A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Trường Tiểu học Nga Vịnh là một trong 4 trường của huyện Nga Sơn thực
hiện dạy học theo mô hình “Trường học mới Việt Nam” (VNEN), một trong các
mô hình nhà trường hướng tới việc đáp ứng các yêu cầu đổi mới của giáo dục
tiểu học. Với mô hình này, nhà trường, giáo viên cùng cộng đồng hướng tới việc
tạo điều kiện giúp người học phát huy tính tích cực, độc lập, phát triển năng lực
tự học, năng lực tìm tòi, phát hiện, giải quyết vấn đề. Tức là học sinh chủ động
và tự học là chủ yếu, dưới sự trợ giúp của thầy cô (khi cần thiết). Học sinh được
học theo nhóm phù hợp với trình độ nhận thức của cá nhân. Nội dung học thiết
thực, gắn kết với thực tiễn hàng ngày của học sinh. Kế hoạch dạy học được bố
trí linh hoạt, môi trường học tập thân thiện, phát huy tinh thần dân chủ, ý thức
tập thể. Tài liệu có tính tương tác cao và là tài liệu hướng dẫn tự học, chú trọng
kĩ năng làm việc theo nhóm hợp tác, phối hợp chặt chẽ giữa phụ huynh, cộng
đồng và nhà trường; Tăng quyền chủ động cho giáo viên và nhà trường, phát
huy vai trò tích cực, sáng tạo của các cấp quản lí giáo dục và địa phương, cùng
cộng đồng tham gia vào quá trình dạy học theo mô hình trường học mới Việt
Nam (VNEN).
Trong dạy và học môn toán ở lớp 4 nói riêng, ở Tiểu học nói chung còn gặp
không ít khó khăn, nhất là chưa tạo được hứng thú, tạo được niềm đam mê học
tập thực sự cho các em. Điều đó dẫn đến các em còn thụ động trong học tập,
chưa tích cực và chưa tự giác, hiệu quả, chất lượng của môn toán chưa cao.
Những điều đó đã gây khó khăn, cản trở không nhỏ đến hoạt động của nhà
trường, ảnh hưởng không tốt đến chất lượng giáo dục học sinh.
Bên cạnh đó, Mục tiêu giáo dục phổ thông đã và đang chuyển hướng từ chủ
yếu là trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em học
sinh. Phương pháp giáo dục phổ thông cũng đã và đang được đổi mới theo
hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, phù
hợp đặc điểm của từng lớp học, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến niềm vui, hứng thú
học tập cho học sinh. Đặc biệt trong những năm gần đây toàn ngành đang thực
hiện phong trào: “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” thì việc
tạo hứng thú học tập cho học sinh cũng chính là tạo cho các em niềm tin trong
học tập, khơi dậy trong các em ý thức “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”,
trở thành một đòi hỏi đối với người làm công tác giảng dạy. Như vậy, tạo hứng
thú học tập cho học sinh là một trong những mục tiêu của giáo dục phổ thông.
Hiện tại chưa có các tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu về hứng thú học toán
đặc biệt là nâng cao hứng thú học toán cho học sinh lớp 4. Hơn nữa, đồng
nghiệp, nhà trường chưa có nhiều kinh nghiệm để giải quyết khắc phục vấn đề
này.
Từ những lí do trên, bản thân tôi luôn trăn trở, băn khoăn: Làm thế nào để
nâng cao chất lượng môn toán lớp 4? Làm thế nào để học sinh hứng thú, say mê
trong khi học? Có biện pháp nào để nâng cao niềm say mê học toán cho các em
1
nói chung, các em lớp 4 nói riêng?... Với mong muốn tìm ra những đáp án đó đã
thôi thúc tôi chọn và nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp nâng cao hứng thú
học toán cho học sinh lớp 4”.
II. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu một số biện pháp dạy học nhằm giúp các em hứng thú, phấn
khởi, yêu thích, say mê học môn toán, tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên,
không gượng ép, làm cho tiết học toán trở nên nhẹ nhàng, sinh động, góp phần
nâng cao chất lượng dạy học, thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đã đề ra.
III. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu, tổng kết các biện pháp nâng cao hứng thú học toán cho học sinh
lớp 4.
IV.Phương pháp nghiên cứu:
Khi thực hiện nghiên cứu đề tài: “ Một số biện pháp nâng cao hứng thú học
toán cho học sinh lớp 4”, tôi đã sử dụng một số phương pháp: Phương pháp
nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết, phương pháp điều tra khảo sát thực tế,
phương pháp thống kê, xử lí số liệu. Cụ thể như sau:
a) Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Là phương pháp
nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến hứng thú học toán nói chung, học toán
lớp 4 nói riêng.
b) Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Đây là phương pháp nghiên cứu
thực tế việc dạy và học để tạo hứng thú học toán cho học sinh lớp 4 trường Tiểu
học Nga Vịnh nói riêng (dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam –
VNEN) và một số trường Tiểu học nói chung trên địa bàn huyện Nga Sơn,
Thanh Hóa.
c) Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: Sau khi áp dụng các giải pháp của đề
tài vào thực tiễn dạy học tại lớp 4A, trường Tiểu học Nga Vịnh, kết hợp thu thập
các tài liệu, dữ liệu phục vụ cho đề tài, tôi đã tiến hành phân tích, tổng hợp các
số liệu minh chứng cụ thể qua các thời điểm kiểm tra của giáo viên, Tổ chuyên
môn và Nhà trường. Từ đó rút ra kết luận và hiệu quả về việc áp dụng: Một số
biện pháp nâng cao hứng thú học toán cho học sinh lớp 4.
2
B. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Trong các môn học của chương trình giáo dục Tiểu học, môn Toán có vai
trò hết sức quan trọng. Đặc biệt, nó giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, rèn
luyện thói quen suy nghĩ và suy luận lôgic nhằm giải quyết những vấn đề cần
thiết, tạo đà phát triển năng lực học tập của học sinh, tạo tiền đề vững chắc về
toán học để các em tiếp tục học lên các lớp trên. Hơn thế nữa, môn Toán còn
góp phần phát triển ở các em trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, tính cẩn
thận, thận trọng, ý tưởng sáng tạo, tự tin, ham học hỏi và ham hiểu biết…đáp
ứng yêu cầu phát triển con người toàn diện trong thời đại mới: thời đại công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Song, để tiếp thu, lĩnh hội một cách tốt nhất các mạch kiến thức theo yêu
cầu chuẩn kiến thức kĩ năng môn toán lớp 4 thì trước tiên học sinh phải có sự
say mê, thích thú với môn Toán, từ đó các em sẽ tiếp thu nhanh hơn, dễ hiểu
hơn và nhớ lâu hơn. Đặc biệt, lên lớp 4, nội dung chương trình Toán vẫn tập
trung vào kiến thức, kĩ năng cơ bản nhưng kiến thức sâu hơn, khái quát hơn so
với giai đoạn ở lớp 1, 2, 3…Vì vậy, việc tạo, nâng cao hứng thú học Toán cho
học sinh (nói chung), cho học sinh lớp 4 (nói riêng) không phải là một việc đơn
giản.
