Tải bản đầy đủ (.pdf) (224 trang)

ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP Ở VIỆT NAM SAU HIẾN PHÁP NĂM 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.76 MB, 224 trang )

BÁO CÁO
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LẬPPHÁP
Ở VIỆT NAM SAU HIẾN PHÁP NĂM 2013
REPORT
ASSESSMENT OF THE LEGISLATIVE
DEVELOPMENT PROCESS IN VIETNAM
SINCE ADOPTION OF 2013 CONSTITUTION
-----0-0-----

Biên soạn:

-TS Vũ Công Giao
-TS Nguyễn Minh Tuấn
-TS Đặng Minh Tuấn

HÀ NỘI – 2014


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
XHCN

Xã hội chủ nghĩa

CNXH

Chủ nghĩa xã h ội

CHXHCN
TAND



Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Tòa án Nhân dân

TANDTC

Tòa án Nhân dânTối cao

VKSND

Viện Kiểm sát Nhân dân

VKSNDTC

Viện Kiểm sát Nhân dânTối cao

HĐND

Hội đồng Nhân dân

UBND

Ủy ban Nhân dân

UBTVQH
MTTTQ

Ủy ban Thường vụ Quốc Hội
Mặt trận Tổ quốc


Tổng LĐLĐ

Tổng Liên đoàn Lao động

Đoàn TNCS

Đoàn Thanh niên Cộng sản

Hội LHPN
BLHS

Hội Liên hiệp Phụ nữ
Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng Hình sự

VBQPPL

Văn bản quy phạm pháp luật

2


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GIỚI THIỆU

PHẦN I
SỰ RA ĐỜI, NHỮNG ĐIỂM MỚI VÀ KẾ HOẠCH THỰC THI
HIẾN PHÁP NĂM 2013
1.1. Nguyên nhân, định hướng và tiến trình sửa đổi Hiến pháp năm 1992
1.2. Khái quát những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992
1.3. Kế hoạch tổ chức thi hành Hiến pháp năm 2013
PHẦN II
PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA HIẾN PHÁP NĂM 2013,
BAO GỒM TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP
TRÊN MỘT SỐ LĨNH VỰC CỤ THỂ
2.1. Hiến pháp năm 2013: Triển vọng và thách thức với việc cải cách thể chế
2.2. Hiến pháp năm 2013: Triển vọng và thách thức với việc phân quyền và kiểm soát
quyền lực
2.3. Hiến pháp năm 2013: Triển vọng và thách thức với cải cách tư pháp
2.4. Một số định hướng mới nhất của Chính phủ trong việc xây dựng pháp luật để thực
thi Hiến pháp năm 2013.
2.5. Đánh giá mức độ phù hợp của các dự án Luật tổ chức Quốc Hội, Luật tổ chức Chính
phủ, Luật tổ chức Chính quyền địa phương và Luật Ban hành văn bản pháp luật
2.6.Những đạo luật cần ưu tiên ban hành, sửa đổi để thực thi Hiến pháp năm 2013
PHẦN III
PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA HIẾN PHÁP NĂM 2013
TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ, BAO GỒM TÁC ĐỘNG
ĐẾN HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP TRÊN LĨNH VỰC NÀY
3.1.Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 trong lĩnh vực kinh tế
3.2.Một số gợi ý cụ thể về việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế để phù hợp với
Hiến pháp năm 2013
PHẦN IV
KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CỦA CÁC HỌC GIẢ VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN HIẾN PHÁP NĂM 2013
4.1. Công trình là sách chuyên khảo, sách tham khảo

4.2. Công trình là các tuyển tập các bài viết từ các Hội thảo khoa học
4.3.Các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành
3


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)
4.4.Những khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu
PHẦN V
KẾT LUẬN CHUNG VÀ NHỮNG GỢI Ý VỚI NLD
5.1.Kết luận chung
5.2.Những gợi ý cho NLD
PHỤ LỤC I
Cấu trúc của Hiến pháp năm 2013 so sánh với Hiến pháp năm 1992
PHỤ LỤC II
Tóm tắt những điểm mới cơ bản của Hiến pháp năm 2013
so với Hiến pháp năm 1992
PHỤ LỤC III
Một số thuật ngữ quan trọng trong Hiến pháp năm 2013
PHỤ LỤC IV
Dự kiến tiến độ trình Quốc Hội, UBTVQH xem xét, thông qua các Dự án Luật, Pháp lệnh
(Ban hành kèm theo Kế hoạch triển khai thi hành Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam đã
được UBTVQH ban hành theo Nghị quyết số 718/NQ -UBTVQH13ngày 02/01/2014)
PHỤ LỤC V
Dự kiến các dự án luật, pháp lệnh cần sửa đổi, bổ sung, ban hành mới
(Ban hành kèm theo Quyết định số 251/QĐ-TTg ngày 13 tháng 02 năm 2014 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành Kế hoạch của Chính phủ về tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp nước
CHXHCN Việt Nam )
PHỤ LỤC VI
Nghị quyết số 70/2014/QH13 ngày 30/5/2014 về việc điều chỉnh Chương trình Xây d ựng
Luật, Pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc Hội Khóa XIII, năm 2014 và Chương trình Xây d ựng

