Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN tiểu học : Một số kinh nghiệm dạy phân môn Địa lí lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ
PHỊNG GD & ĐT NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY PHÂN MƠN ĐỊA LÍ
LỚP 4 NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hương
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nga Thiện
SKKN thuộc lĩnh mực (mơn):Lịch sử và Địa lí

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết mục tiêu giáo dục Tiểu học hiện nay là giáo dục học
sinh trở thành con người phát triển tồn diện. Do đó, cần có sự đổimới trong
THANH
HÓA,
NĂM
2016sách giáo khoa, đổi mới
giáo dục, cụ thể như đổi mới
chương
trình,
đổi mới
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học,… Tuy nhiên, hiệu quả giáo dục trong
1


những năm vừa qua vẫn chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã


hội hiện nay. Trong mỗi môn học, mỗi lĩnh vực kiến thức ở chương trình Tiểu
học, học sinh đều gặp phải khá nhiều khó khăn. Nếu người giáo viên không tâm
huyết, không trăn trở với nghề để tìm ra biện pháp tốt nhất giúp học sinh có nhu
cầu học thì các em thường tiếp thu thụ động dẫn đến ngại học, ghi nhớ một cách
máy móc nên khơng khắc sâu được các kiến thức, kĩ năng đã học. Điều đó được
thể hiện rất rõ trong dạy - học mơn Lịch sử và Địa lí, đặc biệt là phân mơn Địa
lí.
Phân mơn Địa lí ở lớp 4 cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản,
thiết thực về các sự vật, hiện tượng, con người và các mối quan hệ địa lí đơn
giản ở các vùng chính trên đất nước ta đồng thời rèn luyện cho học sinh các kĩ
năng quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm thơng tin địa lí từ nhiều
nguồn khác nhau; trình bày kết quả học tập bằng lời nói, bài viết, hình vẽ…; vận
dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn… Qua đó giáo dục các em lòng yêu và
tự hào về quê hương đất nước, có ý thức bảo vệ quê hương đất nước, góp phần
hình thành và phát triển nhân cách tồn diện cho các em.
Trong thực tiễn giáo dục hiện nay đang tồn tại rất nhiều mâu thuẫn gây cản
trở hoạt động giáo dục của bản thân và của nhà trường, ảnh hưởng không tốt đến
chất lượng giáo dục học sinh. Đó là mâu thuẫn giữa mục tiêu giáo dục với nội
dung chương trình; mâu thuẫn giữa trang bị kiến thức và phát triển phẩm chất,
năng lực học sinh; mâu thuẫn giữa sách giáo khoa với thực tế xã hội; mâu thuẫn
giữa các trang thiết bị dạy học với kiến thức cụ thể các bài học,… Trong khi
hiện nay mục tiêu giáo dục xã hội đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết cần phải
giải quyết. Hiện tại chưa có các tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu về các biện pháp
nâng cao chất lượng, hiệu quả giờ dạy môn Lịch sử và Địa lí, các đồng nghiệp
chưa đầu tư nhiều thời gian nghiên cứu, chun mơn nhà trường chưa có nhiều
kinh nghiệm để giải quyết, khắc phục triệt để các mâu thuẫn trong giáo dục…
Là một giáo viên Tiểu học rất tâm huyết và ln có trách nhiệm cao với
nghề, tơi ln trăn trở, tìm tịi, nghiên cứu để tìm mọi biện pháp tốt nhất giúp
học sinh học tập có hiệu quả nhất. Qua mười mấy năm dạy học, tôi đã dày công
nghiên cứu, học hỏi và áp dụng các biện pháp dạy học, đúc rút cho bản thân

nhiều kinh nghiệm quý giá, trong đó có những kinh nghiệm để dạy tốt phân mơn
Địa lí. Bởi vậy tơi muốn giới thiệu, chia sẻ “Một số kinh nghiệm dạy phân môn
Địa lí lớp 4” với bạn bè, đồng nghiệp để mong mọi người cùng nghiên cứu,
tham khảo và áp dụng góp phần nhỏ bé nâng cao chất lượng dạy và học.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu thực trạng việc dạy - học phân mơn
Địa lí 4, trên cơ sở đó áp dụng các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy.
2


3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này sẽ nghiên cứu, tổng kết về một số biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả dạy và học phân mơn Địa lí ở lớp 4A trường Tiểu học Nga Thiện.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hồn thành đề tài này, tơi đã sử dụng một số phương pháp sau:
4.1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
Nghiên cứu, tìm hiểu để nắm vững nội dung chương trình, phương pháp
và các hình thức dạy học, yêu cầu của môn học thông qua các tài liệu như SGK
Lịch sử và Địa lí 4,5; Sách giáo viên, Thiết kế bài dạy Lịch sử và Địa lí 4, 5;
Sách Phương pháp dạy học các môn ở Tiểu học,…
4.2. Phương pháp phỏng vấn
Phỏng vấn trực tiếp giáo viên và học sinh về những thuận lợi, khó khăn
trong việc nâng cao chất lượng dạy – học Địa lí Tiểu học nói chung và Địa lí lớp
4 nói riêng.
4.3. Phương pháp quan sát
Quan sát qua dự giờ đồng nghiệp để đánh giá năng lực, kinh nghiệm của
giáo viên, quan sát quá trình học tập của học sinh để tìm hiểu cụ thể thực trạng.
4.4. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Điều tra qua các giáo viên trực tiếp giảng dạy chương trình 4, 5; qua sổ
Theo dõi chất lượng giáo dục; qua học sinh và các loại tài liệu học tập của học

sinh…
4.5. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
Thống kê kết quả khảo sát, kết quả học tập của học sinh qua các bài kiểm
tra, bài khảo sát, qua hồ sơ sổ sách…

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Lên 6 tuổi, trẻ em đã phát triển về tâm, sinh lí đầy đủ để có thể tham gia hoạt
động học thơng qua các mơn học, trong đó có mơn Tự nhiên và xã hội. Môn học
này được xắp xếp ở các lớp 1, 2, 3, học sinh đã được làm quen và học các kiến
thức về địa lí đơn giản như: cảnh vật tự nhiên, mây, gió, cầu vồng, một số hiện
3


