Tải bản đầy đủ (.pptx) (28 trang)

Thuyết trình Công giáo ở Việt Nam 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.48 MB, 28 trang )

Chủ đề: Đạo Công giáo và quá
trình phát triển đạo Công giáo
tại Việt Nam
Nhóm: Vũ Thị Oanh
Mai Thị Phương
Nguyễn Hằng Nga
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Lê Thị Bích Thảo
Vũ Thị Nga


NỘI DUNG
I. Vài nét về đạo Công giáo
II.

Cấu trúc đạo Công giáo

1.

Giáo lí Công giáo

2.

Giáo chủ Công giáo

3.

Nghi lễ Công Giáo

4.


Tổ chức Công giáo

5.

Niềm tin Công giáo

III.

Qúa trình hình thành và phát triển công giáo ở Việt
Nam


I. VÀI NÉT VỀ ĐẠO CÔNG GIÁO
• Công giáo là tôn giáo thuộc Kito giáo.Đạo Công giáo là một trong những tôn giáo
có số lượng tín đồ, giáo sĩ lớn nhất thế giới
• Giáo hội Công giáo có mặt tại Việt Nam từ thế kỷ 16 khi các nhà truyền giáo
châu Âu tới giảng đạo. Trải qua nhiều thăng trầm và biến đổi lịch sử, cho đến năm
2005, Công giáo tại Việt Nam có 5,7 triệu tín hữu (chiếm 6,95%) trong tổng số dân
82 triệu, với 3.100 linh mục, 14.400 tu sĩ, 1.249 đại chủng sinh và 53.800 giáo lý
viên. Tới năm 2008, theo thống kê của Giáo hội, số lượng tín hữu Công giáo Việt
Nam là hơn 6,18 triệu người, chiếm tỉ lệ 7,18% tổng dân số.


II. Cấu trúc đạo Công giáo

1. Giáo lí của đạo Công giáo
•Giáo lý Công giáo là một hệ thống từ giản đơn cho tín đồ đến phức tạp
của các học thuyết kinh viện với các quan điểm triết học và thần học siêu
hình, căn cứ vào kinh thánh nhưng phải dựa vào những lời giải thích
truyền thống và là thẩm quyền của Giáo hội. Tín đồ không có quyền kê

cứu kinh thánh. Luật lệ, lễ nghi của Công giáo rất phức tạp (12 tín điều
trong kinh tín kính,10 điều răn của Chúa, 6 điều răn của Hội thánh, 7 phép
bí tích, 1752 điều luật). Công giáo đề cao thuyết thần quyền tuyệt đối
(mọi việc do Chúa định) và thuyết giáo quyền tập trung (Giáo Hoàng là
đại diện Thiên chúa ở trần gian).


II. Cấu trúc đạo Công giáo
•Kinh thánh
• - Kinh thánh theo quan niệm của giáo hội là “lời Chúa truyền dạy đời đời” là một bộ sách gồm 73 quyển được chia
làm 2 bộ Tân ước và Cựu ước
•Kinh thánh chia làm 2 bộ:
•+ Bộ Cựu ước: có 46 cuốn. Kể về những chuyện trước khi Chúa Giê su ra đời. Bộ này chia làm 4 tập.
•Tập 1: Bao gồm 5 cuốn đầu tiên (Ngũ kinh) gồm Sáng thế ký, Xuất hành ký, Lê vi ký, Dân số ký, và Thân mệnh ký.
•Tập 2: là bộ sử thư gồm 16 cuốn.
•Tập 3:gồm 7 cuốn là những thi ca Triết học.
•Tập 4: gồm 14 cuốn sách Tiên tri.
•+ Bộ Tân ước: có 27 cuốn chia làm 4 tập.
•Tập 1: có 4 quyển sách nổi tiếng gọi là sách Phúc âm. 4 cuốn sách này mô tả cuộc đời của Chúa Giêsu, nhất là 3 năm
ông đi truyền đạo.
•Tập 2: bao gồm 15 cuốn nói về Công vụ tông đồ. Ghi lại các tông đồ làm việc như thế nào khi Chúa về trời.
•Tập 3: có 7 cuốn. Nói về hoạt động của 3 tông đồ giỏi nhất.
•Tập 4: có tên là Khải huyền thư. Ghi lại việc con người không nghe lời nên bị Chúa trừng phạt


II. Cấu trúc đạo Công giáo
Nội dung cơ bản:
- Mười hai tín điều cơ bản:
•Tín điều là 1 đoạn văn ngắn viết về các giáo lý chủ yếu tạo ra cơ sở cho bất kỳ phong trào tôn giáo nào hay bất kỳ giáo hội nào. Tín
điều phải được chấp nhận không điều kiện (không chứng minh).

