.4. Chất lượng với tư cách là hiệu quả của việc đạt mục đích của trường đại học
Theo cách tiếp cận này, một trường đại học có chất lượng cao là trường tuyên
bố rõ ràng sứ mạng của mình và đạt được mục đích đó một cách hiệu quả và hiệu
suất nhất. Cách tiếp cận này cho phép các trường tự quyết định các tiêu chuẩn
chất lượng và mục tiêu đào tạo của trường mình. Thông qua kiểm tra, thanh tra
chất , các tổ chức hữu quan sẽ xem xét, đánh giá hệ thống đảm bảo chất lượng của
nhà trường. Mô hình này đặc biệt quan trọng đối với các trường có nguồn lực
hạn chế, giúp các nhà quản lý có được cơ chế sử dụng hợp lý, an toàn những nguồn
lực của mình để đạt tới mục tiêu đã định từ trước một cách hiệu quả nhất.
1.1.2.5. Chất lượng là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng
Trong 20 năm gần đây, người ta không chỉ nói tới việc sản phẩm phải phù hợp
với các thông số kỹ thuật hay tiêu chuẩn cho trước, mà còn nói tới sự đáp ứng nhu
cầu của người sử dụng sản phẩm đó. Vì vậy, khi thiết kế một sản phẩm hay dịch vụ,
yếu tố quyết định là xác định nhu cầu của khách hàng, để sản phẩm có được những

đặc tính mà khách hàng mong muốn và với giá cả mà họ sẽ hài lòng trả.
Trong giáo dục - đào tạo, định nghĩa này gây ra một số khó khăn trong việc
xác định khái niệm khách hàng. Đó là sinh viên (người sử dụng dịch vụ như thư
viện, ký túc xá, phòng thí nghiệm. . .) hay là Chính phủ, các doanh nghiệp (người
trả tiền cho các dịch vụ đó) hay đó là cán bộ giảng dạy, cha mẹ sinh viên …
1.1.2.6. Quan niệm về chất lượng trong giáo dục - đào tạo
Mặc dù, khó có thể đưa ra được một định nghĩa về chất lượng trong giáo
dục - đào tạo mà mọi người đều thừa nhận, song các nhà nghiên cứu cũng cố gắng
tìm ra những cách tiếp cận phổ biến nhất. Cơ sở của các cách tiếp cận này xem


23

chất lượng là một khái niệm mang tính tương đối, động, đa chiều và với những
người ở các cương vị khác nhau có thể có những ưu tiên khác nhau khi xem xét
nó. Đối với cán bộ giảng dạy và sinh viên thì ưu tiên của khái niệm chất lượng
phải là ở quá trình đào tạo, là cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho quá trình
giảng dạy và học tập. Còn đối với những người sử dụng lao động, ưu tiên về chất
lượng của họ lại ở đầu ra, tức là ở trình độ, năng lực và kiến thức của sinh viên
khi ra trường. Do vậy, không thể nói tới chất lượng như một khái niệm nhất thể,
chất lượng cần được xác định kèm theo với mục tiêu hay ý nghĩa của nó và ở khía
cạnh này, một trường đại học có thể có chất lượng cao ở một lĩnh vực này nhưng
ở một lĩnh vực khác lại có thể có chất lượng thấp.
Điều này đặt ra một yêu cầu phải xây dựng một hệ thống rõ ràng, mạch lạc các
tiêu chí với những chỉ số được lượng hoá, nêu rõ các phương thức đảm bảo chất lượng
và quản lý chất lượng sẽ được sử dụng trong và ngoài giáo dục - đào tạo với xu hướng
tiếp cận dần với chuẩn của khu vực và thế giới nhằm đưa giáo dục - đào tạo Việt Nam
hoà nhập với giáo dục - đào tạo thế giới.
1.1.3. Các thành tố quan trọng trong thiết lập hệ thống đảm bảo chất lượng
1.1.3.1. Đặt vấn đề

Đảm bảo chất lượng và kiểm soát chất lượng phụ thuộc vào cách một hệ
thống được sắp xếp, vào sự đầy đủ các nguồn nhân lực và tài chính, vào cách các
đánh giá trong và ngoài được tổ chức. Nó cũng phụ thuộc vào sứ mạng của một
hệ thống giáo dục - đào tạo và các mục đích cũng như mục tiêu chuyên môn. Đảm
bảo chất lượng xem xét đầu vào, quá trình và đầu ra. Theo Annesley, King, và
Harte, để đảm bảo rằng kết quả của một hệ thống giáo dục đạt được chất lượng
mong muốn, một hệ thống đảm bảo chất lượng phải quan tâm đến các quá trình
các hoạt động giảng dạy sau đây: thiết kế và nội dung của các môn học; chuyển tải
và đánh giá; đánh giá, giám sát và xem xét, quản lý nói chung.
Theo Freeman, có ba bước cơ bản trong việc thành lập một hệ thống
đảm bảo chất lượng: thiết lập sứ mạng của nhà trường, thiết kế các phương
pháp và lập các chuẩn mực.
Một quan điểm khác của đảm bảo chất lượng được Frazer cho rằng có bốn thành
phần chính trong một hệ thống đảm bảo chất lượng:


