Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Luận văn thạc sỹ: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại NHTMCP Sài Gòn – Hà Nội, chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.66 KB, 110 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học
độc lập của tôi. Các số liệu , kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
LÊ TUẤN ANH
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
TCTD Tổ chức tín dụng
RRTD Rủi ro tín dụng
SHB Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội
DANH MỤC CÁC BẢNG
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ngân hàng thương mại là một trong những trung gian tài chính có vai trò
quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, và trong giai đoạn phát
triển của đất nước. Hệ thống Ngân hàng có hoạt động tốt thì mới điều hòa
được nguồn vốn cho nền kinh tế, nguồn vốn được đầu tư vào đúng nơi đúng
chỗ. Do có vai trò quan trọng nên từ sự thành công hay thất bại trong hoạt
động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng có thể đánh giá được sự phát triển
lành mạnh của nền kinh tế. Khi nền kinh tế càng phát triển, nền kinh tế thị
trường đã dần định hình rõ ở nước ta, thì cũng như các doanh nghiệp trong
nền kinh tế, các Ngân hàng thương mại phải đối mặt với rất nhiều rủi ro như:
Rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường vv. Trong đó, rủi ro tín dụng
gây ra tổn thất lớn nhất cho các Ngân hàng, và Ngân hàng nào quản lý tốt
đựợc rủi ro thì Ngân hàng đó mới hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
Trong thời gian gần đây, hoạt động quản lý rủi ro tại các Ngân hàng
thương mại ở nước ta đã bắt đầu được chú trọng, do yêu cầu của sự hội nhập
nền kinh tế quốc tế. Là một ngân hàng thương mại cổ phẩn điển hình trong


hệ thống các Ngân hàng thương mại cổ phần của nước ta tỏng những năm gần
đây, ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn – Hà Nội, đã chủ động tiến hành
công tác quản lý rủi ro tín dụng trong nhiều năm nay, tuy nhiên hiệu quả thu
được chưa được như mong muốn. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt
động quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại cổ phần, với
những hiểu biết và kinh nghiệm làm việc tại ngân hàng thương mại cổ phần
Sài Gòn – Hà Nội, chi nhánh Hà Nội, tôi nhận thấy việc nghiên cứu về RRTD
và quản lý RRTD tại thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội, chi nhánh Hà
Nội là công việc có ý nghĩa thực tiễn cao, do đó tôi đã chọn đề tài: “ Một số
1
giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại NHTMCP Sài Gòn
– Hà Nội, chi nhánh Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp của mình, với sự
hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của GS.TS Lê Doãn Khải.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã cố gắng diễn đạt tốt nhất những
nội dung cơ bản nhất, sâu sắc nhất dựa trên sự tập trung nghiên cứu tìm hiểu
về rủi ro tín dụng và hệ thống quản lý rủi ro tín dụng về mặt lý luận cũng như
thực tiễn tại thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội, chi nhánh Hà Nội, và đưa
ra những giải pháp cần thiết, hiệu quả nhất. Song nội dung đề tài chắc chắn
không tránh khỏi những sai sót, kính mong nhận được sự đóng góp bổ sung
của quý thầy cô và các bạn.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng, quản lý rủi ro tín
dụng tại các ngân hàng thương mại.
- Nêu các biện pháp được áp dụng chủ yếu trong hoạt động quản lý
RRTD tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội, chi nhánh Hà Nội, đánh giá
hiệu quả của các biện pháp trên thông qua phân tích thực trạng RRTD tại
ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội, chi nhánh Hà Nội
- Đề xuất một số ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng
tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội, chi nhánh Hà Nội
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Các vấn đề lý luận chung về tín dụng quản lý rủi
ro tín dụng, hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng và thực tế công tác quản lý rủi ro
tín dụng tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội, chi nhánh Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực tiễn hoạt động quản lý rủi ro tín
dụng tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội, chi nhánh Hà Nội trong giai
đoạn từ 2008 đến 2010.
2
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Thu thập số liệu: Bao gồm các báo cáo và tài liệu khác của ngân hàng
TMCP Sài Gòn – Hà Nội, chi nhánh Hà Nội, thông tin trên internet, trên báo chí.
- Phương pháp thống kê, diễn dich, qui nạp.
- Phương pháp phân tích, so sánh đánh giá số liệu, tính toán các chỉ tiêu
phân tích tài chính, từ đó đưa ra nhận xét về tình hình hoạt động tín dụng và
công tác quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội, chi
nhánh Hà Nội.
5. Kết cấu của luận văn:
Sau phần mở đầu chuyên đề được chia làm 3 chương
Chương I: Tổng quan về tín dụng ngân hàng và quản lý rủi ro tín
dụng ngân hàng.
Chương II: Thực trạng công tác quản lý rủi ro tín dụng tại ngân
hàng thương mại cổ phần Sàn Gòn – Hà Nội, chi nhánh
Hà Nội.
Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín
dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà
Nội, chi nhánh Hà Nội.
3
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ
QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1. Tín dụng ngân hàng và ý nghĩa của hoạt động tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng

