Tải bản đầy đủ (.docx) (132 trang)

luận văn thạc sĩ quản lý thu thuế đối với DNNQD trên địa bàn tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (790.5 KB, 132 trang )

1

1

TÓM LƯỢC
Thuế là nguồn thu quan trọng của Nhà nước, đảm bảo cho tất cả nhu cầu tài
chính, chi tiêu của Chính phủ để phát triển nền kinh tế và an sinh xã hội. Do đó,
nguồn thu từ thuế phải được ổn định và vững chắc. Trước yêu cầu như vậy, công tác
quản lý thu thuế ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Cơ quan thuế nói chung
và Cục thuế tỉnh Thái Bình nói riêng phải không ngừng nâng cao chất lượng quản lý
thu thuế để đảm bảo công bằng cho tất cả mọi thành phần trong nền kinh tế thực
hiện nghĩa vụ nộp thuế và huy động kịp thời nguồn thu cho NSNN.
Trong sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, loại hình DNNQD ngày
càng chiếm tỷ trọng cao trong các loại hình DN, là đối tượng có đóng góp rất lớn
cho NSNN. Tuy nhiên, ý thức tuân thủ pháp luật về thuế của DNNQD còn chưa
cao, ngày càng có nhiều hành vi vi phạm về thuế như trốn thuế, gian lận thuế gây
khó khăn cho công tác quản lý của cơ quan thuế và thất thoát nguồn thu cho NSNN.
Mặt khác, trong điều kiện nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì tất cả mọi
hoạt động QLNN trong đó có quản lý thu thuế đều phải được cải cách cho phù hợp.
Trước tình hình đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Quản lý thu thuế đối với DNNQD trên
địa bàn tỉnh Thái Bình”. Nhóm tác giả sẽ đi phân tích các nội dung sau:
-

Nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến thuế, DNNQD, quản lý thu thuế, quản
lý thu thuế đối với các DNNQD, phương pháp, công cụ quản lý thuế, nội dung và

-

tiêu chí đánh giá hoạt động quản lý thu thuế đối với các DNNQD.
Từ những cơ sở lý luận, tác giả nghiên cứu cụ thể thực trạng quản lý thu thuế đối
với DNNQD trên địa bàn tỉnh Thái Bình. Tác giả rút ra được những thành công, hạn


chế và nguyên nhân của thành công, hạn chế trong công tác quản lý thu thuế đối với

-

DNNQD trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
Trên cơ sở phân tích thực trạng vấn đề trên, tác giả đưa ra một số giải pháp cho Cục thuế
tỉnh Thái Bình và kiến nghị với Nhà nước, các cơ quan chức năng nhằm nâng cao chất
lượng quản lý thu thuế đối với DNNQD trên địa bàn tỉnh Thái Bình.


2

2

MỤC LỤC


3

3

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CNH - HĐH

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

CNTT

Công nghệ thông tin


CP

Cổ phần

DN

Doanh nghiệp

DNNQD

DNNQD

GTGT

Giá trị gia tăng

HTKK

Hệ thống kê khai

KBNN

Kho bạc Nhà nước

KK&KTT

Kê khai và kế toán thuế

NNT


Người nộp thuế

NSNN

Ngân sách Nhà nước

TNDN

Thu nhập doanh nghiệp

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

TTHT

Tuyên truyền, hỗ trợ

TP

Thành phố

UBND

Ủy ban nhân dân


4

4


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ

DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC BIỂU
Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng trưởng GRDP (%) giai đoạn 2010 - 2015
Biểu đồ 2.2: GRDP bình quân đầu người của tỉnh Thái Bình (trđ)
Biểu đồ 2.3: Tỷ trọng đóng góp của từng lĩnh vực (%)
Biểu đồ 2.1. Các loại hình của DNNQD trên địa bàn tỉnh Thái Bình năm 2015
Đồ thị 2.5: Đánh giá của người nộp thuế về công tác Tuyên truyền, hỗ trợ của
Cục thuế tỉnh Thái Bình
Biểu đồ 2.14: Tỷ lệ thư, thông báo nhắc nộp HSKT
Biểu đồ 2.17: Mức độ ảnh hưởng của các chỉ tiêu tới việc lập danh sách kiểm
tra hồ sơ khai thuế của doanh nghiệp
Biểu đồ 2.22: Đánh giá của cán bộ quản lý thuế về sự ảnh hưởng của các nhân
tố tới việc lập chỉ tiêu thu tiền nợ thuế
Sơ đồ 2.1: Tổ chức bộ máy Cục Thuế tỉnh Thái Bình


5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây quan điểm phát triển kinh tế nước ta bằng con
đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân đòi hỏi sự phát
triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế. Số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh đã tăng lên nhanh chóng và tham gia ngày càng tích cực vào thị trường, làm
tăng sự sôi động trong nền kinh tế. Trong 5 năm qua đã có thêm 285.224 doanh
nghiệp ngoài quốc doanh đăng ký hoạt động, gấp 3 lần tổng số doanh nghiệp

thành lập trong 10 năm 2001 - 2010. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh có vai trò vô
cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, nhất là các nước
đang phát triển. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đóng góp khoảng 50% GDP và
63% việc làm của toàn thế giới, ngoài quốc doanh Việt Nam đóng góp vào GDP là
50% và gần 90% việc làm (Tài liệu Hội thảo “Giải pháp phát triển doanh nghiệp
ngoài quốc doanh”- do Viện Nghiên cứu Phát triển Phương Đông - 2012). Con số
trên đủ nói lên tầm quan trọng và những đóng góp to lớn của các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Làm thế nào để quản lý
thu thuế đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt kết quả cao là câu hỏi đặt
ra với tất cả các địa phương trên cả nước, trong đó có tỉnh Thái Bình.
Thái Bình - một tỉnh ven biển, thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng, với địa
hình tương đối bằng phẳng, nằm trong vùng chịu ảnh hưởng trực tiếp của vùng tam
giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Đất đai Thái Bình phì
nhiêu màu mỡ, nổi tiếng là “bờ xôi ruộng mật” do được bồi tụ bởi hệ thống sông
Hồng và sông Thái Bình với tổng diện tích tự nhiên 156.650 ha với hệ thống kết cấu
hạ tầng đã và đang được xây mới, nâng cấp mở rộng mang tính chất liên kết vùng,
quốc gia, tạo điều kiện cho các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế - xã hội diễn ra
thuận lợi hơn. Trong thời gian qua, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở tỉnh Thái
Bình đã có nhiều bước phát triển quan trọng, ngày càng giữ vai trò to lớn trong sự
phát triển kinh tế của tỉnh. Trong định hướng phát triển kinh tế- xã hội của Tỉnh là
tập trung đầu tư xây dựng, phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lũy kế


