Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO, THU HÚT, SỬ DỤNG NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ CAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (678.25 KB, 61 trang )

Header Page 1 of 166.

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
______________________________________

BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ ÁN CẤP BỘ 09/2009

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ ĐÀO TẠO, THU HÚT, SỬ DỤNG
NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ CAO

Chủ nhiệm Đề tài: TS. MAI HÀ

8395
Hà Nội, tháng 9/2010

Footer Page 1 of 166.


Header Page 2 of 166.
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
______________________________________

BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ ÁN CẤP BỘ 09/2009

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ ĐÀO TẠO, THU HÚT, SỬ DỤNG
NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ CAO


Chủ nhiệm Đề tài: TS. MAI HÀ
Những người tham gia thực hiện:
KS.Hoàng Ngọc Doanh, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN
ThS.Hoàng Văn Tuyên, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN
ThS.Nguyễn Lan Anh, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN
ThS.Nguyễn Minh Nga, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN
ThS. Bùi Văn Sỹ, Vụ Pháp chế, Bộ KH&CN
TS. Nguyễn Thị Anh Thu, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN
TS. Bạch Tân Sinh, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN

Hà Nội, tháng 9/2010

Footer Page 2 of 166.

2


Header Page 3 of 166.
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG BÁO CÁO

KH&CN

Khoa học và công nghệ

CNC

Công nghệ cao

NCKH


Nghiên cứu khoa học

NCKH&PTCN

Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ

R-D

Nghiên cứu - triển khai

CNTT

Công nghệ thông tin

CNTT-TT

Công nghệ thông tin và truyền thông

CNSH

Công nghệ sinh học

CNVL

Công nghệ vật liệu

CNTĐH

Công nghệ tự động hóa


ĐMCN

Đổi mới công nghệ

KH-KT

Khoa học – kỹ thuật

CGCN

Chuyển giao công nghệ

CNH-HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

SHTT

Sở hữu trí tuệ

SHCN

Sở hữu công nghiệp

SX-KD

Sản xuất-kinh doanh

NSNN


Ngân sách nhà nước

Footer Page 3 of 166.

3


Header Page 4 of 166.
MỤC LỤC
Một số thông tin chính về đề án
Phần mở đầu
I. Cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo, thu hút, sử dụng nhân lực CNC
1. Tổng quan về đào tạo, thu hút, sử dụng nhân lực CNC
2. Kinh nghiệm của một số nước về đào tạo, thu hút, sử dụng nhân lực CNC
II. Hiện trạng về chính sách và thực tiễn đào tạo nhân lực CNC ở Việt Nam
1. Đội ngũ nhân lực CNC của Việt Nam - thực trạng và nhu cầu
2. Biện pháp, chính sách đào tạo nhân lực CNC
2.1. Thực trạng về đào tạo và chính sách đào tạo nhân lực CNC ở Việt Nam
2.2. Chính sách ưu đãi đào tạo nhân lực CNC
2.3. Đào tạo nhân lực CNC theo theo chương trình, đề tài, dự án phát triển CNC
của Nhà nước
III. Xác định thẩm quyền, điều kiện, thủ tục xác nhận cơ sở đào tạo nhân lực
CNC được hưởng ưu đãi
1.Thực trạng hệ thống cơ sở đào tạo nhân lực CNC của Việt Nam – cơ chế, chính
sách hiện hành và giải pháp
2. Thẩm quyền, điều kiện thủ tục xác nhận cơ sở đào tạo nhân lực CNC để được
hưởng ưu đãi
IV. Cơ chế, chính sách về thu hút, sử dụng nhân lực CNC
1. Hiện trạng về chính sách thu hút, sử dụng nhân lực CNC ở Việt Nam và giải
pháp

2. Tạo môi trường làm việc, sống thuận lợi cho nhân lực CNC hoạt động CNC
3. Chế độ tiền lương, phụ cấp, bảo hiểm và ưu đãi về thuế thu nhập các nhân
4. Bổ nhiệm vào vị trí then chốt để thực hiện các nhiệm vụ KH&CN của nhà nước
và tôn vinh khen thưởng người có thành tích xuất sắc
5. Tạo điều kiện tham gia hoạt động hợp tác quốc tế về CNC
V. Xây dựng Cơ chế, chính sách về đào tạo, thu hút, sử dụng nhân lực CNC
1. Luận cứ về nội dung cơ bản trong việc xây dựng Quyết định về đào tạo, thu
hút, sử dụng nhân lực CNC
2. Đề xuất dự thảo Quyết định quy định về đào tạo, thu hút, sử dụng nhân lực
CNC
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo

Footer Page 4 of 166.

4

Trang
4
6
8
12
18
27
27
27
30

31
35


37
38
38
39
40
40
45
60
61


Header Page 5 of 166.
MỘT SỐ THÔNG TIN CHÍNH CỦA ĐỀ ÁN

Tên Đề án: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo, thu hút, sử
dụng nhân lực công nghệ cao
Thời gian thực hiện: 13 tháng, từ tháng 9 /2009 đến tháng 9/2010
Kinh phí thực hiện: 250 triệu đồng, trong đó:
- Nguồn ngân sách sự nghiệp khoa học: 250 triệu đồng.
- Năm thứ nhất: 150 triệu đồng.
- Năm thứ hai: 100 triệu đồng
Chủ nhiệm Đề án: TS. Mai Hà, Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách
KH&CN.
Những người tham gia thực hiện:
KS. Hoàng Ngọc Doanh, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN
Ths. Hoàng Văn Tuyên, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN
Ths. Nguyễn Lan Anh, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN
Ths. Nguyễn Minh Nga, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN
Ths. Bùi Văn Sỹ, Vụ Pháp chế, Bộ KH&CN, Bộ KH&CN

TS. Bạch Tân Sinh, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN
TS. Nguyễn Anh Thu, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN
Đơn vị chủ trì: Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN
Đơn vị phối hợp chính:
- Vụ Pháp chế;
- Vụ Đánh giá, thẩm định và giám định công nghệ;
- Vụ Khoa học xã hội và tự nhiên;
- Vụ KHCN các ngành kinh tế kỹ thuật;
- Vụ Pháp luật Dân sự và Kinh tế, Bộ Tư pháp;
- Vụ KHCN&MT,Văn phòng Quốc hội;

Footer Page 5 of 166.

5


Header Page 6 of 166.
PHẦN MỞ ĐẦU
Lời mở đầu
Luật công nghệ cao (CNC) đã được Quốc hội thông qua ngày 13-112008, trong đó, giao cho Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều cụ thể. Đồng thời để Luật đi vào cuộc sống thì ngoài những vấn
đề mà Luật giao cho Chính phủ quy định chi tiết, căn cứ theo yêu cầu quản
lý Nhà nước cần phải có các quy định phù hợp, trong đó có việc xây dựng
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định về đào tạo, thu hút, sử dụng
nhân lực CNC. Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Bộ Khoa học và Công
nghệ xây dựng, trình Thủ tướng Quyết định về cơ chế, chính sách đào tạo,
thu hút, sử dụng nhân lực CNC. Bộ Khoa học và Công nghệ đã giao cho
Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN nghiên cứu Đề án “Nghiên cứu cơ
sở lý luận và thực tiễn về đào tạo, thu hút, sử dụng nhân lực CNC”.
Báo cáo này là kết quả nghiên cứu của Đề án. Đề án chân thành cám

ơn các nghiên viên của Ban Chính sách nhân lực và Hệ thống tổ chức
KH&CN, Ban Đào tạo sau đại học và Thông tin thư viện, các chuyên gia của
Vụ Pháp chế và Lãnh đạo Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN đã đóng
góp nhiều ý kiến và giúp đỡ trong quá trình thực hiện Đề án.
1. Mục tiêu của đề án
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về đào tạo, thu hút, sử dụng nhân lực
CNC ở Việt Nam và một số nước trên thế giới để cung cấp luận cứ khoa học
cho việc xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể khuyến khích về đào tạo, thu
hút, sử dụng nhân lực CNC ở Việt Nam. Từ đó luận cứ về những nội dung
cơ bản và khuyến nghị xây dựng Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy
định về đào tạo, thu hút, sử dụng nhân lực CNC.
2. Tính cấp thiết của đề án
Luật CNC đã được Quốc hội khoá XII thông qua ngày 13-11-2008, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2007 trong đó, giao cho Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều cụ thể, trong đó có
việc xây dựng Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định về đào tạo, thu
hút, sử dụng nhân lực CNC. Để luận cứ cho việc xây dựng Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ quy định về đào tạo, thu hút, sử dụng nhân lực CNC là vấn đề mới đối với Việt Nam cần nghiên cứu nghiêm túc cả về cơ sở khoa
học và thực tiễn về hoạt động CNC và vì vậy, đây là vấn đề cần thiết và cấp
bách phải được nghiên cứu.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu, Đề án thực hiện các cách tiếp cận chủ yếu sau:
Tiếp cận hệ thống
Tiếp cận lịch sử và logic
Trong nghiên cứu Đề án sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:

Footer Page 6 of 166.