1.1.1.1. Khái niệm NHTM
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính có chức năng dẫn vốn
từ nơi có khả năng cung ứng vốn đến những nơi có nhu cầu về vốn nhằm tạo
điều kiện cho đầu tư, phát triển kinh tế. Đây là định chế tài tài chính có vai trò
hết sức quan trọng trong lưu chuyển vốn trên thị trường tài chính. NHTM có
các chức năng cơ bản sau:
- Chức năng trung gian tài chính: Chức năng trung gian tài chính được
xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi thực hiện
chức năng trung gian tài chính, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người
thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, NHTM vừa đóng
vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận
là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo
lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay.
- Chức năng trung gian thanh toán: Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ
cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của
khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng
hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán
hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Cùng với sự phát triển của
mình, các NHTM ngày càng cung cấp cho khách hàng nhiều sản phẩm thanh
toán hơn, bao gồm thanh toán trong nước và thanh toán quốc tế, cung cấp cho
khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy
nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng, thư tín dụng L/C, chuyền
4
tiền quốc tế trực tiếp (TT)… Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất
nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này đã
thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển
vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
- Chức năng tạo tiền: Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ
bản chất của ngân NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu
cầu chính cho sự tồn tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ

kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức
năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai
chức năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán.
Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy
động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua
hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh
toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ
sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống
NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng
nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội.
Ba chức năng cơ bản trên của ngân hàng TM tương ứng được thực hiện
qua các hoạt động đặc thù cụ thể, gọi là các nghiệp vụ, bao gồm nghiệp vụ
nhận tiền gửi, nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ thanh toán…
1.1.1.2. Khái niệm tín dụng ngân hàng:
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (tài sản) của
người sở hữu sang người sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định, khi
tới hạn người sử dụng phải hoàn trả cho người sở hữu một lượng giá trị lớn
hơn giá trị ban đầu.
Tín dụng ngân hàng được hiểu là một giao dịch về tài sản (tiền, tài sản
thực hoặc uy tín) giữa bên cho vay là ngân hàng và bên đi vay, trong đó ngân
5
hàng chuyển giao tài sản cho bên đi vay trong một thời gian sử dụng trong
một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện gốc và lãi cho ngân hàng khi đến hạn. Giao dịch này được thực hiện
qua các nghiệp vụ cơ bản gồm cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo
lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
- Cho vay: là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam
kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định
trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả
gốc và lãi . Hoạt động cho vay chiếm phần lớn tổng tài sản và nguồn thu của

ngân hàng, đồng thời những rủi ro trong hoạt động ngân hàng chủ yếu tập
trung vào danh mục các khoản vay. Nghiệp vụ cho vay được phân ra làm
nhiều sản phẩm theo phương thức trả nợ, theo kỳ hạn cấp vốn…
- Chiết khấu: là việc mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi
các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước
khi đến hạn thanh toán. Nghiệp vụ này có rủi ro khi ngân hàng nhận phải
những thương phiếu giả mạo, hoặc người chịu trách nhiệm thanh toán thương
phiếu mất khả năng thanh toán trước khi thương phiếu đến hạn.
- Bảo lãnh: là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết
với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính
thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức
tín dụng theo thỏa thuận.
- Cho thuê tài chính: Hoạt động cho vay là hoạt động tài trợ chủ yếu của
ngân hàng cho khách hàng, nhưng trong một số trường hợp khách hàng không
đủ điều kiện vay vốn, để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, ngân hàng sẽ mua
tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho thuê lại. Đây là phương thức vay
tài sản thông qua hợp đồng cho thuê, kèm theo lời hứa đơn phương bán cho
6
người thuê một giá nhất định có tính đến những số tiền thuê đã trả. Trong
nghiệp vụ này, ngân hàng phải xuất tiền theo yêu cầu của khách hàng và sau
một thời gian nhất định phải thu đủ gốc và lãi, tài sản cho thuê thường là các
tài sản cố định. Hoạt động tài trợ này chứa đựng nhiều rủi ro, khách hàng có
thể kinh doanh không hiệu quả, tài sản cho thuê mang tính đặc chủng, khó
bán hay cho thuê lại…
Các loại quan hệ được xếp vào quan hệ tín dụng nêu trên có quan hệ mật
thiết với nhau, chúng là hạt nhân cơ bản mà từ đó các NHTM liên tục nghiên
cứu và đưa ra các sản phẩm tín dụng cụ thể, linh hoạt để thu hút khách hàng
và thỏa mãn nhu cầu thực tế của khách hàng. Giữa chúng có sự chuyển đổi
cho nhau, chẳng hạn khi món bảo lãnh phát sinh nghĩa vụ bồi thường rủi ro