6

đến tháng 11/2015, trên địa bàn tỉnh có 5.680 doanh nghiệp, 482 chi nhánh và văn
phòng đại diện với tổng số vốn đăng ký khoảng 96.900 tỷ đồng (Số liệu: Sở
KH&ĐT Thái Bình), số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang hoạt động trên
địa bàn Tỉnh khá lớn. Theo đánh giá, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa
bàn Tỉnh hoạt động kinh doanh đúng pháp luật, đã khai thác được tiềm năng thế

mạnh của địa phương như vốn, lao động, tay nghề, bậc thợ, nhất là ở những địa
phương có làng nghề truyền thống. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tỉnh Thái Bình
đã góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, giải quyết việc làm, tăng thu cho Ngân
sách, cải thiện đời sống cho nhân dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đóng góp đáng kể vào
sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của Tỉnh. Số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh đóng góp vào ngân sách Nhà nước của cả nước nói chung và của tỉnh Thái
Bình nói riêng có xu hướng ngày càng tăng cao. Tổng thu Ngân sách Nhà Nước của
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng ngày càng nhiều từ 30% – 50%
tổng số nguồn thu ngân sách của Tỉnh.
Thuế là nguồn thu chủ yếu, lâu dài và là bộ phận quan trọng nhất của ngân
sách Nhà nước. Thông qua việc thu thuế Chính phủ ban hành các chính sách để phát
triển kinh tế xã hội, xây dựng các công trình công cộng, cải thiện hệ thống an sinh
xã hội. Vì vậy, việc quản lý thu thuế sao cho thu đúng, thu đủ luôn được đặt ra để
tạo nguồn thu cho ngân sách và đảm bảo công bằng trong thực hiện nghĩa vụ thuế
của người dân và doanh nghiệp trong cả nước.
Lịch sử càng phát triển, các hệ thống thuế khóa, các hình thức thuế khóa
và pháp luật thuế ngày càng đa dạng và hoàn thiện cùng với sự phát triển của kinh
tế thị trường. Đồng thời, sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường và xu thế hội nhập quốc tế làm cho môi trường kinh tế ngày càng phức tạp
và gia tăng cạnh tranh. Trong điều kiện đó Nhà nước có vai trò hoàn thiện và thực
hiện hiệu quả hơn nữa công tác quản lý thu thuế nhằm đảm bảo tạo lập môi trường
kinh doanh lành mạnh giữa các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do đó để đảm bảo
phát triển kinh tế - xã hội ổn định, bền vững và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
việc tiếp tục hoàn thiện các chính sách tài chính trong đó hệ thống chính sách thuế


7

là hết sức cần thiết, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ phân bổ nguồn lực đồng thời giải

quyết tốt các mối quan hệ giữa tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng, giữa tăng trưởng với
công bằng xã hội và xóa đói giảm nghèo.
Với tầm quan trọng đó, Cục Thuế tỉnh Thái Bình đã rất nỗ lực trong quản
lý thu thuế đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, do phạm vi hoạt
động rộng, cũng như trình độ quản lý còn nhiều bất cập dẫn đến việc chấp hành
chính sách pháp luật nói chung cũng như pháp luật thuế nói riêng còn hạn chế, dẫn
đến thất thu ngân sách nhà nước.
Mặt khác, trong giai đoạn vừa qua, kinh tế của Tỉnh Thái Bình cũng chịu tác
động không nhỏ của những biến động trên thế giới cũng như trong nước. Trước bối
cảnh chung đó, nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh tỉnh Thái Bình cũng gặp khó
khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tốc độ tăng trưởng giảm, tỷ suất sinh lời
từ vốn đầu tư thấp, năng suất lao động bình quân giảm, hiệu quả kinh doanh thấp.
Nhiều doanh nghiệp phải giải thể, phá sản hoặc tạm ngừng kinh doanh. Để đứng
vững và vượt qua những khó khăn, thách thức trong giai đoạn nền kinh tế thế giới
và trong nước còn tiềm ẩn nhiều diễn biến phức tạp, nhiều nguy cơ xấu hơn đòi hỏi
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tỉnh Thái Bình phải không ngừng nâng cao hiệu
quả kinh doanh của mình, tăng sức cạnh tranh trên thương trường. Do vậy, để đảm
bảo các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế của mình
đối với Nhà nước thì việc tăng cường công tác quản lý thu thuế đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh rất quan trọng và cần thiết. Những yếu tố nêu trên đặt ra
một yêu cầu cấp thiết phải hoàn thiện công tác quản lý thuế. Theo chúng tôi được
biết, trong thời gian qua đã có nhiều công trình cấp địa phương, trung ương nghiên
cứu về vấn đề quản lý thu thuế. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu cụ
thể quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Thái
Bình. Chính vì lý do trên, nhóm tác giả chọn đề tài “Quản lý thu thuế đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Thái Bình”
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Quản lý thuế là nhiệm vụ được chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương hết sức quan tâm vì thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, đặc



8

biệt trong giai đoạn hiện nay, nguồn thu thuế của ngân sách Nhà nước có phần sụt giảm
đáng kể do thời gian đầu hội nhập và suy giảm kinh tế toàn cầu.
Hiện nay ở Việt Nam có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về thuế
được công bố. Các công trình nghiên cứu về thuế có thể được sắp xếp theo ba chủ
đề như sau:
Về “Hoàn thiện chính sách thuế của Việt Nam trong các giai đoạn” có các luận
án tiến sĩ: “Các giải pháp hoàn thiện cải cách hệ thống thuế ở Việt Nam” của NCS.
Nguyễn Văn Hiệu, năm 2003; “Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế đối với khu
vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (minh họa tại vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam)” của NCS. Trần Ngọc Hoàng, năm 2004; “Các giải pháp hoàn thiện
chính sách thuế góp phần phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2010” của NCS. Ngô
Bình Chung, năm 2005; “Chính sách thuế với việc nâng cao năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp ngành công nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế” của NCS. Lê Xuân Trường, năm 2006; “Hoàn thiện chính sách thuế thu
nhập ở Việt Nam phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” của NCS. Nguyễn
Xuân Sơn, năm 2007; “Hoàn thiện hệ thống chính sách thuế ở Việt Nam trong điều
kiện gia nhập WTO” của NCS. Vương Thị Thu Hiền, năm 2008; “Đổi mới chính
sách thuế tiêu dùng ở Việt Nam” của NCS. Lê Thu Huyền, năm 2008; “Hoàn thiện
chính sách thuế đánh vào tài sản ở Việt Nam” của NCS. Nguyễn Đình Chiến, năm
2008.
Về “Nâng cao vai trò của thuế trong quản lý, điều tiết vĩ mô” có các luận
án: “Hoàn thiện hệ thống thuế nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để thuế
thực sự trở thành công cụ chính của Nhà nước, điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường”
của NCS. Chu Văn Tuấn, năm 2001; “Hoàn thiện việc sử dụng công cụ thuế trong
quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam”
của NCS. Tạ Văn Lợi, năm 2003; “Góp phần nâng cao vai trò của thuế ở Việt Nam
trong điều kiện hội nhập” của NCS. Lê Phú Hào, năm 2007; “Nâng cao vai trò của

thuế - công cụ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa ở Việt Nam” của NCS. Nguyễn
Kim Quyến, năm 2007.