tượng tự nhiên như mưa, nắng... một số kiểu thời tiết, hình dạng, bề mặt của Mặt
Trời, Mặt Trăng, Trái Đất, xác định phương hướng, các đới khí hậu, các mùa
trong năm, các hành tinh trong hệ Mặt Trời… Lên lớp 4, các kiến thức địa lí
được giới thiệu cụ thể, rõ ràng, có hệ thống lơgíc qua phân mơn Địa lí của mơn
Lịch sử và Địa lí 4… Phân mơn Địa lí ở lớp 4 cung cấp cho học sinh một số kiến
thức cơ bản, thiết thực về các sự vật, hiện tượng, con người và các mối quan hệ
địa lí đơn giản ở các vùng chính trên đất nước ta. Trong việc dạy và học địa lí
trước đây vẫn cịn quan niệm đây là mơn học thuộc lịng, chỉ cần học thuộc bài
là đạt điểm cao, không cần tư duy, suy nghĩ như các môn học khác. Thực tế địa
lí khơng phải là mơn học thuộc lịng mà là mơn học địi hỏi phải phân tích, so
sánh, tổng hợp để rút ra nhận xét. Trong những năm qua đã có những bước cải
tiến phương pháp dạy và học theo hướng tích cực hố hoạt động học tập, tăng
cường việc tư duy của học sinh trong việc lĩnh hội tri thức. Đổi mới phương
pháp dạy học Địa lí chỉ thành cơng khi phương pháp dạy học Địa lí tác động
mạnh đến người học và phát huy tích cực tự giác, chủ động tư duy sáng tạo của
người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý

chí vươn lên trở thành con người phát triển tồn diện về đức, trí, thể, mĩ…
(Theo Luật Giáo dục 2005).
Dạy học Địa lí chiếm vai trị quan trọng nhằm góp phần hình thành và phát
triển ở học sinh thói quen ham hiểu biết, yêu thiên nhiên đất nước con người, có
ý thức và hành động bảo vệ thiên nhiên. Vì vậy, việc dạy học Địa lí không
những cung cấp cho học sinh những kiến thức địa lí thuần túy mà cịn phải hình
thành, phát triển cho các em các kĩ năng và năng lực tự học. Đó là những nhiệm
vụ song song và có tầm quan trọng như nhau.
Để đạt được mục tiêu nói trên, người giáo viên cần có những phương pháp
dạy học thích hợp để giúp cho học sinh không những nắm vững kiến thức địa lí,
rèn luyện kĩ năng, mà cịn giáo dục thái độ, phát triển nhân cách, khơi gợi tính tự
giác tích cực học tập của học sinh. Đó là phương pháp dạy - học tích cực. Hay
nói cách khác đó là q trình làm việc tích cực của thầy và trò để đem lại hiệu
quả cao nhất.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Bước lên lớp 4 là học sinh đã bước sang giai đoạn hai của quá trình giáo
dục ở Tiểu học, học sinh được làm quen với các môn học mới như Khoa học,
Lịch sử và Địa lí nên các em gặp nhiều bỡ ngỡ và khó khăn, đặc biệt với phân
mơn Địa lí. Bên cạnh đó, đa số học sinh lớp 4 của trường Tiểu học Nga Thiện
đều thuộc con em gia đình làm nghề nơng, điều kiện kinh tế khó khăn, trình độ
văn hố thấp, đầu tư cho việc học rất hạn chế… Hậu quả là sách vở, đồ dùng học
tập của các em chuẩn bị chưa kịp thời, một số em khơng có đủ sách giáo khoa
thì giáo viên đã phải mượn sách cũ ở thư viện trường cho các em học. Trong học
tập một số em khá nhút nhát, rụt rè, tiếp thu chậm và thụ động, thời gian tự học
ở nhà q ít vì các em cịn phải tham gia lao động cùng với gia đình. Bên cạnh
4


đó, thời lượng dành cho phân mơn Địa lí theo quy định là cịn ít (1 tiết/ tuần)
nên học sinh được học phân mơn rất ít thời gian.

* Về phía giáo viên:
Mặc dù 100% giáo viên trường Tiểu học Nga Thiện đều tâm huyết và có
trách nhiệm cao đối với nghề dạy học nhưng khả năng của mỗi người là có hạn
và khơng giống nhau. Một số giáo viên chưa có điều kiện để nắm vững đặc điểm
các vùng địa lí ngay trên đất nước mình, nhiều giáo viên chưa dành thời gian tìm
hiểu, cập nhật thơng tin kịp thời về các yếu tố tự nhiên, về con người, về cuộc
sống xung quanh để hỗ trợ cho môn học. Do yếu tố khách quan nên nhiều giáo
viên chưa có điều kiện tổ chức các buổi sinh hoạt ngoại khóa cho học sinh để kết
hợp với học tập, chưa đầu tư nhiều cho việc dạy nên chưa khơi dậy được hứng
thú và nhu cầu cần học cho học sinh…
* Về phía học sinh:
Sau hơn một tháng học và làm quen với phân mơn, được sự nhất trí của
chun mơn nhà trường, tơi tiến hành khảo sát chất lượng Địa lí cả khối 4
trường Tiểu học Nga Thiện, Nga Sơn, Thanh Hoá (lớp 4A là lớp tôi chủ nhiệm)
và thu được kết quả như sau:
Lớp


số

Điểm 9, 10

Điểm 7, 8

Điểm 5, 6

Điểm dưới 5

SL


TL (%)

SL

TL (%)

SL

TL (%)

SL

TL (%)

4A

20

2

10

3

15

9

45


6

30

4B

19

1

5,3

3

15,8

9

47,3

6

31,6

Bảng kết quả trên cho thấy chất lượng học Địa lí khối 4 cịn q thấp.
Nhìn vào đó mỗi giáo viên chúng ta khơng khỏi khơng đau lịng, trăn trở. Qua
tìm hiểu ngun nhân từ nhiều phía và từ kinh nghiệm bản thân dạy học nhiều
năm, tôi thấy nguyên nhân chủ yếu là: Hầu hết học sinh cịn khá lạ lẫm với mơn
học mà thời lượng có 1 tiết / tuần nên các em chưa kịp nhớ đã quên; Nhiều em
chưa có cách học sao cho khoa học, cho chủ động, nhiều em lại chưa chăm học,

cịn xem nhẹ Địa lí; Học sinh chưa biết cách khai thác nội dung bài qua các
thiết bị học tập như bản đồ, lược đồ, quả địa cầu, tranh vẽ, ảnh chụp,…; Học
sinh chưa có kĩ năng phân tích bảng số liệu, biểu đồ; Học sinh chưa có thói quen
chuẩn bị bài ở nhà (tìm hiểu bài, chuẩn bị đồ dùng học tập, tranh ảnh ...). Hơn
nữa phụ huynh lại chưa quan tâm mà phó mặc việc học của con em mình cho
giáo viên và nhà trường, chưa hỗ trợ con em tự học ở nhà…Bởi vậy, học sinh
học còn chưa hồn thành bài, thường xun có tình trạng nhầm lẫn kiểu “Râu
ông nọ cắm cằm bà kia”…