cho khách hàng, khi đó quan hệ bảo lãnh chuyển thành quan hệ cho vay, qua
hành động ngân hàng thanh toán nghĩa vụ bồi thường cho khách hàng và
khách hàng phải nhận nợ bắt buộc, song song với đó là rủi ro tín dụng phát
sinh. Trong nội dung nghiên cứu của đề tài này, tác giả tiến hành nghiên cứu
RRTD trong phạm vi cho vay, tức là giai đoạn chuyển giao tài sản cho khách
hàng dù là bắt buộc (khi phát sinh rủi ro trong bảo lãnh, cho thuê tài chính)
hay tự nguyện.
1.1.2. Vai trò ý nghĩa của hoạt động tín dụng ngân hàng:
- Đối với NHTM: Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản của NHTM
và có mối quan hệ mật thiết tới các hoạt động khác của ngân hàng như chuyển
tiền thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế, nhận tiền gửi… Với tư cách là
đầu ra chủ yếu và truyển thống cho các nguồn huy động vốn của NHTM, hiệu
quả của hoạt động tín dụng quyết định hiệu quả củ toàn bộ chu trình luân
chuyển vốn: Huy động vốn – cho vay… Trên thực tế, dư nợ tín dụng thường
chiếm trên 50% tổng tài sản của NHTM và thu nhập từ tín dụng thường chiếm
50% - 70% tổng thu nhập của NHTM. Hiện nay với xu hướng phát triển rộng
7
khắp, tính cạnh tranh cao, xu hướng giảm tỷ trọng đóng góp của hoạt động tín
dụng trong danh mục hoạt động của NHTM là xu hướng tất yếu, tuy nhiên có
thể thấy rằng hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động cơ bản, có tỷ trọng lớn nhất
trong kinh doanh ngân hàng và là nèn tảng thu hút khách hàng cho các dịnh
vụ khác. Chính vì vậy công tác quản lý rủi ro tín dụng luôn được quan tâm
đặc biệt với một hệ thống quản lý rủi ro chuyên biệt được thành lập ở tất cả
các NHTM với quy mô và cấp độ phát triển khác nhau.
- Đối với tổng thể nền kinh tế:
Một là: Tín dụng ngân hàng đóng vai trò là kênh dẫn vốn trong nền kinh
tế. Vai trò của tín dụng chính là ở chỗ nó tạo một kênh dẫn vốn từ người tạm
thời thừa sang người tạm thời thiếu vốn, với tư cách là người sử dụng cuối
cùng. Trong quan hệ đó, người cho vay sẽ thu lợi tức, người sử dụng cuối
cùng số vốn đó sẽ tạo ra lợi nhuận, nền kinh tế có thêm được sản phẩm mới

và cuối cùng là sẽ tạo ra được nhiều việc làm.
Hai là: Ở cấp độ phát triển cao của mình, tín dụng ngân hàng không chỉ
giới hạn trong chức năng truyền thống là phân bổ vốn từ nơi thừa vốn đến nơi
thiếu vốn mà còn giúp phân bổ hiệu quả các nguồn lực tài chính trong nền
kinh tế. Tín dụng ngân hàng sẽ loại bỏ các phương án đầu tư kém hiệu quả, tỷ
suất sinh lời thấp, khả năng trả nợ không cao và lựa chọn các dự án đầu tư
hiệu quả, có tỷ suất sinh lời cao, có ý nghĩa kinh tế - xã hội quan trọng.
Ba là: Thông qua việc đầu tư vốn tín dụng vào những ngành, nghề, khu
vực kinh tế trọng điểm, sẽ thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp
lý. Khi thực hiện vai trò này, tín dụng như một đòn bẩy kinh tế có tác dụng
kích thích các ngành kinh tế mũi nhọn phát triển, mở rộng thương mại dịch
vụ ở cả thành thị và nông thôn. Điều này sẽ góp phần cân đối cơ cấu kinh tế
theo ngành và khu vực, góp phần phát triển nền kinh tế một cách hài hòa và
ổn định.
8
Bốn là, tín dụng ngân hàng còn là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia và
nền tài chính quốc tế. Trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới với
việc hình thành hàng loạt các tổ chức kinh tế, các khu vực mậu dịch tự do,
làm cho các mối quan hệ thương mại, lưu thông hàng hoá giữa các quốc gia
trên thế giới ngày càng được mở rộng và trở nên cần thiết. Nền tài chính của
một quốc gia cần phải hoà nhập với nền tài chính thế giới. Các ngân hàng
thương mại là trung gian, cầu nối để tiến hành hội nhập. Đầu tư ra nước ngoài
đang là một hướng đầu tư quan trọng và mang lại nhiều lợi nhuận. Đồng thời,
các quốc gia cần xuất khẩu những mặt hàng mà mình có lợi thế so sánh và
nhập khẩu những mặt hàng mà mình thiếu. Các ngân hàng thương mại với
những nghiệp vụ kinh doanh như : nhận tiền gửi, cho vay, bảo lãnh và đặc
biệt là các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, đã góp phần tạo điều kiện, thúc đẩy
ngoại thương không ngừng được mở rộng và phát triển.
Tóm lại, tín dụng ngân hàng thực sự đóng vai trò quan trọng trong quá
trình thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Tuy nhiên, hoạt động này tiềm ẩn rất