Vậy Hứng thú là gì? Hứng thú là cảm giác thích thú trong người mình đang
có một sức thôi thúc làm một cái gì đó. (Theo từ điển Tiếng Việt ).
Để góp phần tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, phương pháp dạy
học môn toán lớp 4 VNEN thường khuyến khích sử dụng kiểu dạy học thông
qua các hoạt động trải nghiệm, khám phá, phát hiện của học sinh, gồm 5 bước
chủ yếu: Gợi động cơ, tạo hứng thú Trải nghệm Phân tích, khám phá, rút
ra kiến thức mới Thực hành Vận dụng (kiểu quy trình 5 bước) (Theo Tài
liệu hướng dẫn Giáo viên, môn toán lớp 4- Bộ giáo dục và Đào tạo). Như vậy,
tạo hứng thú học toán cho học sinh lớp 4 là một trong 5 bước của quy trình DH
toán lớp 4.
II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Thực tế cho thấy, trong dạy và học ở các trường Tiểu học nói chung, ở các
trường đang dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) nói riêng,
việc tạo hứng thú, nâng cao hứng thú học toán cho học sinh, đâu đó ở phần
không nhỏ giáo viên còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Học sinh còn ngại
ngùng, e dè, không muốn học, thậm chí chán học mỗi khi đến giờ học toán. Dẫn
đến trong mỗi giờ học toán, các em chưa hứng thú, tích cực học tập và việc hoạt
động hợp tác của học sinh chưa mấy hiệu quả.
Khi tiến hành khảo sát thực trạng của học sinh lớp 4A, trường Tiểu học Nga
Vịnh về sự hứng thú học tập môn toán, chất lượng học tập môn toán (đầu năm
học), tôi thu được kết quả như sau:
3
Bảng 1: Số liệu thông kê về hứng thú môn toán trước khi thực hiện sáng
kiến:
Sĩ số
Hứng thú
SL
%
4
17,4
23 em
Ít hứng thú
SL
%
17
73,9
Không hứng thú
SL
%
2
8,7
Bảng 2: Số liệu thông kê về kết quả học tập môn toán trước khi thực hiện
sáng kiến:
Sĩ số
23 em
Hoàn thành
xuất sắc
SL
3
%
13,1
Hoàn thành
tốt
SL
%
11
47,8
Hoàn thành
SL
8
%
34,8
Chưa hoàn
thành
SL
%
1
4,3
Từ kết quả thực trạng trên cho thấy: Số em hứng thú học toán chiếm tỉ lệ
chưa cao (17,4%), tỉ lệ các em ít hứng thú (73,9%), không hứng thú học toán
(8,7%) chiếm tỉ lệ còn cao. Hơn thế nữa, về kết quả học tập môn toán cũng cho
thấy số em ở mức Hoàn thành xuất sắc chiếm tỉ lệ còn khiêm tốn (13,1%).
Nguyên nhân của thực trạng trên là do:
Một số giáo viên chưa đổi mới kịp với phương pháp dạy học theo mô hình
trường học mới Việt Nam (VNEN), chưa tích cực học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu..
nâng cao chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu cấp bách mà giáo dục đặt
ra hiện nay. Kinh nghiệm về dạy học theo mô hình trường học mới ở nước ta
chưa nhiều.
Phần lớn các em học sinh của trường là con em các gia đình nông thôn, đời
sống kinh tế gia đình các em còn nhiều khó khăn, sự chăm sóc, giáo dục tới các
em chưa được gia đình quan tâm đúng mức. Hơn nữa, các em rất nhút nhát, e dè,
tiếp thu kiến thức còn thụ động, thiếu nhiệt tình, thiếu tích cực trong hoạt động
nhóm. Một vài em hổng 1 số kiến thức căn bản của môn toán từ lớp trước dẫn
đến tình trạng chán học và không muốn làm bài tập, rồi còn có thể không thích
điều gì đó trên lớp (như bạn bè xa lánh, không chơi chung…) khiến cho việc học
toán của các em là “cực hình”. Có những tiết học có đại biểu và các thầy cô đến
dự giờ, rất ít em phát biểu, không khí học trầm lắng, chưa cá thể hóa được hoạt
động dẫn đến hiệu quả giáo dục chưa cao. Điều đó thể hiện qua chất lượng bộ
môn, bài kiểm tra, bài thi vẫn còn 1 số bài chưa đạt yêu cầu.
Nếu tình trạng trên tiếp diễn kéo dài, học sinh không có hứng thú học tập
môn toán thì giờ học sẽ không có hiệu quả, các em đi học chỉ là đối phó và cách
học đó sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến tương lai của các em, của đất nước, thế hệ trẻ
của chúng ta sẽ mất đi khả năng sáng tạo, năng động mà thời đại công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đang rất cần. Như thế là chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới
của nền giáo dục Tiểu học ở Việt Nam hiện nay. Khắc phục thực trạng trên là
điều vô cùng cần thiết và cấp bách.
III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
4
Từ thực trạng trong dạy học Toán lớp 4 như đã nói trên, tôi mạnh dạn đưa ra
những giải pháp, áp dụng vào thực tiễn giảng dạy để giải quyết những băn
khoăn, những vấn đề còn tồn đọng trong thực tiễn dạy học với mong muốn đưa
chất lượng môn toán lớp 4 nói riêng, chất lượng giáo dục (nói chung) ngày một
thực sự nâng cao, góp phần vào sự nghiệp đổi mới giáo dục của nước ta hiện
nay. Để thực hiện điều đó, tôi đã tiến hành một số giải pháp sau:
1. Quan tâm, chăm lo đến học sinh bằng tình thương và tinh thần trách nhiệm:
Trường Tiểu học Nga Vịnh thuộc địa bàn vùng chiêm trũng với sản phẩm
nông nghiệp chủ yếu là cây lúa nước. Gia đình các em học sinh nơi đây hầu hết
là gia đình nông dân nghèo, bố mẹ lại đi làm ăn xa, các em thường ở với ông
bà…So với các vùng lân cận, học sinh trường tôi là nơi có hoàn cảnh rất khó
khăn về kinh tế. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt và học tập của
các em. Vì thế, ngay sau khi nhận lớp học, tôi đã tìm hiểu hoàn cảnh gia đình
từng em. Lớp tôi có 23 em, trong đó có 9 em nữ, 14 em nam. Các em phần lớn
là con các gia đình nông thôn, 5 em thuộc gia đình hộ cận nghèo (Linh, Quý, Li,
Tài, Ánh), 4 em thuộc hộ gia đình nghèo (Quỳnh, Trung, Vân Anh, Nghĩa).
Ngày tựu trường tôi đã tìm hiểu em nào thiếu gì, lí do chưa có. Từ đó, tôi mượn
thư viện trường, cùng với đồ dùng, sách vở của các em năm học trước quyên
góp, xây dựng phong trào: “tủ sách thư viện”, mua thêm một số vở bài tập, bìa
bọc, nhãn vở… hỗ trợ cho các em thực sự khó khăn trong lớp. Tôi nhận thấy,
trong đôi mắt các em hiện lên niềm vui vô bờ bến. Tất cả các em cảm thấy được
quan tâm, được chia sẻ, được thể hiện nét tốt đẹp ngàn đời của dân tộc ta:
“Thương người như thể thương thân”. Em nào cũng phấn khởi, vui sướng vì
mình có đầy đủ đồ dùng học tập khi bước vào đầu năm học mới.