5


Trước thực trạng trên, tôi tiến hành đi sâu nghiên cứu, tìm kiếm và áp
dụng các giải pháp để giúp đỡ học sinh học tập sao cho hiệu quả nhất để góp
phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục hiện nay.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
3.1. Giải pháp 1: Giáo viên cần tích cực nghiên cứu để nắm vững kiến thức
địa lí Việt Nam và thế giới, đặc biệt là nội dung chương trình Địa lí lớp 4.
Muốn dạy đúng, đủ kiến thức Địa lí 4, trước hết người giáo viên cần nắm
vững mục tiêu của chương trình, nội dung chương trình sách giáo khoa và cao
hơn nữa là nắm được các kiến thức cơ bản của địa lí Việt Nam và thế giới.
Trước hết, người giáo viên cần phải không ngừng nghiên cứu các tài liệu
để nắm vững mục tiêu chương trình Địa lí 4, cụ thể là:
- Cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản, thiết thực về: Các sự
vật, hiện tượng và các mối quan hệ địa lí đơn giản ở các vùng chính trên đất
nước ta.
- Bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kĩ năng: Quan sát sự
vật, hiện tượng; Thu thập, tìm kiếm tư liệu địa lí từ các nguồn khác nhau; Nêu
thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin để giải đáp; Nhận
biết đúng các sự vật, hiện tượng địa lí; Trình bày lại kết quả học tập bằng hình

vẽ, lời nói, sơ đồ…; Vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống.
- Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh những thái độ và thói quen:
Ham học hỏi, tìm hiểu để biết về môi trường xung quanh; Yêu thiên nhiên, đất
nước, con người Việt Nam; Tự hào, tôn trọng, giữ gìn và phát huy một số truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, bảo vệ các di sản văn hoá, danh lam thắng cảnh gần
gũi với các em…
Ngoài nắm vững mục tiêu chương trình, nội dung chương trình Địa lí 4,
người giáo viên muốn dạy hay, dạy giỏi thì cịn cần nắm vững các kiến thức cơ
bản của địa lí Việt Nam và thế giới. Có nắm vững các kiến thức đó thì người
giáo viên mới có cái nhìn tổng thể, tồn diện về địa lí và có thể lí giải chính xác
nhất những băn khoăn, thắc mắc của học sinh.
Để nắm được các nội dung cơ bản trên, không phải người giáo viên muốn
là nắm được ngay mà phải là q trình tích luỹ lâu dài qua các cấp học, ngành
học đã được tham gia, qua các buổi học chuyên đề, qua tự học tự nghiên cứu, ôn
tập bằng nhiều hình thức (tự học, ơn qua sách vở, đài, báo, ti vi, phim ảnh, qua
mạng Internet…), qua học hỏi cấp trên, bạn bè, đồng nghiệp. Nói chung, người
giáo viên phải luôn luôn nêu cao tinh thần học tập không ngừng, ln hồn thiện
mình để khơng trở thành người lạc hậu trong xã hội.
3.2. Giải pháp 2: Tích cực giáo dục nhận thức cho học sinh
Phân mơn Địa lí ln gắn liền với thiên nhiên, với đất nước và đời sống con
người. Việc học tốt phân mơn Địa lí sẽ giúp các em tìm hiểu tự nhiên, con người
6


và tăng thêm tình yêu quê hương, yêu đất nước; giúp các em sau này khi ra đời
hiểu được những thuận lợi cũng như khó khăn của đất nước ta trong cơng cuộc
Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa. Từ đó các em hiểu được một cách sâu sắc
những đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước đề ra để xây dựng cho nhân
dân ta một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Các em phải học tốt phân môn này thì
các em mới nắm được những kiến thức về Địa lí, mới hiểu được sâu sắc hơn về

mảnh đất các em đang sinh sống. Các em sẽ biết yêu quý tự nhiên, biết cách sử
dụng tài nguyên thiên nhiên một cách thông minh và đúng đắn nhất để phục vụ
cho lợi ích của con người.
Qua học tập Địa lí, các em sẽ nhớ đến nhiệm vụ bảo vệ tự nhiên và có ý thức
làm cho tự nhiên của đất nước chúng ta ngày thêm giàu và đẹp.
3.3. Giải pháp 3: Tích cực đổi mới phương pháp, phương tiện và hình thức tổ
chức dạy học
Như chúng ta đã biết mỗi phương pháp dạy học đều có những ưu điểm,
nhược điểm riêng, khơng có phương pháp dạy học nào là vạn năng. Vấn đề đặt
ra là ta phải biết phối kết hợp các phương pháp dạy học linh hoạt để phát huy
những ưu điểm, hạn chế thấp nhất các nhược điểm của các phương pháp dạy
học. Bên cạnh đó, việc đổi mới phương pháp dạy học cần phải theo hướng lấy
học sinh làm trung tâm để phát huy tích tích cực của người học.
Đổi mới phương pháp dạy học muốn đạt hiệu quả cao cần thực hiện song
song với đổi mới hình thức dạy học, tăng cường sử dụng các phương tiện dạy
học được thể hiện ở chỗ:
- Tập trung vào dạy cách học, đặc biệt giúp học sinh có nhu cầu học, biết
cách tự học.
- Coi trọng và khuyến khích dạy học trên cơ sở hoạt động học tập tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
- Sử dụng đúng mức, đúng chỗ, đúng lúc các phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học truyền thống cũng như hiện đại để phát huy tối đa các mặt mạnh
của từng phương pháp và của sự phối hợp giữa các phương pháp.
Như vậy, quá trình dạy - học phải lấy hoạt động của người học làm trung
tâm, mọi hoạt động của thầy đều hướng vào việc tổ chức, hướng dẫn học sinh
tìm tịi, phát hiện, khám phá và lĩnh hội tri thức, rèn luyện kĩ năng…cho học
sinh. Qua đó ta có thể nói thầy và trị chính là hai nhân tố trung tâm của quá
trình dạy - học.
Để thực hiện các yêu cầu trên trong dạy học, tôi thường tổ chức tiết học
theo quy trình sau:

- GV hoặc HS đặt ra vấn đề cần giải quyết trong bài thơng qua các tình
huống có vấn đề hoặc tìm hiểu kinh nghiệm của học sinh có liên quan đến nội
dung bài.
7