nhiều rủi ro. Do đó, để tín dụng ngân hàng phát huy vai trò của mình, hoạt
động quản trị RRTD là vô cùng cần thiết.
1.2. Rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm chung về rủi ro
Rủi ro là khái niệm phổ biến trong tất cả các hoạt động đời sống kinh tế,
chính trị, văn hóa của con người, song khái niệm này được quan tâm nghiên
cứu tìm hiểu nhiều nhất trong các hoạt động đầu tư kinh doanh nói chung và
hoạt động ngân hàng nói riêng. Cho tới nay có nhiều cách hiểu khác nhau về
rủi ro, song tất cả các quan niệm đều thống nhất rằng rủi ro là “khả năng xảy
ra các biến cố không lường trước được, khi xảy ra sẽ làm cho kết quả thực tế
khác kết quả kỳ vọng theo kế hoạch”, và thông thường, đó là kế quả tiêu cực,
gây hại tới hoạt động của chủ thể.
9
Với các doanh nghiệp trong nền kinh tế, rủi ro luôn xuất hiện bất ngờ và
tác động tiêu cực tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, có thể gây lỗ,
hoặc thậm chí phá sản. Tuy nhiên muốn có lợi nhuận thì phải chấp nhận nó,
không thể né tránh nó. Vì vậy, đề tồn tại và phá triển, để đứng vững trong
cạnh tranh các doanh nghiệp phải đương đầu với rủi ro có thể xảy ra bằng
cách tiên liệu phán đoán các rủi ro có thể xảy ra để tìm biện pháp phòng ngừa,
hạn chế nhằm giảm thiểu thiệt hại do rủi ro gây ra, trong đó, với tư cách là
loại hình doanh nghiệp kinhdoanh tiền tệ, các NHTM là chủ thể thường xuyên
phải đối mặt với nhiều loại rủi ro đặc thù và rủi ro chung của toàn bộ các chủ
thể khác trong nền kinh tế.
1.2.2. Rủi ro tín dụng ngân hàng
1.2.2.1. Khái niệm
Lịch sử hình thành và phát triển của các NHTM cho thấy rủi ro tín dụng
là một trong những loại hình rủi ro cơ bản và phổ biến nhất, thường xuyên
xảy ra và không thể tránh khỏi của NHTM. RRTD cũng được rất nhiều nhà
khoa học nghiên cứu và cũng đưa ra nhiều quan niệm khác nhau, ví dụ như:
- Rủi ro tín dụng được hiểu là những tổn thất do khách hàng không trả

được nợ hoặc sự giảm sút chất lượng tín dụng của những khoản vay.
- Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp Ngân hàng không thu được
đầy đủ gốc và lãi của khoản vay hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không
đúng kỳ hạn.
- Rủi ro tín dụng được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể
chi trả tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời gian đã ấn định trong hợp
đồng tín dụng. Đây là thuộc tính vốn có của hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín
dụng tức là việc chi trả bị trì hoãn, hoặc tồi tệ hơn là không hoàn trả được
toàn bộ. Điều này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ, và gây ảnh
hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân hàng.
10
Trong nội dung nghiên cứu của đề tài này, rủi ro tín dụng là rủi ro mà
bên vay trong một giao dịch không thực hiện được đúng theo thời hạn và điều
kiện của hợp đồng làm cho người cho vay phải gánh chịu tổn thất tài chính.
1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Có nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng, trong đó căn cứ phân loại phổ
biến nhất là theo nhân phát sinh rủi ro, theo đó rủi ro tín dụng được phân chia
thành các loại như sau :
- Rủi ro giao dịch : là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân
phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay,
đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có 03 bộ phận chính là rủi ro lựa chọn,
rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn : là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân
tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả
để ra quyết định cho vay.
+ Rủi ro bảo đảm : phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều
khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm,
cách thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
11
Rủi ro tín

dụng
Rủi ro tín
dụng
Rủi ro giao
dịch
Rủi ro giao
dịch
Rủi ro danh
mục
Rủi ro danh
mục
Rủi ro nội
tại
Rủi ro nội
tại
Rủi ro tập
trung
Rủi ro tập
trung
Rủi ro bảo
đảm
Rủi ro bảo
đảm
Rủi ro
nghiệp vụ
Rủi ro
nghiệp vụ
Rủi ro lựa
chọn
Rủi ro lựa

chọn
+ Rủi ro nghiệp vụ : là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay
và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và
kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục : là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên
nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân
hàng, được phân chia thành 02 loại : rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
+ Rủi ro nội tại : xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang
tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế.
Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách
hàng vay vốn.
+ Rủi ro tập trung : là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá
nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động
trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất
định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
Trong các loại rủi ro nêu trên, rủi ro danh mục là loại rủi ro thường gặp
nhất, bao hàm các loại rủi ro còn lại.
1.2.3. Nguyên nhân nảy sinh rủi ro tín dụng ngân hàng:
Việc RRTD phát sinh thường xuyên, phổ biến ở tất cả các ngân hàng ở
mọi quốc gia với mọi trình độ phát triển khác nhau cho thấy nguyên nhân của
nó là đa dạng và phức tạp, xuất phát từ tính đa dạng của chính các sản phẩm
tín dụng và các chủ thể tham gia vay vốn. Trong việc tìm hiểu về nguyên
nhân phát sinh RRTD, theo tính chất của nó, nguyên nhân phát sinh RRTD
được chia làm nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
1.2.3.1. Nguyên nhân khách quan:
Các nguyên nhân khách quan làm phát sinh các RRTD là các nguyên
nhân ở tầm vĩ mô, nằm ngoài phạm vi chi phối trực tiếp của các NHTM, bao
gồm môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, chính trị và cơ sở hạ tầng công
12
nghệ, thông tin… Những tác động bất lợi từ các tác nhân nêu trên làm tổn hại

