Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Đảng bộ tỉnh Hải Dương lónh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ 1997 đến 2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.8 MB, 119 trang )

Header Page 1 of 166.

LUẬN VĂN:
Đảng bộ tỉnh Hải Dương lónh đạo chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa từ 1997 đến 2004

Footer Page 1 of 166.


Header Page 2 of 166.

Mở Đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tháng 12 năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt quan trọng trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta. Từ đó đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam luôn không
ngừng bổ sung, phát triển và từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới. Công cuộc đổi mới là
một cuộc cách mạng mới mẻ, mỗi bước đi là một sự tìm kiếm và khám phá, đổi mới là
phù hợp với xu thế của thời đại và yêu cầu tất yếu của đất nước, đáp ứng đúng nguyện vọng
của nhân dân.
Trong bối cảnh hiện nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ (KH-CN), kinh tế tri
thức, xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi dân tộc, quốc gia. ở Việt
Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đang lãnh đạo đất nước thực hiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Trong đó khẳng định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung
tâm. Coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp và nông thôn là nhiệm
vụ hàng đầu, và chỉ rõ trọng điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng
CNH, HĐH là vấn đề cốt lõi, là quy luật phát triển của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ
đổi mới, nhằm tiến kịp các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới.
Nền nông nghiệp Việt Nam trong những năm đổi mới từ năm 1986 đến nay đã


từng bước chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tạo ra bước phát triển có
tính đột phá trên lĩnh vực sản xuất hàng hóa, tác động mạnh đến phát triển công nghiệp,
các ngành dịch vụ, các lĩnh vực chính trị - xã hội khác. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp đúng hướng đã góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền đề bước
sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH là yêu cầu không thể thiếu, tạo ra sự ổn định trong
đời sống chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước.
Hải Dương là một tỉnh có tiềm năng to lớn về tài nguyên thiên nhiên, đất đai và
du lịch. Đồng thời, đây còn là mảnh đất "Địa linh nhân kiệt", có nhiều di tích lịch sử, văn

Footer Page 2 of 166.


Header Page 3 of 166.

hóa nổi tiếng như: Côn Sơn - Kiếp Bạc, làng nghề truyền thống với những đặc sản nổi
tiếng như bánh đậu xanh ở thành phố Hải Dương, vải thiều Thanh Hà, gốm Cậy - Bình
Giang, gốm Chu Đậu - Nam sách,... Hải Dương còn nằm trong khu vực kinh tế trọng
điểm phía Bắc và tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Trong sự nghiệp đổi mới, đặc biệt từ khi tái lập tỉnh (tháng 1/1997) đến nay,
Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã có những quan điểm mới đúng đắn, với tư duy kinh tế năng
động, nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh và truyền thống vẻ vang của quê hương, thu
hút mạnh nguồn vốn từ trong và ngoài nước, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
địa phương theo hướng CNH, HĐH. Hải Dương đang được biết đến như một vùng kinh
tế khởi sắc và hứa hẹn phát triển mạnh mẽ trong tương lai không xa.
Tuy nhiên, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là kinh tế nông
nghiệp vẫn chưa phát huy hết tiềm năng to lớn mà vẫn đang còn những khó khăn, hạn
chế, phải đối mặt với nhiều vấn đề mới nảy sinh, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH của tỉnh.
Nhằm đánh giá đúng thực trạng và tìm ra những nguyên nhân của mặt mạnh, mặt
tồn tại để từ đó đưa ra những giải pháp thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

theo hướng CNH, HĐH ở một địa phương, vì vậy tác giả đã chọn đề tài: "Đảng bộ tỉnh
Hải Dương lónh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa từ 1997 đến 2004" làm luận văn thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Tiêu biểu là một số công trình sau: GS. Đỗ Đình Giao:
"Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa nền kinh tế quốc dân", Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994; GS.TS Trần Ngọc Hiên: "Mối quan hệ công - nông
nghiệp - dịch vụ trong sự hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta", Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1997; TS. Đặng Văn Thắng, TS. Phạm Ngọc Dũng: "Chuyển

Footer Page 3 of 166.


Header Page 4 of 166.

dịch cơ cấu kinh tế công, nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng thực trạng và triển vọng",
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Nguyễn Sinh Cúc: "Nông nghiệp, nông thôn Việt
Nam thời kỳ đổi mới", Nxb Thống kê, Hà Nội, 2003; PGS.TS Vũ Năng Dũng (Chủ biên):
"Nông nghiệp Việt Nam 61 tỉnh và thành phố", Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2001; Chu
Hữu Quý, Nguyễn Kế Tuấn (đồng Chủ biên): "Con đường công nghiệp hóa, hiện hóa
nông nghiệp và nông thôn", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Ngoài ra, còn khá nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đề cập đến vấn đề này:
Luận án tiến sĩ Lịch sử của Lê Văn Thai: "Quá trình hình thành và phát triển đường lối
đổi mới trong nông nghiệp của Đảng (1975 - 1996)", Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 1997; Luận án tiến sĩ Lịch sử của Nguyễn Việt Hùng: "Đảng bộ Thành phố
Hồ Chí Minh lãnh đạo nông dân ngoại thành phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng
nông thôn (1986 -1996)", Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2001; Luận án tiến
sĩ Kinh tế của Phạm Ngọc Dũng: "Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công - nông

nghiệp ở vùng đồng bằng sông Hồng - thực trạng và giải pháp", Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, 2002; Luận văn thạc sĩ Lịch sử của Phạm Công Thỉnh: "Đảng bộ Thái
Bình lãnh đạo phong trào hợp tác hóa nông nghiệp theo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư và
Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị", Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1996; Luận
văn thạc sĩ Lịch sử của Nguyễn Ngọc Thanh: "Đảng bộ huyện Gia Lâm (Hà Nội) lãnh
đạo thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1991 - 2000)", Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 2004...
Những công trình khoa học, sách, báo, tạp chí nêu trên đã khẳng định tầm quan
trọng của xây dựng phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong đó có kinh tế
nông nghiệp, nêu bật được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng, được thể hiện bằng các
đường lối, chính sách phát triển kinh tế và sự vận dụng đường lối, chính sách đó vào các
địa phương cụ thể.
Tuy nhiên, đây là vấn đề rất lớn và phong phú, vẫn còn nhiều nội dung cụ thể mà
các nhà nghiên cứu chưa đề cập tới, nhất là chưa có công trình khoa học nào đi sâu

Footer Page 4 of 166.


Header Page 5 of 166.

nghiên cứu quá trình lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ tỉnh
Hải Dương theo hướng CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích
+ Góp phần làm rõ đường lối, quan điểm của Đảng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH và quá trình Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn tỉnh.
+ Khẳng định những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và những vấn đề
mới nảy sinh trong quá trình thực hiện. Từ đó, rút ra một số kinh nghiệm, nhằm phát huy
tốt hơn nữa việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hải Dương trong sự

nghiệp CNH, HĐH.
+ Cung cấp thêm căn cứ khoa học làm cơ sở cho việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh.
- Nhiệm vụ
+ Trình bày hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Hải Dương vận dụng quan điểm,
đường lối của Đảng lãnh đạo thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ
1997 đến 2004 theo hướng CNH, HĐH.
+ Làm rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, kết quả của quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ 1997 đến 2004 theo hướng CNH, HĐH ở địa
phương Hải Dương.
+ Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo đường lối của Đảng trong những năm tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong việc thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn tỉnh từ 1997 đến 2004.