6



Header Page 7 of 166.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp phi thực nghiệm.
4. Nội dung nghiên cứu của đề án
Đề án tập trung nghiên cứu những nội dung chủ yếu sau:
Nội dung 1: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo, thu hút,
sử dụng nhân lực CNC
- Tổng quan cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo, thu hút, sử dụng
nhân lực CNC.
- Kinh nghiệm của một số nước về đào tạo, thu hút, sử dụng nhân lực
CNC.
Nội dung 2: Nghiên cứu chính sách và thực tiễn đào tạo nhân lực
CNC
- Đội ngũ nhân lực CNC của Việt Nam - thực trạng và nhu cầu.
- Biện pháp, chính sách đào tạo nhân lực CNC.
- Thực trạng về đào tạo (cả đào tạo trong nước và ở nước ngoài) và
chính sách đào tạo nhân lực CNC của Việt Nam.
- Chính sách ưu đãi đào tạo nhân lực CNC.
- Đào tạo nhân lực CNC theo chương trình, dự án, đề tài của nhà nước
về phát triển CNC.
Nội dung 3: Nghiên cứu cơ sở khoa học về thẩm quyền, điều kiện, thủ
tục xác nhận cơ sở đào tạo nhân lực CNC được hưởng ưu đãi
- Thực trạng hệ thống cơ sở đào tạo nhân lực CNC của Việt Nam – cơ
chế, chính sách hiện hành và giải pháp.
- Thẩm quyền, điều kiện, thủ tục xác nhận cơ sở đào tạo nhân lực
CNC được hưởng ưu đãi.
Nội dung 4: Chính sách thu hút, sử dụng nhân lực CNC
- Hiện trạng về chính sách thu hút, sử dụng nhân lực CNC ở Việt nam
và giải pháp.

- Tạo môi trường làm việc, sống thuận lợi cho nhân lực CNC hoạt động
CNC.
- Chế độ tiền lương, phụ cấp, bảo hiểm và ưu đãi về thuế thu nhập cá
nhân.
- Bổ nhiệm vào vị trí then chốt để thực hiện các nhiệm vụ KH&CN
của nhà nước và tôn vinh khen thưởng người có thành tích xuất sắc.
- Tạo điều kiện tham gia hoạt động hợp tác quốc tế về CNC.
Nội dung 5: Luận cứ về nội dung cơ bản trong việc xây dựng Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ về đào tạo, thu hút, sử dụng nhân lực CNC
theo thẩm quyền và khuyến nghị sửa đôi, bổ sung văn bản có liên quan.
Nội dung 6: Đề xuất dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
quy định về đào tạo, thu hút, sử dụng nhân lực CNC.
Kết luận và kiến nghị.

Footer Page 7 of 166.

7


Header Page 8 of 166.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO, THU HÚT,
SỬ DỤNG NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ CAO
1. Tổng quan về đào tạo, thu hút, sử dụng nhân lực công nghệ cao
Để xây dựng được cơ chế, chính sách đào tạo, thu hút, sử dụng nhân
lực CNC cần phải xác định rõ nội hàm của nhân lực CNC và các khái niệm
có liên quan.
1.1. Nhân lực công nghệ cao
Theo quy định của Luật CNC thì Nhân lực CNC được hiểu “ là đội
ngũ những người có trình độ và kỹ năng đáp ứng được yêu cầu của hoạt
động nghiên cứu, phát triển, ứng dụng CNC, dịch vụ CNC, quản lý hoạt

động CNC, vận hành các thiết bị, dây chuyền sản xuất sản phẩm CNC”. Đây
là một khái niệm bao quát rất rộng thuộc nhiều loại nhân lực với nhiều loại
trình độ, đó là: nhân lực hoạt động nghiên cứu - triển khai CNC; nhân lực
trong sản xuất sản phẩm CNC, dịch vụ thuộc lĩnh vực CNC; các nhà quản lý
hoạt động CNC. Như vậy cần làm rõ hoặc ít ra cũng cần ước định được từng
nội hàm của từng khái niệm cụ thể để có cách hiểu thống nhất khi nói về câu
chuyện này.
a) Nhân lực hoạt động nghiên cứu - triển khai CNC - nhân lực CNC
Hiện nay, trên thế giới và ở Việt nam có thuật ngữ nhân lực KH&CN
được dùng chính thức (hoặc phổ biến), mà theo cách hiểu chung nhất thì đó
là một bộ phận của lực lượng lao động xã hội được đào tạo ở những trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ nhất định và tham gia trực tiếp (hay gián tiếp) vào
các hoạt động KH&CN từ nghiên cứu, triển khai đến đào tạo, quản lý và vận
hành các hệ thống công nghệ. Đội ngũ nhân lực KH&CN có nhiều mức độ
đào tạo khác nhau từ công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ đến đội ngũ
kỹ thuật viên, kỹ sư, chuyên gia có trình độ đại học và trên đại học.
Nhân lực KH&CN hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu triển khai (RD) thì nhiều nước trên thế giới và các tổ chức quốc tế và Việt Nam gọi là
nhân lực R-D. Từ đây có thể thấy (hoặc quy ước) nhân lực CNC là một bộ
phận của nhân lực R-D tham gia hoạt động R-D ở các chuyên ngành được
coi là CNC như CNTT, công nghệ sinh học (CNSH), công nghệ tự động hóa
(CNTĐH), công nghệ vật liệu (CNVL) mới... Ở đây có vấn đề là những
ngành công nghệ nào được coi là CNC. Có nước thì cho là có 7 lĩnh vực,
có nước thì cho là 8, 9 lĩnh vực, còn Luật CNC của Việt Nam không xác
định cụ thể là những lĩnh vực nào, mà tại Điều 5 chỉ quy định các lĩnh vực:
CNTT, CNSH, CNVL mới, CNTĐH là các lĩnh vực được ưu tiên đầu tư
phát triển trong giai đoạn hiện nay (chứ không được hiểu đây là các lĩnh vực
CNC của Việt Nam như một số người lầm tưởng), còn tùy theo tình hình
phát triển KT-XH, quốc phòng, an ninh của đất nước, Chính phủ căn cứ vào
đó để điều chỉnh, bổ sung lĩnh vực công nghệ cần tập trung đầu tư phát triển.


Footer Page 8 of 166.

8


Header Page 9 of 166.
Luật quy định việc xác định CNC được ưu tiên đầu tư phát triển trong
các lĩnh vực công nghệ phải phù hợp với yêu cầu, xu thế phát triển KH&CN
tiên tiến, hiện đại của thế giới, phát huy lợi thế của đất nước, có tính khả thi
và đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:
Có tác động mạnh và mang lại hiệu quả lớn đối với sự phát triển của
các ngành, lĩnh vực kinh tế, xã hội (KT-XH), quốc phòng, an ninh;
Góp phần hiện đại hóa các ngành sản xuất, dịch vụ hiện có;
Là yếu tố quan trọng quyết định việc hình thành ngành sản xuất, dịch
vụ mới có sức cạnh tranh và hiệu quả KT-XH cao.
Luật CNC giao cho Bộ KH&CN xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ
ban hành, sửa đổi, bổ sung Danh mục CNC được ưu tiên đầu tư phát triển và
mục tiêu, lộ trình, giải pháp thực hiện.
b) Nhân lực KH&CN hoạt động trong sản xuất CNC - nhân lực CNC
Nhân lực KH&CN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm CNC
tại các doanh nghiệp CNC, doanh nghiệp ứng dụng CNC là nhân lực CNC.
c) Nhân lực KH&CN quản lý hoạt động CNC - nhân lực CNC
Nhân lực KH&CN làm công tác quản lý hoạt động nghiên cứu - triển
khai CNC, sản xuất sản phẩm CNC, dịch vụ CNC là nhân lực CNC.
Như vậy, nhân lực CNC là một bộ phận của nhân lực KH&CN hoạt
động trong các lĩnh vực: nghiên cứu - triển khai CNC, sản xuất sản phẩm
CNC, công nghiệp CNC, doanh nghiệp CNC, dịch vụ CNC và quản lý hoạt
động CNC trong các lĩnh vực. Là một bộ phận song lại không có tiêu chí nào
để xác định rõ giữa nhân lực CNC và nhân lực KH&CN trong các hoạt động
R-D, ứng dụng CNC, dịch vụ CNC, đào tạo nhân lực CNC, quản lý hoạt

động CNC, vận hành thiết bị, dây chuyền sản xuất sản phẩm CNC, vậy thì
làm thế nào có thể xây dựng được chính sách ưu đãi , hỗ trợ đào tạo, thu
hút, sử dụng nhân lực CNC. Tiếp theo đây Đề án phải làm rõ được vấn đề
này.
1.2. Công nghệ cao
Theo Luật CNC thì CNC là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ (R-D); được tích hợp từ thành tựu
KH&CN hiện đại; tạo ra sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị
gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò quan trọng đối với việc
hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất,
dịch vụ hiện có. Định nghĩa này chỉ là khái niệm có tính chất định tính, rất
khó xác định công nghệ nào là CNC, có thể tham khảo để thấy rõ hơn về vấn
đề này.
a) Trong một số tài liệu về CNC phổ biến ở Việt Nam hiện nay, những
đặc điểm cơ bản thường được nhắc đến nhằm làm nổi bật tầm quan trọng, ý
nghĩa chiến lược của CNC là:
- Chứa đựng hàm lượng đáng kể về R-D;

Footer Page 9 of 166.