tới năng lực của chủ thể vay vốn một cách khách quan, qua đó làm gia tăng
RRTD đối với các NHTM. Các nguyên nhân cụ thể là:
- RRTD do môi trường kinh tế không ổn định: Môi trường kinh tế
được nghiên cứu ở đây là môi trường kinh tế chung của cả cá nhân, doanh
nghiệp đi vay và các NHTM. Trong môi trường đó, các chính sách kinh tế
của bộ máy nhà nước, đặc thù hoạt động ngành, biến động kinh tế thế giới,
các thay đổi trong quy định xuất, nhập khẩu giữa các nước… đều là những tác
nhân có khả năng gây nên những tác động bất lợi cho người đi vay và bản
thân các NHTM, qua đó gây ra RRTD. Nếu chính phủ điều hành chính sách
kinh tế của mình đúng đắn, sát hợp với thực tế sẽ có tác dụng thúc đẩy năng
lực sản xuất, tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế làm ăn hiệu quả, hoạt động
tín dụng tăng trưởng và ít nguy cơ gặp RRTD hơn và ngược lại; Trong trường
hợp khác, đối với quan hệ kinh tế quốc tế, việc xảy ra biến động với biên độ
lớn, nhanh chóng có nhiều khả năng trực tiếp gây ra nhiều bất lợi đối với việc
hoạt động của các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu. Và kết hợp với
đặc thù ngành nghề, như may mặc, da dày, nuôi trồng thủy hải sản… tại Việt
Nam, có thể thấy rõ các sự kiện chống bán phá giá, áp hạn nghạch của các
nước Mỹ, châu Âu đã có những tác động to lớn thế nào tới các doanh nghiệp
hoạt động trong các lĩnh vực trên, qua đó gây ra tình trạng nợ quá hạn, nợ xấu
tại các NHTM….
- RRTD do môi trường pháp lý chưa thuận lợi: Môi trường pháp lý
bao gồm các quy định, quy chuẩn, các văn bản pháp luật do chính phủ, ngân
hàng Nhà nước và các bộ, ban, ngành hoặc các tổ chức quốc tế có liên quan
ban hành. Khi môi trường pháp lý thiếu rõ ràng, công khai và minh bạch;
thiếu thống nhất và còn chồng chéo, mâu thuẫn sẽ làm gia tăng rủi ro cho hoạt
động tín dụng ngân hàng. Môi trường pháp lý như vậy sẽ dẫn đến một môi
13
trường cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp, vừa gây khó khăn
cho doanh nghiệp và ngân hàng, vừa tạo khe hở để kẻ xấu lợi dụng gây rủi ro
cho cả doanh nghiệp, cá nhân vay vốn và NHTM.

- RRTD do cơ sở hạ tầng thông tin còn nhiều bất cập: Hiện nay, công
nghệ thông tin đã đi vào mọi ngõ ngách đời sống con người, và trong hoạt
động ngân hàng, công nghệ thông tin càng trở nên quan trọng, là thước đo
đánh giá tính chuyên nghiệp vằ năng lực quản trị của NHTM. Về hoạt động
tín dụng, hệ thống công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc thu
thập, cập nhật và lưu trữ thông tin về khách hàng trên phạm vi rộng lớn, có
tính chất liên minh. Vấn đề đặt ra là cần có một hệ thống quản lý thông tin
khách hàng cho toàn bộ các NHTM, cập nhật liên tục, kịp thời các thông tin
về cá nhân, pháp nhân vay vốn, qua đó góp phần sàng lọc khách hàng, hạn
chế một phần nguy cơ RRTD có thể phát sinh. Tuy nhiên nếu hệ thống trên
không được thiết lập, hoặc thiết lập nhưng không có quy mô đủ lớn, không
cập nhật kịp thời các thông tin về khách hàng vay vốn, thì nguy cơ RRTD sẽ
cao hơn trong trường hợp những khách hàng có lịch sử quan hệ tín dụng
kém tại một NHTM lại trờ thành đối tượng cho vay tiềm ẩn nợ xấu cho
NHTM khác.
1.2.3.2. Nguyên nhân chủ quan:
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng cũng là một sản phẩm dịch vụ đê
bán, có sự thỏa thuận, mặc cả, và RRTD là chi phí cơ hội mà người bán – các
NHTM và người mua – khách hàng vay vốn phải đối mặt. Các NHTM có
quyền chọn lựa khách hàng đề quyết định có cho vay hay không, và ngược lại
với những người đi vay (cá nhân, doanh nghiệp). Việc phát sinh các RRTD có
thể bắt nguồn từ chính năng lực thẩm định khách hàng của NHTM hoặc cũng
có thể do bản thân người đi vay mất đi năng lực trả nợ của mình. Các nguyên
nhân cụ thể như sau:
14
- Nguyên nhân từ phía người đi vay: Người đi vay ở đây bao gồm cả
doanh nghiệp và cá nhân, và tương ứng với đó, nguyên nhân gây ra RRTD
mang những đặc thù riêng của chủ thể. Tuy nhiên, các nguyên nhân làm phát
sinh RRTD nói chung đều được xếp vào các loại chính như sau:
Thứ nhất: Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ

vay: Đa số các khách hàng khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh
doanh, phương án tiêu dùng cụ thể, khả thi. Song thực tế, do số lượng sản
phẩm phục vụ đời sống cá nhân và hình thức kinh doanh của các doanh
nghiệp còn bị giới hạn so với nhu cầu thực tế, hoặc đang trong giai đoạn bị
hạn chế, siết chặt, nên hoặc cố ý có ý lừa đảo, hoặc bắt buộc phải sử dụng vốn
sai mục đích để đáp ứng nhu cầu mà các chủ thể đi vay sử dụng vốn không
đúng mục đích. Và một phần không nhỏ trong số đó đã bị nợ quá hạn, nợ xấu,
mà nguyên nhân trực tiếp là việc sử dụng vốn không được tinh toán kỹ lưỡng,
không lường hết các rủi ro. Trong trường hợp khách hàng cố ý lừa đảo ngân
hàng, thiện chí trả nợ là rất thấp, các đối tượng trên thường là loại tội phạm
lừa đảo và gây nhiều thiệt hại cho các NHTM.
Thứ hai: Năng lực kinh doanh, tạo nguồn thu nhập để trả nợ không đảm
bảo. Khi vay vốn, dù là phục vụ mục đích kinh doanh hay tiêu dùng, khách
hàng cũng đều phải dựa trên năng lực trả nợ nhất định theo yêu cầu của
NHTM. Trường hợp khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, song năng
lực trả nợ không được thẩm định kỹ càng, hoặc các biến cố khác làm cho
năng lực trả nợ bị suy giảm, khi đó khách hàng khôn thể đảmbảo tiến độ trả
nợ, RRTD phát sinh. Với các cá nhân, có thể các biến cố đó là thất nghiệp, tai
nạn, sự tha hóa Với các doanh nghiệp, đa phần vốn vay tập trung vốn đầu tư
vào tài sản vật chất, ít chú trọng tới tăng cường công tác quản lý, đầu tư cho
bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kết toán theo đúng chuẩn mực….
15
- Nguyên nhân từ bản thân các NHTM:
NHTM với tư cách là người cho vay, có quyền thẩm định và ra quyết định
từ chối cho vay hoặc đồng ý cho vay. Về mặt lý thuyết, các NHTM sẽ chủ
động ngăn ngừa được không gặp phải RRTD nếu như toàn bộ các công tác
trong quy trình cho vay và quản lý rủi ro của họ đạt hiệu quả cao nhất, bao gồm
các công việc phát triển sản phẩm hợp lý, thẩm định khách hàng, quản lý khách
hàng sau vay vốn…trên nền tảng quan điểm tín dụng, chính sách tín dụng đúng
đắn. Trên thực tế không một NHTM nào thực hiện được mục trên, do nhiều

nguyên nhân khác nhau, trong đó có các nguyên nhân cơ bản như sau:
Thứ nhất: Đưa ra quan điểm phát triển tín dụng và chính sách tín dụng -
kim chỉ nam cho mọi hoạt động tín dụng tiếp theo - không bám sát thực tế
năng lực bản thân NHTM và xu hướng vận động phát triển của môi trường
kinh tế, pháp lý, xã hội. Điều này dẫn tới việc sàng lọc các RRTD gặp phải
nhiều khó khăn và tăng lượng RRTD bị bỏ sót. Chẳng hạn, trong thời kỳ suy
thoái kinh tế, nếu một NHTM gia tăng hoạt động tín dụng đối với nhóm
khách hàng thuộc ngành công nghiệp nặng như chế tạo sắt thép, gang… thì
nguy cơ vỡ nợ của các công ty trên là cao, RRTD là lớn…
Thứ hai: Quy trình cho vay, quy chế cho vay và các sản phẩm tín dụng
đưa ra thị trường không được nghiên cứu kỹ lưỡng, sát hợp với thực tế đặc
điểm khách hàng và hành lang pháp lý, qua đó ngay từ đầu đã hạn chế khả
năng sang lọc rủi ro, sàng lọc khách hàng. Chẳng hạn với loại sản phẩm tín
dụng cho vay đầu tư chứng khoán tại Việt Nam thời gian qua, quy trình cho
vay đầu tư chứng khoán lần đầu tiên được áp dụng còn gặp nhiều bỡ ngỡ, quy
trình cho vay không thực sự sát hợp với quy trình hoạt động của thị trường
chứng khoán và sự biến động liên tục của giá chứng khoán đầu tư hoặc là
TSBĐ, qua đó gặp nhiều lúng túng trong việc cấp vốn cho các nhà đầu tư. Khi
thị trường biến động, nhiều nhà đầu tư gặp thiệt hại, phát sinh RRTD.
16
Thứ ba: Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ. Kiểm tra nội bộ có
điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính linh hoạt ví nó nhanh chóng, kịp thời
ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc
kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng
trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu
như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ
thống “đề kháng” của cơ thể. Cơ thể càng to lớn lớn thì hệ thống này càng
phải hiệu quả thì mới bảo vệ được cơ thể trước những rủi ro bệnh tật luôn
luôn tồn tại thường trực.
Thứ tư: Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố quan trọng để giải quyết vấn đề
hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm,
nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô
cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.
Thứ năm: Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay. Các ngân hàng
thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi
cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay.
Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ
động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách
nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói
chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều
khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm
ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên,
trong thời gian qua các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này do
một phần yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân
hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh của các
khách hàng quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin
mà NHTM yêu cầu.
17
Thứ sáu: Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo. Kinh doanh ngân
hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói cách khác đi vay
để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể trách
khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro.
Sự hợp tác nảy sinh do yêu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng
khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong quản trị tài chính, khả
năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của
nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho
vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều
cho tất cả chứ không ngoại lệ một ngân hàng nào.
1.3. Quản lý rủi ro tín dụng và hiệu quả quản lý RRTD trong NHTM