Luật, Pháp lệnh năm 2015
PHỤ LỤC VII
Bảng tham chiếu so sánh Hiến pháp năm 2013 với Hiến pháp năm 1992
kèm giải trình các nội dung sửa đổi, bổ sung
của Ủy ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp năm 1992
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

4


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

GIỚI THIỆU
Việc chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang "nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN" kể từ năm 1986 đã giúp Việt Nam đạt được những kết quả
vượt bậc về nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về kinh tế. Tuy nhiên, đồng thời với thành tựu
đó, yêu cầu hoàn thiện hệ thống luật pháp để thúc đẩy cải cách kinh tế và hội nhập kinh
tế quốc tế ngày càng trở lên cấp thiết và được Nhà nước Việt Nam rất quan tâm.
Để hỗ trợ Việt Nam trong việc hoàn thiện hệ thống luật pháp, Chính phủ Canada
và Chính phủ Việt Nam đã ký kết Dự án Phát triển lập pháp quốc gia (Dự án NLD)
trong đó vạch ra một chương trình tổng thể để đổi mới quy trình lập pháp của Việt Nam
và cải thiện chất lượng văn bản pháp luật liên quan đến kinh tế. Mục tiêu cụ thể của Dự
án NLD là hỗ trợ các cơ quan nhà nước của Việt Nam áp dụng các quy trình hoạch định
và quản lý mang tính chiến lược, tăng cường sự tham gia của người dân và khu vực
kinh tế tư nhân, cũng như tăng cường tính thống nhất, gắn kết và tiêu chuẩn hóa trong
quy trình lập pháp của Việt Nam. Dự án sẽ kéo dài trong 7 năm (từ 2010-2017) bao
gồm 4 hợp phần: (1) Xây dựng năng lực hoạnh định chiến lược, đánh giá nhu cầu, và
quản lý hiệu quả hoạt động; (2) Xây dựng năng lực nghiên cứu chính sách, đánh giá tác
động và lấy ý kiến công chúng; (3) Xây dựng kỹ năng kỹ thuật soạn thảo văn bản pháp
luật; (4) Xây dựng năng lực nhằm đảm bảo tính thống nhất và hệ thống tổ chức của văn

bản pháp luật.
Báo cáo này do ba giảng viên Khoa Luật ĐHQG Hà Nội biên soạn trong khuôn
khổ Giai đoạn 1 của Dự án NLD. Đây là một nghiên cứu định tính, thực hiện dựa trên
việc phân tích Hiến pháp năm 2013, một số văn bản pháp luật và nghiên cứu có liên
quan.
Mục đích của báo cáo là cung cấp một cái nhìn tổng quan về những điểm mới
trong Hiến pháp năm 2013, thực trạng và triển vọng sự phát triển lập pháp ở Việt Nam
từ sau khi Hiến pháp năm 2013 được thông qua, từ đó đưa ra những ý kiến tư vấn cho
hoạt động của NLD ở Việt Nam trong thời gian tới, trong đó chú trọng vào hoạt động
lập pháp trên lĩnh vực kinh tế. Nghiên cứu này rất cần thiết bởi lẽ Hiến pháp năm 2013
là đạo luật gốc, có hiệu lực cao nhất, với rất nhiều nội dung mới (so với Hiến pháp
trước đó năm 1992), vì vậy đặt ra những đòi hỏi cấp thiết với việc hoàn thiện khuôn
khổ pháp luật của Việt Nam trong những năm tới. Theo nghĩa đó, nghiên c ứu này góp
phần đảm bảo rằng những hoạt động tiếp theo trong khuôn khổ của Dự án NLD sẽ gắn
kết và hỗ trợ trực tiếp, hiệu quả nhất các nhu cầu và chương trình xây d ựng pháp luật
của Quốc Hội cũng như c ủa các cơ quan nhà nước khác ở Việt Nam mà được xác lập
dựa trên những nội dung của Hiến pháp năm 2013.
Dựa trên những yêu cầu của NLD, báo cáo đề cập đến những nội dung cụ thể sau
đây:
- Lý do, tiến trình sửa đổi và những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với
Hiến pháp trước đó (Hiến pháp năm 1992, đã được sửa đổi, bổ sung năm
2001).
5