9


Header Page 10 of 166.
- Có giá trị chiến lược đối với quốc gia;
- Sản phẩm được đổi mới nhanh chóng;
- Đầu tư lớn cùng với độ rủi ro cao, nhưng khi thành công sẽ đem lại lợi
nhuận lớn;
- Thúc đẩy được cạnh tranh và hợp tác quan trọng trong R-D, sản xuất
và tìm kiếm thị trường trên quy mô toàn cầu.

b) Một tài liệu của Chương trình hợp tác GEEP-PIAP II1 đã nhận định
rằng CNC là một khái niệm tương đối. Khái niệm CNC được đưa ra là công
nghệ mới hoặc công nghệ mũi nhọn có ảnh hưởng to lớn về quân sự, kinh tế,
có ý nghĩa xã hội to lớn, hoặc hình thành một ngành nghề mới. Theo tài liệu
này, CNC không chỉ là công nghệ mũi nhọn mà còn là công nghệ mới có
mục đích kinh tế trực tiếp, cho ra một sản phẩm giá trị gia tăng cao chiếm
lĩnh được thị trường.
c) OECD đã đưa ra một khái niệm rất khái quát về CNC: CNC là các
ngành công nghệ có một số đặc điểm sau:
- Đòi hỏi một nỗ lực lớn trong R-D.
- Có ý nghĩa chiến lược đối với quốc gia.
- Các sản phẩm và quy trình công nghệ phải được đổi mới nhanh
chóng.
- Có tác động mạnh mẽ trong hợp tác và cạnh tranh quốc tế trong R-D,
trong sản xuất và tìm kiếm thị trường trên quy mô thế giới”.
Những định nghĩa trên cho thấy, CNC là công nghệ đưa lại sản phẩm
mới, có giá trị gia tăng lớn. Việc nghiên cứu, phát triển, thử nghiệm, thương
mại hoá công nghệ, sản xuất và phân phối công nghệ và các sản phẩm của nó
đòi hỏi chi phí lớn; đồng thời, nhân lực phải có trình độ cao để làm chủ và
phát triển công nghệ.
Tóm lại, khái niệm về CNC chủ yếu được đưa ra thường mang tính
định tính, không có một định nghĩa cụ thể mang tính định lượng với các chỉ
số có thể đo đếm được để có thể nhờ vào đó mà xem xét một công nghệ là
cao hay không cao. Và như vậy, để xác định một CNC, thông thường người
ta có thể căn cứ vào trình độ nhân lực, sản phẩm, nỗ lực R-D, và chi phí đầu
tư. Chúng ta cần xem xét tiếp những yếu tố này tiếp theo sau đây.
1.3. Sản phẩm công nghệ cao
Sản phẩm CNC thường được hiểu đơn giản là sản phẩm có được từ
CNC, hoặc cụ thể hơn là sản phẩm được làm ra từ CNC. Một tổng quan của
Việt nam cho rằng sản phẩm CNC là sản phẩm được tạo ra nhờ CNC thông

qua quá trình thiết kế hoặc sản xuất sản phẩm.

1

Tái liệu tham khảo của Tổ nghiên cứu kinh tế đối ngoại. Chương trình GEEP-PIAP. 2002

Footer Page 10 of 166.

10


Header Page 11 of 166.
Phát triển CNC đòi hỏi nhân lực có trình độ, có khả năng, sự hợp tác,
nền tảng công nghệ, các năng lực thiết kế, sản xuất sản phẩm. Vì vậy, khi
kết hợp với nguồn vốn cần thiết, nó có thể tạo ra một công năng để sản xuất
các sản phẩm giá trị cao được gọi là sản phẩm CNC. Đây phải là những sản
phẩm thực sự tốt hơn, có giá trị gia tăng cao, là các sản phẩm đổi mới và việc
sản xuất đại trà phụ thuộc vào vốn đầu tư lớn.
Một CNC có thể dẫn đến việc sản xuất ra sản phẩm mới, có giá trị gia
tăng nhưng sản phẩm đó không hẳn là sản phẩm “cao” mà chỉ là những sản
phẩm của công nghiệp truyền thống. Ví dụ, việc ứng dụng công nghệ thông
tin (CNTT) vào sản xuất hàng may mặc (thiết kế CAD), hoặc cho mục đích
phục hồi một số sản phẩm của làng nghề.
Ngoài ra, ở đây cần lưu ý, “sản phẩm CNC” đôi lúc còn được hiểu ở
một khía cạnh khác theo hai cách:
- Cách 1: Sản phẩm được làm ra đơn thuần dựa trên sự ứng dụng
CNC, có thể dành cho người tiêu dùng cuối cùng và không nhất thiết có hàm
lượng R-D cao (chẳng hạn sản phẩm hàng tiêu dùng như giày da, may mặc
được làm ra trên cơ sở ứng dụng CNTT).
- Cách 2: Sản phẩm được làm ra từ CNC, nhưng việc sản xuất ra

những sản phẩm này thực sự có yêu cầu của CNC như đầu tư lớn, hàm lượng
R-D cao, có thể là công cụ sản xuất và được sử dụng như một sản phẩm
trung gian (để làm ra sản phẩm tiêu dùng, chẳng hạn máy vi tính, bộ vi xử
lý, các thiết bị tinh xảo trong y tế, điều khiển, tự động hoá, viễn thông,
v.v...).
Việc coi loại sản phẩm nào là sản phẩm CNC do sự lựa chọn của từng
nước, tuỳ theo hoàn cảnh, trình độ phát triển và nhu cầu cụ thể cần khuyến
khích thúc đẩy phát triển. Mỹ chỉ chọn những loại sản phẩm thuộc cách thứ
hai đã phân tích ở trên là sản phẩm CNC. Trong khi đó, một số địa phương
của Trung quốc đã chọn dược liệu như một loại sản phẩm CNC.
Qua những phân tích ở trên có thể thấy dấu hiệu để nhận biết sản
phẩm CNC là: sản xuất từ CNC; ứng dụng CNC để sản xuất ra sản phẩm
trung gian để sản xuất ra các sản phẩm khác và sản xuất sản phẩm cho
người tiêu dùng cuối cùng.
1.4. Doanh nghiệp công nghệ cao
Một doanh nghiệp được hiểu là doanh nghiệp CNC nếu sản xuất
những sản phẩm CNC hoặc cung ứng dịch vụ CNC. Nhưng theo phân tích ở
trên, có những sản phẩm được làm ra nhờ ứng dụng CNC nhưng không đòi
hỏi nhiều hàm lượng R-D, hoặc trên nền tảng của CNC, đòi hỏi đáp ứng các
yêu cầu của CNC như hàm lượng R-D cao, đầu tư lớn, vòng đời ngắn, v.v.

Footer Page 11 of 166.

11


Header Page 12 of 166.
Trong nhiều tư liệu quốc tế, ví dụ: doanh nghiệp KH-CN của Trung
Quốc, doanh nghiệp dựa trên công nghệ mới (NTBF) của Anh và Mỹ, doanh
nghiệp đổi mới của Đức, v.v...

Ở Trung Quốc, doanh nghiệp KH-CN là doanh nghiệp mới được tạo ra
trên cơ sở của việc thương mại hoá một kết quả nghiên cứu, do một nhóm
các nhà khoa học lập ra và tách ra từ tổ chức nghiên cứu. Theo định nghĩa
này, doanh nghiệp KH-CN không hoàn toàn là doanh nghiệp CNC mà chỉ là
doanh nghiệp ra đời dựa vào công nghệ mới - một số tài liệu đã đặt tên
doanh nghiệp loại này là doanh nghiệp dựa vào công nghệ, mặc dù vẫn coi
những doanh nghiệp loại này là CNC.
Khái niệm doanh nghiệp dựa vào công nghệ mới (của một số nước
phương Tây như nhóm G7) có trọng tâm là công nghệ mới chứ không nhất
thiết là CNC, mặc dù có thể nói ở trình độ phát triển của những nước này,
công nghệ mới thường hàm ý là công nghệ có hàm lượng R-D cao - tức là
CNC.
Khái niệm doanh nghiệp định hướng vào đổi mới công nghệ (ĐMCN)
của chương trình Futour của Đức chủ yếu có trọng tâm vào việc ĐMCN chứ
không phải là CNC.
Để làm rõ hơn khái niệm về doanh nghiệp CNC, tương tự như cách
chia khái niệm về sản phẩm CNC ở trên, có thể chia doanh nghiệp thành hai
cách:
- Cách 1: Doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ
trên cơ sở ứng dụng CNC, sản phẩm có thể là bình thường;
- Cách 2: Doanh nghiệp tạo ra sản phẩm và dịch vụ CNC, có thể được
dùng như phương tiện trung gian để sản xuất ra sản phẩm khác hoặc sản
phẩm cuối cùng.
Những doanh nghiệp mới ra đời từ kết quả nghiên cứu đều có thể
thuộc cả hai cách hiểu, nhưng phần lớn liên quan đến cách hiểu thứ hai và vì
thế được gọi là doanh nghiệp CNC. Theo Điều 12, Nghị định 99/2003/NĐCP, cách hiểu về doanh nghiệp CNC khá rộng và bao gồm các doanh nghiệp
sản xuất ra sản phẩm hàng hoá trên cơ sở ứng dụng CNC, tức là có thể gồm
cả cách hiểu 1 và cách hiểu 2.
Hiện nay, Thủ Tướng đã ban hành Danh mục CNC được ưu tiên đầu
tư phát triển và Danh mục sản phẩm CNC được khuyến khích phát triển. Đề

án cho rằng đây là căn cứ pháp lý cho việc xác định CNC, sản phẩm CNC,
nghiên cứu, ứng dụng CNC, nhân lực CNC, đào tạo nhân lực CNC và cơ sở
đào tạo nhân lực CNC để xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi hỗ trợ đặc biệt
để đào tạo, thu hút, sử dụng nhân lực CNC. Và vì thế, đề án khu trú lại (giới
hạn) việc nghiên cứu về nhân lực CNC các hoạt động R-D, ứng dụng CNC,
dịch vụ CNC, đào tạo nhân lực CNC, quản lý hoạt động CNC, vận hành thiết

Footer Page 12 of 166.