1.3.1. Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng
1.3.1.1. Khái niệm quản lý rủi ro
Quản lý rủi ro là quá trình nhận biết, phân tích, đánh giá, đo lường, qua
đó đưa ra quyết định chấp nhận hoặc hạn chế những nguy cơ tiềm ẩn trong
các quyết định đầu tư của các chủ thể. Quản lý rủi ro là vô cùng cần thiết bất
cứ khi nào nhà đầu tư hoặc người quản lý quỹ phân tích và cố gắng định
lượng nguy cơ bị lỗ trong một quyết định đầu tư từ đó có những hành động
phù hợp, điều chỉnh lại mục tiêu đầu tư và mức độ rủi ro có thể chấp nhận
được. Nói một cách đơn giản quản lý rủi ro gồm có hai bước chính: xác định
rõ các rủi ro tiềm ẩn trong một quyết định đầu tư và từ đó kiểm soát những rủi
ro này theo cách phù hợp nhất với mục tiêu đầu tư.
Việc quản lý rủi ro cũng gặp những khó khăn nhất định trong việc phân
bổ nguồn lực. Đây chính là biểu hiện của lý thuyết chi phí cơ hội. Dù quản
lý rủi ro làm giảm thiểu nguy cơ gặp rủi ro song các nguồn lực được sử dụng
để quản lý rủi ro lại có thể được sử dụng cho các hoạt động khác có khả
năng sinh lợi cao hơn. Do đó, hiệu quả công tác quản lý RRTD là vấn đề
18
được đặt ra cho các nhà quản trị doanh nghiệp nói chung trong việc cân đối
thu nhập và chi phí, với mục tiêu cao nhất là lợi nhuận kinh doanh và sự
phát triển bền vững.
1.3.1.2. Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng và hiệu quả quản lý RRTD:
- Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng: Xét trong phạm vi hoạt động tín
dụng của các NHTM, quản lý rủi ro tín dụng là quá trình trong đó các NHTM
tiến hành xác định, phân tích đánh giá các nguy cơ tiềm ẩn trong hoạt động
cho vay vốn của mình, qua đó chấp nhận hoặc ngăn ngừa, hạn chế sự phát
sinh của nó, dựa trên một hệ thống các hoạt động có tổ chức và chuyên biệt.
Hiện nay tất cả các NHTM đều thực hiện thiết lập và vận hàng hệ thống quản
lý rủi ro, ở các mức độ khác nhau và tuân thủ thông lệ hoạt động chung trong
phạm vi nền kinh tế nước đó và quốc tế.
- Khái niệm hiệu quả quản lý RRTD: Hiệu quả quản lý RRTD là khái