Footer Page 5 of 166.


Header Page 6 of 166.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận nghiên cứu
Luận văn trình bày dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời có sử dụng kết quả
nghiên cứu của một số công trình khoa học đã được công bố liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu
+ Dựa trên cơ sở phương pháp luận sử học mácxít. Luận văn sử dụng phương
pháp lịch sử, phương pháp lôgíc, phương pháp phân tích và tổng hợp. Ngoài ra, luận văn

còn sử dụng các phương pháp thống kê, so sánh, điều tra xã hội học... để trình bày làm rõ
nội dung.
+ Nguồn tư liệu, luận văn chủ yếu dựa vào các văn kiện, nghị quyết của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Dương và các báo cáo
hằng quý, hằng năm của các sở, ban, ngành, đặc biệt là của Sở Nông nghiệp và Cục
Thống kê tỉnh Hải Dương.
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Trình bày một cách tương đối hệ thống và toàn diện quá trình Đảng bộ tỉnh Hải
Dương lãnh đạo thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng
CNH, HĐH từ 1997 đến 2004.
- Chỉ rõ thành tựu, hạn chế của quá trình đó, bước đầu rút ra một số kinh nghiệm
từ thực tiễn lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các ngành
có liên quan, góp phần tổng kết thực tiễn gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng
trên một địa bàn cụ thể, trong một lĩnh vực nhất định.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.

Footer Page 6 of 166.


Header Page 7 of 166.

Chương 1
Đảng Bộ Tỉnh Hải DƯƠNG Lãnh Đạo Thực Hiện Chuyển Dịch CƠ Cấu KINH Tế
NÔNG Nghiệp trong những năm đầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(1997 - 2000)

1.1. Một số đặc điểm cơ bản và thực trạng cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh

Hải Dương trước năm 1997
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội
1.1.1.1. Vị trí địa lý - kinh tế của tỉnh
Hải Dương là tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ. Từ ngàn xưa nơi đây đã
là lá chắn cửa ngõ phía Đông của kinh thành Thăng Long. Trải qua bao biến thiên của
lịch sử, đất và người Hải Dương luôn kiên cường trong đấu tranh, cần cù và sáng tạo
trong lao động, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước Việt
Nam.
Hải Dương tiếp giáp với 6 tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Thái Bình,
Hưng Yên và Hải Phòng. Trên địa bàn, nhiều trục giao thông quốc gia quan trọng chạy
qua, với chất lượng tốt như: đường 5, đường 18, đường 183... thuận lợi cho việc giao lưu,
trao đổi với bên ngoài. Thành phố Hải Dương - trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa,
khoa học - kỹ thuật của tỉnh - nằm trên trục quốc lộ số 5, cách Hải Phòng 45 km về phía
Đông và cách Thủ đô Hà Nội 57 km về phía Tây. Phía Bắc của tỉnh có hơn 20 km quốc
lộ số 18 chạy qua nối sân bay quốc tế Nội Bài ra biển qua cảng Cái Lân (Quảng Ninh).
Đường sắt Hà Nội - Hải Phòng, Kép - Bãi Cháy đi qua Hải Dương là cầu nối giữa Thủ đô
và các tỉnh phía Bắc ra các cảng biển.
Là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nằm ở vị trí có nhiều
hướng tác động mang tính liên vùng, Hải Dương có vai trò quan trọng làm cầu nối Thủ
đô Hà Nội với thành phố cảng Hải Phòng, thành phố du lịch Hạ Long; cung cấp sản
phẩm hàng hóa quan trọng và là địa bàn tham gia quá trình trung chuyển hàng hóa giữa

Footer Page 7 of 166.


Header Page 8 of 166.

hệ thống cảng biển và các thành phố, các tỉnh trong vùng và cả nước; do vậy, vừa có cơ
hội đóng vai trò là một trong những động lực phát triển, vừa phải đối mặt với các thách
thức trong cạnh tranh khai thác và phát triển các ngành hàng có cùng lợi thế. Trong triển

vọng, Hải Dương sẽ phải trở thành trọng điểm thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, dịch
vụ, thương mại, giải quyết việc làm để giảm áp lực cho các thành phố lớn và trở thành
một trong các đô thị lớn trong vùng.
Theo kết quả điều tra của Vụ Kinh tế địa phương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư về một
số chỉ tiêu năm 2004 (Phụ lục 1), với 2,1% dân số, tổng GDP của Hải Dương mới chỉ đạt
1,76% của cả nước, do vậy GDP bình quân đầu người của tỉnh thấp hơn mức trung bình
của cả nước. Hải Dương hiện đứng thứ tư trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ cả về tổng GDP và GDP bình quân đầu người. Điều này thể hiện vị thế hiện tại của
tỉnh chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển đối với một tỉnh đang ở vị trí
cầu nối đối với các cực phát triển của cả nước (Phụ lục 2).
1.1.1.2. Tiềm năng và khả năng khai thác các nguồn lực tự nhiên và tài
nguyên thiên nhiên vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Địa hình: Do cấu trúc địa hình nghiêng và thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông
Nam. Phía Đông của tỉnh có một số vùng trũng, thường bị ảnh hưởng của thủy triều và bị
úng ngập vào mùa mưa.
Toàn tỉnh Hải Dương được chia ra làm hai vùng chính: vùng đồi núi chiếm
khoảng 11% diện tích đất tự nhiên, gồm 13 xã thuộc huyện Chí Linh và 18 xã của huyện
Kinh Môn, chủ yếu là đồi, núi thấp phù hợp với xây dựng các cơ sở công nghiệp, du lịch
và trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và các loại cây công nghiệp. Vùng đồng bằng gồm các
huyện, xã còn lại, có độ cao trung bình 3-4 m, đất đai bằng phẳng màu mỡ phù hợp với
việc trồng cây lương thực, cây thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày. Với địa hình
này, Hải Dương có khả năng phát triển mạnh và đa dạng các ngành sản xuất, nhất là sản
phẩm nông, lâm nghiệp.
Khí hậu: Hải Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, được
chia thành 4 mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 23oC, thuận lợi cho cây trồng

Footer Page 8 of 166.


Header Page 9 of 166.