12


Header Page 13 of 166.
bị, dây chuyền sản xuất sản phẩm CNC để có thể xây dựng được chính sách
ưu đãi , hỗ trợ đào tạo, thu hút, sử dụng nhân lực CNC.
2. Kinh nghiệm của một số nước về đào tạo, thu hút, sử dụng nhân
lực công nghệ cao
Mỗi lĩnh vực KH&CN, mỗi xã hội và mỗi thời đại có một chính sách
về nguồn nhân lực riêng. Chính sách ấy luôn thay đổi thích ứng với trình độ
phát triển, phạm vi ứng dụng KH&CN và tiềm năng nguồn nhân lực
KH&CN không chỉ ở mỗi nước mà cả nhiều nước trên thế giới. Cần lưu ý là
các nước đưa ra chính sách về đào tạo, thu hút, sử dụng nguồn nhân lực
KH&CN chất lượng cao, chứ không phải chính sách riêng cho nhân lực
CNC nói chung, tuy nhiên trong một số lĩnh vực cụ thể của CNC ví dụ
CNTT, CNVL mới, CNSH... thì các doanh nghiệp lại có chính sách cụ thể,
tùy thuộc vào chiến lược của từng doanh nghiệp và khả năng quản lý.
Kinh nghiệm Trung Quốc
Trung Quốc gần đây đã công bố một kế hoạch đầy tham vọng về nhân
tài quốc gia, Chiến lược phát triển nhân tài trung hạn-dài hạn (2010-2020)
đưa ra kế hoạch chi tiết về việc tạo ra nguồn nhân lực quốc gia có trình độ

cao trong vòng 10 năm tới. Đây là kế hoạch toàn diện đầu tiên của quốc gia
về phát triển nguồn nhân lực, là vấn đề quan trọng sống còn đối với sự phát
triển Trung Quốc trong 30 năm tới.
Một trong những nét chú ý nhất của chiến lược này là biến Trung
Quốc từ một trung tâm sản xuất thành một nước hàng đầu thế giới về phát
minh. Chính phủ Trung Quốc đã đặt mục tiêu đưa đất nước trở thành một
nước phát minh và sáng tạo vào năm 2020. Để biến mục tiêu này thành hiện
thực, Trung Quốc phải là "vùng trũng" thu hút nhân tài.
Để trèo lên nấc thang công nghệ, nâng cao chuỗi giá trị và sản xuất
thương hiệu nổi tiếng về chất lượng, sáng tạo và dịch vụ, không còn cách
nào khác phải tìm người tài. Nước này đang đối mặt với những thách thức
sau:
Tỉ lệ sinh viên cao đẳng thất nghiệp cao trong những năm gần đây.
Khoảng 6 triệu sinh viên cao đẳng tốt nghiệp mỗi năm nhưng gần đây rất
khó kiếm việc làm. Giải pháp khuyến khích các doanh nghiệp và các cơ quan
chính phủ sử dụng nguồn nhân lực này là cách tốt nhất nâng cấp nền kinh tế.
Chuyển dịch "thu hút nguồn tài chính" sang "thu hút nguồn nhân lực"
Trong những năm qua, mô hình phát triển của Trung Quốc dựa vào
thu hút nguồn vốn từ bên ngoài. Trung Quốc đứng đầu về thu hút vốn FDI.
Trung Quốc lại bị thâm thủng nặng về người tài. Trung Quốc đã gửi đi đào
tạo 1,62 triệu sinh viên và học giả từ 1978, nhưng chỉ có 497.000 người
trong số họ trở về, chiếm 30%. Đáng chú ý là nguồn nhân lực cao như các
tiến sĩ Trung Quốc được đào tạo ở Mỹ chỉ trở về có 8%.

Footer Page 13 of 166.

13


Header Page 14 of 166.

Trung Quốc bắt đầu nhận ra rằng, chỉ có nguồn lực tài chính thì không
đủ. Nguồn nhân lực mới là yếu tố quan trọng nhất trong nền kinh tế dựa trên
tri thức ngày nay. Vì thế cần có biện pháp để thu hút những người tài Trung
Quốc trở về, thậm chí thu hút người tài thế giới đến Trung Quốc làm việc.
Chuyển dịch từ phần cứng sang phần mềm. Đó là đầu tư vào giáo dục,
nghiên cứu và phát triển và các lĩnh vực khác liên quan đến phát triển bền
vững.
Điều đó đòi hỏi một cách tiếp cận chiến lược mới tập trung vào lực
lượng lao động giỏi và trình độ tay nghề cao, cũng như cộng đồng chuyên
gia và trí thức.
Trung Quốc phải tạo công ăn việc làm tốt cho các đối tượng: kỹ sư,
bác sĩ, kế toán, tư vấn viên, chuyên gia công nghệ thông tin, kỹ thuật viên...
Có nghĩa là Trung Quốc phải chuyển dịch từ nguồn lao động đông đúc sang
nguồn lao động tài năng.
Một ví dụ cụ thể, trường hợp Weiping Li. Khi đến Hoa Kỳ học thành
kỹ sư vào năm 1982 ở Đại học Stanford, Weiping Li không muốn ở lại
lâu.Tuy nhiên sau khi làm xong luận văn tiến sĩ đã ở lại Mỹ, đã chọn được
công việc tốt và trở thành giáo sư về cơ khí điện ở Đại học Lehigh,
Pennsylvania. Tuy nhiên, đầu năm 2010, gia đình anh đã trở về Trung Quốc
vì các trường Đại học ở Trung Quốc đang đầu tư cho tương lai.
Đươc tuyển dụng trong một chương trình của Chính phủ có tên "Ngàn
tài năng", Li trở thành trưởng khoa thông tin khoa học của Đại học Khoa
học và công nghệ Trung Quốc. Trường Đại học đã cấp một ngôi nhà 2000
m2 và miễn thuế tái định cư khoảng 150.000 đô la.
Li là một trong hàng trăm giáo sư thuộc hàng ngũ những nhà khoa
học sinh ra ở Trung Quốc đang trở về đất nước và giữ những chức vụ quan
trọng trong trường Đại học và các phòng thí nghiệm.
Được ví là "rùa biển", các nhà khoa học Hoa kiều trở về được mời cơ hội tự
lập nên những phòng thí nghiệm riêng, trở thành trưởng khoa, hay được mời
làm các công việc cao cấp trong các cơ sở hàn lâm hoặc doanh nghiệp. Hai

Hoa kiều trở về từ Châu Âu đã được bổ nhiệm Bộ trưởng Bộ Y tế và Bộ
Khoa học học công nghệ.
Vivek Wadhwa, một nhà doanh nghiệp chuyển hướng sang công việc hàn
lâm nói: "Trung Quốc đang làm mọi thứ có thể, đưa cho Hoa kiều mọi thứ
họ muốn. Họ muốn bạn có cảm giác trở thành anh hùng dân tộc."
Với chương trình " Ngàn tài năng", nước này không chỉ hấp dẫn "rùa biển"
mà còn hấp dẫn "mòng biển", những người chia sẻ thời gian làm việc của
mình giữa Trung Quốc và Mỹ.
Một chuyên gia hàng đầu của ngành sinh học định lượng nói: Nắm giữ
hai vị trí ở hai trường Đại học ở Trung Quốc và Hoa Kỳ đã đưa cho ông hai
thế giới tốt nhất, đó là vẫn tiếp tục liên hệ được với các chuyên gia trong lĩnh

Footer Page 14 of 166.