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

- Những triển vọng thay đổi trên một số lĩnh v ực quan trọng ở Việt Nam xuất
phát từ những điểm mới trong Hiến pháp năm 2013 và những thách thức đặt ra
trong việc hiện thực hóa những triển vọng thay đổi đó.

- Những điều chỉnh lớn trong Hiến pháp năm 2013 trong một số vấn đề về thể
chế nhà nước, quản trị quốc gia, cải cách tư pháp và những yêu cầu đặt ra với
việc ban hành mới, sửa đổi, bổ sung các bộ luật, luật có liên quan của Việt
Nam, đặc biệt là các luật về lĩnh vực kinh tế.
- Kế hoạch lập pháp (ban hành mới và sửa đổi, bổ sung các luật, pháp lệnh) để
thực thi Hiến pháp năm 2013 và vai trò của Chính phủ, bao gồm của Hội đồng
tư vấn thẩm định dự án luật, pháp lệnh trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp
nước CHXHCN Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ thành lập, trong việc thực
hiện kế hoạch đó.
- Tình hình nghiên cứu của giới học giả Việt Nam với những vấn đề liên quan
đến sửa đổi, bổ sung và thực thi Hiến pháp năm 2013.
- Những gợi ý cho hoạt động tiếp theo của NLD nhằm mục đích hỗ trợ nâng cao
hiệu quả công tác lập pháp của Việt Nam trong những năm tới đây, đặc biệt là
để thực thi Hiến pháp năm 2013.
Gắn với nội dung của báo cáo, nhóm tác giả đã thi ết kế 7 Phụ lục nhằm giúp
người đọc nhanh chóng nắm bắt và tra cứu những điểm cốt lõi của từng vấn đề.
Do giới hạn về thời gian và nguồn lực, việc khảo sát thực tế và phỏng vấn các
đối tượng liên quan không có điều kiện thực hiện. Điều đó có nghĩa là ở những giai
đoạn tiếp theo, Dự án NLD cần có thêm những công trình khác, sử dụng cả phương
pháp nghiên cứu định tính và định lượng để phân tích làm rõ một số vấn đề chưa có cơ
hội khảo sát hoặc chưa thể khảo sát kỹ trong báo cáo này. Những nghiên cứu tiếp theo
có thể hướng vào một số khía cạnh lý luận phức tạp mà báo cáo này chưa thể phân tích
thấu đáo do thiếu tư liệu thực tế. Ngoài ra, các nghiên cứu tiếp theo có thể hướng vào
các vấn đề cụ thể như: (i) Hoàn thiện quy trình xây dựng chính sách, pháp luật, trong đó
mối quan hệ của các chủ thể liên quan được thiết lập một cách rõ ràng, hợp lý; (ii) Xây
dựng các quy tắc, tiêu chuẩn cho việc xác lập chính sách và soạn thảo các văn bản pháp
luật cũng như cho việc phối hợp giữa các chủ thể liên quan; (iii) Xây dựng và tiêu
chuẩn hóa các công cụ và phương pháp thẩm định, đánh giá và thông qua các dự thảo
chính sách và văn bản pháp luật.
Nhóm tác giả xin chân thành cám ơn NLD đã tin cậy giao thực hiện báo cáo và

hy vọng nghiên cứu này là một tài liệu hữu ích cho NLD trong các hoạt động của dự án
ở Việt Nam.