sinh trưởng. Lượng mưa trung bình hằng năm 1.500-1.700 mm, phân bố không đều, tập
trung vào tháng 6, 7, 8, dễ gây úng lụt, ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và dân sinh. Độ
ẩm không khí trung bình cao từ 78-87%, tháng 3- 4 với độ ẩm trung bình từ 90-92%.
Nhìn chung, điều kiện khí hậu của tỉnh thuận lợi cho sự phát triển hệ sinh thái
động thực vật cũng như các hoạt động sản xuất, dịch vụ và du lịch. Đặc biệt, điều kiện
khí hậu vào mùa đông rất thuận lợi cho việc phát triển cây rau, màu, thực phẩm, nhất là
khả năng trồng rau xuất khẩu.
Tài nguyên đất: Năm 2004, diện tích tự nhiên của tỉnh là 164.837 ha, trong đó
đất nông nghiệp chiếm 63,3%; đất lâm nghiệp chiếm 6,08%, đất canh tác 46,2%; đất ở
6,87%; đất chưa sử dụng 7,47%.
Đất đồng bằng chiếm khoảng 89% diện tích đất tự nhiên, chủ yếu là đất phù sa
sông Thái Bình, thuận tiện cho việc thâm canh và sản xuất nhiều loại cây trồng cho năng
suất cao. Trên một số diện tích đất canh tác thuộc các huyện Tứ Kỳ, Gia Lộc, Nam Sách,
Kinh Môn, Kim Thành... đã trồng luân canh được 3 - 4 vụ trong một năm, do vậy, nâng
hệ số quay vòng đất của tỉnh từ 2 - 4 lần hiện nay lên 2,7 - 2,8 lần trong các năm tới là
hướng khai thác có hiệu quả nguồn đất đang sử dụng.
Đồi núi chiếm khoảng 11% diện tích tự nhiên, nằm gọn ở phía Đông Bắc thuộc
hai huyện Chí Linh và Kinh Môn. Nhóm đất này nghèo dinh dưỡng, tầng mặt mỏng,
nghèo mùn, độ phì thấp, chủ yếu phù hợp trồng các loại cây lấy gỗ, cây ăn quả như vải
thiều, dứa, cây công nghiệp như lạc, chè...
Tài nguyên nước: Hệ thống sông ngòi khá dầy đặc, bao gồm hệ thống sông Thái
Bình, sông Luộc, các sông trục Bắc Hưng Hải và An Kim Hải, có khả năng bồi đắp phù
sa đồng ruộng, cung cấp nguồn nước cho nhu cầu sản xuất của các ngành, đồng thời cũng
là những tuyến giao thông thủy, tạo điều kiện cho việc giao lưu hàng hóa trong tỉnh, cũng
như giữa Hải Dương với các tỉnh khác trong vùng. Tuy nhiên, sông ngòi nhiều thường
gây nên úng lụt, rất khó khăn trong việc phòng chống lụt và ảnh hưởng không nhỏ đến
sản xuất, đời sống dân sinh.

Footer Page 9 of 166.



Header Page 10 of 166.

Cùng với nguồn nước mặt khá phong phú trong hệ thống các sông ngòi lớn, nhỏ,
hồ, đầm và kênh, mương phân bố khắp trên địa bàn, trữ lượng nước ngầm của Hải Dương
khá dồi dào. Lượng nước ngầm tại các giếng khoan đạt từ 30 - 50m3/ngày đêm. Nguồn
nước này nằm chủ yếu trong tầng chứa nước lỗ hổng Pleitôxen, hàm lượng CL<200mg/1.
Tầng khai thác phổ biến ở độ sâu trung bình từ 40 - 120 m, ở phía bắc tỉnh, có thể khai
thác tốt cho nhu cầu nước sinh hoạt. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh cũng đã phát hiện một số
tầng nước ngầm có độ sâu từ 250 - 350 m, nhiều nơi có chất lượng nước tốt, trữ lượng
lớn, là tiềm năng cung cấp nước ổn định phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Tài nguyên khoáng sản: Không nhiều, nhưng một số loại có trữ lượng lớn, chất
lượng tốt, giá trị kinh tế cao, là nguồn nguyên liệu để phát triển công nghiệp như đá vôi
(trữ lượng khoảng 200 triệu tấn, đủ để sản xuất 4-5 triệu tấn xi măng/1 năm); cao lanh
(40 vạn tấn); sét chịu lửa (khoảng 8 triệu tấn)... Ngoài ra, tỉnh còn có tiềm năng về than
đá, than bùn, đất sét, bô xít, thủy ngân và nguồn nguyên liệu dồi dào cho sản xuất vật liệu
xây dựng. Nhìn chung, tài nguyên không giàu, điều kiện tự nhiên khá thuận lợi, nhưng
hiệu quả quản lý khai thác chưa tốt, nhất là than, cát và đá.
Tài nguyên phục vụ du lịch trên địa bàn khá phong phú, nhất là trên hai huyện
miền núi phía Đông Bắc tỉnh là Chí Linh và Kinh Môn.
Chí Linh núi đồi trùng điệp, có độ cao trung bình không quá 400 m, rừng cây
xanh tốt, cảnh quan đẹp, nhiều hồ nước tự nhiên, nhiều di tích, di chỉ văn hóa: Khu danh
thắng Phượng Hoàng - Kỳ Lân là địa danh thích hợp cho du lịch dã ngoại, vãn cảnh, leo
núi, tham quan di tích lịch sử; Khu du lịch danh thắng Côn Sơn là nơi cảnh đẹp thiên
nhiên - tâm linh gắn liền với cuộc đời của anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới
Nguyễn Trãi và nhiều danh nhân đất Việt khác như Trần Nguyên Đán, Huyền Quang, đồng
thời là một trong ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm (Côn Sơn - Yên Tử - Trúc Lâm).
Kinh Môn thuộc vùng núi đá vôi với nhiều hang động kỳ thú. Nơi đây còn lưu lại
di tích của loài người thời đại đồ đá mới: Núi An Phụ với đền thờ An Sinh Vương Trần

Liễu (thân phụ anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo) và tượng đài người anh hùng dân tộc

Footer Page 10 of 166.


Header Page 11 of 166.

Trần Hưng Đạo; hang động Kính Chủ và vùng núi đá vôi Dương Nham gắn liền với
những trang sử hào hùng chống quân Nguyên của nhân dân ta.
Các huyện thuộc vùng đồng bằng cũng có tiềm năng du lịch phong phú nhờ có
cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn, làng quê trù phú, mang đậm nét đặc trưng của văn hóa
Bắc Bộ: khu miệt vườn vải thiều Thanh Hà nổi tiếng với cây vải tổ; làng Cò, Chi Lăng
Nam - huyện Thanh Miện, Văn miếu Mao Điền - huyện Cẩm Giàng, gốm Chu Đậu huyện Nam Sách...
Trên địa bàn tỉnh có nhiều di tích lịch sử văn hóa cách mạng, các làng nghề, các
lễ hội truyền thống, ẩm thực, các giá trị truyền thống và hiện đại khác làm phong phú thêm
nguồn tài nguyên du lịch của Hải Dương, tạo tiền đề phát triển ngành du lịch thành một
ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh trong tương lai.
1.1.1.3. Đặc điểm về dân số, dân cư, nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội
Dân số toàn tỉnh năm 2004 là 1.698.262 người; tỷ lệ tăng bình quân là 0,53%,
mật độ dân số trung bình toàn tỉnh là 1.029 người/km2. Cơ cấu dân số Hải Dương thể hiện
dân số trẻ, năm 2004 dân số trong độ tuổi lao động (chiếm 55,23% tổng dân số).
Cùng với phát triển kết cấu hạ tầng đô thị, dân số thành thị tăng nhanh: năm 2004
dân số thành thị gần gấp đôi so với năm 1996. Tỷ trọng dân số đô thị trong tổng số dân số
cao hơn các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng (trừ Hà Nội, Hải Phòng). Tuy nhiên, so với
yêu cầu phát triển, khả năng đô thị hóa, tạo việc làm và tổ chức các hoạt động phi nông
nghiệp còn rất chậm.
Đặc điểm dân cư và phân bố dân cư: Dân số nông thôn chiếm tỷ trọng cao (86%
tổng dân số), chủ yếu làm nông nghiệp, giàu truyền thống yêu nước, có bề dày văn hóa, khéo
tay. Ngoài canh tác lúa nước, dân cư Hải Dương còn nổi tiếng với các nghề truyền thống như
kim hoàn, chạm khắc gỗ, chế biến bánh kẹo...

Trong bối cảnh phát triển mới, cư dân trong tỉnh vừa cố gắng gìn giữ phát triển
các ngành nghề truyền thống, vừa tiếp thu KH-CN hiện đại. Với óc sáng tạo, năng lực cải
tiến, đã hình thành thêm những ngành nghề mới, tạo ra cục diện mới trong phân công và

Footer Page 11 of 166.