niệm để chỉ mức độ thỏa mãn các chuẩn mực yêu cầu trong việc so sánh
những kết quả đạt được của công tác quản lý RRTD đối với sự phát triển của
hoạt động tín dụng nói riêng và tổng thể hoạt động kinh doanh của NHTM nói
chung với những chi phí mà NHTM đã chi trả cho công tác đó. Các chuẩn
mực đo lường là những chỉ tiêu của bản thân các NHTM, hệ thống NHTM
của một quốc gia và các quy định của các định chế kinh tế quốc tế, tiêu biểu
như các quy định về trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, quy định về tỷ lệ đảm
bảo an toàn trong cho vay, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng…
1.3.2. Tác hại của RRTD và sự cần thiết của công tác quản lý RRTD tại
các NHTM
Xuất phát từ vị trí vai trò quan trọng của hoạt động tín dụng trong tác
NHTM nói riền và tổng thể nền kinh tế nói chung, khi RRTD phát sinh, tùy
theo quy mô của nó sẽ có tác hại tới không chỉ một NHTM mà còn cho tổng
thể nền kinh tế, do đó sự cần thiết của công tác quản lý nó là không thể thiểu
và phải đạt hiệu quả.
19
- Đối với bản thân các NHTM: Công tác quản lý rủi ro tín dụng đóng
vai trò quan trọng và là một phần hoạt động cơ bản trong các NHTM hiện
nay. Qua việc nhận biết, phân tích các loại RRTD có thể phát sinh, bằng các
công cụ của mình, các NHTM có thể kịp thời đưa ra các giải pháp hợp lý,
hoặc chấp nhận RRTD ở mức độ cho phép trong tương quan với chi phí cơ
hội, hoặc hạn chế, ngăn ngừa nó, giảm tác hại của nó và giữ an toàn cho hoạt
động chung của ngân hàng. Điều này phụ thuộc và từng thời kỳ phát triển của
NHTM, khi mục tiêu tăng trưởng và mục tiêu phát triển bền vững, kết hợp với
các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể.
- Đối với tổng thể nền kinh tế: Hoạt động tín dụng ngân hàng với vai
trò to lớn của nó là kênh dẫn vốn chủ yếu từ nơi tạm thời thừa sang nơi tạm
thời thiếu, là nguồn lực vốn quan trọng cho các chủ thể kinh tế phát triển. Do
đó, công tác quản lý tín dụng tại các NHTM có vai trò vô cùng quan trọng
trong việc quyết định tín hiệu quả của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh

tế, thông qua việc sàng lọc chủ thể vay, lựa chọn chủ thể có năng lực nhất,
định hướng, tư vấn kinh doanh cho khách hàng, nâng cao hiệu quả kinh doanh
của các chủ thể, nâng cao tốc độ và quy mô tiêu dùng của người dân…. Qua
đó phát triển nền kinh tế. Thực tế cho thấy vai trò vô cùng quan trọng trên của
công tác quản lý tín dụng, trong trường hợp không được coi trọng đúng mức,
hoặc những hạn chế trong nhận thức, lý luận tại một tời điểm của các NHTM,
mà hoạt động tín dụng bị nhiều rủi ro phát sinh, gây tác hại nghiêm trọng, dẫn
tới phá sản ngân hàng và khủng hoảng nền tài chính, kinh tế không chỉ một
quốc gia và mang tính toàn cầu. Tiêu biểu là cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu năm 2008, bắt nguồn từ hoạt động cho vay tiêu dùng dưới chuẩn tại Mỹ.
1.3.3. Nội dung cơ bản của quản lý rủi ro tín dụng ngân hàng:
1.3.3.1. Quy trình quản lý RRTD:
Xuất phát từ khái niệm quản lý RRTD là quá trình nhận biết, phân tích,
đánh giá, đo lường, qua đó đưa ra quyết định chấp nhận hoặc hạn chế những
20
nguy cơ tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng của các NHTM, quy trình của quản
lý RRTD được chia ra làm các bước như sau:
- Bước 1: Nhận biết RRTD.
Tại giai đoạn này, NHTM tiến hành xác định các RRTD mà mình có thể
gặp phải trong quá trình cấp tín dụng. Trong đó, các NHTM đi phân tích thị
trường hoạt động chung nền kinh tế, của từng ngành nghề và đặc điểm của các
chủ thể vay vốn, qua đó đưa ra các giả thuyết có thể phát sinh rủi ro. Công việc
trên được tiến hành thường xuyên liên tục, thông qua các hoạt động chuyên
biệt của bộ phận nghiên cứu phát triển sản phẩm, bộ phận quản lý rủi ro.
- Bước 2: Đánh giá, đo lường rủi ro tín dụng:
Tại một thời kỳ nhất định, dựa trên những phân tích nhận biết đã tiến
hành đối với RRTD, NHTM tiến hành đánh giá mức độ, số lượng các RRTD
có thể phát sinh. Việc đánh giá trên được tiến hành trong phạm vi linh hoạt
theo từng khách hàng (qua công tác chấm điểm khách hàng), theo lĩnh vực
kinh doanh, và trên qui mô toàn bộ nền kinh tế. Trên thế giới hiện tại sử dụng

nhiều mô hình phân loại và lượng hóa các loại RRTD, trong đó tiêu biểu là
mô hình xếp hạng tín dụng Moody’s, mô hình 6C….
- Bước 3: Kiểm soát rủi ro tín dụng. Từ các kết quả của công tác nhận
biết và định lượng RRTD về mức độ cũng như số lượng, NHTM đưa ra hàn
động cụ thể của mình ở tầm chiến lược và cụ thể cho từng thời kỳ. Trong đó,
NHTM thực hiện hai vấn đề quan trọng bao gồm ngăn ngừa hạn chế RRTD
và chấp nhận RRTD ở mức độ cân bằng với chi phí cơ hội bỏ ra.
Các bước trong quy trình quản lý RRTD của NHTM nằm trong một
chuỗi công việc có tính chất kế thừa và có quan hệ bổ trợ, tăng cường hiệu
21
Nhận biết
RRTD
Đo lường,
đánh giá RRTD
Kiểm soát
RRTD

×