Tiếp đến, tôi xây dựng môi trường dạy học thân thiện (nơi diễn ra hoạt động
dạy và học) để tạo điều kiện, cơ hội khuyến khích học sinh phấn đấu, tiến bộ.
Trong môi trường ấy, hoạt động của giáo viên và học sinh đóng vai trò chủ đạo.
Đồng thời môi trường dạy học là nơi có nguồn thông tin phong phú, đa dạng,
giúp giáo viên và học sinh khai thác, sử dụng công cụ học tập vào mục đích
giảng dạy và học tập một cách có hiệu quả. Chính vì thế, ngay từ đầu năm học,
Ban giám hiệu nhà trường đã quan tâm, chăm lo đến cơ sở vật chất, phối kết hợp
với UBND xã, hội cha mẹ học sinh tu sửa cơ sở vật chất, trồng và chăm sóc cây
xanh khu khuôn viên của trường. Không những thế, Ban giám hiệu nhà trường
còn mua sắm nhiều vật dụng cần thiết để trang trí lớp học khang trang, khoa học
theo mô hình trường học mới. Cùng với nhà trường, tôi đã phối hợp với Ban
chấp hành phụ huynh của lớp làm thêm một số công cụ hỗ trợ học tập như:
“Hòm thư vui”, “góc cộng đồng”, “nội quy lớp học”,… Các em cùng tôi tham
gia trang trí lớp học, trồng thêm cây xanh,… một cách khoa học, sạch sẽ, gọn
gàng, ngăn nắp, sáng sủa, tạo điều kiện tốt cho việc dạy và học.
Hơn nữa, tôi còn xây dựng lớp học thân thiện, học sinh hòa đồng, đoàn kết,
yêu thương, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, một lớp học nề nếp, đảm
bảo tình thương và trách nhiệm. Ở những ngày đầu gặp lớp, tôi đã ổn định nề
5
nếp lớp bằng cách phát huy tính dân chủ trong lớp học, cho các em bình bầu
Chủ tịch Hội đồng tự quản, phó Chủ tịch Hội đồng tự quản, các trưởng ban, phó
ban, các trưởng nhóm. Các em còn được thảo luận về nhiệm vụ của các ban, nội
quy lớp theo Nên – không nên, thi đua giữa các mặt: học tập, nề nếp, kỉ luật, vệ
sinh. Hàng tuần, cứ vào tiết cuối (tiết sinh hoạt tập thể) của chiều thứ 6 các em
lại được bình bầu những bạn xuất sắc về học tập và nề nếp để tuyên dương trước
lớp, trước toàn trường vào những buổi chào cờ đầu tuần. Những em đó được cô
giáo thưởng 1 bông hoa vào bảng “ theo dõi thi đua của tổ”. Cứ 2 bông hoa của
tổ thì được thưởng 1 bông hoa của lớp. Các em rất hăng hái tham gia các hoạt
động học tập, cũng như thực hiện các nội quy, nề nếp của lớp, của trường. Vì
thế, lớp tôi luôn đứng tốp đầu về mặt thi đua nề nếp của trường.
(Hình ảnh lớp 4A, trường TH Nga Vịnh trong môi trường học tập xanh, sạch, đẹp).
Mặt khác, trong mỗi chúng ta, các em học sinh cũng vậy, ai cũng mắc phải
khuyết điểm, sai lầm, phạm lỗi. Học sinh của chúng ta còn nhỏ, đang trong quá
trình hình thành nhân cách, việc sai sót, sai phạm là điều không thể tránh khỏi.
Nhất là những đối tượng học sinh trung bình, yếu. Giáo viên cần phải hiểu, lỗi
trẻ thường mắc phải có thể do không phải chủ định mà do bản tính còn hồn
nhiên, ham chơi. Vậy khi các em hành động không đúng trong giờ học (nói
chung), giờ học toán (nói riêng) ta phải làm thế nào? La mắng, đe dọa, không
phải là cách giải quyết tốt nhất. Đặc biệt, đối tượng học sinh yếu có thể rất
bướng bỉnh, cũng có thể rất nhút nhát. Nếu ta xử lý nghiêm khắc quá dễ gây
“hiệu ứng ngược”, không đi theo chiều hướng giáo viên mong muốn. Điều quan
trọng, giáo viên cần phải bình tĩnh giúp các em sửa phạt chứ không “xử phạt”
học sinh. Vì thế, giáo viên cần chú ý giúp học sinh nhận ra lỗi sai, tự nhận xét và
đề ra hình phạt cho mình (giáo viên có thể điều chỉnh nếu hình phạt học sinh nêu
6
ra không phù hợp). Nói chung, chúng ta đến với học sinh bằng tình thương của
người thầy, bằng lòng yêu nghề, mến trẻ. Những lời động viên nhẹ nhàng,
những cách sửa phạt rõ ràng, công bằng cùng với thái độ điềm tĩnh của giáo viên
giúp học sinh sửa lỗi hành vi của mình và học sinh hiểu ra rằng: Cô chỉ không
đồng ý với việc làm của em chứ không ghét em. Từ đó động viên, khích lệ, tạo
tâm thế bình an, phấn khởi, hứng thú trong mỗi em, để các em luôn cảm
thấy:“mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
2) Không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phát huy vai
trò của người thầy, tâm huyết và chú trọng với nghề, nâng cao hứng thú học
toán cho học sinh lớp 4.
Hoạt động sư phạm là hoạt động đặc biệt vừa mang tính khoa học vừa mang
tính nghệ thuật. Nó đòi hỏi người giáo viên một năng lực sư phạm vững vàng,
một phương pháp dạy học phù hợp theo hướng tích cực giúp học sinh chủ động
chiếm lĩnh kiến thức. Việc nâng cao hứng thú học toán cho học sinh lớp 4, nâng
cao chất lượng giáo dục thì yếu tố quyết định phụ thuộc vào bản lĩnh sư phạm,
năng lực thực sự và cái “Tâm” của người thầy. Thật vậy, người Thầy có tâm
huyết với nghề nghiệp thì mới không dạy đối phó, mới chịu khó tìm tòi và học
hỏi để tìm ra phương pháp truyền đạt cho học sinh một cách tối ưu nhất, mới có
thể tạo và nâng cao hứng thú cho học sinh học tập. Và cũng chính vì cái “Tâm”
của người thầy mà người thầy không ngừng học hỏi, trau dồi để nâng cao bản
lĩnh sư phạm, có phương pháp sư phạm tốt, hết lòng vì học sinh thân yêu. Hiểu
được những lẽ đó, bản thân tôi luôn tự học, tự bồi dưỡng không ngừng: Thường
xuyên đọc các tài liệu tham khảo liên quan đến chuyên môn như: Báo giáo dục
và thời đại, các tài liệu tập huấn chương trình VNEN, báo tuổi thơ, các tài liệu
của chương trình Bồi dưỡng thường xuyên hàng năm, các tài liệu liên quan đến
việc đổi mới giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học hiện nay…. Tích cực thao
giảng, dự giờ, học hỏi từ đồng nghiệp, bạn bè những kinh nghiệm trong thực tế
giảng dạy. Ngoài ra, tôi còn tham gia đầy đủ, có hiệu quả các giờ sinh hoạt
chuyên môn của trường, tổ, của cụm…. Trong các giờ sinh hoạt đó, tôi luôn lắng
nghe, tiếp thu, phân tích để thấu hiểu, từ đó nắm vững những nội dung chuyên
môn từ Ban giám hiệu nhà trường, cũng như các cấp lãnh đạo truyền tải để tích
lũy, rút kinh nghiệm cho chính bản thân, nâng cao năng lực sư phạm. Có như thế
tôi mới cảm thấy tự tin, giảng dạy hết mình, tạo và nâng cao hứng thú học toán
cho học sinh. Từ đó, học sinh thấy được khi tham gia học toán sẽ mang lại cho
các em nhiều điều có ích cho cuộc sống, các em hứng thú, say mê, yêu thích
môn toán, tự giác học tập, tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc chiếm lĩnh
kiến thức, qua đó các em hiểu bài sâu hơn, nhớ lâu hơn, biết vận dụng và ứng
dụng linh hoạt những kiến thức đã học.
3) Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, áp dụng phù hợp với
từng nhóm đối tượng học sinh, nâng cao chất lượng dạy học.
Hiện nay có rất nhiều phương pháp dạy học để giáo viên có thể lựa chọn,
việc lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp có ý nghĩa to lớn đối với việc tạo
hứng thú học Toán, phát huy tính tích cực của học sinh. Cụ thể:
7
a) Lựa chọn phương pháp dạy học và nội dung kiến thức dạy học phù hợp
với nhóm đối tượng học sinh:
Dựa vào bài khảo sát chất lượng đầu năm; quan sát tinh thần thái độ học tập
hằng ngày và thông qua trò chuyện với các em;... giáo viên có thể dễ dàng phân
loại được nhóm học sinh theo mức độ nhận thức (nhóm học sinh khá, giỏi; nhóm
học sinh trung bình và yếu). Trong một giờ học, nhóm học sinh khá, giỏi có thể
làm và làm được những bài toán khó mà giáo viên giao. Còn những học sinh
thuộc nhóm trung bình và yếu lại chưa hiểu và không làm được dẫn đến tình
trạng sợ bị gọi lên bảng, ức chế trong giờ học. Ngược lại, khi đưa ra những bài
toán dễ, những câu hỏi dễ, vừa sức với những học sinh trung bình, yếu thì học
sinh khá giỏi sẽ cảm thấy dễ dàng, không có thử thách, thi đua nên dễ dẫn đến
tâm lý nhàm chán, thậm chí là tự phụ chủ quan, giảm ý thức tự tìm tòi, khả năng
sáng tạo ở các em. Do đó, để tạo hứng thú cho tất cả các em trong lớp thì đòi hỏi
giáo viên cần lựa chọn từng bài tập, câu hỏi phù hợp cho từng đối tượng của mỗi
hoạt động trong tiết, đảm bảo vừa sức với mọi đối tượng.
Với nhóm đối tượng học sinh trung bình và yếu tôi dành những câu hỏi dễ
nhằm tạo hứng thú và giúp các em nắm vững kiến thức cơ bản, tối thiểu, cần
thiết. Với học sinh khá, giỏi, tôi ra thêm những câu hỏi mở rộng để phát huy khả
năng sáng tạo của các em. Nhất là những tiết luyện toán của buổi 2, tôi ra hệ
thống bài tập từ dễ đến khó và yêu cầu từng nhóm hoàn thành bài. Bài tập dành
cho học sinh trung bình và yếu ở dạng đơn giản. Khuyến khích để các em phấn
đấu làm một phần bài tập của nhóm có trình độ cao hơn. Học sinh khá, giỏi bài
tập ở dạng phức tạp hơn phù hợp với khả năng phát triển của học sinh.
Ví dụ: Đối với dạng Toán: “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó”.
Ở buổi 2 tôi đã ra hệ thống 1 số bài tập như sau:
Bài 1: Tìm hai số khi biết tổng của chúng bằng 198 và tỉ số của hai số đó là
3
.
8
Bài 2: Tổng số cam trong cả hai rổ là 49 quả. Số cam trong rổ thứ nhất bảng
3
4
số cam trong rổ thứ hai. Hỏi trong mỗi rổ có bao nhiêu quả cam?
Bài 3: Cho một số có hai chữ số, chữ số hàng đơn vị là 0. Nếu xóa chữ số 0
đó ta được số mới, biết số đã cho lớn hơn số mới 549 đơn vị. Tìm số đã cho.”
Bài tập 1, 2: Dành cho nhóm đối tượng HS trung bình và yếu. Khuyến khích
các em làm thêm bài tập 3(nếu có thể).
Bài tập 1, 2, 3: Dành cho nhóm đối tượng HS khá, giỏi.
Sau khi giao nhiệm vụ, tôi đã quan tâm, giúp đỡ các em hoàn thành nhiệm
vụ, đặc biệt là các em học sinh yếu. Khi đánh giá, cần căn cứ vào mức khởi
điểm, không áp dụng đồng loạt. Vì nếu áp dụng theo một thang bậc đánh giá
chung cả lớp sẽ không thấy được nỗ lực của những em yếu kém và không tạo
được động lực cho những em khá, giỏi. Với cách làm này đã đem lại hiệu quả
rất cao trong giờ học toán: Các em hăng hái, say mê, phấn khởi khi nhận nhiệm
vụ và tích cực, chủ động làm bài, tùy theo khả năng của mình nhưng khuyến
khích các em hoàn thành vượt mức nhiệm vụ được giao (tức làm thêm được
8
những bài toán khó của đối tượng học sinh khá, giỏi). Trong mỗi em, ai cũng
được gặt hái thành công (dù nhỏ). Chính điều đó là động lực thúc đẩy các em
vượt lên chính mình. Đặc biệt, các em tự tin, nhiệt tình tham gia vào câu lạc bộ
Toán của lớp rất hiệu quả. Vào 15 phút đầu giờ thứ 2, thứ 4 hàng tuần, dưới sự
điều hành của Ban chủ nhiệm câu lạc bộ Toán, các em mạnh dạn đưa ra những
bài toán hay, cách giải hay, những băn khoăn, vướng mắc… của môn toán để
cùng nhau thảo luận, chia sẻ, hợp tác, học hỏi lẫn nhau. Năng lực hoạt động của
Hội đồng tự quản học sinh, của các trưởng nhóm, các câu lạc bộ, nhất là câu lạc
bộ Toán được nâng cao rõ nét. Ngoài ra, câu lạc bộ Toán của lớp tôi còn đến các
lớp trong trường để giao lưu, chia sẻ, học hỏi kiến thức, kĩ năng môn toán, giúp
các em mở mang tầm hiểu biết, tự tin, yêu thích, say mê học toán.