Header Page 12 of 166.

sắp xếp lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho chính mình và toàn cộng
đồng.
Nguồn lao động dồi dào nhưng phần lớn là lao động phổ thông, tỷ lệ lao động đào
tạo thấp (23%), năng suất lao động chưa cao: năm 2004 giá trị bình quân GDP thực tế /một lao
động chung toàn nền kinh tế là 12.934.000 đồng/lao động, (cả nước khoảng 14.300.000
đồng), trong đó nông nghiệp đạt 4.102.000 đồng/lao động, công nghiệp 39.039.000 đồng/lao
động và dịch vụ đạt 32.320.000 đồng/ lao động. Như vậy năng suất lao động chung theo sơ
bộ tính toán là tương đối thấp so với cả nước. Trong các khối năng suất lao động, ngành
nông - lâm - thủy sản chỉ đạt 38% so với mức trung bình của tỉnh, công nghiệp - xây
dựng gấp 3,7 lần và ngành dịch vụ gấp 3 lần.
Thời gian sử dụng lao động trong nông nghiệp chiếm 78% (năm 2004). Cơ hội
kiếm việc làm có thu nhập cao và điều kiện nâng cao trình độ, kỹ năng làm việc còn
nhiều bất cập. Chất lượng lao động nhìn chung còn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển: tỷ lệ
được đào tạo thấp, thể lực, trí lực, tính kỷ luật, tác phong còn ảnh hưởng của nền sản xuất
nhỏ.
Lao động có việc làm và đang làm việc ở các ngành trong nền kinh tế quốc dân
tăng khá, song cơ cấu còn bất hợp lý. Số lao động làm việc tại các ngành công nghiệp,
dịch vụ chiếm tỷ lệ thấp, trong khi số lao động khu vực nông - lâm - thủy sản chiếm tỷ
trọng lớn. Sở dĩ có sự bất hợp lý này là do:
- Khả năng thu hút lao động nông nghiệp sang các ngành nghề phi nông nghiệp
còn nhiều khó khăn, lao động có tay nghề có kỹ năng, được đào tạo trong các lĩnh vực

còn quá thấp, đặc biệt là khu vực nông thôn, khiến người lao động không hoặc khó có cơ
hội chuyển nghề, tìm việc làm mới hoặc chuyển nghề và phải chấp nhận các công việc
lao động giản đơn, truyền thống dựa hẳn vào đồng ruộng theo kiểu cha truyền con nối.
Theo điều tra năm 2003, lao động có trình độ từ sơ cấp đến công nhân kỹ thuật có bằng
trở lên chiếm 24,5%.
Số lao động hằng năm tăng lên nhanh trung bình khoảng 6.000 người/năm. Nếu cộng
cả số lao động còn dôi dư và thiếu việc làm, thì vấn đề giải quyết việc làm đặt ra là một

Footer Page 12 of 166.


Header Page 13 of 166.

bài toán rất khó khăn của địa phương. Trong khi đó các ngành công nghiệp thiên về các
công nghệ hiện đại sử dụng nhiều vốn.
Việc cải thiện bất hợp lý trong chuyển dịch cơ cấu lao động là rất khó khăn vì
trong nền kinh tế thị trường luôn diễn ra cạnh tranh gay gắt. Mặt khác, trong tiến trình
CNH, HĐH, nhu cầu nâng cao năng suất lao động dẫn đến việc đào thải lực lượng lao
động không có kỹ năng và chất lượng thấp, tạo ra thất nghiệp, trong khi khả năng đào tạo
và đào tạo lại kỹ năng cho hàng loạt lao động hiện tại đang còn gặp nhiều khó khăn (Phụ
lục 3).
Trên đây là một số đặc điểm cơ bản về tự nhiên - kinh tế - xã hội của tỉnh Hải
Dương, những đặc điểm đó có tác động rất lớn, là cơ sở để Đảng bộ tỉnh hoạch định chủ
trương, chính sách đúng đắn trong quá trình lãnh đạo chuyển dịch kinh tế nói chung và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng theo hướng CNH, HĐH.
1.1.2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương
trước năm 1997
Trước năm 1997, Hải Dương nằm trong tỉnh Hải Hưng. Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh Hải Hưng lần thứ VII (tháng 5/1996) đã đánh giá những thành tựu kinh tế nổi bật trong
5 năm 1991 - 1995 của Hải Hưng là: đã thoát ra khỏi suy thoái, tuy còn một số mặt chưa

vững chắc. Các chương trình kinh tế - xã hội triển khai sớm và thực hiện có hiệu quả. Tổng
sản phẩm trong tỉnh GDP tăng bình quân 9,3%. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 94,78 triệu đô
la. Năm 1995 thu nhập bình quân đầu người 256 đô la. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển
dịch theo hướng CNH, HĐH, tỷ trọng nông nghiệp - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ đạt
45% - 25% - 30%. Trong đó nông nghiệp Hải Hưng có tốc độ tăng 7,43%. Sản lượng lương
thực bình quân 1,1 triệu tấn/năm; riêng năm 1995 đạt 1,3 triệu tấn, năng suất lúa đạt 103
tạ/ha, lương thực bình quân đầu người là 485kg/năm. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đã đa
dạng và phong phú, giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích đạt 26 triệu đồng/ha. Tỷ trọng
nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản là 48% - 24% - 28%, tính đến năm 1996 bình quân quỹ
đất nông nghiệp/khẩu nông nghiệp là 742 m2, trong đó đất canh tác là 596 m2/người
(khoảng 1,6 sào Bắc Bộ). Quỹ đất có khả năng mở rộng sản xuất nông nghiệp còn không

Footer Page 13 of 166.


Header Page 14 of 166.

đáng kể. Đây là một đặc trưng nổi bật nhất của một tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Hướng chính
để mở rộng sản xuất nông nghiệp của Hải Dương là đi sâu vào thâm canh, tăng vụ và
tăng chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Trong nhiều năm qua sản xuất nông nghiệp đã
giải quyết đủ nhu cầu lương thực, thực phẩm cho dân cư tại địa phương và có một khối
lượng nông sản dư thừa khá lớn. Nhưng việc tiêu thụ lượng nông sản này đang gặp khó
khăn do nhiều nguyên nhân như:
- Do chất lượng nông sản thấp; chưa tạo được các vùng chuyên canh, tập trung để
đáp ứng cho công nghiệp chế biến.
- Quy mô ruộng đất nhỏ, manh mún, do vậy khi tiến hành CNH, HĐH nông
nghiệp gặp rất nhiều khó khăn.
- Do nhận thức của nhà nông còn hạn chế để phòng ngừa rủi ro và bảo đảm tự
túc lương thực, thực phẩm cho nên họ đã lựa chọn mô hình đa dạng hóa sản xuất.
- Chưa có vùng nguyên liệu đủ tiêu chuẩn dẫn đến chưa có một mạng lưới chế

biến nông sản có công nghệ tiên tiến, hiện đại, đủ sức cạnh tranh với thị trường khu vực
và thế giới.
Từ khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 8 năm 1988) về đổi mới quản lý
kinh tế nông nghiệp, giao quyền tự chủ sản xuất cho hộ nông dân, cho lưu thông lương
thực, giải phóng sức sản xuất, giải quyết thỏa đáng các mối quan hệ sản xuất và lợi ích
của nông dân, nông nghiệp cả nước nói chung và tỉnh Hải Dương nói riêng đã có bước
phát triển mới, bộ mặt nông nghiệp có nhiều thay đổi. Đặc biệt với đường lối Đại hội VII
(1991), cơ chế thị trường đã được khẳng định và đi vào cuộc sống, nhất là sau Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 5 khóa VII (6/1993) Về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã
hội nông thôn và Luật Đất đai năm 1993 thì xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày càng
được mở rộng rất đa dạng, phong phú.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương cũng chuyển dịch từ độc canh lương
thực sang nền nông nghiệp hàng hóa đa canh phù hợp với đặc điểm từng vùng.