14


Header Page 15 of 166.
vực này ở Mỹ và vẫn tiếp tục CGCN này ở Trung Quốc. Trung Quốc có hầu
hết mọi thứ: tiền, các tòa nhà, sinh viên xuất sắc. Tuy nhiên cái nước
này thiếu là "môi trường mềm", đó là con người và hệ thống.
Kinh nghiệm Nhật Bản về chính sách đào tạo nhân lực trình độ cao
- Phát hiện nhân tài: Nhật Bản tuy không có chính sách phát hiện và
bồi dưỡng nhân tài cụ thể nhưng các trường đại học công lập (trung ương,
tỉnh) của Nhật đều có các trường trung học thực hành. Các trường này
thường chỉ tuyển sinh xuất sắc của các trường tiểu học và áp dụng các
phương pháp mới trong đào tạo, nên hầu hết học sinh của các trường này đều
thuộc loại giỏi và được tuyển vào các trường đại học một các dễ dàng. Hỗ trợ
và khuyến khích đào tạo ở nước ngoài và tranh thủ chất xám ở nước ngoài
tập trung nguồn lực cho các trường đại học hàng đầu để đào tạo đội ngũ trí

thức có chất lượng cao (cả trường công và trường tư).
- Sử dụng nhân tài: các doanh nghiệp ở Nhật đều có chính sách bồi
dưỡng và động viên nhân viên của mình tham gia học tập và nâng cao trình
độ. Nhờ có hệ thống tuyển dụng và hợp đồng lao động có tính khuyến khích
sự gắn bó của người lao động với công ty nên các công ty sẵn sàng tài trợ
kinh phí cho nhân viên của mình đi học. Chế độ học tập cộng với các khuyến
khích vật chất và phi vật chất khác đã giúp các công ty giữ được người tài ở
lại làm việc cho mình. Hệ thống nghiên cứu tư nhân phát triển ở Nhật cũng
là nơi thu hút nhiều lao động có trình độ cao làm việc lâu dài và phát huy tài
năng. Cơ chế nhiều nhóm nghiên cứu theo một chủ đề trong các tập đoàn lớn
có các sở nghiên cứu quy mô cũng tạo cơ hội cho các tài năng trẻ phát huy
tính sáng tạo của mình.
Kinh nghiệm phát triển giáo dục và đào tạo của Hoa Kỳ
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực trình độ cao của nhà nước.
Chính phủ không can thiệp vào quản lý của các trường đại học và cơ quan
nghiên cứu khoa học. Giao quyền tự chủ tuyệt đối cho các trường đại học và
các cơ sở nghiên cứu KH&CN.
- Người đứng đầu các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu khoa
học và công nghệ phải là những người giỏi và có bản lĩnh thực sự.
- Tạo điều kiện sống bình ổn và điều kiện làm việc thuận lợi với các
thư viện phòng thí nghiệm, thiết bị tiên tiến và hiện đại.
- Tạo mối quan hệ nhà nước - xã hội - người nghiên cứu - thị trường
trong và ngoài nước: dân chủ, công khai, bình đẳng và hài hòa.
- Sử dụng quy luật cạnh tranh để tồn tại trong phát triển giới trí thức.
- Ở Mỹ có chính sách sử dụng, tôn vinh, thu hút người giỏi người tài:
tự do học thuật, tự do sáng tạo.

Footer Page 15 of 166.

15



Header Page 16 of 166.
- Khuyến khích, đãi ngộ, vinh danh tri thức, ngoài những đáp ứng thỏa
đáng về điều kiện và môi trường làm việc tốt cho trí thức, nước Mỹ còn đặt
ra nhiều hình thức khen thưởng và giải thưởng để tôn vinh trí thức có nhiều
sáng tạo, nhiều phát kiến và nhiều công trình nghiên cứu phục vụ cho phát
triển KT-XH, các giải thưởng này rất đa dạng và nhiều tầng bậc:
+ Giải thưởng cho các nhà khoa học trẻ.
+ Giải thưởng cho các thủ khoa.
+ Giải thiên tài.
+ Giải nobel.
+ Giải thưởng của tổ chức hiệp hội Mỹ.
+ Giải thưởng của Nhà trắng.
+ Được gặp lãnh đạo các Bang.
+ Được gặp Tổng thống.
Ngoài ra còn rất nhiều các loại giải thưởng khác.
Ở nước Đức, sự thay đổi ấy trong ngành viễn thông, trong lĩnh vực
CNTT nói riêng, đang diễn ra sống động trong một bộ phận quan trọng của
tập đoàn viễn thông khổng lồ - Tập đoàn Deustche Telekom.
Thành phố Darmstadt; nơi đặt một đại bản doanh khoa học viễn thông
- thành phố Telekom, đó là quy mô đồ sộ của Deustche Telekom và đặc biệt
chính sách con người, cách hành xử “rất Đức” đang diễn ra ở đây với đội
ngũ trí thức KH&CN trong lĩnh vực CNTT- nhân lực CNC.
Deustche Telekom là tập đoàn công nghiệp viễn thông đứng ở vị trí
nhất nhì thế giới, nắm trong tay nguồn vốn 61,7 tỉ euro và một nguồn nhân
lực bậc cao khoảng 260.000 người tại các công ty ở hàng chục nước.
T-Systems, là doanh nghiệp khoa học, tập trung vào việc bảo đảm các
hoạt động nghiên cứu phát triển CNTT, phục vụ cho nhiều lĩnh vực ứng
dụng khác nhau.

Các tổng công ty nói trên bao quát các lĩnh vực hoạt động rộng lớn:
Mạng lưới cố định và băng thông rộng, viễn thông di động. Nghiên cứu phát
triển và kinh doanh trong lĩnh vực CNTT và các dịch vụ đa dạng.
Một trong những yếu tố bảo đảm vị trí hàng đầu của Deustche
Telekom chính là chiến lược con người thích hợp. Chiến lược đó ngày càng
gắn chặt với tình hình hội nhập toàn cầu sâu rộng, sự phát triển nhanh chóng
công nghệ trên thế giới, sự phân bố nguồn nhân lực CNC về viễn thông, đặc
biệt về CNTT ở các nước, đặc biệt các nước đang phát triển.
Trong chiến lược con người của Deustche Telekom, quá trình sàng lọc
và thải loại luôn xảy ra. Những gì đang diễn ra ở Tổng Công ty-Systems với

Footer Page 16 of 166.

16


Header Page 17 of 166.
một đội ngũ đông đảo chuyên gia CNTT trình độ cao là sôi động và gay gắt
nhất.
Những năm gần đây, nhân lực CNTT ở một số nước, đặc biệt là Ấn
Độ đang rất dồi dào, và họ sẵn sàng nhận những hợp đồng gia công phần
mềm trọn gói giá rẻ. Chi phí cho các hợp đồng này, dĩ nhiên, ít hơn nhiều so
với khoản lương lớn của hàng nghìn biên chế cứng mà Deustche Telekom
phải trả.
Sự hấp dẫn lợi nhuận “kiểu tư bản” cùng với sự tính toán lạnh lùng
“kiểu Đức” đã khiến các ông chủ đưa ra bàn tay sắt, và kết cục là hàng ngàn
người bị mất việc và không đáp ứng yêu cầu, họ chỉ giữ lại công ty những
người giỏi.
Thị trường việc làm – Môi trường làm việc
Có đến khoảng 50% sinh viên tốt nghiệp không thể tìm được việc làm

trong lĩnh vực chuyên môn của mình và dùng điều này như là một bằng
chứng về sự kém hiệu quả của chương trình đào tạo ở Việt Nam. Ở Việt
Nam, cũng như ở nhiều nước Thế giới Thứ Ba khác, vấn đề là ở chỗ khu vực
tư nhân không đạt được đến mức độ có khả năng thu nhận một số lượng lớn
các nhà khoa học và kỹ sư tài năng (và ở khu vực nhà nước thì điều này lại bị
giới hạn bởi những lý do về tài chính).
Rất nhiều người Peru có bằng cấp cao nhưng lại làm các công việc
thậm chí không cần đến trình độ đại học không phải là do các trường đại học
của Peru quá kém cỏi trong công tác đào tào họ, mà là vì nền kinh tế chưa đủ
sức để có thể thu nhận họ. Peru, giống như Việt Nam, chưa có một khu vực
tư nhân sống động. Và ở Peru, cũng như ở nhiều quốc gia khác, chính phủ
đang phải chịu một sức ép rất lớn phải giảm bớt khu vực nhà nước, nơi phần
lớn những người làm việc trong các ngành khoa học ăn lương.
Ngay cả khi một quốc gia có một khu vực kinh tế tư nhân giàu sáng
tạo với rất nhiều việc làm dành cho các nhà khoa học và kỹ sư, cũng cần phải
có những cố gắng đặc biệt để đảm bảo cho các sinh viên tốt nghiệp đại học
có một bước chuyển tiếp trơn tru ra thị trường nhân lực. Một trường đại học
đã có rất nhiều thành công trong việc này là đại học Waterloo (thường được
gọi là "MIT của Canada"), nơi mà khái niệm "thực tập sinh" được đưa ra lần
đầu tiên từ gần nửa thế kỷ trước. Các sinh viên Waterloo mất 5 năm chứ
không phải 4 năm đại học để tốt nghiệp vì họ dành một phần không nhỏ thời
gian trong các năm đó để làm các công việc tạm thời, thường là các khu vực
R-D tại các công ty CNC. Tất nhiên là một chương trình thực tập như vậy
chỉ có thể thực hiện được vì khu vực Toronto, nơi đại học Waterloo đặt địa
điểm, có rất nhiều công ty như vậy.
Hàn Quốc có rất nhiều bằng sáng chế. Lý do là vì nền công nghiệp
Hàn Quốc đã phát triển ở mức độ cao, với nhiều tên tuổi lớn trên thế giới cỏ

Footer Page 17 of 166.