b) Tăng cường phương pháp dạy học trực quan:
Do đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học, sự tập trung của các em chưa
cao, tư duy của các em là từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng. Vì thế sử
dụng đồ dùng trực quan trong tiết học toán sẽ tập trung được sự chú ý của học
sinh, các em có hứng thú với bài học hơn, hiểu sâu hơn và nắm chắc bài hơn,
như vậy chất lượng sẽ cao hơn. Dụng cụ trực quan được huy động từ các nguồn
sau đây:
- Dụng cụ sẵn có trong thư viện: Bảng nhóm, thước thẳng, ê ke, com pa…
nhằm rèn luyện tư duy chính xác, khoa học cho học sinh. Ví dụ: Khi dạy bài 24:
“Góc nhọn, góc tù, góc bẹt”, bài 25: “Hai đường thẳng vuông góc”, bài29:
“Thực hành vẽ hình chữ nhật, hình vuông”, tôi đã dùng cái ê ke mượn từ thư
viện làm đồ dùng trực quan, giúp học sinh dễ hiểu, nhớ lâu và phân biệt rõ các
loại góc: góc bẹt, góc tù, góc nhọn. Hoặc khi dạy bài 12: “Giây - Thế kỉ”, tôi đã
sử dụng đồ dùng dạy học là chiếc đồng hồ có 3 kim chỉ giờ, phút, giây để giới
thiệu cho các em nắm chắc về giây – phút - giờ. Giáo viên cho học sinh quan sát
sự chuyển động của kim đồng hồ từ một vạch đến một vạch tiếp theo là 1 giây
và một khoảng thời gian kim giây chuyển động hết 1 vòng quanh đồng hồ là 1
phút. Sau đó học sinh đếm số lần dịch chuyển của kim giây hết 1 vòng đồng hồ
là 60 lần.
Vậy: 1 phút = 60 giây
- Đồ dùng trực quan do giáo viên tự làm, tự sáng tạo hoặc các đồ dùng sẵn
có xung quanh ta như: các thẻ phân số, các băng giấy bằng nhau, một số biểu đồ
tranh, biểu đồ cột… Ví dụ: Khi dạy bài 70: “So sánh hai phân số cùng mẫu số”
(tiết 1– trang 45, 46 - tập 2A- Sách HD toán lớp 4) tôi đã làm đồ dùng trực quan
cho hoạt động 1: Mỗi nhóm 6 thẻ phân số theo yêu cầu hoạt động 1 để các em
chơi trò chơi: “ghép các cặp phân số bằng nhau”, và tôi còn làm sẵn 26 băng
giấy như nhau cho 13 cặp đôi (mỗi cặp đôi 2 băng giấy như nhau để tô màu theo
yêu cầu trong sách hướng dẫn – hoạt động 2).
- Các đồ dùng trực quan được huy động từ chính bàn tay của học sinh. Giáo
viên hướng dẫn cho các em nghiên cứu, giao cho các em tự làm (nếu có thể), khi
làm sẽ nảy sinh những vấn đề cần thiết, những nhân tố sáng tạo, khi tìm vật liệu,
9
khi thực hiện làm. Qua đó kiểm tra mức tiếp thu, sức sáng tạo, sự sáng tạo, sự
hứng thú trong lao động và kích thích tính thi đua giữa các học sinh trong lớp.
Ví dụ: Khi dạy bài 60: “Hình bình hành” (trang 8,9), bài 61: “Diện tích hình
hành” (trang 12,13- Tập 2A – Sách HD học toán lớp 4), tôi đã cho học sinh về
cắt các hình vuông, hình tam giác để ghép thành hình bình hành (theo yêu cầu
HĐ 1), chuẩn bị hình bình hành, kéo, thước kẻ để thực hiện hoạt động 1 (trang
12).
Dựa trên đồ dùng trực quan học sinh tự thực hành, trải nghiệm và tự rút ra
kết luận dưới sự trợ giúp của giáo viên (khi cần thiết). Đó chính là kiến thức của
bài cần cung cấp. Việc sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy học đem lại hiệu quả
tích cực, học sinh thích thú, hiểu bài và nhớ lâu các kiến thức, kĩ năng môn toán.
Tuy nhiên, từ trực quan sinh động, giáo viên cần giúp các em hiểu rõ bản chất
của vấn đề, từ đó phát triển tư duy trìu tượng ở các em.
c) Chú trọng dạy học phát huy tính tích cực của học sinh:
Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy
học là một trong những trọng tâm của đổi mới phương pháp dạy học Toán nói
chung và phương pháp dạy học môn Toán 4 nói riêng. Hoạt động này chỉ có
hiệu qủa khi học sinh học tập một cách hứng thú, tích cực, tự giác với một động
cơ đúng đắn. Trong quá trình dạy học, điểm tập trung là bản thân học sinh chứ
không phải là giáo viên nên cần tạo hứng thú học Toán cho các em, tạo điều
kiện cho các em chủ động tiếp thu kiến thức, kĩ năng, cụ thể:
- Về phía học sinh:
+ Trong quá trình học tập ở lớp, giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh có
thể chia sẻ kết quả học tập với các bạn khác như: Trao đổi với các bạn để kiểm
tra sự hiểu biết của bản thân mình đúng hay sai. Chẳng hạn: đổi chéo bài tập
trong nhóm đôi, thảo luận nhóm để cùng tìm cách giải một bài toán...
+ Đặt câu hỏi xem suy nghĩ của mình, hiểu biết của mình có giống bạn
không?
+ Điều chỉnh, sửa chữa những điều mình hiểu sai thông qua trao đổi, thảo
luận.
- Về phía giáo viên, tôi đã:
+ Sử dụng các biện pháp tạo tình huống có vấn đề.
+ Đặt ra những câu hỏi gợi mở, gợi ý nhằm khuyến khích học sinh ghi nhớ,
suy nghĩ tích cực học tập.
+ Thực hành theo mẫu (có thể áp dụng trong và ngoài lớp học)
+ Thảo luận theo nhóm, tổ...
+ Tổ chức hoạt động để học sinh tìm tòi khám phá, tự phản ánh việc học
và tự đánh giá kết quả học tập của mình.
Ví dụ 1: dạy bài Góc nhọn, góc tù, góc bẹt” (trang 89- tập 1A- Sách HD
học toán 4), trước tiên giáo viên sẽ vẽ một góc nhọn AOB lên bảng và giới thiệu
với học sinh, sau đó cho một học sinh lên bảng dùng êke để kiểm tra độ lớn của
góc nhọn so với góc vuông đã học.
10
+ GV dùng câu hỏi gợi mở: Góc AOB lớn hay nhỏ hơn góc vuông? yêu
cầu học sinh thảo luận nhóm đôi => kết luận: Góc nhọn nhỏ hơn góc vuông.
Ví dụ 2: Phép cộng phân số (tiếp theo), (trang 60- tập 2A- Sách HD học
toán 4)
Bài toán: Có một băng giấy màu, bạn Hà lấy
1
1
băng giấy, bạn An lấy
2
3
băng giấy. Hỏi cả hai bạn lấy bao nhiêu phần băng giấy màu.
Sau khi học sinh đọc bài toán tìm hiểu, phân tích bài toán tôi gợi mở: Muốn
tìm số phần băng giấy của bạn Hà và An đã lấy, ta cần thực hiện phép tính gì?
( phép cộng
1 1
+ ). Để cộng hai phân số này (khác mẫu số) ta làm thế nào?