Footer Page 14 of 166.


Header Page 15 of 166.

Đối với vùng ven đô, ven thị: Từ ngày hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh
tế tự chủ, được giao quyền sử dụng lâu dài, họ đã thực sự yên tâm, phấn khởi sản xuất, tìm
tòi và áp dụng nhiều biện pháp thâm canh mới, điều kiện thời tiết lại tương đối thuận lợi, do
đó Hải Dương được mùa liên tiếp, lương thực vượt "cửa ải" 1 triệu tấn, năm 1993 đạt 1,25
triệu tấn và năm 1995 đạt 1,31 triệu tấn, giải quyết được vấn đề lương thực, người nông dân
không còn lo nghĩ thiếu đói, họ nghĩ ngay đến việc sản xuất lương thực hàng hóa cung cấp
cho thị trường. Xu hướng là thu hẹp diện tích gieo trồng lương thực chuyển sang cơ cấu mới:
cây ăn quả, cây dược liệu, cây cảnh... và chăn nuôi như nuôi lợn, gà công nghiệp... Đối với
thủy sản: phát triển nuôi cá, ba ba... Điển hình của loại hình này là xã Mễ Sở huyện Châu
Giang bình quân ruộng đất chỉ đạt 396 m2/người, năm 1989 tổng diện tích trồng lúa là 194 ha
nhưng đến năm 1993 chỉ còn 12 ha trồng lúa, 72 ha ngô, còn đại bộ phận diện tích đất trồng

lúa đã chuyển đổi sang trồng hoa và cây cảnh. Với cách làm trên, xã Mễ Sở đã tạo ra bước
phát triển mới đưa giá trị thu nhập trên 1 ha đất từ 5 - 7 triệu đồng/năm lên đến 30-50
triệu đồng/năm, từ chỗ thừa lao động đến thiếu lao động và sử dụng lao động nơi khác
đến, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng nâng cao.
Đối với vùng đất trũng: với cơ cấu hai vụ lúa bấp bênh, năng suất thấp, được nông
dân đầu tư công sức cải tạo đất, đào ao, lập vườn hình thành cơ cấu mới: vải thiều - chuối
- nuôi cá - nuôi ong. Chuyển dịch cơ cấu theo hướng này được mở rộng ở các huyện Cẩm
Bình, Nam Thanh, Tứ Lộc... Việc chuyển dịch cơ cấu theo hướng mới có tác dụng hình thành
một mô hình canh tác nông nghiệp mới, hạn chế yếu tố bất lợi, khai thác lợi thế, nâng cao
hiệu quả kinh tế.
Đặc biệt, sự chuyển dịch hệ thống cây trồng đối với vùng đất trũng tại xã Thanh
Thủy (Nam Thanh) đã đạt hiệu quả kinh tế cao, tính đến cuối năm 1993 toàn bộ đất vườn của
xã là 56,6 ha, có hộ có tới 7 - 9 sào vườn, nhưng có hộ lại không có, vùng đất này có thể
trồng nhiều loại cây như cam, quất, táo, hồng xiêm, chanh. Nhưng thời kỳ này cây vải thiều
chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, cây vải thiều có ở vùng đất này từ lâu. Do trước đây thiếu
lương thực và việc giao lưu nông sản phẩm gặp khó khăn nên nông dân đã phá một số vườn
vải thiều để cấy lúa, đặc biệt thời tiết vụ đông xuân trời âm u, mưa phùn nhiều, cây vải thiều
rụng hoa nhiều mà đậu ít. Nông dân cho rằng: "Trời sinh, trời dưỡng", chủ yếu tập trung vào

Footer Page 15 of 166.


Header Page 16 of 166.

trồng ra hạt lúa, củ khoai, nên một thời gian dài cây vải thiều đã bị bỏ quên. Do chủ trương
đổi mới đúng đắn, một cơ chế đúng đã thức dậy bao tiềm năng. Hàng hóa nông sản được
giao lưu tự do, đặc biệt là áp dụng KH-CN vào thâm canh vườn, phun thuốc đậu quả cho
cây nên vải thiều đã thực sự thành cây trồng đặc sản trong vườn mang lại hiệu quả kinh tế
cao cho nông dân Thanh Thủy. Vải thiều có thể dùng ăn tươi hoặc sấy khô, 1 kg vải thiều lúc
thu hoạch rộ là 6.000-7.000 đồng. Lúc cuối vụ tới 25.000 đến 30.000 đồng, nếu được sấy

khô thì càng có giá trị cao hơn. Bằng kết quả thực tế: 1 sào vải thiều lúc khép tán sau 15 năm
trồng có 5 đến 6 cây. Chỉ tính là hai năm được mùa một lần do hiện tượng "1 năm ăn quả, 1
năm trả cành" thì 1 cây cho thu hoạch từ 500.000 đồng đến 1 triệu đồng. Như vậy 1 sào vải
sẽ cho thu nhập gấp nhiều lần cấy lúa. Nông dân lập vườn bằng cách đào đất hai bên đắp
vào giữa thành luống, bề mặt luống rộng khoảng 3 mét và cao hơn mặt ruộng khoảng 0,5
đến 0,7 mét. Mỗi sào (360 m2) thì trồng từ 5 - 6 cây. Xen kẽ giữa các luống là những rãnh
sâu thành ao để thả cá. Cây vải được trồng vào giữa luống. Lúc cây vải chưa khép tán,
trồng xen các cây như: quất, chuối, cam... Với phương châm lấy ngắn nuôi dài, dưới rãnh
sẽ thả cá. Đây là mô hình có sức thu hút lớn với đa số nông dân ở xã Thanh Thủy nói
riêng và huyện Nam Thanh nói chung.
Theo tính toán của người dân có kinh nghiệm cho biết:
Đầu tư vốn cố định (thời giá năm 1993)
Lập vồng:
Giống cây vải:
Tổng chi:

600.000 đ/sào
50.000 đ/sào
650.000 đồng/sào.

Đầu tư vốn lưu động trong ba năm đầu:
Cá giống: 45.000đ x 3 năm

= 135.000 đ/ 3 năm

Chi khác cho nuôi cá: 10.000đ x 3 năm

= 30.000 đ/ 3 năm

Phân bón cho cây vải: 20.000đ x 3 năm = 60.000 đ/ 3 năm

Trồng xen: 18.000đ x 3 năm

Footer Page 16 of 166.

= 54.000 đ/3 năm


Header Page 17 of 166.