•Đối với Công giáo trong kinh Tín kính có 12 tín điều cơ bản. Trong đó 8 tín điều nói về bản chất Thiên Chúa, sự hiện thân của
chúa Giêsu và ơn cứu độ, 4 tín điều còn lại nói về giáo hội, nhà thờ và cuộc sống vĩnh hằng.
•Tín điều căn bản đầu tiên là niềm tin vào Thiên Chúa và sự màu nhiệm của Thiên Chúa. Thiên Chúa có ba ngôi: Đức Chúa Cha,
Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần nhưng cùng một bản thể. Ba ngôi “đồng vinh, đồng đẳng, đồng quyền” nhưng có chức
năng và vai trò khác nhau. Cha – tạo dựng, Con – cứu chuộc, Thánh thần – thánh hoá....


II. Cấu trúc đạo Công giáo
• Gồm 4 điều “TIN, XIN, GIỮ, CHỊU (LÃNH)”
- Những điều phải TIN(được tóm lại trong kinh Tin kính)
- Những điều phải XIN (được tóm lại trong kinh Lạy Cha)
- Những điều phải GIỮ (được tóm lại trong kinh 10 điều răn)
- Những điều phải CHỊU (được tóm lại trong kinh 7 Bí tích)



2. Giáo chủ đạo
Công
gíao
Hội thánh
chúa Giêsu
• Đạo Công giáo do Chúa Giêsu lập ra.
-Chúa Giêsu có kế hoạch thương xót cứu độ loài người.Chúa chọn một dân riêng là dân Do
thái.Chúa lập kế hoạch sai Con của Chúa làm người để cứu chuộc loài người khỏi tội.
-Ngài sống với cha mẹ tại thành Nazareth 30 năm. 3 năm cuối đời, Ngài đi giảng đạo cho
người Do thái . Ngài bị dân chúng hiểu lầm, bắt đóng đinh, chết trên thập giá, nhưng tới ngày
thứ 3, Ngài đã sống lại, sau 40 ngày, Ngài về trời với Chúa Cha của Ngài.
-Trước khi về trời, Ngài đã lập ra Hội thánh để nối tiếp công việc giảng đạo của Ngài.Đứng
đầu Hội thánh là ông Phêrô, có 11 tông đồ khác giúp sức.Các ông chia nhau đi khắp nơi giảng
đạo

-Gốc chính do Chúa Giêsu lập vẫn đứng thẳng cho tới nay là 2007 năm, gọi là đạo Công giáo ,
người ngoài gọi là Công giáo Roma. Từ thánh Phêrô là giáo hoàng tiên khởi, tới nay là 265
vị.Giáo hoàng thứ 265 hiện nay tên hiệu là Benedicto thứ 16.


Đức Giêsu Kitô có vai trò trung tâm và quan trọng tuyệt đối trong đạo Công giáo,
bởi vì:
- Thứ nhất, Đức Giêsu Kitô là "Con Một Thiên Chúa"
- Thứ hai, Đức Giêsu Kitô là Con một Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa, đã xuống thế
làm người để cứu chuộc, nên Người có ba nhiệm vụ cốt yếu đối với loài người là: mặc
khải, cứu chuộc, qui tụ và phục hồi.
 Như vậy Đức Giêsu Kitô có vai trò độc đáo duy nhất trong đạo của
Người, Người vừa là Thiên Chúa, vừa là Con một Thiên
Chúa xuống thế làm người. Nói theo kiểu mới bây giờ, Ngườivừa là
Đấng loan báo Phúc Âm, vừa là Đấng sống Phúc Âm một cách
toàn hảo, vừa Phúc Âm Hóa mọi người, để biến đổi họ từ thù
nghịch với Thiên Chúa trở thành bạn hữu của Thiên Chúa, qui tụ họ
trong giáo hội của Người để tất cả những người theo Chúa được
hưởng an lành, hạnh phúc.