17


Header Page 18 of 166.
khả năng cạnh tranh trong các ngành công nghiệp điện tử, xe hơi - và những
công ty đặt tại quốc gia đó có mạng lưới R-D dày đặc.
Ngược lại, Việt Nam, không có một công ty quan trọng nào đi đầu
trong các sáng tạo kỹ thuật. Và các chi nhánh tại Việt Nam của các công ty
đa quốc gia chỉ tham gia vào các lĩnh vực sản xuất, phân phối và các hoạt
động liên quan chứ không phải là phát triển sáng tạo kỹ thuật mới.
II. HIỆN TRẠNG VỀ CHÍNH SÁCH VÀ THỰC TIỄN ĐÀO TẠO
NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ CAO Ở VIỆT NAM

1. Đội ngũ nhân lực công nghệ cao của Việt Nam - thực trạng và
nhu cầu
1.1. Thực trạng đội ngũ nhân lực công nghệ cao của Việt Nam
Từ đầu những năm 1990, chúng ta đã tập trung nguồn lực vào phát
triển 4 lĩnh vực CNC là CNTT, CNSH, CNVL mới và TĐH qua nhiều
chương trình trọng điểm cấp Nhà nước và một số chương trình KT-KT với
mục tiêu nghiên cứu ứng dụng, tiếp thu để tiến tới làm chủ các công nghệ
nhập tiên tiến, sáng tạo công nghệ trong nước phục vụ các ngành kinh tế
quốc dân và đã làm chủ được một số CNC trong các lĩnh vực như: điện tử-tin
học-viễn thông, thăm dò khai thác dầu khí, công nghệ tạo giống cây trồng
vật nuôi, y tế… Tuy nhiên, đến nay Việt Nam chưa sở hữu hay làm chủ được
bất kỳ công nghệ nguồn, công nghệ cốt lõi nào thuộc lĩnh vực CNC mà mới
chỉ dừng ở mức độ làm chủ được một vài công đoạn, một số quá trình hoặc
một số yếu tố CNC nào đó mang tính chuyên ngành, CNC hầu như còn vắng
bóng ở hầu hết các ngành kinh tế. Theo khảo sát của Sở KH&CN TP.HCM,
phần lớn các doanh nghiệp trên địa bàn đều nhập các thiết bị lạc hậu, xuất xứ
từ Trung Quốc, Đài Loan, và ngay cả một số doanh nghiệp có vốn nước

ngoài cũng sử dụng những thiết bị có trình độ công nghệ ở mức trung bình.
Thực trạng này do một số nguyên nhân như phát triển CNC đòi hỏi chi
phí rất lớn trong khi đầu tư cho nghiên cứu phát triển của ta còn thấp, các
hướng nghiên cứu chưa được định hướng đúng, chưa có mối liên kết chặt
chẽ trong nghiên cứu triển khai giữa viện, trường và các doanh nghiệp…
nhưng trước hết là do nguồn nhân lực CNC còn thiếu, yếu về năng lực thực
hành, mà việc chúng ta không đáp ứng được yêu cầu tối thiểu về nhân lực để
Intel triển khai xây dựng nhà máy tại Việt Nam và việc cho đến nay hầu như
chưa có nhân lực để triển khai dự án nhà máy điện hạt nhân là những ví dụ
điển hình.
Nguồn nhân lực CNC còn thiếu, yếu về năng lực thực hành, chúng ta
không đáp ứng được yêu cầu tối thiểu về nhân lực để nghiên cứu phát triển
CNC, ứng dụng CNC, đào tạo nhân lực CNC, quản lý hoạt động CNC, dịch
vụ CNC và vận hành thiết bị , dây chuyền sản xuất sản phẩm CNC.

Footer Page 18 of 166.

18


Header Page 19 of 166.
Theo điều tra tiềm lực KH&CN năm 2006 của Bộ KH&CN, tuổi đời
của cán bộ khoa học khá cao, trong đó giáo sư và phó giáo sư gần 60 tuổi, số
dưới 50 tuổi chỉ có 12%. Số lượng tiến sĩ là hơn 10.000 người nhưng trình
độ so với chuẩn quốc tế rất thấp. Chỉ có khoảng 25% số cán bộ khoa học có
thể sử dụng thành thạo tiếng Anh. Đặc biệt là thiếu các chuyên gia và tổng
công trình sư. Điều đáng lưu ý nữa là cơ cấu nguồn nhân lực mất cân đối
nghiêm trọng giữa công nhân, kỹ sư thực hành, bộ phận quản lý giữa các
ngành KH&CN so với kinh tế và KHXH&NV.
Hậu quả của quá trình đào tạo đặt nặng đầu vào mà thiếu sàng lọc đầu

ra là hơn phân nửa sinh viên tốt nghiệp đại học không đủ khả năng làm việc
trong lĩnh vực mình được đào tạo và là nguyên nhân của tình trạng thiếu hụt
nhân lực chất lượng cao
Bổ sung cho chương trình học là những điển cứu (case study) tạo điều
kiện cho sinh viên trong việc đi tìm giải pháp và thường đó là những bài học
rất thú vị. Đầu ra của trường đại học được quyết định qua những lần khảo
hạch trong năm theo tinh thần đào tạo như vậy.
Cuộc cạnh tranh giành sinh viên giữa các trường đại học diễn ra qua
chất lượng dạy và học, ưu thế tìm được việc làm thuộc về sinh viên xuất thân
từ một đại học có uy tín, có bề dày lịch sử. Tất nhiên các đại học như vậy rất
chú trọng đến đầu ra có chất lượng, cách làm tốt nhất để bảo vệ uy tín của
mình.
Điều này cũng giải thích tại sao cho đến nay chưa một trường đại học
nào của chúng ta có tên trên các bảng xếp hạng phổ thông thường kỳ của các
đại học có phẩm chất ngay tại châu Á, chứ chưa nói gì đến thế giới.
Bậc trên đại học cũng có vấn đề của đầu ra. Giáo sư Trần Văn Thọ,
đang dạy học ở Nhật và từng hướng dẫn rất nhiều sinh viên làm luận án tiến
sĩ, trong một bài viết mấy năm trước đây cho rằng: "Trình độ của ứng cử
viên tiến sĩ được thử thách và được nhân lên trong quá trình nghiên cứu để
hoàn thành luận án.
Ngoài tính khoa học, logic tất nhiên phải có, một luận án tiến sĩ phải
hội đủ hai tính chất quan trọng. Thứ nhất là tính học thuật (academic) trong
đó vấn đề phải được triển khai bằng ngôn ngữ khoa học, bằng những khung
lý luận cơ bản trong ngành. Và thứ hai là tính độc đáo, sáng tạo (originality),
luận án phải đặt ra được những vấn đề mới, đưa ra được những giả thuyết
hay lý luận mới và kiểm chứng bằng những tư liệu mới".
Ở châu Âu, ngoài việc nghiên cứu và giảng dạy trong trường, các Giáo
sư phải tổ chức các buổi học các buổi hội thảo cho các khách hàng bên
ngoài, phát hành sách, tư vấn cho các công ty.
Ở trường đại học bên châu Âu, để tăng "tính doanh nhân" và tính tranh

đua của các nhà khoa học đang giảng dạy và nghiên cứu trong các viện, họ

Footer Page 19 of 166.

19


Header Page 20 of 166.
áp dụng một mô hình từ 20 năm nay và rất thành công là: Giáo sư ở các viện
nghiên cứu và một số cộng sự nhất định được trả lương theo căn bản của
trường. Ngoài ra, các Giáo sư phải tự nghiên cứu và đưa ra thị trường các sản
phẩm thêm để tăng doanh thu. Giáo sư được quyền tuyển thêm nhân viên
cho các chương trình nghiên cứu và giảng dạy thêm của mình. Các phí tổn
cho lương bổng hoặc cho các dụng cụ cần thiết Viện phải tự trả.
Nếu trong hai năm liên tiếp, các viện không đạt được doanh thu đã
được ấn định trước với Ban điều hành nhà trường, viện trưởng (thường là
một vị giáo sư ) sẽ bị thôi việc. Trường hợp này cũng đã xảy ra ở hai viện.
Như vậy, ở các Viện, ngoài việc nghiên cứu và giảng dạy trong
trường, các Giáo sư phải tổ chức các buổi học các buổi hội thảo cho các
khách hàng bên ngoài, phát hành sách, tổ chức các chuyến tham quan cho
các công ty, tư vấn cho các công ty, giảng dạy thêm ở các trường đại học
hoặc các trung tâm đào tạo hoặc tư vấn cho Chính phủ ở các quốc gia khác.
Các cộng sự, thường là các nhân viên làm việc chính quy ở các công
ty. Họ rất muốn đóng góp thêm cho các công trình nghiên cứu và quảng bá
kiến thức của họ. Lương bổng phải trả cho các cộng sự cũng phải chăng vì
mục đích làm việc thêm ở đây không phải là kiếm tiền. Ngoài ra, sinh viên
năm cuối của các chương trình cử nhân, hoăc các học viên thạc sĩ và tiến sĩ
cũng được tham gia.
Trong một số trường ở nước ta cũng đã được áp dụng mô hình này,
nhưng chưa phải là chính sách chính thức của các đại học, thường là "tự

phát". Với mô hình trên, các Viện đại học sẽ đồng hành hơn với các doanh
nghiệp, khởi động "tính doanh nhân" và tính tranh đua ở các Giáo sư, ngân
sách của các Đại học sẽ dồi dào hơn.
1.2. Hiện trạng nhân lực và đào tạo trong các lĩnh vực CNC
a) Nhân lực công nghệ cao và đào tạo nhân lực công nghệ cao
trong lĩnh vực công nghệ thông tin
Tính đến năm 2007, Việt nam có trên 220.000 lao động làm việc trong
lĩnh vực CNTT và truyền thông (CNTT-TT). Số có trình độ cao đẳng trở lên
về CNTT-TT (gồm CNTT, điện tử, viễn thông) khoảng 97.000 người với
trên 32.000 người làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp phần mềm
và nội dung số.
Về nhân lực ngành công nghiệp phần mềm (CNpPM), Việt Nam cần
phải đáp ứng được cả hai "chỉ tiêu" căn bản nhất là lượng và chất. Nhưng
hiện giờ, mặc dù rất "thiếu", song trong quá trình tuyển dụng của mình, một
thực tế mà các doanh nghiệp phần mềm gặp phải là không thể tuyển dụng
được ngay số lượng nhân viên như mong muốn. CNpĐT Việt Nam đang sử

Footer Page 20 of 166.