2 3
Trong khi ta mới biết cách cộng hai phân số có cùng mẫu số. Đây là một tình
huống gợi vấn đề, là một yêu cầu nhận thức mà học sinh chưa thể giải quyết
được bằng vốn kiến thức và kinh nghiệm sẵn có của mình. Tuy nhiên, từ tình
huống này, nếu học sinh chịu khó suy nghĩ cùng sự trợ giúp của giáo viên các
em có thể tìm cách biến đổi hai phân số khác mẫu này đưa về cộng hai phân số
cùng mẫu (bằng cách quy đồng mẫu số hai phân sô). Từ đó, học sinh có thể giải
quyết vấn đề kết hợp với PPDH vấn đáp để hình thành cách cộng hai phân số
khác mẫu số.
Như vậy, với cách dạy như trên giáo viên đã phát huy tính tích cực nhận
thức của học sinh, gây hứng thú cho các em. Trong cách dạy này, người giáo
viên không chỉ truyền thụ kiến thức mà còn là người tổ chức điều khiển quá
trình học tập của học sinh, học sinh không còn là người tiếp nhận kiến thức một
cách thụ động như trước kia mà chuyển sang chủ động lĩnh hội kiến thức, tự tổ
chức điều khiển quá trình học tập của mình. Do đó, không khí lớp học sẽ trở nên
thân thiện hơn, sôi nổi hơn, hào hứng hơn, kết quả học tập ngày càng cao hơn.
4) Vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy
hiệu quả hứng thú học toán cho học sinh lớp 4.
Cùng với các phương pháp dạy học trên, tôi đã kết hợp với các hình thức
dạy học (cá nhân, theo nhóm, theo lớp, trò chơi học tập…) nhằm phát huy tính
tích cực và hợp tác của học sinh. Sự thay đổi các hình thức dạy học phù hợp
giúp tiết học bớt đi sự căng thẳng, nhàm chán, đơn điệu, làm tiết học toán khô
khan trở nên nhẹ nhàng, hứng thú, sinh động hơn. Cụ thể:
a) Dạy học cá nhân: là chú trọng phát triển năng lực riêng của từng học
sinh. Đồng thời rèn cho các em thói quen tự học, tự làm việc. Với hình thức này
tôi thường cho các em làm việc với phiếu học tập, làm bài tập trong sách, làm
các trò chơi, sự thể hiện tài năng, các hoạt động độc lập như: Sưu tầm các đồ vật
có hình dạng liên quan đến nội dung bài học, làm đồ dùng học tập…
b) Dạy học theo nhóm: Dạy học theo nhóm là rất cần thiết vì chính thức
học tập này đã giúp học sinh tìm tòi kiến thức, mở rộng suy nghĩ phát triển tư
duy Toán học, so sánh phân tích, tổng hợp, khái quát. Các em được lôi cuốn vào
các hoạt động học và tiếp nhận kiến thức bằng chính khả năng của mình, rèn cho
11
học sinh kĩ năng: biết lắng nghe, lựa chọn, tiếp nhận ý kiến của người khác bổ
sung vào sự hiểu biết của mình, đồng thời các em biết trình bày ý kiến của mình
cho bạn nghe và học được công tác tổ chức điều hành, giúp cho các em còn nhút
nhát, diễn đạt kém,... có điều kiện thuận lợi để rèn luyện giao tiếp, tự tin hơn.
Trong thực tế giảng dạy, để tránh hiện tượng trong nhóm chỉ có một số em tham
gia tích cực, một số em ỷ lại trông chờ kết quả quả nhóm, các hoạt động lộn xộn
không có tổ chức,... tôi đã áp dụng một số cách chia nhóm sau: Nhóm nhiều
trình độ, học lực (chia theo đơn vị tổ, dãy, bàn); nhóm cùng trình độ (chia theo
đối tượng học sinh); nhóm cùng sở thích do học sinh tự chọn. Cần lưu ý hình
thức dạy học theo nhóm đề cao vai trò tự hợp tác trách nhiệm cá nhân với tập
thể, tránh tình trạng hợp tác nhóm chỉ là hình thức, không có sự chia sẻ, sự hợp
tác thực sự.
(Ảnh minh họa học sinh lớp 4A, trường Tiểu học Nga Vịnh đang
thảo luận nhóm tích cực trong tiết học Toán).
c) Dạy học theo lớp: Tôi thường sử dụng hình thức này khi muốn khắc chốt
kiến thức một bài nào đó hoặc khi phần lớn học sinh của lớp cùng khó khăn,
vướng mắc một bài tập, nội dung nào đó. Lưu ý khi dạy trước lớp, giáo viên cần
gợi mở, dẫn dắt các em hiểu ra bản chất của vấn đề. Để cuốn hút, hướng các em
tập trung suy nghĩ vào bài giảng giáo viên cũng cần nói rõ ràng, rành mạch, dễ
hiểu, nhấn giọng những trọng tâm của bài.
d)Trò chơi học tập: Sách hướng dẫn học toán lớp 4 thiết kế các trò chơi học
tập có hầu như ở các tiết học. Trò chơi trong toán học là những trò chơi có tính
12
thi đua và tính thách thức đối với người tham gia. Kiến thức đến với học sinh
một cách tự nhiên thông qua trò chơi, đồng thời giúp học sinh rèn luyện các kĩ
năng, khai thác khai thác được vốn kinh nghiệm của bản thân và quan trọng hơn
cả, người chơi – người học được trải nghiệm- thực hành kiến thức đã học và
được củng cố, mở rộng kiến thức. Các trò chơi này sẽ gây hứng thú và khắc sâu
kiến thức hay nói cách khác những kiến thức tưởng chừng như khô khan sẽ đến
và được lưu giữ trong trí nhớ học sinh một cách nhẹ nhàng và mang lại những
hiệu quả lâu dài. Phần thưởng có thể là những trang vỗ tay, có thể là những lời
khen ngợi, những bông hoa, những lá cờ thi đua của tổ, nhóm…
(Ảnh minh họa học sinh lớp 4A, trường Tiểu học Nga Vịnh chơi trò chơi
trong tiết học Toán).
5. Động viên, khuyến khích, khen thưởng kịp thời, đúng lúc, tạo không
khí thi đua học tập.