Tổng chi:

279.000 đ

Đầu tư vốn lưu động trong 7 năm tiếp theo:
Chi nuôi cá: 55.000đ x 7

= 385.000 đ

Chi phân bón cây vải: 20.000 x7
Tổng chi:

= 140.000 đ

525.000 đ

- Chi giao nộp trong 10 năm:
- Thuế: 20 kg thóc x 1.100đ/kg x 10 năm

= 220.000 đ


Tổng chi 10 năm:
650.000đ + 279.000đ + 525.000đ + 220.000đ = 1.674.000 đ
Bình quân 1 năm là 167.400 đ.
Thu:
Quả vải: 5 cây x 40kg x 5.000đ x 7 năm
Thu trồng xen 3 năm đầu:

= 7.000.000 đ
=

420.000 đ

Thu về cá: 50kg x 5.000đ x 10 năm

= 2.500.000 đ

Tổng thu 10 năm:

= 9.920.000 đ

Tổng thu 1 năm

=

992.000 đ

Kết quả: Lãi 1 năm 992.000 đ - 167.400 đ

=


824.600 đ

1 đồng vốn bỏ ra 1 năm thu được 6 đồng. So với trồng lúa thì 1 sào vải thiều thu
gấp 6,3 lần so với 1 sào lúa.
Như vậy, hướng chuyển đổi từ ruộng trũng cấy lúa bấp bênh năng suất thấp sang
thành vườn cây đặc sản và ao cá thực sự có hiệu quả, đồng thời tạo môi trường sinh thái tốt.
Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của từng hộ mà tính toán cho phù hợp hướng
chuyển dịch cơ cấu cây trồng tạo ra bước ổn định và vững chắc, đồng thời phải phù hợp với
chủ trương an toàn lương thực quốc gia.

Footer Page 17 of 166.


Header Page 18 of 166.

Đối với vùng đất trồng lúa: Xu hướng diễn ra theo nhu cầu thị trường, bố trí lại cơ
cấu giống lúa, chọn giống có chất lượng, năng suất cao và được thị trường chấp nhận, một
số huyện đã cấy lúa nếp hoa vàng, tám thơm... bán ra thị trường với giá từ 5.000-7.000
đồng/ 1kg gạo, cao gấp hai lần giá gạo thường như huyện Kinh Môn, Cẩm Giàng... Nhiều
nơi nông dân đã thay đổi hình thức luân canh trên một đơn vị diện tích để tìm kiếm lợi
nhuận, trước kia đầu tư luân canh hai vụ lúa chỉ cho giá trị từ 12 - 15 triệu đồng/ha. Cho nên
một số hộ nông dân ở xã Toàn Thắng (Gia Lộc) với công thức lúa + đậu tương + 2 vụ bắp
cải cho giá trị 55-57 triệu đồng/ha; xã Thạch Khôi (Gia Lộc) với cách chuyển đổi 3 vụ rau
giống + 2 vụ bắp cải + 1 vụ lúa xuân cho giá trị 100-105 triệu đồng/ha.
Về thủy sản: Hầu hết diện tích mặt nước trước đây nuôi cá quảng canh, thả rau bèo
hoặc bỏ hoang đã được các hộ thuê và đầu tư nuôi cá hoặc một số ruộng quá trũng, trồng
lúa thu hoạch bấp bênh, lỗ vốn, các địa phương đã cho thuê cải tạo thành ao thả cá, trên
bờ trồng cây ăn quả: chuối, chanh, vải, cam... đã cho thu nhập từ 20 - 40 triệu đồng/ha,
cao gấp nhiều lần trồng lúa.
Chuyển dịch cơ cấu chăn nuôi: Thực tiễn ở Hải Dương cho thấy, được mùa lương

thực thì kéo theo chăn nuôi cũng phát triển, đàn lợn, trâu, bò, gia cầm đều tăng. Chuyển dịch cơ
cấu trong chăn nuôi trước hết là cải tạo và thay đổi giống, thay giống đực ngoại, nuôi lợn thịt
ngoại tăng, tỷ lệ máu ngoại cao trong lợn lai nhằm tăng trọng và tăng tỷ lệ nạc, đáp ứng nhu
cầu xuất khẩu, phát triển đàn bò lai... Cùng với việc cải tiến cơ cấu và khẩu phần thức ăn chăn
nuôi, phương pháp chăn nuôi cũng thay đổi, nuôi lợn theo phương pháp ủ men, mỗi hộ có thể
nuôi hàng chục lợn thịt mỗi lứa và hàng nghìn con gà công nghiệp... Nhưng giá thành các sản
phẩm chăn nuôi còn cao, do năng suất con giống thấp, giá thành thức ăn gia súc cao và chưa
tổ chức được vùng chăn nuôi hàng hóa tập trung.
Về lâm nghiệp: Kinh tế đồi rừng được khuyến khích phát triển, thực hiện
Chương trình 327 của Chính phủ, đến cuối năm 1996 trồng mới hơn 4.000 ha rừng, 2.000
ha vườn đồi chủ yếu là trồng vải thiều.
Đánh giá chung: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hải Dương
trước 1997 tuy diễn ra sôi động, đa dạng, bước đầu đạt một số kết quả, nhưng chưa đều.

Footer Page 18 of 166.


Header Page 19 of 166.

Vai trò lãnh đạo của cấp ủy cơ sở nói chung còn yếu nên phong trào có phần mang tính tự
phát, rập khuôn và chứa nhiều yếu tố rủi ro.
Sản xuất phân tán, manh mún, trình độ công nghệ trong nông - lâm -thủy sản lạc
hậu, khả năng cạnh tranh nông sản thấp, giá thành cao.
Cơ sở hạ tầng nông thôn còn yếu kém và chưa đáp ứng được yêu cầu của một
nền nông nghiệp hàng hóa sản xuất lớn.
Quan hệ sản xuất ở nông thôn chậm đổi mới, còn nhiều lúng túng dẫn đến trì trệ,
hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế thấp.
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp còn có những yếu kém.
1.2. Đảng bộ tỉnh Hải Dương quán triệt chủ trương của Đảng về chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở địa phương (1997 - 2000)

1.2.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển nông nghiệp và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2.1.1. Chủ trương của Đảng về phát triển nông nghiệp
Ngay từ những năm đầu xây dựng CNXH ở miền Bắc, Đảng ta, đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực
tế của nước ta về CNXH và con đường tiến lên CNXH. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
Đặc điểm lớn nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu
tiến thẳng lên CNXH không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Các Đại
hội của Đảng tiếp sau đã khẳng định, từng bước làm rõ thêm đặc điểm to lớn đó, lấy đó
làm cơ sở để định ra đường lối chiến lược, trong đó có đường lối kinh tế cho cách mạng
Việt Nam. Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III sau khi phân tích tình
hình trong nước và thế giới, đã đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam
là: Tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc và giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị
của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân trong cả nước. Trong đó chỉ rõ, tiến hành cuộc cách mạng XHCN ở miền

Footer Page 19 of 166.


Header Page 20 of 166.

Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối
với sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Đại hội III đã xác định: Công cuộc cách mạng
XHCN ở miền Bắc phải là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt nhằm đưa miền
Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất sang nền kinh tế dựa
trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ sản xuất lớn
XHCN, từ tình trạng kinh tế rời rạc và lạc hậu, xây dựng thành một nền kinh tế cân đối
và hiện đại, làm cho miền Bắc tiến bộ mau chóng, thành cơ sở ngày càng vững chắc cho
sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: "Vì nước ta là
một nước nông nghiệp, mọi việc đều dựa vào nông nghiệp", cho nên "các cơ quan nhà

nước phải quan tâm hơn nữa đến nông nghiệp, phát huy nhiều hơn nữa tác dụng của
ngành mình trong sản xuất nông nghiệp" [37, tr. 415].
Đại hội III của Đảng đã nhấn mạnh một số quan điểm cơ bản như: Kết hợp cải
tạo với xây dựng, coi cải tạo XHCN và xây dựng CNXH là hai mặt của công cuộc cách
mạng XHCN, trong đó lấy cải tạo nông nghiệp làm khâu chính của công cuộc cải tạo
XHCN. Hội nghị Trung ương 5 khóa III năm 1961 đã ra Nghị quyết về vấn đề phát triển
nông nghiệp, trong đó nêu lên phương án cải tiến công cụ và cơ giới hóa nông nghiệp
trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Sau này các Hội nghị Trung ương Đảng
tiếp tục bổ sung và phát triển chủ trương, nhằm đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp.
Trong giai đoạn này, Đảng và Nhà nước đã đầu tư hàng nghìn máy kéo lớn nhỏ,
hàng vạn động cơ điện, động cơ nổ, hàng triệu công cụ cải tiến phục vụ cho nông nghiệp,
tạo ra năng suất chất lượng cao, do đó từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, đặc biệt là người nông dân luôn phấn khởi, tin tưởng vào đường
lối của Đảng, sản xuất nông nghiệp để đạt được những thành tựu rất đáng tự hào, ngay cả
trong điều kiện có chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ ở
miền Bắc.
Năm 1975, miền Nam nước ta được hoàn toàn giải phóng là một bước ngoặt có ý
nghĩa lịch sử trọng đại của cả dân tộc ta, mở ra giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam.
Nước ta từ chỗ bị chia cắt và chiến tranh ác liệt, lâu dài chuyển sang gia đoạn mới, đó là

Footer Page 20 of 166.


Header Page 21 of 166.

cả nước độc lập, thống nhất. Tình hình mới của đất nước sau giải phóng đặt ra cho Đảng
ta trách nhiệm phải bổ sung và hoàn chỉnh đường lối, nhằm chuyển cuộc cách mạng cả
nước, đồng thời xác định nhiệm vụ cụ thể phù hợp với đặc điểm từng miền. Để đáp ứng
yêu cầu đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12-1976) đã đề ra
đường lối chung và đường lối xây dựng kinh tế trong giai đoạn cách mạng mới ở nước ta.

Đặc biệt, Đại hội đã chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980)
là: tập trung lực lượng phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc;
đồng thời đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng...
Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị
lần thứ hai (7/1977), với chủ trương: Tập trung cao độ lực lượng cả nước thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ phát triển nông nghiệp.
Hội nghị vạch rõ: trong những năm trước mắt, phải phát triển vượt bậc sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giải quyết cho được vấn đề lương thực, thực phẩm,
tạo ra những điều kiện vật chất thuận lợi để xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của CNXH,
đồng thời cải thiện một bước đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Nhân dân ta bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ hai với những thuận lợi rất cơ bản:
lực lượng lao động dồi dào; tiềm lực to lớn của nền kinh tế cả nước đã thống nhất; sự
giúp đỡ và hợp tác kinh tế, kỹ thuật của cả nước XHCN và các nước dân chủ tiến bộ trên
thế giới, sự nhất trí về chính trị, tinh thần và khí thế phấn khởi của toàn dân sau khi đã
chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược... Bên cạnh những thuận lợi ấy, đất nước ta còn có rất
nhiều khó khăn do hậu quả nặng nề hơn 30 năm chiến tranh khốc liệt của chế độ thực dân cũ
và mới để lại, đòi hỏi chúng ta phải khắc phục trong thời gian dài. Trong khi đó, những nhu
cầu bức thiết của đời sống nhân dân đặt ra sau chiến tranh phải giải quyết nhanh chóng, phải
tổ chức lại nền kinh tế vốn nghèo nàn, lạc hậu, dựa trên sản xuất nhỏ là chủ yếu, tiến lên xây
dựng nền sản xuất lớn XHCN trong cả nước, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân, vừa
phải tích lũy để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, đồng thời phải bảo đảm củng
cố nền an ninh quốc phòng. Đặc biệt trong giai đoạn này nước ta luôn phải chống lại với
thiên tai khắc nghiệt trong mấy năm liền làm cho sản xuất nông nghiệp bị thất thu lớn, những
trận bão lụt liên tiếp xảy ra trên cả hai miền Nam, Bắc trong năm 1978 làm cho sản lượng

Footer Page 21 of 166.


Header Page 22 of 166.


lương thực thất thu tới 3 triệu tấn, các phương tiện sản xuất bị phá hủy và hư hỏng nặng. Để
khắc phục, nhân dân ta đã nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, "nhường cơm sẻ áo", giúp
đỡ lẫn nhau, vượt qua khó khăn và thử thách. Nhiều nhân tố mới, tích cực đã xuất hiện trong
sản xuất, xây dựng và chiến đấu. Trong ba năm 1976 - 1978, ngành nông nghiệp đã có thêm
gần một triệu héc-ta đất phục hóa và khai hoang. Để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, Đảng
và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách lớn như: đầu tư làm thủy lợi, thực hiện
cơ giới hóa nông nghiệp... đưa hàng vạn máy kéo lớn nhỏ, hàng chục vạn động cơ nổ các
loại vào phục vụ sản xuất... Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong phát triển kinh tế, song nền
kinh tế nông nghiệp ở nước ta giai đoạn này rất thấp, những năm 1976 - 1980 sản xuất nông
nghiệp tăng 1,9%, trong khi đó dân số mỗi năm tăng gần 1 triệu người, nông nghiệp phát
triển chậm không theo kịp sự gia tăng dân số nên đất nước thiếu lương thực, thực phẩm triền
miên. Nông nghiệp chậm phát triển, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do chính sách và cơ
chế quản lý đối với nông nghiệp không khuyến khích và thúc đẩy sản xuất phát triển,
nhiều năm nông nghiệp chưa được đầu tư thích đáng, đúng với vị trí của nó trong nền
kinh tế quốc dân.
Trước tình hình cấp bách đó, đòi hỏi Đảng ta phải có chủ trương, chính sách đổi
mới trong kinh tế nông nghiệp. Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (khóa IV) năm 1979 đã
khởi động với tư tưởng: làm cho sản xuất bung ra. Mở đầu là Chỉ thị 100 (1981) của Ban
Bí thư về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động
trong nông nghiệp. Chỉ thị 100 tạo ra sự thay đổi bước đầu nhận thức về hợp tác xã (HTX),
hộ xã viên, tác động làm thay đổi cơ chế quản lý HTX, xác định vai trò, vị trí của người
lao động.
Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (1981) là chính sách lớn
của Đảng đối với nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 1981 - 1987. Chỉ thị đặt ra mục tiêu:
Đảm bảo phát triển sản xuất nông nghiệp và nâng cao hiệu quả kinh tế; củng cố và tăng
cường quan hệ sản xuất XHCN ở nông thôn; nâng cao thu nhập và đời sống của xã viên,
tăng tích lũy HTX; làm tròn nghĩa vụ và tăng khối lượng nông sản cung cấp cho Nhà nước.
Điểm mấu chốt của Chỉ thị 100 là thực hiện khoán sản phẩm với việc:

Footer Page 22 of 166.



Header Page 23 of 166.