20


Header Page 21 of 166.
dụng trên 100.000 lao động, tốc độ thu hút nguồn nhân lực 10%/năm, chủ
yếu tập trung vào lĩnh vực lắp ráp sản phẩm điện tử tiêu dùng và sản xuất
phụ tùng linh kiện xuất khẩu. Cơ cấu lao động tại các doanh nghiệp: kỹ
sư/cử nhân ít nhất 4%, nhiều nhất 64%; công nhân lành nghề 36%/87%. Tại
các doanh nghiệp quốc doanh nhân lực có trình độ đại học và cao đẳng
chiếm tỉ lệ khá cao 19-64% thì các doanh nghiệp FDI chỉ khoảng 4-10%. Tại
các doanh nghiệp quốc doanh nhân lực có trình độ đại học, trên đại học và

cao đẳng được sử dụng vào các hoạt động nghiên cứu thiết kế thì tại các
doanh nghiệp FDI sử dụng vào các khâu quản lý sản xuất, chất lượng,
marketing. Nguồn nhân lực cho công nghiệp phần mềm của TP Hồ Chí Minh
đến năm 2010, đạt khoảng 25.000 người. Theo đó, phải có 400 doanh nghiệp
thành lập mới, tồn tại được và có 5 doanh nghiệp có 500 chuyên viên CNTT
trở lên, 3 doanh nghiệp có 1.000 người trở lên để đáp ứng nhu cầu phát triển.
Lĩnh vực điện tử, CNTT có sự thay đổi nhanh chóng theo thời gian,
ước tính kiến thức công nghệ thay đổi 50% trong vòng 2 năm. Vì vậy, có thể
rút ngắn đào tạo trong trường đại học, tổ chức đào tạo ngắn hạn cho người đi
học và thậm chí cho cả người đang đi làm. Hiện nay đã có một số dự án đào
tạo nhân lực CNTT đang đi theo hướng này, ví dụ Trung tâm Đào tạo CNTT
- TP. Hồ Chí Minh (tại Công viên phần mềm Quang Trung), Trung tâm đào
tạo và tài nguyên Java (hợp tác với Công ty Sun). Trung tâm đào tạo CNTT
Hà Nội, Trung tâm này được xây dựng để đào tạo cán bộ công chức đủ năng
lực và trình độ phục vụ quá trình xây dựng nền hành chính điện tử hoá
hướng tới chính quyền điện tử, Trung tâm Đào tạo thiết kế điện tử TP. Hồ
Chí Minh, mục tiêu Trung tâm đào tạo thiết kế điện tử là xây dựng một cơ sở
đào tạo những người chuyên về thiết kế điện tử - tin học với sự trợ giúp của
máy tính (EDA), chuẩn bị nguồn nhân lực cho công nghiệp phần cứng.
Trong vòng năm năm đầu dự án, tính từ năm 2004, mục tiêu sẽ đào tạo trên
1.200 người thành thạo ở hai lĩnh vực quan trọng: thiết kế bo mạch in cao tốc
(PCB) và thiết kế mạch tích hợp (IC).
b) Nhân lực công nghệ cao và đào tạo nhân lực công nghệ cao
trong lĩnh vực công nghệ vật liệu
Trong lĩnh vực CNVL, có khoảng 6.000 cán bộ KH&CN, trong đó có
khoảng 50 tiến sĩ chuyên ngành VLTT. Theo số liệu điều tra 13 cơ sở thuộc
Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa
học và Công nghệ, Bộ Quốc phòng cho thấy, mỗi cơ sở có khoảng 15-35 cán
bộ được đào tạo về khoa học vật liệu và đang làm việc trực tiếp về vật liệu
mới, trong đó có khoảng 2/5 là cán bộ có trình độ trên đại học.

Theo thống kê của riêng Viện đào tạo quốc tế về khoa học Vật liệu
(ĐHBK Hà Nội), từ năm 1993 đến 2001 Viện đào tạo 220 học viên cao học
và nghiên cứu sinh. Tính trung bình mỗi khóa Viện tuyển sinh và đào tạo
khoảng từ 25 – 30 học viên. Tại Viện vật lý kỹ thuật (Trường ĐHBK Hà

Footer Page 21 of 166.

21


Header Page 22 of 166.
Nội), trong khoảng 8 năm qua (từ năm 2001), có khoảng 10 học viên nhận
bằng thạc sỹ và tiến sỹ trong lĩnh vực công nghệ nano.
So với những đòi hỏi của quá trình CNH-HĐH đất nước đang diễn ra,
thì rõ ràng nguồn nhân lực phát triển CNC trong lĩnh vực CNVL mới còn
thiếu nhiều, nhất là đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ để có thể chuyển
kiến thức thành công nghệ, chuyển kết quả nghiên cứu trong phòng thí
nghiệm thành quy trình sản xuất CNC. Đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ
nano (CNNN) là một lĩnh vực CNC và mới.
c) Nhân lực công nghệ cao và đào tạo nhân lực công nghệ cao trong
lĩnh vực tự động hóa
Trong lĩnh vực TĐH có khoảng 5.000 người làm việc trong các lĩnh
vực liên quan (toán học, cơ học, tin học, vật lý) hoặc trực tiếp là tự động hóa,
cơ điện tử. Thực tế hiện nay đang diễn ra trong lĩnh vực TĐH là nhân lực
không theo kịp nhu cầu.
Trên thực tế, trong một thời gian dài, ngành TĐH chưa được đầu tư
đúng nên chúng ta thiếu lực lượng trầm trọng, thiếu cả về số lượng và chất
lượng. Hầu hết số nhân lực TĐH chưa theo kịp được với nhu cầu và hướng
phát triển của ngành.
d) Nhân lực công nghệ cao và đào tạo nhân lực công nghệ cao

trong lĩnh vực công nghệ sinh học
So với nhiều nước đang phát triển thì CNSH Việt Nam đang đi sau
hàng chục năm bởi rất nhiều lý do: nguồn nhân lực CNSH Việt Nam còn
thiếu và phân tán, vốn đầu tư thấp, v.v... Tính đến 2007, Việt Nam mới đào
tạo được 1.500 cử nhân/kỹ sư, 400 thạc sỹ, 90 tiến sĩ về CNSH, riêng trong
lĩnh vực gen thì chỉ tính con số hàng chục cán bộ. Chúng ta thử tính riêng
vùng ĐBSCL – một vùng nông nghiệp trọng điểm của cả nước nhưng trong
lĩnh vực CNSH, mỗi năm mới có khoảng 300 cử nhân, kỹ sư được đào tạo,
50 thạc sỹ và khoảng 500 công nhân kỹ thuật công nghệ.
Đội ngũ cán bộ CNSH còn thiếu cán bộ đầu đàn giỏi, các "tổng công
trình sư", hiếm “nhạc trưởng” xứng tầm để “điều khiển dàn nhạc” CNSH
nông nghiệp một cách nhịp nhàng, đồng bộ, giải quyết được những hạn chế,
tồn tại của CNSH, bên cạnh đó chúng ta cũng thiếu cán bộ KH&CN trẻ kế
cận có trình độ cao. Vì thế, dù mạng lưới các phòng thí nghiệm về CNSH đã
được thiết lập ở nhiều nơi nhưng vẫn chưa có sự phối hợp trong nghiên cứu,
đào tạo và ứng dụng.
Hệ thống giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo
nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao, đặc biệt đối với những lĩnh vực
KH&CN tiên tiến như CNSH. Chính vì vậy, đào tạo nguồn nhân lực
KH&CN về CNSH đủ về số lượng và có chất lượng cao là một trong những
yếu tố quan trọng bậc nhất trong phát triển CNSH ở nước ta.

Footer Page 22 of 166.