- Tổ chức cho học sinh tìm tịi, khai thác các kiến thức trong SGK, tranh
ảnh, bản đồ, lược đồ, vốn hiểu biết của bản thân… Qua đó các em sẽ nhanh
chóng nắm được các sự vật, đối tượng, hiện tượng địa lí của bài học.
- Trên cơ sở các hình ảnh về địa lí đã được hình thành, GV đặt ra các câu
hỏi, đưa ra các bài tập,… và vận dụng các hình thức tổ chức dạy học (nhóm, cá
nhân, cả lớp…) giúp học sinh bước đầu biết so sánh các điểm giống, khác nhau,
phân tích các đặc điểm, tổng hợp các nét chung của sự vật, hiện tượng địa lí...
- Từ những hiểu biết trên, giáo viên tổ chức cho học sinh trình bày dưới
các hình thức khác nhau (nói, kể, viết, vẽ…) về một sự vật, hiện tượng địa lí
sinh động và chính xác; đồng thời các em cũng biết vận dụng các kiến thức đã
học vào cuộc sống trong việc bảo vệ thiên nhiên, môi trường, bảo vệ di sản văn
hoá, danh lam, thắng cảnh.
Song song với việc đổi mới phương pháp, phương tiện dạy học, giáo viên
cần thường xuyên thay đổi hình thức dạy học, tránh nhàm chán cho học sinh.
Giáo viên có thể sử dụng tối đa những điều kiện cụ thể ở địa phương để tổ chức
dạy học một cách cụ thể nhất, sinh động nhất và chắc chắn sẽ gây hứng thú cho
học sinh.. Ví dụ có thể tổ chức các giờ học ngoài lớp, cho học sinh đi tham quan
các di tích lịch sử, văn hố, danh lam thắng cảnh, cơ sở sản xuất hoặc tham gia
lễ hội…để các em có hứng thú với mơn học, các em có cái nhìn tổng thể hơn,
bao quát hơn và thực tế hơn.
Ví dụ sau khi dạy bài “Dải đồng bằng duyên hải miền Trung”, để giúp các
em nắm vững hơn nội dung bài, đặc biệt là có cái nhìn cụ thể và thực tế hơn về
địa phương mình, tơi đã tổ chức cho học sinh đi tham quan Nhà thờ nữ tướng
Lê Thị Hoa và Di tích Lịch sử Quốc gia Đền thờ Nữ tướng Lê Thị Hoa và Đại

tướng Trịnh Minh. Khi đi tham quan tôi kết hợp giới thiệu cho học sinh biết Bà
Lê Thị Hoa là một nữ tướng có công lớn trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng
năm 40 đồng thời bà cịn có cơng lao rất lớn trong việc bảo vệ, xây dựng vùng
đất Nga Thiện, Nga Sơn, còn Đại tướng Trịnh Minh là một danh tướng thời Trần
có cơng chống giặc Ngun - Mơng thế kỉ XIII. Khu đền thờ hai vị tướng nằm
cách trường chỉ hơn 100m nên rất thuận tiện cho cơ trị tham quan, tìm hiểu về
lịch sử và những giá trị văn hóa, truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của nhân
dân, khơi dậy lịng tự hào dân tộc và có ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ,
tơn tạo di tích,…

8


Di tích lịch sử Quốc gia: Đền thờ Nữ tướng Lê Thị Hoa và Đại tướng Trịnh
Minh (Thôn2, Nga Thiện, Nga Sơn)

Nhà thờ Nữ tướng Lê Thị Hoa của dòng họ Mai ( Thôn 2,Nga Thiện, Nga Sơn)
Cũng tại quê hương Nga Thiện của các em cịn có một khu du lịch nổi
tiếng thu hút du khách trong và ngoài nước, đó là Động Từ Thức. Tơi đã phối
9


hợp với Hội phụ huynh lớp tổ chức cho các em tham quan Động để thưởng thức
cảnh đẹp thiên tạo, thắp hương ở đền thờ Từ Thức và chiêm ngưỡng những cơng
trình kiến trúc và tác phẩm điêu khắc cổ, từ đó giúp học sinh hiểu các di tích,
các thắng cảnh, các cơng trình kiến trúc cổ, các tác phẩm điêu khắc cổ là di sản
văn hóa vơ cùng q báu của dân tộc ta nên mỗi chúng ta đều phải có ý thức giữ
gìn và bảo vệ.

Đền thờ Từ Thức (Nga Thiện - Nga Sơn)


Động Từ Thức ở Nga Thiện ( Một thắng cảnh nổi tiếng gắn liền với huyền thoại
“Từ Thức gặp tiên”)
10


Ngoài ra, khi học về Đồng bằng duyên hải miền Trung, tôi cho học sinh
xác định rõ huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa quê hương của các em thuộc đồng
bằng này, cho các em liên hệ thực tế: Nga Sơn là nơi có nhiều lễ hội truyền
thống, tiêu biểu như: Lễ hội Mai An Tiêm (Nga Phú), Lễ hội chùa Tiên (Nga
An), Lế hội cầu ngư (Nga Bạch)… và nhiều lễ hội khác gợi nhớ về nguồn, tri ân
công đức các bậc tiền nhân. Các lễ hội đó diễn ra từ tháng giêng đến tháng 4 âm
lịch.
3.4. Giải pháp 4: Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
Ứng dụng cơng nghệ thơng tin góp phần đổi mới PPDH, hình thành
phương pháp tư duy mới, đưa phương pháp dạy học vào quỹ đạo sử dụng sức
mạnh của công cụ hiện đại để chuyển tải những khối lượng kiến thức lớn, mở
rộng tầm nhận thức của học sinh, làm thay đổi căn bản cách dạy, cách học.
Ứng dụng CNTT vào bài học không chỉ hiểu đơn giản là sự trình chiếu
một tiết dạy trên màn hình. Tiết học đó phải đảm bảo nội dung bài học đầy đủ,
chính xác theo chương trình quy định. Học sinh được học được hiểu và nắm
được nội dung ngay trong tiết học và điều mà tơi quan tâm nhất đó là tiết học đó
phải thực sự hấp dẫn, thu hút được các em học sinh, tạo được hứng thú cho các
em đối với tiết học, mơn học. Từ đó các em sẽ học bài tốt hơn.
Tơi sử dụng phần mềm PowerPoint để trình chiếu hình ảnh liên quan đến
bài học như một bảng phụ làm dẫn chứng minh họa chứ không phải là dạy hoàn
toàn trên máy. Để những dẫn chứng minh họa ấy có tính thực tiễn, có hiệu quả
nhất, tơi ln chịu khó nghiên cứu cập nhật những số liệu mới nhất, những hình
ảnh rõ nét nhất.. Qua các năm, trao đổi giáo án giữa giáo viên trong khối, tham
khảo các tư liệu trên Internet nên các bài giảng soạn bằng phần mềm PowerPoint

tăng cả về số lượng và chất lượng.
Ví dụ khi dạy các bài về Đồng bằng Nam Bộ, thay vì học sinh chỉ được
quan sát vài hình ảnh đơn điệu trong SGK, tôi cho các em quan sát thêm những
hình ảnh trên màn hình chứng minh cho các đặc điểm về nhà ở của người dân ở
Tây Nam Bộ thường đơn sơ, thường làm dọc theo các kênh rạch, hệ thống sơng
ngịi, kênh rạch chằng chịt, phương tiện đi lại chủ yếu là xuồng, ghe:

11


Một số hình ảnh về Đồng Bằng Nam Bộ
Hoặc khi dạy bài “Dải đồng bằng duyên hải miền Trung”, sau khi học
sinh tìm hiểu về vị trí, đặc điểm, khí hậu khác biệt giữa hai khu vực của đồng
bằng, tôi cho các em chỉ vị trí của dãy núi Bạch Mã trên lược đồ ở màn hình, rồi
cho các em quan sát hình ảnh thực tế của “Bức tường chắn gió” Bạch Mã lan sát
ra tận biển để học sinh hiểu được lí do tại sao phía nam dãy núi này khơng có
mùa đơng lạnh. Để vượt qua dãy núi này, trước đây đường bộ phải qua đèo Hải
12


Vân hiểm trở, nay có thêm đường hầm Hải Vân giúp cho giao thơng an tồn và
thuận tiện.