- Xác định lại về tổ chức quản lý và phân công lại lao động trong HTX.
- Xóa bỏ phân phối theo ngày công thả nổi, chuyển sang phân phối theo ngày
công kế hoạch trên cơ sở định mức kinh tế, kỹ thuật. Thu nhập của xã viên bao gồm phần
thu trong khoán và toàn bộ phần thu vượt khoán.
Chỉ thị 100 ra đời đã tạo ra động lực mới khuyến khích lợi ích vật chất đối với
người nhận khoán. Do vậy, chỉ sau 1 năm, hầu hết các HTX, tập đoàn sản xuất trong cả
nước đã triển khai thực hiện. Nông dân phấn khởi đầu tư thêm công sức, tiền vốn, vật tư,
áp dụng tiến bộ KH-CN, tận dụng đất đai... để phát triển sản xuất mà trước hết là lương
thực. Nhờ đó sản xuất phát triển, số lượng lương thực nhập khẩu giảm; lương thực, thực
phẩm cung cấp cho Nhà nước được tăng lên. Trong 5 năm 1976 - 1980 mức huy động chỉ
đạt 13,3% sản lượng lương thực, thì ở giai đoạn 1981 - 1985 là 22%; sản lượng thịt huy
động cũng tăng từ 12 vạn tấn lên 26 vạn tấn (Phụ lục 4, 5).
Thực tiễn của gần 30 năm xây dựng CNXH ở miền Bắc và những năm sau ngày
đất nước thống nhất. Đảng ta ngày càng thấy rõ vị trí quan trọng của sản xuất nông
nghiệp.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3 năm 1982) đã khẳng định
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu và đề ra mục tiêu kinh tế - xã hội tổng quát, những
chính sách lớn cho chặng đường trước mắt:
Trong 5 năm 1981-1985 và những năm 80, cần tập trung sức phát triển mạnh
nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản
xuất lớn XHCN, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số
ngành công nghiệp nặng quan trọng, kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và
công nghiệp nặng trong một cơ cấu công-nông nghiệp hợp lý [21, tr. 62-63].
Đại hội chỉ rõ: Chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta đề ra những
phương hướng chiến lược kinh tế - xã hội của chặng đường này, quyết định được những
vấn đề có tính nguyên tắc về mục tiêu chính sách và biện pháp. Muốn vậy, việc xây dựng

và phát triển công nghiệp nặng phải có mức độ phù hợp với điều kiện và khả năng, nhằm

Footer Page 23 of 166.


Header Page 24 of 166.

phục vụ thiết thực và có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng, đáp
ứng yêu cầu vừa bảo đảm tiêu dùng xã hội vừa có tích lũy. Trên quan điểm đó phải bố trí
lại cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, quy định vị trí, nội dung và mức độ phát triển các ngành
kinh tế, kết hợp đúng đắn ngay từ đầu công nghiệp và nông nghiệp trong một cơ cấu hợp
lý. Đảng luôn trung thành và vận dụng sáng tạo có sự phát triển và bổ sung lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin vào tình hình thực tiễn của cách mạng nước ta và khẳng định: Trong
chặng đường đầu của thời kỳ quá độ việc đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn
XHCN trong điều kiện chưa có đại công nghiệp, điều đó đòi hỏi nông nghiệp phải tự
vươn lên để nhanh chóng tạo ra nông sản xuất khẩu, để có nguồn vốn, mở rộng sản xuất.
Xuất phát từ cái sẵn có tự khả năng có thể huy động được ngay để tạo ra nguồn vốn tích
lũy ban đầu cho công nghiệp hóa XHCN, đồng thời đáp ứng được những nhu cầu cấp
bách về đời sống nhân dân và an ninh - quốc phòng.
Với chủ trương đúng đắn của Đảng, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến
và tiến bộ quan trọng, nhất là trong nông, lâm, thủy sản, đã đạt được tiến bộ rõ rệt. Trong
thời kỳ 1981 - 1985 nông nghiệp tăng bình quân hằng năm 4,9% so với 1,9% hằng năm
của thời kỳ 1976 - 1980, sản lượng lương thực tăng bình quân 17 triệu tấn/năm so với
13,4 triệu tấn/năm. Thu nhập quốc dân tăng bình quân hằng năm 6,4% so với 0,4%. Tuy
vậy, trên thực tế những năm sau đó nông nghiệp vẫn chưa thực sự được coi là mặt trận
hàng đầu, không được đảm bảo những điều kiện cần thiết để phát triển, nhất là vật tư, tiền
vốn và chính sách khuyến khích. Vẫn bị coi nhẹ về tổ chức, đầu tư, chính sách. Chính vì
vậy mà nhiều khó khăn, mất cân đối trong nền kinh tế đã không giải quyết được, thậm chí
còn trầm trọng thêm. Do bao cấp nặng nề, sản xuất có tăng nhưng hàng hóa vẫn thiếu
nghiêm trọng, ngân sách thiếu hụt lớn, tỷ lệ lạm phát cao nếu lấy năm 1976 là 100% thì

năm 1989 là 313,7% và năm 1986 là 774,7%. Đứng trước những khó khăn, thách thức
của cách mạng, Đảng ta đã quyết định tiến hành công cuộc đổi mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 là bước ngoặt trong
đổi mới tư duy của Đảng ta về CNXH nói chung và về phát triển nông nghiệp nói riêng.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội đã
khẳng định những thành tựu đã đạt được trên các mặt, nêu rõ những mặt yếu kém, khó

Footer Page 24 of 166.


Header Page 25 of 166.

khăn gay gắt. Đại hội đã tổng kết bốn bài học kinh nghiệm lớn, trong đó có bài học
"Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng" [22, tr. 30]. Đại hội VI đã đề ra những quan điểm và chính sách đổi
mới, trước hết là đổi mới kinh tế; thực hiện ba chương trình kinh tế lớn, nhấn mạnh vai
trò hàng đầu của nông nghiệp trong việc đáp ứng những yêu cầu cấp bách về lương thực,
thực phẩm, nguyên liệu sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Phấn đấu đưa nông
nghiệp trở thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa XHCN; thừa nhận cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần; xác định đẩy mạnh cải tạo XHCN là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục
trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Xóa bỏ cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp,
xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền kinh
tế.
Đại hội chỉ rõ: "Trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt là
trong kế hoạch 5 năm 1986-1990, phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc thực
hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu" [22, tr. 47].
Đại hội nhấn mạnh: Trong toàn bộ quá trình xây dựng CNXH, kể cả chặng
đường hiện nay, không được tách rời giữa công nghiệp và nông nghiệp hoặc coi trọng một

ngành kinh tế nào. ở mỗi giai đoạn, trong từng chặng đường, vị trí, vai trò của nông nghiệp
và công nghiệp có khác nhau. Nhưng trong chặng đường hiện nay phải tập trung sức phát
triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên
sản xuất lớn XHCN.
Sau Đại hội VI, toàn Đảng, toàn dân ta quyết tâm thực hiện đường lối của Đảng.
Công cuộc đổi mới được triển khai mạnh mẽ. Tuy vậy nền kinh tế nước ta năm 1987 1988 diễn biến rất phức tạp, có lúc khó khăn tưởng chừng khó vượt qua. Ba năm liền lạm
phát vẫn ở ba con số: năm 1986 lạm phát lên đến 774,7%, đến đầu năm 1988 vẫn ở mức
398,3%. Vì vậy, đời sống của những người hưởng lương và trợ cấp xã hội giảm sút mạnh.
Nhiều xí nghiệp quốc doanh và HTX tiểu thủ công nghiệp đình đốn thua lỗ, sản xuất cầm

Footer Page 25 of 166.


×