9

Về “Giải pháp tăng cường quản lý thuế”, có các luận án: “Các giải pháp
tăng cường quản lý thuế xuất nhập khẩu trong tiến trình gia nhập AFTA của Việt
Nam” của NCS. Nguyễn Danh Hưng, năm 2004; “Đổi mới quản lý thuế trong điều
kiện hội nhập kinh tế ở Việt Nam” của NCS. Lê Duy Thành, năm 2007; “Hoàn
thiện quản lý thu thuế của Nhà nước nhằm tăng cường sự tuân thủ thuế của doanh
nghiệp (nghiên cứu tình huống của Hà Nội)” của NCS. Nguyễn Thị Lệ Thúy, năm
2009; “Quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế” của NCS. Lý Phương Duyên, năm 2010; Phạm Thị Hồng Loan (2014),
Hoàn thiện thông tác quản lý thuế tại Cục thuế tỉnh Tuyên Quang. Luận văn Thạc
sĩ, Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – Đại học Thái Nguyên. Trong
nghiên cứu của mình, tác giả đã phân tích thực trạng trong công tác quản lý thuế
trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang thông qua bốn chức năng cơ bản của quản lý thuế.
Từ đó đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế trên địa
bàn tỉnh Tuyên Quang; Nguyễn Phùng Hạnh (2015), Quản lý thu thuế giá trị gia
tăng đối với các doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Luận văn thạc
sỹ quản lý kinh tế. Luận văn đề cập đến các nội dung cơ bản của công tác quản lý
thu thuế đối với doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn của một một tỉnh bao gồm
quản lý các thủ tục hành chính về thuế, quản lý quy trình thu thuế và giám sát việc
tuân thủ pháp luật về thuế. Nghiên cứu cũng đề cập đến những yếu tố cơ bản ảnh
hưởng đến quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp xây dựng trên địa bàn của một
huyện và giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý thu thuế sao cho có hiệu quả
Các công trình nêu trên nghiên cứu ở từng khía cạnh như: hoàn thiện chính
sách thuế, tăng cường quản lý thu thuế hay nâng cao vai trò của thuế trong việc điều
tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội của Nhà nước, hầu hết thuộc chuyên ngành Tài chính

- Lưu thông tiền tệ và tín dụng hoặc chuyên ngành Kinh tế - Tài chính - Ngân hàng.
Chưa có công trình nghiên cứu tổng hợp về quản lý thuế theo tiếp cận quản lý kinh
tế. Bên cạnh đó, một số địa phương hoặc vùng kinh tế được nghiên cứu trong các
luận án về thuế trước đây, tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể quản
lý thu thuế đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Thái Bình
trong giai đoạn 2014 - 2016.


10

Như vậy có thể khẳng định nghiên cứu về quản lý thu thuế đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Thái Bình theo tiếp cận quản lý kinh tế
trong bối cảnh hiện nay là một chủ đề khá mới, chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách đầy đủ, có hệ thống về vấn đề này. Do vậy, đề tài “Quản lý thu thuế đối với
doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Thái Bình” không trùng lắp với
các công trình nghiên cứu đã được công bố trước đó.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
3.1 Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu nghiên cứu là quản lý thu thuế đối với DNNQD trên địa bàn tỉnh
Thái Bình
3.2 Mục tiêu cụ thể
-

Hệ thống hoá các cơ sở lý luận về thuế, quản lý thuế, những yếu tố ảnh hưởng đến

-

quản lý thuế, nội dung quản lý thuế
Tìm hiểu về tình hình và kết quả thu thuế đối với DNNQD trên địa bàn Tỉnh Thái


-

Bình.
Nghiên cứu thực trạng quản lý thu thuế đối với DNNQD trên địa bàn Tỉnh Thái

-

Bình.
Đánh giá thực trạng quản lý thu thuế, từ đó đưa ra những kết luận, giải pháp, kiến
nghị nhằm tăng cường quản lý thu thuế đối với DNNQD trên địa bàn Tỉnh Thái
Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý thu thuế đối với DNNQD trên địa
bàn Tỉnh Thái Bình.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi nghiên cứu về mặt không gian
Đề tài nghiên cứu tại các Chi cục thuế và DNNQD trên địa bàn Tỉnh Thái
Bình.
* Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian
Đề tài phân tích dữ liệu giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2016 và đề xuất định
hướng đến năm 2025.
* Phạm vi nghiên cứu về mặt nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung về thuế, thực trạng quản lý thu thuế


11

đối với DNNQD trên địa bàn Tỉnh Thái Bình trên các nội dung sau: Chính sách và
pháp luật về thuế; Tổ chức bộ máy thu thuế; Quản lý quy trình thu thuế; Thanh tra,

kiểm tra thuế; Quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính. Phương pháp định tính
được dùng để khái quát hóa, mô tả các khái quát chung về quản lý thuế, đặc điểm
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ngoài quốc
doanh , từ đó đánh giá thực trạng về công tác quản lý thu thuế các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Thái Bình, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện công tác quản lý thuế đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn
tỉnh Thái Bình.
Nhóm tác giả trực tiếp làm việc tại các sở, ngành, các chi cục thuế các huyện,
thành phố. Thu thập thông tin, tài liệu, xử lý số liệu, phân tích thông tin, tài liệu về
công tác quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh từ năm 2014 2016
Phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng:
- Phương pháp điều tra khảo sát: Đề tài sử dụng mẫu phiếu điều tra, được
thực hiện với hai nhóm đối tượng gồm 150 người nộp thuế (doanh nghiệp ngoài
quốc doanh) và cán bộ thuế thuộc các Chi Cục thuế trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
- Phương pháp thu thập thông tin và xử lý số liệu: Tác giả thu thập thông tin
chủ yếu là dữ liệu thứ cấp thông qua tài liệu, giáo trình, đề án, website, báo cáo của
các cơ quan thuế có liên quan,... Sau khi đã thu thập được thông tin thứ cấp, tác giả
tiến hành xử lý số liệu thể hiện qua bảng biểu, đồ thị.
- Phương pháp khảo sát, lấy ý kiến chuyên gia: Nói chuyện, phỏng vấn các
chuyên gia kinh tế trong nước để nghe ý kiến, quan điểm của chuyên gia về thực
trạng công tác quản lý thu thuế các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
- Phương pháp thống kê mô tả sử dụng dữ liệu thứ cấp để hỗ trợ quá trình lập
luận: các số liệu thống kê qua các báo cáo, website, thống kê của các cơ quan thuế
để phục vụ cho việc phân tích, đánh giá toàn diện nội dung hoạt động quản lý thu
thuế đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Thái Bình.