Đèo Hải Vân
Đường hầm Hải Vân
Như vậy, khi giảng dạy các tiết học có ứng dụng cơng nghệ thơng tin,
hiệu quả tiết dạy thấy rất rõ ràng. Học sinh hăng hái, sôi nổi, tích cực hoạt động,
giáo viên tổ chức tiết học rất nhẹ nhàng mà lại gây được hứng thú cho học sinh.
Được tiếp xúc với tranh ảnh địa lí sinh động, các em chủ động tiếp thu và từ đó
nắm vững được kiến thức hơn.

3. Giải pháp 3: Sử dụng có hiệu quả các loại bản đồ, lược đồ, dữ liệu liên
quan đến các kiến thức địa lí trong chương trình.
Con đường của nhận thức theo quan điểm của triết học của Mác - Lênin là
đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng lại trở về
thực tiễn. Bởi vậy cho nên trong dạy học Địa lí cũng như dạy các mơn khác,
người giáo viên phải luôn luôn nắm vững và tuân theo quy luật này thì mới có
hiệu quả cao cho nhận thức của học sinh. Trước các sự vật, hiện tượng địa lí
mới, giáo viên nên vào đề qua bản đồ, lược đồ, hay các tư liệu liên quan để gây
hứng thú và khơi dậy nhu cầu tìm hiểu, khám phá ở trẻ. Khi trẻ đã nắm rõ vấn
đề đặt ra, giáo viên cần cho các em kiểm chứng vấn đề đó bằng thực tiễn ( hoặc
bằng các câu chuyện, tranh ảnh, mơ hình, hiện vật…có liên quan ). Để có được
những tài liệu phục vụ cho “ trực quan sinh động” ấy, giáo viên có thể sưu tầm
từ nhiều nguồn như sách, báo, đài, vô tuyến đặc biệt là trên mạng Internet. Khi
13


sử dụng những tài liệu như tranh, ảnh, sơ đồ… làm trực quan tơi thấy trình bày
dưới dạng trình chiếu trên màn hình mang lại hiệu quả nhất, gây hứng thú học
tập cho các em nhất.
Chẳng hạn, khi dạy bài “Dãy Hồng Liên Sơn”, trước khi vào bài tơi cho
các em quan sát bản đồ địa lí tự nhiên Việt Nam, tìm hiểu cách phân tầng địa
hình ở bản đồ thể hiện qua màu sắc (địa hình càng cao, nhiều núi thì màu càng
đỏ đậm, địa hình bằng phẳng ở đồng bằng thì màu xanh lá cây…). Khi học sinh
đã hiểu và có thể đọc được bản đồ, các em sẽ tự nhận xét và rút ra kết luận:
Hoàng Liên Sơn là dãy núi cao và đồ sộ nhất nước ta.

Sau đó, tơi đã tổ chức cho các em tự tìm tịi, khám phá các dữ liệu trong
bài để tìm minh chứng cho kết luận trên qua sách giáo khoa, các hình ảnh minh
họa trên màn hình… để củng cố và kiểm chứng nội dung bài, khuyến khích phát
triển tinh thần ham học hỏi, tìm tịi, khám phá và tự học, giúp học sinh quen dần

với cách học mới. Qua đó tơi thấy các em rất hứng thú với cách học này và nắm
nội dung bài học rất nhanh, chủ động, tích cực.
Với những bản đồ, lược đồ đã cũ hoặc lỗi thời, khi cần khai thác kiến thức
cho bài học, tôi thường xuyên khai thác các bản đồ mới nhất, chuẩn nhất từ
Thư viện tư liệu giáo dục trên mạng Internet để học sinh quan sát, tìm hiểu trên
màn hình.
14


3.6. Giải pháp 6: Thường xuyên thiết kế trò chơi học tập góp phần đổi mới
phương pháp dạy học và gây hứng thú cho người học
Vì học sinh Tiểu học có nhu cầu được vui chơi rất lớn nên nếu ta tổ chức
hoạt động học gắn với hoạt động vui chơi sẽ tránh gây áp lực và sẽ tạo ra được
khơng khí vui tươi, thoải mái và gây nhiều hứng thú cho các em. Bởi vậy giáo
viên cần tích cực thiết kế các trò chơi lồng vào các hoạt động học. Khi thiết kế
trò chơi học tập trong dạy học địa lí, giáo viên cần chú ý xác định rõ mục đích
của trị chơi là nhằm giúp gì cho hoạt động học, cần chuẩn bị những gì, cách tiến
hành ra sao và sau trò chơi rút ra được nội dung, kết luận gì?
Khi dạy Địa lí 4, tơi thường xun thiết kế một số trò chơi như “Xem ai
nhớ nhất” để dạy các tiết ôn tập, thực hành giúp củng cố kiến thức cho các em
(như bài 10, 23, …); trò chơi “Mặt xanh, mặt đỏ” thường sử dụng dạy các bài
mới hoặc bài ôn (như bài 10, 15, 23, 31, 32…); trò chơi “Ai chỉ đúng” thường
dùng dạy các bài có hoạt động làm việc với bản đồ, lược đồ (bài 1, 4, 5, 11,
15…); trị chơi “Ơ chữ kì diệu” dùng dạy các bài ơn tập tổng hợp hoặc dạy hoạt
động củng cố cuối các bài (bài 10, 17, 23, 31, 32,…); trị chơi “Đố bạn” có thể
áp dụng dạy tất cả các bài dưới hình thức học sinh đố nhau về nội dung bài.
Dưới đây tôi xin trình bày cách đã tiến hành trị chơi “Ơ chữ kì diệu” khi
dạy Địa lí 4:
* Mục đích: Giúp học sinh ôn tập, củng cố kiến thức đã học, phát huy sự
nhanh nhẹn, rèn luyện trí thơng minh, tạo khơng khí vui tươi thoải mái, kích

thích khả năng tư duy, tổng hợp vấn đề; giúp giáo viên củng cố bài nhanh gọn,
hiệu quả.
* Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị ô chữ thiết kế trên máy vi tính và trình
chiếu trên màn hình (hoặc kẻ ơ chữ trên bảng phụ đề phòng trục trặc máy), hệ
thống các câu hỏi gợi ý cho từng ô chữ ở các hàng để học sinh tìm ra các ơ chữ
của bài học (ơ chữ hàng ngang, hàng dọc).
Ví dụ: Khi dạy bài “Thành phố Hồ Chí Minh”, để củng cố nội dung bài,
giáo viên chuẩn bị ơ chữ và các câu hỏi như sau:
1. Ơ chữ gồm 6 từ hàng ngang và 1 từ hàng dọc:
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)