22


Header Page 23 of 166.
1.3. Nhu cầu về nhân lực công nghệ cao của Việt Nam
a) Nhu cầu đào tạo nhân lực công nghệ cao trong lĩnh vực công

nghệ thông tin giai đoạn 2010 - 2015
Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực CNTT Việt Nam đến năm 2020
đã được Bộ Thông tin và Truyền thông (TT-TT) chủ trì phối hợp với Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các Bộ
ngành có liên quan cùng xây dựng. Các chỉ tiêu về phát triển nguồn nhân lực
CNTT đã được xây dựng căn cứ trên các tính toán, dự báo nhu cầu nhân lực
CNTT để đáp ứng các yêu cầu về phát triển các ngành công nghiệp CNTT,
viễn thông, đào tạo nhân lực CNTT và truyền thông và đẩy mạnh ứng dụng
CNTT trong mọi hoạt động KT-XH của nước ta.
Mục tiêu đề ra trong Quyết định số 246, ngày 06/10/2005 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển CNTT- TT đến năm 2010
và định hướng đến năm 2020 là “Đến năm 2010 có trên 100.000 người có
trình độ cao đẳng và đại học trở lên về CNTT-TT, trong đó có khoảng 20%
đạt trình độ khu vực và quốc tế”.
Để có thể có 100.000 người có trình độ cao đẳng và đại học trở lên về
CNTT, Bộ TT-TT đã định hướng cho sự phát triển CNTT đến năm 2010
bằng việc đề ra bốn dự án ưu tiên, năm chương trình và chín giải pháp.
Trong số bốn nhóm dự án ưu tiên cấp quốc gia sẽ có tính chất đột phá, tạo
môi trường và nền móng cho ứng dụng rộng rãi CNTT trong tất cả các ngành
KT-XH; Đào tạo 30.000 cán bộ chuyên ngành CNTT... Một trong năm
Chương trình trọng điểm là Phát triển nguồn nhân lực.
b) Nhu cầu đào tạo nhân lực công nghệ cao trong lĩnh vực công
nghệ sinh học giai đoạn 2010-2015
Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 50-CT/TƯ về
“Đẩy mạnh phát triển và ứng dụng CNSH phục vụ CNH, HĐH đất nước”.
Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt quyết định số 14/2008/QĐ-TTg về ”Kế
hoạch tổng thể phát triển và ứng dụng CNSH ở Việt Nam đến năm 2020”
nhằm đẩy mạnh phát triển và ứng dụng CNSH phục vụ sự nghiệp CNHHĐH đất nước; tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, công
nghiệp chế biến thực phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm, y dược và bảo vệ sức
khỏe con người, bảo vệ môi trường đồng thời thúc đẩy sự hình thành và phát

triển các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, dịch vụ về CNSH hoạt động đạt
hiệu quả cao.
Theo "Kế hoạch tổng thể phát triển và ứng dụng CNSH ở Việt Nam
đến năm 2020” , đến năm 2015, Việt Nam sẽ có 12.000 cán bộ khoa học có
trình độ đại học và trên đại học về CNSH, trong đó có 300 tiến sĩ, 1.200 thạc
sĩ. Nguồn nhân lực này được đánh giá là một trong những yếu tố quan trọng
bậc nhất trong phát triển CNSH ở nước ta.

Footer Page 23 of 166.

23


Header Page 24 of 166.
Kế hoạch tổng thể phát triển và ứng dụng CNSH ở Việt Nam đến năm
2020 xác định rõ là: Giai đoạn 2006-2010: đào tạo được trên 8.000 cán bộ
khoa học có trình độ đại học và trên đại học về CNSH, trong đó, có 200 tiến
sĩ, 800 thạc sĩ, gửi đi đào tạo ở nước ngoài khoảng 100 lượt người; đào tạo ở
trong nước được 3.000 kỹ thuật viên. Giai đoạn 2011-2015: đào tạo được
trên 12.000 cán bộ khoa học có trình độ đại học và trên đại học về CNSH,
trong đó có 300 tiến sĩ, 1.200 thạc sĩ, gửi đi đào tạo ở nước ngoài khoảng
300 lượt người; đào tạo ở trong nước được 4.500 kỹ thuật viên.
Để đạt được mục tiêu trên, rất nhiều nhiệm vụ đã được đặt ra, trong
đó, tổ chức thực hiện quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực khoa học đáp ứng
nhu cầu về lượng và chất của việc phát triển CNSH và ngành công nghiệp
sinh học ở nước ta đóng vai trò quan trọng. Chú trọng đào tạo đội ngũ
chuyên gia có trình độ cao, tiến sĩ và sau tiến sĩ, thạc sĩ, kỹ sư công nghệ, kỹ
thuật viên và đào tạo theo nhóm nghiên cứu về CNSH. Bên cạnh đó, các viện
nghiên cứu, các cơ sở đào tạo cần chủ động và thường xuyên nâng cao chất
lượng đào tạo cán bộ khoa học thuộc mọi trình độ về CNSH ở trong nước.

Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân ở trong nước và nước ngoài
tham gia đào tạo nguồn nhân lực cho CNSH ở Việt Nam; tiếp tục gửi người
đi đào tạo đại học và sau đại học ở nước ngoài bằng vốn ngân sách nhà nước;
khuyến khích việc du học tự túc bậc học đại học, sau đại học, sau tiến sĩ về
CNSH.
Tổ chức đào tạo lại về CNSH cho các cán bộ KH-KT đang làm việc
trong lĩnh vực CNSH nhưng trước đây không được đào tạo chuyên sâu về
CNSH, đi đôi với việc tổ chức các lớp tập huấn về CGCN và tiến bộ kỹ thuật
trong lĩnh vực CNSH cho các cơ sở sản xuất và địa phương cũng là một
trong những nhiệm vụ cần thực hiện trong thời gian tới. Mặt khác, cần thực
hiện cơ chế liên kết giữa đào tạo sau đại học với NC&PT để bảo đảm các đề
tài nghiên cứu triển khai ở cấp Bộ, cấp Nhà nước đều góp phần đào tạo được
những cán bộ có trình độ cao về CNSH.
c) Dự báo nhu cầu nhân lực công nghệ cao đến năm 2020
Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng nhu cầu
phát triển đội ngũ nhân lực CNC là định hướng quy hoạch phát triển đội ngũ
nhân lực CNC, trong đó cần dự kiến về sắp xếp, bố trí phát triển một đối
tượng nào đó theo một trình tự hợp lý trong từng thời gian làm cơ sở cho
việc lập kế hoạch. Với cách hiểu đó, đối tượng quy hoạch ở đây là đội ngũ
nhân lực CNC. Về phần mình, đội ngũ nhân lực CNC là bộ phận cấu thành
của nhân lực KH&CN quốc gia. Vì vậy, các định hướng phát triển đội ngũ
này không thể không căn cứ vào chiến lược phát triển KT-XH quốc gia,
ngành, vùng-lãnh thổ, chiến lược và chính sách KH&CN, chiến lược và
chính sách GD&ĐT, bài học rút ra từ kinh nghiệm quốc tế, v.v...

Footer Page 24 of 166.

24



Header Page 25 of 166.
Việc dự báo nhu cầu nhân lực CNC phải căn cứ vào thực trạng, các
mục tiêu chung về phát triển nhân lực. Cuối cùng, để đạt được các mục tiêu
phát triển đội ngũ này, cần thiết phải thiết kế các giải pháp thực hiện bao
gồm các chính sách về đầu tư, về đào tạo, về hợp tác quốc tế.
Dự báo nhu cầu nhân lực trong các lĩnh vực CNC của Việt Nam đến
2020 dựa trên cơ sở các căn cứ khoa học như sau:
- Một số chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế đến năm 2020 (theo ”Kế
hoạch phát triển KT – XH giai đoạn 2006 – 2010 và dự báo đến năm 2020
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
- Một số chỉ tiêu cơ bản về phát triển nhân lực đến năm 2010 và 2020
(theo Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam đến 2020 – Bộ Giáo dục và
Đào tạo).
Nhân lực đại học: Với mục tiêu tăng cường đào tạo nguồn nhân lực
KH&CN có cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao đáp ứng công cuộc phát triển
KT-XH của nước nhà, dự kiến nhu cầu đào tạo đội ngũ nhân lực CNC từ
nay đến năm 2020 như sau:
Bảng 1. Chỉ tiêu tuyển sinh mới đại học giai đoạn 2007-20202
Năm

CNTT

CNSH

CNTĐH

CNVL

2007


15.000

5.000

8.000

4.000

2008

15.000

8.000

10.000

5.000

2009

18.000

12.000

12.000

8.000

2010


20.000

15.000

15.000

12.000

20153

25.000

20.000

20.000

18.000

2020

30.000

25.000

25.000

25.000

Nhân lực trên đại học: Từ năm 1993, khi Nhà nước bắt đầu quy định
về việc đào tạo thạc sĩ, chỉ tiêu kế hoạch đào tạo sau đại học hằng năm tăng

lên đáng kể. Trên thực tế, số chỉ tiêu thạc sĩ thường tuyển vượt chỉ tiêu được
giao, trong khi chỉ tiêu NCS chỉ đạt từ 70 – 90%. Trong thực hiện chỉ tiêu
2

Nguyễn Minh Đức, Đề tài “Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo nhân lực KH&CN trình độ cao, gửi
cán bộ KH&CN đi đào tạo ở các nước tiên tiến”, Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục, Hà Nội, 2006.
3
Theo Bộ GD-ĐT, mục tiêu đến năm 2015, đào tạo CNTT ở bậc ĐH đạt trình độ tiên tiến trong khu vực
ASEAN, 50% sinh viên ngành CNTT tốt nghiệp ĐH có đủ khả năng chuyên môn và ngoại ngữ để có thể
tham gia thị trường lao động quốc tế. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong GD-ĐT để đến năm 2015; 100% SV
ĐH, CĐ, TCCN và DN được học về CNTT. Từ nay đến năm 2015, cung cấp cho các doanh nghiệp 250.000
lao động chuyên môn về CNTT, trong đó 50% có trình độ CĐ, ĐH và 5% có trình độ thạc sĩ trở lên; đảm
bảo tỷ lệ cứ 15 sinh viên có 1 giảng viên CNTT ở các trường ĐH, CĐ…

Footer Page 25 of 166.

25


×