12


- Phương pháp quy nạp và diễn dịch, đánh giá và so sánh: Trên cơ sở phân tích
những nội dung cơ bản của quản lý thu thuế đối với với doanh nghiệp ngoài quốc
doanh trên địa bàn tỉnh Thái Bình, đề tài sử dụng phương pháp quy nạp để đưa ra
những đánh giá mang tính khái quát về thực trạng quản lý thu thuế đối với với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Thái Bình
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần lời cam đoan, lời cảm ơn, tóm lược, mục lục, các danh mục, phần
mở đầu thì đề tài bao gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về thuế và quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
ngoài quốc doanh
Chương 2. Thực trạng quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ngoài quốc
doanh trên địa bàn Tỉnh Thái Bình
Chương 3. Giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn Tỉnh Thái Bình


13

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẾ VÀ QUẢN LÝ THU THUẾ
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH
1.1 Khái quát chung về thuế và đặc điểm của doanh nghiệp ngoài quốc
doanh
1.1.1 Khái quát chung về thuế
1.1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của thuế
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng thuế ra đời là một
sự cần thiết khách quan, gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước.
Nhà nước là một tổ chức chính trị, đại diện quyền lợi cho giai cấp thống trị, thi
hành các chính sách do giai cấp thống trị đặt ra để cai trị xã hội. Để có nguồn lực
vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình,

Nhà nước phải dùng quyền lực chính trị vốn có để huy động một bộ phận của cải
của xã hội. Việc huy động tập trung nguồn của cải xã hội vào trong tay Nhà nước có
thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau: đóng góp bắt buộc, vận động dân đóng
góp tự nguyện hoặc vay, trong đó, biện pháp huy động, tập trung của cải có tính bắt
buộc đối với mọi thành viên trong xã hội được gọi là thuế.
Ra đời và tồn tại cùng với Nhà nước, từ đó đến nay, thuế đã trải qua một quá
trình phát triển lâu dài và khái niệm về thuế cũng không ngừng được hoàn thiện.
Theo các nhà kinh điển, “Thuế là cái mà Nhà nước thu của dân nhưng không
bù lại” và “thuế cấu thành nên nguồn thu của Chính phủ, nó được lấy ra từ sản
phẩm của đất đai và lao động trong nước, xét cho cùng thì thuế được lấy ra từ tư
bản hay thu nhập của người chịu thuế” (Lê-nin toàn tập, tập 15). Nhà kinh tế học
Gaston Jeze trong cuốn “Tài chính công” (Gaston Jeze, “Finances Publiques”,
1934) đã đưa ra một khái niệm cổ điển nhất và cũng nổi tiếng nhất về thuế. Theo tác
giả, “Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền, có tính chất xác định, không hoàn trả
trực tiếp do các công dân đóng góp cho Nhà nước thông qua con đường quyền lực
nhằm bù đắp những chi tiêu của Nhà nước”. Theo thời gian, khái niệm cổ điển này
đến nay đã được bổ sung, chỉnh sửa và hoàn thiện, theo đó: “Thuế là một khoản
trích nộp bằng tiền, có tính chất xác định, không hoàn trả trực tiếp do các công dân
đóng góp cho Nhà nước thông qua con đường quyền lực nhằm bù đắp những chi


14

tiêu của Nhà nước trong việc thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà
nước”.
Trên góc độ phân phối thu nhập, Thuế được hiểu là hình thức phân phối và
phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành nên quĩ
tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước (quỹ Ngân sách nhà nước) để đáp ứng nhu
cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Trên góc độ người nộp thuế thì thuế là khoản đóng góp bắt buộc mà mỗi tổ

chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo Luật định để đáp ứng
nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước; người
đóng thuế được hưởng hợp pháp phần thu nhập còn lại.
Trên góc độ kinh tế học: thuế là biện pháp đặc biệt, theo đó, Nhà nước sử
dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu vực
công nhằm thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Có thể nhận thấy rằng, đứng trên các góc độ khác nhau để nghiên cứu sẽ có
những nhận định về thuế là khác nhau. Tuy nhiên, từ các quan điểm trên ta có thể
rút ra được một số đặc trưng chung của thuế là:
- Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các mối quan hệ tiền tệ phát
sinh giữa nhà nước và các pháp nhân, các thể nhân trong xã hội.
- Những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này phát sinh một cách khách quan và
có ý nghĩa xã hội đặc biệt. Việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo
mệnh lệnh của Nhà nước.
- Xét theo khía cạnh pháp luật, thuế là một khoản nộp cho Nhà nước được
pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.
- Nguồn thu từ thuế được Nhà nước sử dụng cho mục đích thực hiện các chức
năng kinh tế - xã hội
Từ các đặc trưng trên của thuế, ta có thể nêu lên khái niệm tổng quát về thuế:
“Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà
nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định nhằm sử dụng cho mục đích
thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước.”
Do vậy, thuế có các đặc điểm sau: tính bắt buộc; tính không hoàn trả trực tiếp; tính
pháp lý cao.


15

Thứ nhất, thuế có tính bắt buộc
Tính bắt buộc của thuế là tất yếu khách quan xuất phát từ đặc tính của hàng

hóa công cộng. Với đặc tính của hàng hóa công cộng là có thể sử dụng chung và
khó có thể loại trừ, Nhà nước luôn là chủ thể cung cấp đại bộ phận hàng hóa công
cộng cho xã hội nhằm đảm bảo độ thỏa dụng tối đa của xã hội. Song không ai tự
nguyện trả tiền cho việc thu hưởng hàng hóa công cộng do Nhà nước đầu tư cung
cấp như quốc phòng, môi trường pháp luật, phòng dịch bệnh, tu sửa đê điều… Vì
vậy, để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công cộng, tất yếu Nhà nước phải sử dụng quyền
lực của mình để bắt buộc các thể nhân và pháp nhân phải nộp thuế cho Nhà nước.
Tính bắt buộc của thuế thể hiện nghĩa vụ và quyền lợi đóng góp của mọi thể
nhân và pháp nhân đối với lợi ích công cộng của toàn xã hội và được thể chế hóa
trong hiến pháp của mọi quốc gia. Nhà nước ấn định, ban hành các luật thuế và
tổ chức bộ máy quản lý thu thuế; các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ thực
hiện theo đúng luật định. Thể chế hóa thu nộp thuế bằng các văn bản pháp luật
một mặt thể hiện tính pháp lý cao của thuế, mặt khác nhằm tránh tùy tiện trong
việc thu thuế và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.
Đặc điểm này chỉ rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ tiền tệ, được
hình thành một cách khách quan và có một ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc động viên
mang tính chất bắt buộc của nhà nước. Phân phối mang tính chất bắt buộc dưới hình
thức thuế là một phương thức phân phối của nhà nước mà không kèm theo một sự
cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp thuế.
Thứ hai, thuế có tính không hoàn trả trực tiếp
Thuế không gắn trực tiếp với lợi ích cụ thể mà người nộp thuế được hưởng
từ hàng hóa công cộng do Nhà nước cung cấp. Các thể nhân, pháp nhân thực
hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước theo luật định không có quyền đòi hỏi Nhà
nước phải cung cấp trực tiếp cho họ một lượng hàng hóa nào đó hoặc hoàn trả số
thuế họ đã nộp theo đúng luật định. Mức độ chuyển giao thu nhập của các thể