Tâm lý chung của học sinh tiểu học là thích được khen, được tuyên dương,
nhất là khi các em làm được một số việc gì đó. Trong quá trình dạy học, người
giáo viên cần chú trọng động viên, khuyến khích các em kịp thời. Nhất là trong
đánh giá thường xuyên ở từng tiết học, tôi đã áp dụng thông tư 30 vào quá trình
đó một cách hiệu quả. Đây cũng là cơ hội để tạo hứng thú học toán cho các em,
thiết lập mối quan hệ hợp tác tích cực tốt đẹp giữa thầy – trò, giữa trò – trò với
13
nhau. Điều này tuy nhỏ nhưng lại góp phần rất lớn đối với việc tạo động lực và
hứng thú cho các em học toán. Ví dụ khi phát hiện ra một học sinh học yếu giơ
tay tôi có thể nói: “Bạn A hôm nay rất tiến bộ, mời em phát biểu!” hoặc “Cô rất
vui, vì bạn A có ý kiến, mời em!”. Hoặc khi các em rụt rè, có vẻ không tự tin, tôi
sẽ động viên: “Các em cứ phát biểu ý kiến, ý kiến của các em có thể sai đó là
chuyện bình thường, cô và các bạn sẽ sửa cho em, không sao cả”. Nếu hôm ấy,
các em tiến bộ, làm bài tập tốt thì tôi tặng các em một lời khen. Chẳng hạn: “Em
học có tiến bộ, cô rất vui” hoặc “Em giỏi quá!, Em giỏi lắm!”… Như vậy, các
em sẽ rất thích, phấn chấn trong lòng. Khi giao bài tập nếu thấy học sinh nào đó
khó khăn, tôi sẽ động viên: “Các em chịu khó suy nghĩ thêm xem sao, cô tin bài
này các em sẽ tìm được cách giải đấy!” đồng thời tôi tận tình, tìm hiểu để giúp
đỡ các em tháo gỡ khó khăn đó. Nếu các em mắc phải lỗi lầm hoặc chưa làm
được, hoặc không làm được bài, chưa tiến bộ, tôi có thể dùng những từ ngữ có
tính chất “giảm nhẹ” đi, khen nhiều hơn chê để động viên, nhẹ nhàng, nhằm
khuyến khích các em là chính, chú trọng thành công của trẻ, tuyệt đối không
miệt thị, hoặc nặng lời với các em. Đặc biệt, với những học học yếu, tôi quan
tâm nhiều hơn bằng cách giúp đỡ, lắng nghe các em nói, dù vẫn còn nhỏ, dù
vẫn chưa đúng, phát triển cái ưu ở các em. Tóm lại, tôi sẽ dùng lời lẽ, cử chỉ tạo
tâm thế bình yên, tự tin suy nghĩ và trả lời, làm toán tích cực ở các em. Lời khen
thật kì diệu, nhưng không nên lạm dụng lời khen quá mức sẽ có tác dụng ngược
lại. Chuyện là vậy, tôi thường khen ngợi em Bình (Chủ tịch Hội đồng tự quản
của lớp) và đưa em lên làm tấm gương cho các bạn noi theo. Thỉnh thoảng tôi có
bỏ qua một số lỗi lầm nhỏ của em. Nhưng đến khoảng một tháng sau lại có
chuyện xảy ra. Tôi lắng nghe ý kiến phản ánh của các em học sinh trong lớp về
tính tự kiêu, thiếu tôn trọng bạn, có ý muốn làm đàn anh, đàn chị của Bình. Tôi
còn chứng kiến được cảnh Bình bắt nạn bạn trong giờ học hay giờ ra chơi, Bình
còn dõng dạc tuyên bố: “Cô không bao giờ phạt mình đâu, vì mình là Chủ tịch
Hội đồng tự quản mà”. Tôi băn khoăn: Sẽ làm gì để khắc phục chuyện này? Mặc
dù, em quản lí lớp rất tốt nhưng cách nói năng và đối xử với các bạn cần xem
lại. Làm sao để vừa giữ được nề nếp của lớp, vừa tiếp tục phát huy năng lực của
em và giúp em sửa được tính xấu. Cuối cùng, tôi quyết định nói chuyện trực tiếp
với em vào lúc giờ ra chơi. Là một học sinh thông minh, nhạy bén và hiểu vấn
đề rất nhanh nên buổi nói chuyện giữa tôi và học sinh đã khiến em hiểu ra nhiều
điều bổ ích quanh em. Từ đó, những gì em làm tốt, tôi động viên, khích lệ và
khen ngợi. Nhưng với những lỗi em mắc phải, tôi không thờ ơ bỏ qua mà
nghiêm túc nhắc nhở, phân tích và chỉ tận tình cái sai, cái chưa được trong cách
làm để em hiểu. Thế là tôi được một tập thể đoàn kết yêu thương và biết giúp đỡ
nhau. Từ đó, em Bình lấy lại tình cảm của các bạn trong lớp, trở thành một con
người chững chạc, biết yêu cái đẹp, ghét cái xấu, yêu cái đúng, ghét cái sai, sống
đầy trách nhiệm với công việc được giao và giàu lòng tình yêu thương với bạn
bè. Lớp tôi, trở thành một lớp học thực sự đoàn kết, yêu thương nhau, sẵn sàng
chia sẻ mọi buồn vui, khó khăn trong học tập, nhất là trong giờ học toán.
14
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Trong quá trình giảng dạy gần một năm học vừa qua, tôi đã áp dụng kinh
nghiệm trên để soạn giảng và vận dụng vào thực tế dạy và học tôi nhận thấy có
sự thay đổi đáng mừng. Giữa học kì II, tôi điều tra hứng thú môn toán, tổ chức
cho học sinh làm bài kiểm tra chất lượng (sĩ số: 23 em) thì thu được kết quả như
sau:
Bảng 1: Số liệu thông kê về hứng thú môn toán:
TT
1
2
3
Kết quả
Hứng thú
Ít hứng thú
Không hứng thú
Đầu năm
SL
TL (%)
4
17,4
17
73,9
2
8,7
Giữa học kì II
SL
TL (%)
18
78,5
5
21,5
0
0
Bảng 2: Số liệu thông kê về kết quả học tập môn toán:
Sĩ số
(23 em)
Đầu năm
Giữa học kì II
Hoàn thành
xuất sắc
SL
%
3
13,1
17
74,2
Hoàn thành
tốt
SL
%
11
47,8
5
21,5
Hoàn thành
SL
8
1
%
34,8
4,3
Chưa
hoàn thành
SL
%
1
4,3
0
0
Từ bảng số liệu trên, ta thấy:
* Về hứng thú học môn toán: Số lượng học sinh hứng thú học học toán tăng
lên rõ rệt (trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: 17,4%, sau khi áp dụng
sáng kiến kinh nghiệm 78,5%), không còn học sinh không hứng thú học toán.
Học sinh đã có thái độ học tập tích cực, thích thú hơn khi học toán, chủ động
nêu lên những thắc mắc, khó khăn với tôi. Hơn nữa, các em hào hứng phấn khởi,
nhiệt tình, hăng say, tự tin trong giao tiếp khi được cô giao nhiệm vụ nào đó của
môn toán. Chất lượng môn toán được tăng lên một cách rõ nét: số em Hoàn
thành xuất sắc chiếm tỉ lệ cao 74,2%, không còn học sinh chưa hoàn thành về
môn toán.
* Như vậy, sáng kiến kinh nghiệm trên đã mang lại hiệu quả rất khả quan,
tác động lớn đến phong trào học tập tích cực của lớp, phụ huynh phấn khởi, vui
mừng vì con em mình học toán một cách có hiệu quả. Đặc biệt mang lại sự tác
động tích cực lớn đến sự tiến bộ của học sinh. Các em hăng hái, tích cực, tự tin,
say mê học toán, tạo nên những giờ học toán sôi nổi, hào hứng, thoải mái, nhẹ
nhàng, lí thú, chất lượng môn toán của lớp tôi thực sự tăng lên đáng kể. Kết quả
đó góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường,
của địa phương, của ngành giáo dục.