2. Hệ thống các câu hỏi gợi ý:
15


+ Hàng ngang thứ nhất (gồm 10 chữ cái): Tên sân bay quốc tế tại TP Hồ
Chí Minh?
+ Hàng ngang thứ hai (gồm 8 chữ cái): Tên một chợ nổi tiếng ở trung tâm
thành phố và là trung tâm thương mại từ xưa đến nay?
+ Hàng ngang thứ ba (gồm 6 chữ cái): Tên một ngành công nghiệp của
thành phố chuyên sản xuất tivi, máy lạnh…?
+ Hàng ngang thứ tư (gồm 7 chữ cái): Tên bến cảng là nới Bác Hồ đã ra
đi tìm đường cứu nước?
+ Hàng ngang thứ năm (gồm 5 chữ cái): Một quận của thành phố nổi
tiếng với nghề trồng hoa?

+ Hàng ngang thứ sáu (gồm 11 chữ cái): Tên một khu vui chơi ở thành
phố Hồ Chí Minh, cịn được gọi là “sở thú”?
-> Từ hàng dọc: (Gồm 6 chữ cái): Một tên gọi trước đây của thành phố
Hồ Chí Minh?
* Cách thực hiện trị chơi:
- Cuối tiết học, giáo viên chia lớp thành 3 đội chơi (mỗi dãy bàn là một
đội), nêu tên trò chơi, cách chơi, luật chơi. Các đội chơi sẽ được bốc thăm thứ tự
chơi. Đến lượt đội nào thì đội đó được chọn một hàng ngang tùy ý, giáo viên
đưa ra câu hỏi gợi ý, trong vòng 10 giây đội đó phải đưa ra câu trả lời phù hợp,
nếu sai hoặc quá thời gian, đội khác sẽ được trả lời. Mỗi từ tìm đúng đáp án
được 10 điểm, sau lượt trả lời đầu, nếu đội nào đã tìm ra từ hàng dọc thì xin trả
lời (nếu đúng được 30 điểm, nếu sai thì mất 1 lượt chơi ). Trị chơi kết thúc khi
có đội tìm ra từ hàng dọc (giáo viên hỏi học sinh về ý nghĩa từ hàng dọc), đội
nào nhiều điểm hơn là đội thắng cuộc. Cuối cùng giáo viên tổng hợp kết quả của
các đội, tuyên dương đội thắng cuộc, chốt kiến thức bài học.
- Giáo viên tổng kết trò chơi, khen thưởng đội thắng cuộc, rút kinh
nghiệm tổ chức trước lớp
Dưới đây là đáp án của ô chữ đã nêu:
(1)
(2)

T Â N S Ơ N N H Ấ T
B Ế N T H À N H

(3)

Đ I

(4)


N H À R Ồ N G

(5)
(6)

Ệ N T Ử

G Ò V Ấ P
T H Ả O C Ầ M V I

Ê N
16


3.7. Giải pháp 7: Luôn cập nhật những thông tin mới nhất để điều chỉnh nội
dung trong tài liệu phù hợp với thực tiễn.
Như trên đã nói, kiến thức Địa lí có sự thay đổi nhất định do thay đổi về
tự nhiên, con người,… Bởi vậy, dạy học mà không dựa vào thực tiễn, chỉ bám
vào sách giáo khoa đôi khi có những lệch lạc nhất định, đặc biệt với Địa lí. Hằng
năm, các số liệu về con người, tự nhiên, về kinh tế, xã hội hay danh giới có sự
thay đổi. Người giáo viên cần phải là người hiểu biết về kinh tế, chính trị, xã
hội, thường xuyên nắm bắt được những thông tin mới nhất và chuẩn nhất để kịp
thời điều chỉnh tài liệu cho phù hợp với thực tiễn.
Ví dụ khi dạy bài “Thành phố Hồ Chí Minh”, thay vì cho học sinh quan
sát bảng số liệu từ năm 2003 về diện tích và số dân của 5 thành phố thuộc Trung
ương của nước ta trong sách giáo khoa, tơi cho các quan sát trên màn hình bảng
số liệu về diện tích và số dân của 5 thành phố đó năm 2010 để các em so sánh
thành phố Hồ Chí Minh với 4 thành phố cịn lại và rút ra kết luận: Thành phố Hồ
Chí Minh có số dân đơng nhất và có diện tích lớn thứ hai (sau Hà Nội) trong số
các thành phố trong bảng (có sự thay đổi so với sách giáo khoa).

Thành phố
Hà Nội
Hải Phịng
Đà Nẵng
T.P Hồ Chí Minh
Cần Thơ

Diện tích (km2)
3 013
1 526
1 255
2 095
1 390

Số dân năm 2010 (nghìn
người)
5 670
1 792
777
5 891
1 135

Bên cạnh đó tơi cịn giới thiệu thêm cho học sinh biết: TP Hồ Chí Minh
cũng là thành phố đông dân nhất cả nước hiện nay (trên 8 triệu người), được
chia thành 19 quận, 5 huyện. Từ những số liệu thực tế trên giúp học sinh có cơ
sở để tìm hiểu những nội dung tiếp theo của bài học tốt hơn.
Hoặc khi dạy bài “Người dân và hoạt động sản xuất ở đồng bằng duyên
hải miền Trung”, khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu một thơng tin trong SGK
“Tại tỉnh Quảng Ngãi đang hình thành khu kinh tế Dung Quất. Ở đây sẽ có nhà
máy lọc dầu lớn đầu tiên của Việt Nam”. Đây là thông tin đã lạc hậu so với thực

tế nên tôi đã điều chỉnh giúp học sinh như sau: “Tại tỉnh Quảng Ngãi đã hình
thành khu kinh tế Dung Quất. Ở đây đã có nhà máy lọc dầu lớn đầu tiên của
Việt Nam”. Ngoài ra tơi sẽ giải thích cho học sinh biết sơ lược về nhà máy lọc
dầu cũng như giới thiệu các sản phẩm của nhà máy (được chế biến từ dầu thô
khai thác được dưới biển) sử dụng rộng rãi trong đời sống hằng ngày như một số
loại xăng, một số loại dầu, ga, nến, nhựa để làm đường,…
Để minh chứng cho điều đó, tơi cho các em quan sát trên màn hình và giới
thiệu: Nhà máy lọc dầu Dung Quất, thuộc Khu kinh tế Dung Quất, là nhà máy
lọc dầu đầu tiên của Việt Nam xây dựng thuộc địa phận huyện Bình Sơn,
tỉnh Quảng Ngãi đã đi vào hoạt động từ năm 2009.
17