24

Thứ nhất, tất cả mọi người trong hệ thống phải có trách nhiệm duy trì chất
lượng của sản phẩm hay dịch vụ mà tổ chức làm ra.
Thứ hai, tất cả mọi người phải có trách nhiệm củng cố chất lượng của sản phẩm
hay dịch vụ đó.
Thứ ba, tất cả mọi người ‘hiểu, sử dụng, và cảm thấy mình là người làm chủ hệ
thống đang hoạt động đúng hướng nhằm duy trì và củng cố chất lượng.
Thứ tư, những người hưởng lợi (người quản lý hay khách hàng) cần phải
thường xuyên kiểm tra hệ thống và có trách nhiệm kiểm tra chất lượng của sản
phẩm hay dịch vụ.
Lim đề nghị rằng cần có nhiều bước chi tiết trong cách tiếp cận việc thiết lập
một hệ thống đảm bảo chất lượng. Các bước đó là:
- Xác định sứ mạng hay mục đích của các trường đại học;

- Xác định các chức năng mà các trường đại học thực hiện, và tầm quan trọng
tương ứng trong việc thực hiện sứ mạng;
- Xác định các mục tiêu của mỗi chức năng và đặt ra các chỉ số thực hiện định
tính và định lượng của chúng;
- Thành lập một hệ thống quản lý đảm bảo chất lượng, và các quá trình quản lý
nhằm đảm bảo rằng các mục tiêu này có thể đạt được và thành lập một hệ thống
kiểm định chất lượng nhằm đánh giá việc các trường đại học thực hiện các chức
năng và xác định các lĩnh vực nơi cần có sự cải tiến.
Các đề nghị có liên quan đến việc làm thế nào thành lập một hệ thống đảm bảo
chất lượng nói chung thường tập trung vào việc có được các đánh giá trong và đánh giá
ngoài. Điều này cho thấy tầm quan trọng của đánh giá trong và ngoài trong đảm bảo
chất lượng. Tuy nhiên, các nghiên cứu của Freeman, Peters cho thấy rằng yếu tố quyết
định duy nhất của chất lượng trong một trường đại học là từ bên trong của chính trường
đó. Nó được quyết định bởi chất lượng quản lý và năng lực của các nhà lãnh đạo và
quản lý. Cũng rất quan trọng khi những người có trách nhiệm trong việc đưa ra các
quyết định về mục đích, mục tiêu của trường phát triển được các đặc điểm chung trong
kiểm soát chất lượng trong toàn bộ các hoạt động của nhà trường. Một khi các quy
định về kiểm soát chất lượng đã được nhà trường áp dụng, đánh giá đồng cấp, đánh giá


25

trong và đánh giá ngoài cần phải được củng cố và giúp các trường tập trung vào việc
phát huy các mặt mạnh và khắc phục các mặt yếu của mình.
1.1.3.2. Các mô hình đảm bảo chất lượng
- Kiểm soát chất lượng
Kiểm soát chất lượng là thuật ngữ lâu đời nhất về mặt lịch sử. Nó bao gồm việc
kiểm tra và loại bỏ các thành phẩm hay sản phẩm cuối cùng không thoả mãn các tiêu
chuẩn đã đề ra. Nó là công đoạn xảy ra sau cùng khi sản phẩm đó được làm xong,
loại bỏ hoặc từ chối những sản phẩm có lỗi. Việc làm này thường kéo theo lãng phí

tương đối lớn vì phải loại bỏ hay làm lại các sản phẩm không đạt yêu cầu.
Chất lượng đề nghị

Cơ chế quản lý

Quá trình

Phương pháp
làm việc

Kiểm soát
chất lượng

Các
nguồn lực

Sản phẩm

Loại bỏ
sản phẩm

Nhận thức
của khách hàng

Sơ đồ 1. Quá trình Kiểm soát chất lượng
Nói chung, kiểm soát chất lượng là một quá trình mà trong đó một sản phẩm
hay một dịch vụ, hoặc bất cứ bộ phận nào trong quá trình có liên quan đến việc sản



×