3. Nghi lễ Công Giáo

Giáo Hội luôn nhấn mạnh tầm quan trọng và sự cao
quý của thánh lễ.
Nghi lễ Thánh Lễ gồm 6 nghi thức sau:
• Thứ nhất, Nghi Thức Ðầu Lễ:
- Ca Nhập Lễ
- Lời Chào
- Nghi Thức Sám Hối

- Kinh Thương xót
- Kinh Vinh Danh
- Lời Nguyện Ðầu Lễ


•Thứ hai, Phụng Vụ Lời Chúa:

- Bi Ðọc I
-

Đáp ca

-

Bài đọc II

-

Alleluia (Tiếng do-thái, có nghĩa “hãy ngợi khen Thiên Chúa”).

- Phúc Âm
- Giảng
- Kinh Tin Kính Kinh Tin Kính các Tông Đồ
Kinh Tin Kính Nixêa


Thứ ba, Phụng Vụ Thánh Thể:

•Thứ tư, Kinh Tạ Ơn: là trung tâm và là đỉnh điểm của Thánh lễ. Đây là phần cao
trọng nhất của Thánh lễ, vì phần này hiện tại hóa cho đến muôn đời lễ tế của Giêsu

trên Thập Giá, để cứu chuộc mọi người. Kinh tạ ơn bao gồm:
-  Hành vi tạ ơn
-

Khẩn cầu Chúa Thánh Thần
Dâng bánh
- Truyền phép
- Dâng rượu
- Các lời chuyển cầu
- Lời Nguyện Tiến Lễ
Vinh tụng ca kết thúc
- Lời Tiền Tụng.


• Thứ năm,
Lễ lễ
•ThứNghi
sáu, Thức
Nghi Hiệp
thức kết
Theo tinh thần của Công Đồng Vaticanô II, phụng vụ là tác động linh thiêng, qua đó,
và dưới một nghi thức, hành vi tư tế của Chúa Kitô, nghĩa là công cuộc thánh hóa con
-

Kinh Lạy Cha
người
và vinh danh Thiên Chúa, được thực hiện và tiếp tục trong Giáo Hội và bởi

-Giáo
Chúc

bình an
Hội.
-

Bẻ bánh

Nói một cách đơn giản, phụng vụ chỉ định các nghi thức thờ phượng công cộng của

-

Kinh lạy Chiên Thiên Chúa
Giáo
Hội. Các nghi thức phụng vụ, theo định nghĩa, phải có sự chủ tọa của một thừa

-

tácRước
viênlễcủa Giáo Hội với sự tham dự tích cực của các tín hữu

-

Lời nguyện hiệp lễ


4, Tổ chức Công giáo
• Công giáo tổ chức giáo hội theo 3 cấp: cấp Trung ương ( toàn đạo ), cấp trung gian và cấp cơ sở.
• Giáo hội Công giáo là một tổ chức quyền lực chặt chẽ và thống nhất trên toàn thế giới, vì được thiết lập trên các phẩm trật chức sắc cố
định có quyền thiêng liêng ( hang giáo phẩm ). Người theo đạo và chức sắc - người có chức vụ hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp, tạo gạch
nối giữa tín đồ với Đấng Thiêng liêng.
• Cơ cấu tổ chức giáo hội để quản trị tín đồ và lo các công việc: đào tạo chức sắc, hướng dẫn việc tu học cho tín đồ, chức sắc, việc phong

chức, bổ nhiệm và điều chuyển chức sắc, việc xây dựng nơi thờ tự, in ấn, xuất bản kinh sách,…
• Phạm vi hình thành tổ chức giáo hội toàn thế giới (hoàn vũ) mang tính truyền thống: Duy nhất (chỉ có một giáo hội), Công giáo (chung
cho tất cả), Thánh thiện (tính thiêng liêng) và Tông truyền (liên tục từ thời tông đồ Phêrô đến nay).