16

nhân và pháp nhân cho Nhà nước thông qua thuế được xác định dựa trên cơ sở

thực trạng kinh tế - xã hội, mục tiêu phát triển đất nước và nhu cầu tài chính
chung của Nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể.
Đặc điểm này giúp ta phân biệt thuế với các khoản thu phí, lệ phí vào NSNN.
Phí và lệ phí cũng là các khoản thu mang tính bắt buộc của Nhà nước, nhưng phí và
lệ phí được gắn trực tiếp với việc khai thác và hưởng thụ lợi ích từ những dịch vụ
công cộng nhất định do Nhà nước cung cấp.
Tuy vậy, thuế là khoản động viên của Nhà nước mang tính chất hoàn trả gián
tiếp. Sự hoàn trả này được thể hiện thông qua việc khai thác hưởng thụ lợi ích từ
hàng hóa công cộng do Nhà nước đầu tư cung cấp của các thể nhân và pháp nhân
trong xã hội.
Thứ ba, thuế có tính pháp lý cao
Thuế được quy định mang tính bắt buộc bởi hệ thống pháp luật chặt chẽ, do
đó, đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, mức thuế, thời gian cụ thể và các chế
tài cưỡng chế khác sẽ phải thực hiện nghĩa vụ một cách nghiêm túc theo pháp luật.
Vì vậy, để bắt buộc các công dân: "tự nguyện" nộp thuế thì nhà nước phải sử
dụng đến quyền lực của mình, quyền lực ấy được thể hiện bằng luật pháp. Nhà kinh
tế học Joseph E.Stiglitz nói rằng: "Việc chuyển giao bắt buộc này giống như là ăn
trộm, chỉ có một điểm khác chủ yếu là trong khi cả hai chuyển đều là không tự nguyện,
thì cách chuyển qua Chính phủ có mang tấm áo choàng hợp pháp và sự tôn trọng do
quá trình chính trị ban cho" (20, tr 31).
Thứ tư, Thuế là một hình thức phân phối của cải xã hội chứa đựng các yếu tố
chính trị - kinh tế - xã hội.
Nhà nước đánh thuế thực chất là Nhà nước tham gia vào phân phối thu nhập
của các thể nhân, pháp nhân nhằm tập trung một bộ phận tổng sản phẩm quốc dân
vào trong tay Nhà nước và điều tiết thu nhập giữa các thể nhân, pháp nhân.
Nhà nước và thuế là hai phạm trù gắn bó hữu cơ với nhau, chính sách thuế của
một quốc gia luôn gắn liền với bản chất của Nhà nước và lợi ích của mọi thể nhân,


17


pháp nhân; vì vậy, chính sách thuế luôn chứa đựng yếu tố chính trị - kinh tế - xã hội
rộng lớn.
Nguồn thu thuế là kết quả của các hoạt động kinh tế - xã hội và thuế có tác
động đến lợi ích của mọi chủ thể trong xã hội, tác động đến mọi hoạt động kinh tế xã hội như tiết kiệm, đầu tư, tiêu dùng, xuất nhập khẩu, giá cả, thị trường, thất
nghiệp, công bằng xã hội…
1.1.1.2 Vai trò của thuế
Thứ nhất, thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội
bộ nền kinh tế quốc dân.Tất cả các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước đều được đáp ứng
qua các nguồn thu từ thuế, phí và các hình thức thu khác như: vay mượn, viện trợ
nước ngoài, bán tài nguyên quốc gia,..vv.. Song thực tế các hình thức thu ngoài thuế
đó có rất nhiều hạn chế, bị ràng buộc bởi nhiều điều kiện. Do đó thuế được coi là
khoản thu quan trọng nhất vì khoản thu này mang tính chất ổn định và khi nền kinh
tế càng phát triển thì khoản thu này càng tăng. Ở nước ta, thuế thực sự trở thành
nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước. Nguồn thu từ thuế thường chiếm trên
90% tổng thu NSNN. Vì vậy, để thuế là nguồn thu vững chắc cho NSNN thì Nhà
nước phải tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng khi ban hành các sắc thuế, thuế suất, phải
phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội và thu nhập quốc dân.
Thứ hai, thuế góp phần điều tiết kinh tế vĩ mô và kích thích tăng trưởng kinh tế.
Thuế được coi là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô nhạy bén và có hiệu quả.
Chính sách thuế ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập, giá cả, quan hệ cung cầu, cơ cấu
đầu tư và sự phát triển hoặc suy thoái của nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường,
Nhà nước sử dụng thuế để góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả, kích thích
đầu tư, phân phối lại sản phẩm xã hội nhằm đạt mục tiêu công bằng xã hội. Ngoài
ra, thuế là công cụ rất quan trọng để bảo hộ sản xuất trong nước và tăng cường khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập quốc tế.
1.1.1.3 Các sắc thuế chủ yếu đối với doanh nghiệp
Hiện nay, hệ thống thuế ở Việt Nam có 9 sắc thuế: Thuế thu nhập cá nhân;
Thuế thu nhập doanh nghiệp; Thuế giá trị gia tăng; Thuế tiêu thụ đặc biệt; Thuế tài



18

nguyên; Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; Thuế bảo vệ môi trường; Thuế sử dụng
đất nông nghiệp; Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Chuyển thuế môn bài thành một
khoản thu lệ phí quản lý hoạt động kinh doanh hàng năm. Trong các sắc thuế trong
hệ thống thuế hiện nay ở Việt Nam thì sắc thuế chủ yếu đối với doanh nghiệp là:
thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế tài nguyên, thuế xuất nhập
khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt.
* Thuế thu nhập doanh nghiệp
Để hiểu rõ khái niệm về thuế thu nhập doanh nghiệp, trước hết cần hiểu về thu
nhập. Xét về khía cạnh kinh tế, thu nhập là chỉ một bộ phận tài sản tăng thêm trong
một thời gian nhất định và luôn gắn với một chủ thể nhất định thể hiện tính sở hữu
của thu nhập như của một cá nhân, thu nhập của một doanh nghiệp…; Xét về khía
cạnh pháp lý, không phải toàn bộ thu nhập phải chịu thuế mà thu nhập chịu thuế là
thu nhập thực tế phát sinh, tức là thu nhập nhận được sau khi đã trừ đi các chi phí.
Thuế thu nhập là thuế đánh vào thu nhập thực tế phát sinh của cá nhân và pháp
nhân. Trường hợp đánh vào thu nhập thực tế của cá nhân được gọi là thuế thu nhập
cá nhân. Trường hợp đánh vào thu nhập thực tế của pháp nhân, nó được gọi là thuế
thu nhập doanh nghiệp.
Vậy, Thuế TNDN là loại thuế trực thu đánh trên phần thu nhập sau khi trừ đi
các khoản chi phí hợp lí, hợp pháp liên quan đến thu nhập của đối tượng nộp thuế.
Tính chất trực thu của loại thuế này được biểu hiện ở sự đồng nhất giữa đối
tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế, người có nghĩa vụ nộp thuế đồng thời là
người chịu thuế trên thu nhập thực tế mà mình được hưởng. Chính vì vậy, thuế trực
thu không được tính vào cơ cấu giá thành hàng hoá dịch vụ và không được trừ vào
chi phí khi tính thu nhập tính thuế của cơ sở sản xuất kinh doanh.
Thuế thu nhập doanh nghiệp luôn gắn liền với quá trình và phản ánh mức độ
và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Sự vận hành của