Khu kinh tế Dung Quất

Nhà máy lọc dầu Dung Quất

3.8. Giải pháp 8: Phối hợp chặt chẽ với các lực lượng giáo dục trong và
ngoài nhà trường
Để các tổ chức đoàn thể và phụ huynh học sinh hiểu đựơc tầm quan trọng
của việc giáo dục đạo đức, tri thức, nhân cách toàn diện cho trẻ, người giáo cần
phải kết hợp môi trường giáo dục và tận dụng mọi đối tượng cùng giáo dục trẻ
bằng cách tuyên truyền, động viên họ tham gia giúp đỡ tích cực cho các em. Khi
sự phối hợp đã có hiệu quả, giáo viên cần tích cực truyên truyền về vị trí, tầm
quan trọng của các mơn học là như nhau, trong đó có phân mơn Địa lí 4. Muốn
làm được điều đó tơi đã phải lên kế hoạch rõ ràng và thực hiện như sau:
* Đối với phụ huynh học sinh:
- Tổ chức họp phụ huynh đầu năm tơi đã thơng báo đặc điểm tình hình
nội dung chương trình các mơn học lớp 4, đặc biệt các mơn học mới các em cịn
khá xa lạ, nhấn mạnh điểm khó khăn của lớp để kịp thời cùng phụ huynh giúp

đỡ các em tiếp cận và có hứng thú với mơn Địa lí.
- Xây dựng tốt các góc học tập tại lớp, tại nhà, thường xuyên liên lạc
với phụ huynh tìm giải pháp tốt nhất giúp đỡ các em có nhu cầu học; Khuyến
khích mỗi gia đình nên mua và treo tại góc học tập của các em 2 bản đồ: Bản đồ
tự nhiên Việt Nam và Bản đồ hành chính Việt Nam để cả nhà cùng học Địa lí
thật hiệu quả.
- Thường xuyên trao đổi với phụ huynh về những biểu hiện tích cực,
tiêu cực để phụ huynh có kế hoạch giáo dục trẻ thêm.
18


* Đối với các đoàn thể, nhất là tổ chức Đội TNTP Hồ Chí Minh:
- Phối hợp chặt chẽ với các Chi đoàn, Hội phụ nữ, Hội cựu giáo chức ở
địa phương, Ban chỉ huy Liên đội nâng cao phong trào học tập, thường xuyên
đôn đốc, kiểm tra việc học tập của các em ở trường và ở nhà.
- Hàng tuần giáo viên ra các câu hỏi ôn tập các kiến thức đã học ở tất
cả các môn phối hợp với Liên đội tổ chức ôn tập cho các em dưới cờ.
- Phối hợp với chuyên môn nhà trường, Chi đoàn trường, Liên đội…
tổ chức các hội thi theo chủ đề từng tháng như: “Trí tuệ Măng non”; “Rung
chng vàng”, “Học vui - Vui học”… để ôn tập kiến thức cho các em.
- Kịp thời tuyên dương, khen thưởng hoặc khuyến khích những em
tiến bộ, có ý thức, có thành tích trong học tập.
- Động viên, nhắc nhở những em chưa chú ý, chưa tích cực học tập
hoặc xem nhẹ mơn học…
Trên đây tơi vừa trình bày một số giải pháp và cách tổ chức thực hiện áp
dụng những kinh nghiệm tơi đúc rút được vào dạy Địa lí lớp 4A.
Bên cạnh đó, ta thấy phân mơn Địa lí và phân mơn Lịch sử 4 có mối quan
hệ khá mật thiết với nhau. Mỗi sự kiện lịch sử thường gắn liền với một vị trí địa
lí nhất định, cịn mỗi một vị trí địa lí lại trải qua một quá trình lịch sử phát triển
nhất định. Vì vậy, một kinh nghiệm nữa khi dạy địa lí theo tơi là ta cần lồng

ghép các kiến thức lịch sử có liên quan cịn khi dạy địa lí ta lại kết hợp củng cố
kiến thức lịch sử. Ví dụ các bài Địa lí về thành phố Huế, Tây Nguyên, Đồng
bằng Nam Bộ ta cần giới thiệu sơ lược về lịch sử các khu vực này qua các bài
Lịch sử: “Kinh thành Huế”, “Cuộc khẩn hoang ở Đàng Trong” …
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Qua thực tế giảng dạy Địa lí 4 trong năm học vừa qua tơi đã áp dụng các
kinh nghiệm vào giảng dạy ở lớp chủ nhiệm trên cơ sở các giải pháp đưa ra, tôi
thấy học sinh đã dần dần u thích mơn học, say mê và tự giác học tập hơn,
khơng cịn tình trạng học đối phó hoặc xem nhẹ mơn học nữa. Cuối học kì I,
chất lượng Địa lí của lớp tơi (Lớp 4A) rất khả quan thể hiện ở bảng sau:
Lớp
4A
4B


số
20
19

Điểm 9, 10
SL TL (%)
6
30
3
15,8

Điểm 7, 8
SL TL (%)
7

35
6
31,6

Điểm 5, 6
SL TL (%)
7
35
10
52,6

Điểm dưới 5
SL TL (%)

Còn dưới đây là kết quả khảo sát chất lượng ngày 15/3/2016:
Lớp
4A
4B


số
20
19

Điểm 9, 10
SL TL (%)
8
40
3
15,8


Điểm 7, 8
SL TL (%)
7
35
10
52,6

Điểm 5, 6
SL TL (%)
5
25
6
31,6

Điểm dưới 5
SL TL (%)