5. Niềm tin Công giáo

•Đối với niềm tin Công giáo, họ tin rằng linh hồn do Thiên Chúa và xuất phát từ Thiên Chúa nên bất tử.
Và nó sẽ mãi mãi tồn tại ở một trong hai nơi sau khi giã từ cõi đời: Thiên đàng hay hỏa ngục.
•Đối với niềm tin Công giáo, chết là đưa lịch sử con người đến hồi kết thúc. Tức là khii chết chúng ta
quyết định số phận tối hậu của mình một cách dứt khoát, không rút lui cũng không thể đảo ngược lại
được nữa.
•Giáo lý Công giáo đã khẳng định rằng: “ Sự chết là chỗ tận cùng lữ hành của con người nơi trần
gian… và để quyết định về sô mệnh tối hậu của mình. Khi đã chấm dứt gong đời duy nhất cảu cuộc sống
trần gian cuả chúng ta, chúng ta sẽ không trở lại những kiếp khác nơi trần gian này. Người ta chỉ chết
một lần thôi, không có sự lại đầu thai sau khi chết”.
•Để có được những niềm tin chân chính và cao đẹp, điều kiện cần và đủ là con người phải thông qua
giáo dục dựa trên nhân bản. Một xã hội vững bền và phát triển phần lớn là có được những niềm tin chân
chính, tin vào con người với nhau, vào tổ chức, vào tín ngưỡng và tôn giáo chính đáng trong xã hội đó.


III. Qúa trình hình thành và phát triển công giáo ở Việt Nam
1. Sự phát triển công giáo trên đất nước Việt Nam
Công giáo là một trong số những tôn giáo lớn ở nước ta.
Tính đến nay lịch sử truyền giáo và phát triển công giáo đã trải qua hơn 4 thế kỷ trải qua theo từng giai
đoạn tại Việt Nam.
thời kỳ từ năm 1533 – 1884
thời kỳ từ 1884 – 1954
thời kỳ từ 1954 - 1975
thời kỳ từ 1975 đến nay

Song, trong từng thời kì lịch sự truyền giáo phát triển đạo mà hệ thống tổ chức, sinh hoạt tôn giáo của
Công giáo Việt Nam có những biểu hiện đặc thù.


• Đạo Công giáo thời kỳ từ năm 1533 – 1884
Năm 1550: giáo hội công giáo hoàn vũ đang phát động công cuộc truyền giáo vào châu âu và

Năm 1533: Đạo Công giáo truyền vào Việt Nam năm 1533, do giáo sĩ Tây

không
gửi các thừa
sai theo
tàuvàbuôn
cáchuyện
nướcNam
ở khu vực Châu Á, trong đó có
dương ngừng
tên là In-nê-khu
đến làng
Ninhđoàn
Cường
Quầnđến
Anh,
Trung
Quốc,
độ, huyện
Việt Nam…
Chấn và
làng Ấn
Trà Lũ,

Giao Thuỷ (tỉnh Nam Định ngày nay).
Đạo
Công
giáo vào
Việt giáo
Nam được
trong thiết
bối cảnh
Năm
1622:bộ
truyền
lập tình hình kinh tế, chính trị
lâm vào giai đoạn khủng hoảng, nội chiến kéo dài giữa Nhà Trịnh – Nhà

Năm 1627: Mở chủng viện Urbano để đào tạo chủng sinh các miền truyền giáo, lập ra chức

Mạc, Nhà Trịnh – Nhà Nguyễn, đất nước bị chia cắt thành Đàng Trong,

Đại diện Tông Toà cho các giám mục hoạt động tại các miền truyền giáo
Đàng Ngoài.

Năm 1651: chữ quốc ngữ ra đời gắn với vai trò của linh mục Alexandre de Rhodes khi ông

Về kinh tế, đời sống nhân dân khó khăn, quan hệ giữa các vua, chúa Việt

xuất
cuốnnước
từ điển
ViệtTây
- Bồ

- La
Roma
Nambản
và các
phương
như:
Bồtại
Đào
Nha, Anh, Pháp, Hà Lan chủ
yếuNăm
là trao
đổi hương
liệusai
quýPavàrimua
vũ thành
khí phục
chiến trướng
tranh về thương mại của tư bản
1664:
hội thừa
được
lậpvụ
vàcuộc
sự bành
trong nước.