loại thuế này được thực hiện trên cơ sở những quy định của luật Thuế thu nhập do
nhà nước ban hành, theo đó, chênh lệch giữa doanh thu, thu nhập, chi phí để xác
định định nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp được xác định dựa trên cơ sở tính
thuế theo qui định của luật thuế. Trong khi đó, việc xác định và ghi nhận các khoản


19

doanh thu, thu nhập, chi phí này được thực hiện trên cơ sở những quy định của
chuẩn mực, chế độ kế toán doanh nghiệp hiện hành và sự lựa chọn chính sách kế
toán của doanh nghiệp, do đó lợi nhuận kế toán được xác định trên cơ sở ghi nhận
của kế toán. Sự khác biệt về cơ sở tính thuế thu nhập và cơ sở ghi nhận của lợi
nhuận kế toán đã làm nảy sinh những chênh lệch giữa thu nhập tính thuế và lợi
nhuận kế toán, đây là nguồn gốc phát sinh của những chênh lệch tạm thời và chênh
lệch vĩnh viễn, trong đó chênh lệch tạm thời làm phát sinh thuế thu nhập doanh
nghiệp hoãn lại. Vậy, thuế thu nhập doanh nghiệp bao gồm thuế thu nhập doanh
nghiệp hiện hành và thuế thu nhập doanh nghiệp hoãn lại.
Thuế TNDN một nguồn thu lớn cho NSNN và có các đặc điểm riêng biệt để
phân biệt với các sắc thuế khác như sau:
Thứ nhất, thuế thu nhập doanh nghiệp là thuế trực thu: Tính chất trực thu
của loại thuế này được biểu hiện ở sự đồng nhất giữa đối tượng nộp thuế và đối
tượng chịu thuế.
Thứ hai, thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế phải nộp cho Nhà nước
mang tính bắt buộc phi hình sự: Tính bắt buộc phi hình sự là thuộc tính cơ bản vốn
có của thuế nói chung và thuế TNDN nói riêng, điều này để phân biệt thuế TNDN
với các hình thức huy động tài chính khác của Ngân sách Nhà nước. Đặc điểm này
xác định rõ nội dung kinh tế của thuế TNDN là những quan hệ tiền tệ được hình
thành một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt. Phân phối mang tính bắt
buộc dưới hình thức thuế TNDN là một phương thức phân phối của Nhà nước mà
kết quả của quá trình đó là một bộ phận thu nhập của doanh nghiệp được chuyển

giao cho Nhà nước mà không kèm theo một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào
khác cho người nộp thuế.
Thứ ba, thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế không mang tính chất hoàn
trả trực tiếp: Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế TNDN được biểu hiện trên
các khía cạnh:
Một là, việc nộp thuế không mang tính đối giá, nghĩa là mức thuế mà các tầng
lớp trong xã hội chuyển giao cho Nhà nước không hoàn toàn dựa trên mức độ người
nộp thuế thừa hưởng những dịch vụ và hàng hóa công cộng do Nhà nước cung cấp.


20

Người nộp thuế cũng không có quyền đòi hỏi Nhà nước phải cung cấp hàng hóa,
dịch vụ công cộng trực tiếp cho mình mới phát sinh khoản chuyển giao thu nhập
cho Nhà nước, mặt khác mức độ cung cấp dịch vụ công cộng của Nhà nước cũng
không nhất thiết ngang bằng mức độ chuyển giao.
Hai là, việc nộp thuế không được hoàn trả trực tiếp, có nghĩa là người nộp
thuế suy cho cùng sẽ nhận được một phần các dịch vụ công cộng mà Nhà nước
cung cấp chung cho cả cộng đồng giá trị phần dịch vụ đó không nhất thiết tương
đồng với khoản tiền thuế mà họ nộp cho Nhà nước.
Thứ tư, thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế được quy định trước bằng
pháp luật: Đặc điểm này một mặt thể hiện tính pháp lý cao của thuế TNDN, mặt
khác phản ánh việc nộp thuế không mang tính tùy tiện mà dựa trên những cơ sở
pháp luật nhất định và đã được xác định trước trong luật thuế TNDN. Những tiêu
thức thường được xác định trong luật thuế TNDN là đối tượng chịu thuế, đối tượng
nộp thuế, mức thuế phải nộp, thời hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng chế
khác...Các khoản chuyển giao thuế thu nhập dưới hình thức thuế thu nhập doanh
nghiệp chỉ được giới hạn trong phạm vi biên giới quốc gia với quyền lực pháp lý
của Nhà nước đối với con người và tài sản.
Thứ năm, Thuế thu nhập doanh nghiệp là thuế khấu trừ trước thuế thu nhập

cá nhân. Thu nhập mà cá nhận nhận được từ hoạt động đầu tư như: lợi tức cổ phần,
lãi tiền gửi ngân hàng, lợi nhuận do góp vốn liên doanh, liên kết...là phần thu nhập được
chia sau khi nộp thuế TNDN.
* Thuế giá trị gia tăng
Thuế giá trị gia tăng (GTGT) có nguồn gốc từ thuế doanh thu, được áp dụng
đầu tiên trên thế giới tại Pháp vào năm 1954, với ưu điểm nổi bật của thuế GTGT là
đảm bảo nguồn thu kịp thời cho ngân sách nhà nước và khắc phục được tình trạng
trùng lắp của thuế doanh thu. Cho đến nay, thuế GTGT đã được áp dụng phổ biến
trên thế giới, ở Việt Nam thuế GTGT được áp dụng từ ngày 1 tháng 1 năm 1999.
Thuế GTGT là loại thuế tính trên giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ phát
sinh từ các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Người nộp thuế
chỉ tính số thuế phải nộp trên cơ sở khoản chênh lệch giữa số thuế tính trên sản