Bên cạnh đó, việc áp dụng các giải pháp như đã thực hiện cũng giúp bản
thân tôi không ngừng tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu các tài liệu, đổi mới phương
15
pháp và hình thức tổ chức dạy học, nâng cao năng lực sư phạm để đem đến
những giờ học toán (nói riêng), các giờ học khác (nói chung) thật sự đạt hiệu
quả cao.
Qua việc thực hiện các giải pháp trong dạy học toán lớp 4 mà bản thân tôi
đã áp dụng, qua việc chia sẻ với đồng nghiệp trong sinh hoạt chuyên môn, nhất
là trong nội dung viết sáng kiến kinh nghiệm, chú trọng đổi mới phương pháp
dạy học, tôi đã nhận được nhiều sự ủng hộ từ các đồng nghiệp cũng như Ban
giám hiệu nhà trường, các bậc phụ huynh và lãnh đạo địa phương. Các giải pháp
mà tôi đã thực hiện còn có thể áp dụng linh hoạt đối với các môn học khác trong
các nhà trường Tiểu học như: môn Tiếng Việt, HĐGD Đạo Đức,… Từ đó, nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, thực hiện tốt mục tiêu giáo dục
đã đề ra, đáp ứng yêu cầu đổi mới nền giáo dục của nước ta hiện nay.
16
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận:
Thực tiễn dạy học trong thời gian qua và áp dụng các biện pháp dạy học trên
vào quá trình giảng dạy, tôi đã rút ra một số bài học sau:
Bản thân mỗi người giáo viên cần phải có lòng yêu nghề, mến trẻ; tích cực
học tập, trao đổi kinh nghiệm với bạn bè đồng nghiệp để tìm cho mình phương
pháp dạy có hiệu quả nhất; tìm hiểu, thường xuyên thu thập các tài liệu chỉ đạo
chuyên môn về chương trình tiểu học môn Toán; tham khảo các tài liệu khác;
gần gũi học sinh để hiểu được tâm lý của các em và thường xuyên tham gia các
buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ, của trường, của cụm…, nâng cao năng lực sư
phạm. Có như vậy người giáo viên mới chủ động, tự tin, linh hoạt trong việc sử
dụng các phương pháp dạy học, phối hợp với các hình thức tổ chức dạy học hợp
lý, phù hợp với từng loại đối tượng học sinh.
Bên cạnh đó, giáo viên cần quan tâm sâu sát đến từng đối tượng học sinh,
đặc biệt là học sinh yếu kém, tìm hiểu hoàn cảnh gia đình từng em, chăm lo đến
đồ dùng học tập của các em ngay từ đầu năm học mới, giúp đỡ các em ân cần,
nhẹ nhàng, động viên, khen thưởng kịp thời đúng lúc, tạo niềm tin, hứng thú cho
các em trong môn học, nhất là môn toán, một môn học vốn mang tính khô khan.
Đồng thời, cần xây dựng môi trường dạy học thân thiện để các em thấy rằng:
“Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
Hơn thế nữa, giáo viên cần chú trọng rèn cho học sinh những kĩ năng: chuẩn
bị trước bài ở nhà trước khi đến lớp, tìm hiểu nội dung, kiến thức sẽ học; thường
xuyên rèn luyện kĩ năng tính toán, giải toán, ôn lại các dạng bài đã học, hệ thống
lại kiến thức có liên quan trực tiếp đến cách giải các bài toán, làm bài theo khả
năng của bản thân, tránh trông chờ, ỷ lại thầy cô, bố mẹ, bạn bè học tốt hơn,...;
biết hỗ trợ lẫn nhau giữa các bạn, các đối tượng học sinh trong lớp; rèn thói quen
tự kiểm tra, đánh giá kết quả, tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề, tự học và làm
bài tập thực hành. Biết vận dụng những kiến thức mới học để giẩi quyết các bài
toán. Luôn tự ý thức tìm hiểu các dạng bài Toán bồi dưỡng, Toán nâng cao,...
phù hợp với khối lớp của mình đang học.
Tất cả những điều trên nếu được áp dụng trong thực tiễn giáo dục nhà
trường, sẽ khơi dậy trong các em lòng ham học, hào hứng, say mê học toán, từ
đó hình thành ở các em ý thức tự học, tự nghiên cứu, tự sáng tạo các vấn đề của
toán học (nói riêng), của cuộc sống (nói chung), giúp các em dần trở thành con
người của thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa: năng động, bản lĩnh, sáng tạo,
tự tin, dám nghĩ, dám làm.
II. Kiến nghị và đề xuất:
17
Để dạy học tốt và đạt hiệu quả cao hơn trong công tác giáo dục, giảng dạy
toán nói chung, dạy học toán lớp 4 nói riêng, tôi xin mạnh dạn đề xuất ý kiến
nhỏ:
Các cấp lành đạo tổ chức những buổi giao lưu cụm, giao lưu huyện chia sẻ
những sáng kiến kinh nghiệm hay để các đồng nghiệp có thể học hỏi, nâng cao
chuyên môn nghiệp vụ, áp dụng các sáng kiến kinh nghiệm hay vào thực tiễn
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục hiện nay
của nước nhà.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do thời gian nghiên cứu chưa nhiều, năng lực
và trình độ còn hạn chế, chắc chắn đề tài không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất
mong nhận được những đóng góp, bổ sung của các nhà chuyên môn và các bạn
đồng nghiệp để đề tài hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 29 tháng 3 năm 2016
CAM KẾT KHÔNG COPPY!
Người viết
Phạm Thị Hòa
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT
TÊN TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
Tài liệu hướng dẫn giáo viên môn toán lớp 4
2
Sách giáo viên toán lớp 4 (tập 1,2)
Chuyên đề Giáo dục Tiểu học.
3
4
5
6
7
TÁC GIẢ
Bộ GD & ĐT
(Sách dự án VNEN)
Bộ GD & ĐT
Vụ Giáo dục Tiểu
học
HD học toán 4 (sách thử nghiệm)- Tập 1A, 1B,
Bộ GD & ĐT
2A, 2B.
(Sách dự án VNEN)
Vở Bài tập toán 4 (tập 1,2)
Nhà xuất bản
GDVN
Vở Bài tập Bổ trợ và nâng cao Toán 4(tập 1,2)
NXB Đại học Sư
phạm
HD thực hiện Chuẩn kiến thức và kĩ năng các môn NXB giáo dục
học ở Tiểu học (lớp 4)
19
PHỤ LỤC
MỤC
NỘI DUNG
TRANG
A
I
II
III
IV
MỞ ĐẦU
1
B
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
IV
NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM
Cơ sở lí luận của SKKN
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
Các giải pháp để giải quyết vấn đề
Quan tâm, chăm lo đến học sinh bằng tình
thương và tinh thần trách nhiệm
Không ngừng nâng cao trình độ, chuyên môn
nghiệp vụ, phát huy vai trò của người thầy tâm
huyết với nghề, nâng cao hứng thú học toán cho
học sinh.
Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học,
phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học.
Động viên, khuyến khích, khen thưởng kịp
thời, đúng lúc, tạo không khí thi đua học tập.
Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
C
I
II
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị.
I
II
III
1
2
3
4
5
1
2
2
2
3
3
3
4
5
7
8
12
14
16
18
18
19
20
21
22
23
24
25