Pháp. Các sự kiện trên đã tạo điều kiện cho việc truyền giáo ở các nước châu Á, trong đó có Việt


Năm 1844 Giáo hoàng Gregoro XVI chia giáo phận Đàng Trong thành 2: Giáo phận

Tây
Đàng
Trong
Gòn)thiết
gồmlập6 hai
tỉnhgiáo
Namphận
Kỳ đầu
và Cao
Đông
Đàng
Trong
Năm
1679:
(sau (Sài
20 năm
tiên)Miên
giáo và
phận
Đàng
Ngoài
(Quy Nhơn
được chia làm GIÁO
2: HOÀNG
Tây Đàng Ngoài và Đông Đàng Ngoài
GREGORO
Năm 1846, giáo phận
Tây Đàng Ngoài được chia làm 2: Tây Đàng Ngoài (Hà Nội) và
Cuối thế kỷ XVIII, với vai trò của Giám mục Pigneau de Béhaine (tên Việt
giáo phận Nam Đàng Ngoài (Vinh)

Nam là Bá Đa Lộc) đại diện Tông toà Đàng Trong (1771 – 1799)
Năm 1848, giáo phận Đông Đàng Ngoài lại chia thành Đông Đàng Ngoài (Hải Phòng)

giúpNgoài
Nguyễn
lên ngôi
niên
Giamới
Long
mởchia
vàngười
Trung đã
Đàng
(Bùi Phúc
Chu); Ánh
tiếp theo
là mộtlấyloạt
cáchiệu
giáo là
phận
được
đầu
cho một triều đại mới của Việt Nam – triều đại Nhà Nguyễn (1802 –
tách.
1945);
cũng
ngườiTuất
mang
lại5/6/1862)
nhiều "cơ

hội"
việctriều
truyền
của cácvới
Đến hoà
ướclàNhâm
(ngày
được
ký cho
kết giữa
đìnhgiáo
Nhà Nguyễn
Phápsai
vànước
Tây Ban
Nha,
ước triều đình phải nhượng 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ
thừa
ngoài
tạitheo
Việthoà
Nam
cho Pháp và các thừa sai hai nước được tự do ra vào truyền đạo. Đến hoà ước Giáp Tuất
15/3/1874 thì việc truyền giáo ở Việt Nam tiếp tục được khẳng định


• Đạo Công giáo thời kỳ từ 1884 – 1954

Với hoà ước Giáp Thân 6/6/1884, Pháp bắt đầu đô hộ toàn bộ Việt


Năm 1934 Cộng đồng Đông Dương với 19 Giám mục, 5 Bề trên dòng tu và 21 linh
mục
cố vấn đã họp tại Hà Nội, bàn về việc tiến tới thiết lập hàng giáo phẩm và đào
Ngày 3/12/1924, Toà thánh Vatican đổi tên các giáo phận Tông toà tại
giáo
ở hành
Việtchính,
Nam.nơi đặt Toà Giám mục như ngày nay.
Việttạo
Nam
theosĩ...
địa hạt
Nam, tạo nhiều thuận lợi cho hoạt động của đạo Công giáo ở Việt Nam

NămĐến
1925năm
Toà thánh
Vatican
lập giáo
Toà Khâm
Sứ ởNam
Đông Dương
1939
đạo thiết
Công
ở Việt
có 16

giáo phận, 17 Giám mục,


và đặt tại Phú
Camdân
(Huế)
NGUYỄN
1.544.765
giáo
BÁ TÒNG
NămNăm
1933 1954,
Toà thánh
phongthắng
linh mục
Bá Tòng
vớitấnchiến
lịchNguyễn
sử Điện
Biênlàm
Phủ của nhân dân Việt Nambuộc
Giámdân
mụcPháp
và đây phải
cũng làký
Giám
mụcđịnh
ngườiGiơnevơ
Việt Nam đầu
Giáokhỏi Việt Nam, miền Bắc hoàn
thực
Hiệp
vàtiên

rútcủa
quân
hội Công
ở ViệtLợi
Namdụng
sau 400sự
năm
truyền
giáobọn phản động trong và ngoài nước đã tuyên
toàn
giải giáo
phóng.
kiện
này,
truyền kích động, cưỡng ép giáo dân di cư. Cuộc di cư có 72% linh mục, 40% giáo
dân (650.000 người), 2000 nữ tu hơn 1000 chủng sinh miền Bắc vào Nam. Vì vậy
thời điểm này có nhiều tu viện, chủng viện vắng không còn người


Năm 1934 Cộng đồng Đông Dương với 19 Giám mục, 5 Bề trên dòng tu và 21 linh mục cố
vấn đã họp tại Hà Nội, bàn về việc tiến tới thiết lập hàng giáo phẩm và đào tạo giáo sĩ... ở Việt
Nam.
Đến năm 1939 đạo Công giáo ở Việt Nam có 16 giáo phận, 17 Giám mục, 1.544.765 giáo dân
Năm 1954, với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ của nhân dân Việt Nam buộc thực dân Pháp
phải ký Hiệp định Giơnevơ và rút quân khỏi Việt Nam, miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Lợi dụng
sự kiện này, bọn phản động trong và ngoài nước đã tuyên truyền kích động, cưỡng ép giáo dân di
cư. Cuộc di cư có 72% linh mục, 40% giáo dân (650.000 người), 2000 nữ tu hơn 1000 chủng sinh
miền Bắc vào Nam. Vì vậy thời điểm này có nhiều tu viện, chủng viện vắng không còn người