21

phẩm bán ra và số thuế tính trên sản phẩm mua vào, người tiêu dùng là người gánh
chịu toàn bộ số thuế này vì họ là người thực hiện mua hàng nhưng không thực hiện
việc bán hàng.
Như vậy, thuế GTGT tính trên phần giá trị mới được tạo ra (giá trị gia tăng)
của hàng hóa dịch vụ trên mỗi công đoạn của quá trình sản xuất, lưu thông, tiêu
dùng. Không tính vào phần giá trị đã chịu thuế GTGT ở các khâu trước, khắc phục
được tình trạng “thuế chồng lên thuế“, từ đó khuyến khích sản xuất kinh doanh,
xuất khẩu, tăng cường đầu tư, tăng thu ngân sách nhà nước
Thuế GTGT có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, thuế GTGT là thuế gián thu: Đối tượng nộp thuế GTGT là người
cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Người chịu thuế là người tiêu dùng cuối cùng. Người
bán hàng khi bán hàng sẽ cộng số thuế GTGT vào giá bán hàng hóa, dịch vụ mà
người mua phải trả khi mua hàng hóa, dịch vụ. Tiền thuế GTGT được tính trong giá
thanh toán của hàng hóa, dịch vụ được các cơ sở sản xuất kinh doanh nộp vào ngân

sách nhà nước thay cho người tiêu dùng.
Như vây, tính gián thu của thuế GTGT biểu hiện là người mua (người tiêu
dùng cuối cùng) là người chịu khoản thuế này nhưng không trực tiếp đứng ra nộp
thuế vào ngân sách nhà nước, mà họ phải trả khoản thuế cho người bán hàng hóa
dịch vụ khi thực hiện việc mua của hàng hóa dịch vụ đó, người bán thực hiện nộp
khoản thuế GTGT phải nộp vào ngân sách nhà nước theo phương pháp khấu trừ
thuế hoặc phương pháp trực tiếp.
Thứ hai, thuế GTGT là thuế đánh nhiều giai đoạn không trùng lắp: Thuế
GTGT là thuế tiêu dùng nhiều giai đoạn. Thuế GTGT đánh vào tất cả các giai đoạn
của quá trình sản xuất kinh doanh nhưng chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của
mỗi giai đoạn. Tổng số thuế thu được của tất cả các giai đoạn đúng bằng số thuế
tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
Như vậy, về nguyên tắc chỉ cần thu thuế ở khâu bán cuối cùng. Tuy nhiên, trên
thực tế khó xác định được đâu là khâu bán cuối cùng, đâu là khâu trung gian. Do
vậy, cứ khi thực hiện mua hàng hóa, dịch vụ là phải tính thuế, người tiêu dùng sẽ là
người chịu toàn bộ số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ đó. Tổng số thuế người


22

tiêu dùng trả cuối cùng bằng tổng số thuế phát sinh đã được người bán (cơ sở sản
xuất kinh doanh) kê khai và nộp qua từng giai đoạn của quá trình sản xuất kinh
doanh hàng hóa dịch vụ.
Thứ ba, tính trung lập cao: Thuế GTGT không bị ảnh hưởng trực tiếp của kết
quả kinh doanh của người nộp thuế, do người nộp thuế chỉ là người thay măt người
tiêu dùng nộp hộ các khoản thuế vào ngân sách nhà nước. Do vậy, thuế GTGT
không phải là yếu tố của chi phí sản xuất mà chỉ đơn thuần là một khoản thuế được
cộng thêm ngoài giá bán của người cung cấp hàng hóa dịch vụ đó.
Thuế GTGT không bị ảnh hưởng bởi quá trình tổ chức và phân chia quá trình
sản xuất kinh doanh, vì quá trình tổ chức và phân chia các chu trình kinh tế, sản

phẩm được luân chuyển qua nhiều hay ít giai đoạn thì tổng số thuế phải nộp của tất
cả các giai đoạn vẫn đúng bằng số thuế tính trên giá bán ở giai đoạn cuối cùng.
Thứ tư, thuế GTGT là thuế lũy thoái so với thu nhập: Thuế GTGT tính vào
hàng hóa dịch vụ và người tiêu dùng là người phải trả khoản thuế đó, không phân
biệt thu nhập cao hay thấp, số thuế phải nộp là như nhau nếu mua cùng một loại
hàng hóa, dịch vụ. Như vậy khi so sánh tỷ suất thuế GTGT trên tổng thu nhập thì
người có thu nhập cao có tỷ suất thấp hơn người có thu nhập thấp.
Thứ năm, thuế GTGT có tính lãnh thổ: Thuế GTGT tính trong phạm vi lãnh
thổ một quốc gia, đối tượng chịu thuế là người tiêu dùng trong phạm vi lãnh thổ
quốc gia đó.
* Thuế thu nhập cá nhân
Thuế thu nhập cá nhân đã được áp dụng từ lâu ở các nước phát triển, đối
tượng nộp thuế này là mọi dân cư trong nước và người nước ngoài có thu nhập phát
sinh ở nước sở tại không phân biệt nghề nghiệp và địa vị xã hội. Ðồng thời, tùy theo
tính chất của các khoản thu nhập cá nhân, người ta chia thu nhập làm hai loại: thu
nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên để tính thuế cho phù hợp. Lần
đầu tiên ở Anh vào năm 1799 thuế thu nhập cá nhân được đưa vào thực hiện như
một hình thức thu tạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc chiến tranh chống
Pháp và được chính thức áp dụng vào năm 1942. Sau đó nhiều nước tư bản phát


23

triển khác cũng áp dụng thuế này như: ở Nhật năm 1887, Ðức 1899, Mỹ 1903, pháp
1916 và Liên Xô năm 1922.
Hiện nay trên thế giới có 02 phương pháp đánh thuế:
Cách thứ nhất: Tính thuế vào từng khoản thu nhập thực tế của mỗi cá nhân.
Được áp dụng phổ biến ở Anh, Nhật, Thụy Ðiển, các nước Châu Phi, Liên Xô,
Hungari, Tiệp khắc...Ưu điểm của cách này là đơn giản, dễ thực hiện, đảm bảo thu
kịp thời vào ngân sách Nhà nước. Nhưng có nhược điểm là chưa đảm bảo yêu cầu

phân phối lại thu nhập quốc dân qua thuế sao cho có hiệu quả và đáp ứng được sự
công bằng xã hội và nhất là đối với những cá nhân có nhiều khẩu ăn theo
Cách thứ hai: Tính thuế trên tổng thu nhập của cả hộ gia đình. Được áp dụng
ở Pháp, Hà Lan...Các chuyên gia cho rằng cách này có ưu điểm là công bằng hơn về
mặt đạo đức xã hội. Nhưng nhược điểm là không kịp thời vì mỗi gia đình đều có ít
nhất hai người trở lên. Ðã có nhiều người thì sẽ có nhiều khoản thu nhập khác nhau,
do đó phải mở sổ sách kế toán, theo dõi từng nguồn thu nhập và phải đối chiếu với
nơi phát sinh thu nhập, vì có nhiều phức tạp nên rất ít quốc gia áp dụng cách thứ
hai.
Vì vậy, bất kỳ một quốc gia nào có nền kinh tế vận động theo cơ chế thị
trường đều coi thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế có tầm quan trọng lớn trong
việc huy động nguồn thu cho ngân sách và thực hiện công bằng xã hội.