19


Từ bảng kết quả trên ta có thể so sánh chất lượng Địa lí của lớp 4A cuối
học kì 1 cao hơn khảo sát tháng 9 rất nhiều, chất lượng khảo sát lại cao hơn
giữa tháng 3 và cao hơn lớp 4B khá nhiều. Điều đó chứng tỏ những giải pháp
mà tơi áp dụng là đúng đắn, thiết thực, có tính khả thi.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua một thời gian tìm tịi nghiên cứu các biện pháp thích hợp, lớp tơi đã
thu được kết quả rất tốt. Có được kết quả như vậy đó là nhờ sự nỗ lực phấn đấu
của bản ln tìm tịi, áp dụng những kinh nghiệm, giải pháp để giúp học sinh

học tập tích cực, chủ động hơn. Qua đây, tôi cũng rút ra được một số bài học
kinh nghiệm như sau:
+ Để việc dạy, học Địa lí được tiến hành thuận lợi và mang lại hiệu quả
cao, người giáo viên phải luôn cố gắng học hỏi, tìm tịi và thường xun học hỏi
kinh nghiệm từ bạn bè, đồng nghiệp, cần cố gắng làm thế nào để học sinh cảm
thấy u thích mơn học, khơi dậy nhu cầu cần học ở các em.
+ Dạy học không chỉ là cung cấp tri thức mà phải hướng tới hành động.
Người thầy phải làm thế nào để trong mỗi giờ học học sinh hoạt động nhiều hơn,
suy nghĩ nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn, thực hành nhiều hơn. Dạy học phát
huy tính tích cực của học sinh đồng nghĩa với việc tối đa hóa sự tham gia của
người học, tối thiểu hóa sự can thiệp của người dạy. Tất cả đều nhằm đạt mục
đích học tập : “Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình, học để cùng
chung sống”.
+ Khơng có phương pháp dạy học nào là “vạn năng” mà cần có sự phối
hợp một cách tinh tế sao cho “Nhẹ nhàng, thoải mái, chất lượng, hiệu quả”.
+ Để tổ chức thành công một tiết dạy của phân môn Địa lý lớp 4 là rất
cơng phu, địi hỏi sự nhiệt tình của giáo viên, lịng u nghề mến trẻ, sự học hỏi
khơng ngừng. Đặc biệt là sự thể hiện đầy đủ đúng mức lương tâm trách nhiệm
của người thầy. Biểu hiện đó khơng chỉ là sự tìm tịi học hỏi và vận dụng một
cách hữu hiệu nhất sự phối hợp giữa các phương pháp dạy học mà còn phải đầu
tư cụ thể vào soạn giảng. Khơng nên bằng lịng, mãn nguyện hoặc dừng lại ở
một kết quả nào đó mà ln tìm tịi cải tiến, đổi mới phương pháp, không ngừng
nâng cao chất lượng dạy và học.
+ Ngồi ra theo tơi nhận thấy, tiết dạy muốn thành cơng thì mỗi khâu của
q trình dạy học đều như là một mắt xích quan trọng, khơng thể thiếu và tách
rời nhau, trong đó khâu đầu tiên là khâu chuẩn bị. Khơng có sự chuẩn bị tốt thì
chắc chắn khơng thể thành cơng. Bởi vậy, ta phải chuẩn bị thật chu đáo, vững
vàng về kiến thức, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức tiết học, dự
kiến các tình huống có thể xảy ra và cách giải quyết… Nhất là khi dạy học bằng
các phương tiện hiện đại như trình chiếu trên màn hình thì cần sự chuẩn bị rất

chu đáo, công phu…Một kinh nghiệm nữa khi dạy Địa lí là ta cần chú ý cho học
sinh nắm vững mình đang học về vùng địa lí nào, phải chỉ được vị trí đó trên
bản đồ, lược đồ, vùng địa lí đó có đặc điểm gì nổi bật…
20


Mặc dù kết quả giảng dạy nêu trên vẫn còn khá khiêm tốn nhưng tôi sẽ cố
gắng nghiên cứu, học hỏi thêm để tìm ra những biện pháp tốt nhất phục vụ cho
công tác giảng dạy. Từ những kinh nghiệm và kết quả trên tôi nhận thấy rằng
những giải pháp mà tôi áp dụng vào thực tế dạy học Địa lí ở lớp 4A trường Tiểu
học Nga Thiện đã có tính khả thi, có giá trị thực tiễn. Tơi tin chắc rằng nếu giáo
viên nào dạy Địa lí 4 mà chịu khó nghiên cứu, vận dụng linh hoạt các giải pháp
trong đề tài này chắc chắn sẽ có hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng dạy
học, khơi gợi được lòng say mê và nhu cầu cần học cho học sinh
2. Kiến nghị
Kính mong các cấp lãnh đạo tạo điều kiện bổ sung thêm các phương tiện
dạy học như bản đồ, tranh, ảnh, tư liệu, băng đĩa cập nhật được các thông tin
mới và đủ nhất, đặc biệt là rất cần máy vi tính, đèn chiếu…để hoạt động dạy học
được tiến hành thuận lợi, nâng cao hiệu quả giảng dạy. Ngoài ra, hằng năm nên
tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng giáo viên theo từng lĩnh vực, tổ chức các hoạt
động ngoại khố, tham quan các di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh…
cho học sinh.
Trên đây là một số kinh nghiệm được tôi đúc rút từ quá trình học tập,
nghiên cứu và giảng dạy của bản thân trong những năm qua, đã được vận dụng
vào dạy học phân mơn Địa lí lớp 4A trường Tiểu học Nga Thiện và đã có hiệu
quả rõ rệt. Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng nhưng do thời gian nghiên cứu, áp
dụng chưa nhiều, trình độ bản thân là có hạn nên tơi mới trình bày được một số
kinh nghiệm nhỏ về dạy phân mơn Địa lí 4 nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục,
chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, hạn chế. Tơi rất mong nhận được sự quan
tâm, góp ý của q Thầy cơ, Tổ chun mơn, Hội đồng khoa học các cấp để

công tác giảng dạy của tôi được hiệu quả hơn, để tôi cống hiến được nhiều hơn
nữa cho sự nghiệp giáo dục.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nga Sơn, ngày 20 tháng 3 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.

Nguyễn Thị Hương

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo khoa Lịch sử và Địa lí lớp 4, lớp 5 của NXB Giáo dục
- Sách giáo viên Lịch sử và Địa lí lớp 4, lớp 5 của NXB Giáo dục
- Sách thiết kế bài dạy Địa lí lớp 4, lớp 5 của NXB Giáo dục
- Tư liệu dạy học Lịch sử và Địa lí lớp 4, lớp 5 của NXB Giáo dục
- Thông tư 30/2014/TT – Bộ GD và ĐT về quy định đánh giá học sinh
Tiểu học
- Nghị định số 64/2007/NĐ – CP ngày 10 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ
về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan Nhà nước
- Chỉ thị số 55/2008/CT - BG& ĐT ngày 30 tháng 9 năm 2008 của Bộ
trưởng Bộ giáo dục Đào tạo về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng
CNTT trong ngành giáo dục giai đoạn 2008 - 2012...

22



MỤC LỤC
TRANG
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

1

2. Mục đích nghiên cứu

2

3. Đối tượng nghiên cứu

2

4. Phương pháp nghiên cứu

2

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

3
3
5

4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động

giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường

18

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận

19

2. Kiến nghị

20

TÀI LIỆU THAM KHẢO

21

23



×