• Đạo Công giáo thời kỳ từ 1954 - 1975

Cuộc
di cưGiáo
năm 1954,
đạo Công
có Nam
sự xáocó
trộn
cả haiphận
miền:trong đó 10 giáo phận
Năm
1960
hội Công
giáogiáo
Việt
20ở giáo
Miền Bắc: Sau di cư số linh mục còn lại 28%, giáo dân 60%, có những địa phận như:

thuộc giáo tỉnh Hà Nội, 4 giáo phận thuộc giáo tỉnh Huế và 6 giáo phận thuộc giáo

Thái Bình, Bùi Chu, Bắc Ninh, Phát Diệm, Hải Phòng có số người Công giáo di cư đông. . Hoạt

tỉnh thành phố Hồ Chí Minh; với 23 Giám mục, 1.914 linh mục, 5.789 nam nữ tu
động chủ yếu là giữ đạo.

sĩ, 1.530
chủng
Miền
Nam:sinh.

cuộc di cư năm 1954 đã dẫn đến đời sống đạo ở miền Nam sôi động, số giáo
Năm
Việt mới
Nam,
miền
hoàn
toàn
GiáoTrang
hội
dân
tăng1975,
nhanh.Mỹ
Mộtrút
số khỏi
giáo phận
được
thànhNam
lập như:
Cần
Thơgiải
(nămphóng,
1955), Nha
(năm 1957).
Công
giáo Việt Nam lại có biến động: 100 linh mục, 400 tu sĩ, 50.000 giáo dân ra
Ngày 24/11/1960,
Giáo hoàng
Gioan
Nostrorum
nước ngoài.

Tại miền Nam
chỉ còn
25 XXIII
Giám ban
mụchành
(15Sắc
vị chỉ
tại Venerabilium
Toà) 2.000 linh
mục,
thiết lập hàng giáo phẩm cho Giáo hội Công giáo Việt Nam; Giáo hội Công giáo Việt Nam với 3

gần 7.500 tu sĩ. Nhưng giáo hội 2 miền Bắc và Nam được thống nhất để chuẩn bị
giáo tỉnh: Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh

cho một giai đoạn phát triển tiếp theo.

Một gia đình Công giáo sùng đạo ở Miền Nam Việt Nam (1970), với 3


• Đạo Công giáo thời kỳ từ 1975 đến nay
Năm
Hội Việt
đồng
Giám
Nam
là thể
mộtGiám
tổ chức


Giáo
hội1980:
Công giáo
Nam
đã tổmục
chứcViệt
Đại hội
toàn
mục ởcó
Việt

cách pháp nhân, được thành

Nam
từ ngày
1/5/1980
Thủ
đô Hà
để thành
Hội đồng
Giám
lập trụ
sở tại24/4
Toàđến
Giám
mụctạiHà
Nội,
số Nội
40 phố
Nhàlập

Chung,
thành
phố

Hà Nội.Theo quy chế, Hội

mục Việt Nam. Đại hội đã ra Thư chung 1980 với đường hướng “Sống phúc âm

đồng Giám mục Việt Nam 3 năm đại hội 1 lần và hàng năm có hội nghị thường niên. Đại hội lần

giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”.

thứ nhất vào năm 1980 và đến năm 2010 là đại hội lần thứ XI. Giúp việc cho Hội đồng Giám
Hiện nay, Công giáo là một trong số các tôn giáo lớn ở Việt Nam có tổ chức

mụcchẽ
có với
17 hơn
Uỷ ban
Giám
mục
đềlinh
củamục,
Giáohơn
hội.
chặt
6 triệu
tín đồ,
47 đặc
Giámtrách

mục,các
hơnvấn
3.500
3.000
giáo Đạo
xứ, khoảng
100 chủng
dòng tu,viện
tu hội,
đoàn
trên
15.000
Công9.000
giáo giáo
hiệnhọ,
cóhơn
6 Đại
là tu
nơi
đàovớitạo
linh
mục,