Cho

đến nay theo thống kê của ERNST& YOUNG tại “The global Excutive” hiện nay
thế giới có hơn 180 nước áp dụng thuế thu nhập cá nhân. Thuế thu nhập cá nhân
trên thế giới thông thường đánh vào cả cá nhân kinh doanh và cá nhân không kinh
doanh. Thuế thu nhập cá nhân được coi là loại thuế đặc biệt vì có lưu ý đến hoàn
cảnh của các cá nhân có thu nhập phải nộp thuế thông qua việc xác định miễn, giảm
thuế hoặc khoản miễn trừ đặc biệt.
Vì vậy, thuế thu nhập cá nhân được hiểu là: Thuế thu nhập cá nhân là sắc thuế
trực thu đánh vào thu nhập chịu thuế của cá nhân trong một khoảng thời gian nhất
định (thời gian tính thuế thường là một năm)
Về bản chất, thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu đánh trực tiếp vào
thu nhập của cá nhân trong kỳ tính thuế. Như vậy đối với loại thuế này thì người


24


nộp thuế cũng đồng thời là người chịu thuế, do đó cá nhân khó có thể chuyển thuế
được sang cho chủ thể khác.
Thu nhập chịu thuế của cá nhân trong kỳ tính thuế là thu nhập sau khi đã
giảm trừ các khoản chi phí liên quan để tạo ra thu nhập, các khoản giảm trừ mang
tính chất xã hội và các khoản giảm trừ cần thiết khác
Thuế thu nhập cá nhân có các đặc điểm riêng biệt để phân biệt với các sắc thuế
khác như sau:
Thứ nhất, Thuế thu nhập cá nhân là một loại thuế trực thu.
Đặc điểm trực thu của sắc thuế này được biểu hiện sự đồng nhất của người
chịu thuế đồng thời là người nộp thuế. Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là cá
nhân có thu nhập chịu thuế, không phân biệt cá nhân đó có tư cách chủ thể, tức là
độ tuổi hay xác định năng lực trách nhiệm pháp luật…
Thứ hai, Thuế thu nhập cá nhân có diện thu thuế rất rộng
Tính chất diện thu thuế rất rộng được biểu hiện trên khía cạnh liên quan trực
tiếp đến lợi ích người nộp thuế và liên quan đến hầu hết mọi cá nhân trong xã hội.
Vì vậy, tất cả các cá nhân có thu nhập bao gồm: công dân nước sở tại và người nước
ngoài cư trú thường xuyên hay không thường xuyên tại nước đó và hầu như tất cả
số thu nhập có được của các cá nhân đều phải tính thuế không kể nguồn thu nhập
phát sinh trong nước hay ngoài nước.Chính vì vậy, khả năng tạo nguồn thu cho
ngân sách của thuế thu nhập cá nhân rất cao.
Thứ ba, Thuế thu nhập cá nhân không bóp méo giá cả hàng hoá dịch vụ
Xét về góc độ kinh tế, thuế thu nhập cá nhân có tính trung lập cao hơn so với
các loại thuế khác vì việc tăng hay giảm thuế thu nhập cá nhân hầu như không kéo
theo những biến đổi về cơ cấu kinh tế
Thứ tư, Thuế thu nhập cá nhân mang tính luỹ tiến cao
Mức độ điều tiết phần thu nhập cao là rất lớn theo mức thuế suất tỷ lệ lũy tiến
từng phần. Đặc điểm này xuất phát từ vai trò chủ yếu của thuế thu nhập cá nhân là
điều tiết mạnh người có thu nhập cao, góp phần thực hiện công bằng xã hội. Do vậy,
việc sử dụng thuế suất lũy tiến từng phần sẽ đáp ứng được nhu cầu đó vì phần thu
nhập tăng thêm càng cao thì sẽ phải tính thuế suất càng cao



25

Thứ năm, Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế có lưu ý đến hoàn cảnh của cá
nhân
Thuế thu nhập cá nhân luôn gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia, hầu
hết các quốc gia đều gắn chính sách thuế thu nhập cá nhân với một số chính sách xã
hội khác (như phúc lợi công cộng, chăm sóc sức khỏe…). Là loại thuế khi tính thuế
có xem xét đến hoàn cảnh cá nhân của người nộp thuế bằng việc quy định một số
khoản được giảm trừ gia cảnh trước khi tính thuế
* Thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế tiêu thụ đặc biệt được áp dụng khá phổ biến ở các nước trên thế giới.
Đây là loại thuế đánh vào một số loại hàng hóa dịch vụ đặc biệt, cần điều tiết mạnh
nhằm hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng đồng thời tăng nguồn thu cho ngân sách nhà
nước. Trên thế giới, loại thuế này có lịch sử lâu đời, xuất hiện từ thời Hy Lạp, La
Mã cổ đại. Tại các nước trên thế giới, thuế tiêu thụ đặc biệt có những tên gọi khác
nhau như: ở Pháp gọi là thuế tiêu dùng đặc biệt, ở Thụy Ðiển gọi là thuế đặc biệt, ở
Trung Quốc gọi là thuế tiêu thụ. Tại Việt Nam, tiền thân của thuế tiêu thụ đặc biệt
hiện hành là thuế hàng hóa được ban hành năm 1951. Ðến năm 1990 Bộ tài chính
soạn thảo dự án luật thuế mới, đổi thuật ngữ thuế hàng hóa thành thuế tiêu thụ đặc
biệt và được Quốc hội thông qua ngày 30- 6- 1990. Kể từ khi ban hành đến nay, luật
thuế tiêu thụ đặc biệt đã qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với chính sách
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước trong mỗi giai đoạn phát triển.
Khái niệm về thuế tiêu thụ đặc biệt như sau: Thuế tiêu thụ đặc biệt là thuế
gián thu đánh vào một số hàng hóa, dịch vụ nhằm điều tiết hướng dẫn sản xuất,
điều tiết tiêu dùng của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.
Những hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt ở mỗi
quốc gia xuất phát từ hoàn cảnh kinh tế, xã hội, chính sách điều tiết, hướng dẫn sản
xuất tiêu dùng của Nhà nước, phong tục, tập quán, lối sống, văn hóa và thu nhập

bình quân đầu người. Nhìn chung các hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt
thường có một hoặc nhiều tính chất sau:
+ Những hàng hóa, dịch vụ mà Nhà nước không khuyến khích sản xuất, tiêu
dùng, có hại cho sức khỏe, ảnh hưởng không tốt đến môi trường.


×