nơi cung cấp nguồn giáo sĩ

tu sĩ nam, nữ sinh hoạt trong 26 giáo phận thuộc 3 giáo tỉnh. Đứng đầu 03 giáo

chủ yếu cho Giáo hội.Sáu Đại chủng viện hoạt động ở 3 giáo tỉnh, mỗi giáo tỉnh có 2 Đại chủng

tỉnh là 03 Tổng giám mục và đứng đầu các giáo phận là các giám mục


viện

Tính đến hết tháng 4 năm 2015, Việt Nam có 3 Tổng giáo phận Hà Nội, Huế, Sài Gòn và 23
giáo phận. Có cả thảy trên một trăm vị được tấn phong giám mục, trong đó có 6 vị nhận tước
Hồng y


Một số nhà thờ đạo Công giáo ở Việt Nam

Nhà
thờ
lớn

Nội
Về tổ chức theo lãnh thổ: giáo hội công giáo ở Việt Nam hiện nay được tổ chức thành

Nhà thờ chúa cứu thế
Nhà
thờ
đá
Sapa
TPHCM
Q3 giáo tại Việt Nam được chia
giáo tỉnh, giáo phận và giáo xứ. Hiện
nay,thờ
Giáo
hội Công
Nhà
Tân


thành ba giáo tỉnh:

Định TPHCM

Đền
Giáo tỉnh Hà Nội: với một tổng giáo phận và 9 giáo phận.
thờ
Giáo tỉnh Huế:
Đứcvới một tổng giáo phận và 5 giáo phận.
Giáo tỉnh Sài
Gòn: với một tổng giáo phận và 9 giáo phận.
mẹ
Nhân dịpMaria
kỷ niệm 350 năm thành lập hai giáo phận tông toà Đàng Ngoài, Đàng Trong
tại La
và 50 năm thành
lập hàng giáo phẩm Việt Nam, năm thánh 2010 của riêng giáo đoàn Việt
Nhà
thờ Hạnh
Thôngthuận
Tây của Tòa thánh. Năm thánh 2010 khai mạc vào tối 23
Nam đã diễnVang
ra với
sự chấp
TPHCM Q.Gò Vấp

tháng 11 năm 2009 tại Sở Kiện và bế mạc vào ngày 6 tháng 1 năm 2011 tại La Vang.



2. Sự ảnh hưởng của công giáo đến Việt Nam

• Tích Giáng
cực: sinh tại
nhàvà thờ
Tư tưởng nhân văn
đạo kiĐức
tô giáo đã ảnh hưởng vào trong đời sống văn hóa của 1 bộ phân người Việt Nam.
Lễ
phần lớn trong mọi lĩnh
hoạt
Bàvực– sinh
Đồng
Công giáo đã có đóng góp rất nhiều cho nền văn hóa Việt Nam, đồng thời cũng tạo cho mìnhgiáng
nét văn hóa đặc
Địa
điểm
Khởi
thù, ăn sâu vào mọi phạm vi của đời sống.

Các bạn trẻ
đón Giáng
sinh tại Hà
Nội

sinhđồ
tại
bán
giáng sinh
tại phố

Hàng Mã
Hà Nội

Cụ thể tư tưởng ấy đã anh hưởng đến văn hóa nhận thức, văn hóa ứng xử và văn hóa tổ chức của những người tín
đồ Ki tô giáo ở Việt Nam, sự ảnh hưởng đó đã tạo nên 1 sắc thái trong đời sống văn hóa Việt Nam,
góp thờ
phần cụ thể
nhà
hóa chuẩn mực đọa đức của văn hóa Việt Nam, làm phong phú thêm các quan niệm về nhân sinh quan, về những giá
lớn Hà
trị nhân văn và đạo đức trong đời sống văn hóa Việt Nam.
Ngày nay, lễ Noel không còn dành riêng cho người Công giáo mà nó đã thành ngày hội cho nhiều
người nhất là
Nội
giới trẻ. Ở Việt Nam, đặc biệt ở thành phố gần đến ngày lễ có rất nhiều các cửa hàng bán đồ lưu niệm Giáng sinh và
lễ hội tình yêu làm náo nhiệt khắp phố phường và đã lan tỏa xuống cả các làng quê…

Và những “ông già” Noel tại Việt Nam 


×