6


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

PHẦN I
SỰ RA ĐỜI, NHỮNG ĐIỂM MỚI
VÀ KẾ HOẠCH THỰC THI HIẾN PHÁP NĂM 2013
1.1.Nguyên nhân, định hướngvà tiến trình sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Hiến pháp năm 1992 được ban hành vào những năm đầu thực hiện chính sách
Đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm thể chế hóa đường lối mở cửa đất nước
mà được đề ra trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm
1986) và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH(CNXH) năm
1991. Với bản hiến pháp này, trong gần ba thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các phương diện chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, mà nổi bật nhất là về kinh tế.
Mặc dù vậy, bắt đầu từ cuối thập kỷ 2000, sự phát triển kinh tế của Việt Nam đã
dần chậm lại. Điều này có nguyên nhân từ một loạt bất cập về thể chế vốn tồn tại từ lâu
mà chưa được giải quyết, liên quan đến các vấn đề về quản lý nhà nước, mô hình phát
triển kinh tế… Hậu quả là tình trạng quan liêu, tham nhũng trở nên nghiêm trọng, kinh
tế khủng hoảng, thiếu tính cạnh tranh, người dân bất bình, suy giảm lòng tin với nhà
nước.
Thực trạng trên đã khiến Đảng Cộng sản Việt Nam nhận ra rằng cần đẩy mạnh
đổi mới để duy trì sự phát triển của đất nước và bảo vệ chế độ. Trong bối cảnh đó, Đại
hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng (12-19/01/2011) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó xác
định những mục tiêu, định hướng phát triển trong giai đoạn mới, hướng vào thực hiện 8

đặc trưng của chế độ XHCN ở Việt Nam (so với 2 đặc trưng trong Cương lĩnh năm
1991), bao gồm: (i) Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; (ii) Do nhân
dân làm chủ; (iii) Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; (iv) Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; (v) Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện; (vi) Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp nhau cùng phát triển; (vii) Có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; (viii) Có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. 1
Bối cảnh kể trên khiến cho Hiến pháp năm 1992, mặc dù đã đư ợc sửa đổi một số
điều vào năm 2001, đã trở lên lạc hậu. Nó cần được tiếp tục sửa đổi để phù hợp và thể
chế hóa những định hướng, mục tiêu mới trong Cương lĩnh năm 2011 và các văn kiện
khác của Đại hội Đảng lần thứ XI, cụ thể là để: ”…bảo đảm đổi mới đồng bộ cả về kinh
tế và chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân
Xem Lê Hữu Nghĩa , Những đặc trưng thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng , tham
luận tại phiên họp sáng 14/1 tại Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng xem toàn văn Cương lĩnh tại
/>1

7


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm tốt
hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất
nước; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế”.2
Để đạt được mục tiêu nêu trên, các yêu cầu sau đây đã đư ợc đặt ra với việc sửa
đổi Hiến pháp năm 1992:3
- Tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn những nội dung cơ bản có tính bản chất của
chế độ mà đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992, cụ thể là về phát huy dân chủ

XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Thể chế hóa những quan điểm, chủ trương lớn được nêu trong Cương lĩnh
[năm 2011] và các văn kiện khác của Đảng [Đại hội Đảng lần thứ XI].
- Hoàn thiện kỹ thuật lập hiến, bảo đảm để Hiến pháp thực sự là đạo luật cơ bản,
có tính ổn định, lâu dài.
Trên cơ sở những mục tiêu và yêu cầu nêu trên, một số quan điểm mang tính
chất định hướng kỹ thuật cũng đã đư ợc đặt ra cho việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm
1992:4
- Phải dựa trên cơ sở tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật
có liên quan; căn cứ vào định hướng, nội dung của Cương lĩnh [năm 2011] và các văn
kiện khác của Đại hội Đảng lần thứ XI; kế thừa những quy định của Hiến pháp năm
1992 và của các bản Hiến pháp trước đây còn phù h ợp; sửa đổi, bổ sung những vấn đề
thực sự cần thiết, những vấn đề đã rõ, đư ợc thực tiễn chứng minh là đúng, có đủ cơ sở,
nhận được sự thống nhất cao và phù hợp với tình hình mới.
- Tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của hệ thống chính trị và bộ
máy nhà nước đã đư ợc xác định trong Cương lĩnh [năm 2011] và Hiến pháp năm 1992,
[mà cụ thể là] Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo
chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội.

2
Xem Tờ trình số 194/TTr-UBDTSĐHP ngày 19/10/2012 về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của Ủy ban

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tr.1.
3
Tài liệu trên, tr.2.
4
Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 ngày 05/01/2013 của Ủy ban Dự thảo sửa
đổi Hiến pháp năm 1992, tr.2-3.

8


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; đổi mới đồng bộ, phù hợp
về kinh tế và chính trị, vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam XHCN dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; quyền của công dân
không tách rời nghĩa vụ của công dân; thực hiện dân chủ XHCN; tăng cường kỷ luật, kỷ
cương; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Sửa đổi Hiến pháp là công việc hệ trọng, phải tiến hành chặt chẽ, khoa học
dưới sự lãnh đạo của Đảng; bảo đảm sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học,
các nhà quản lý; tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân và các cơ quan, tổ chức; chú
trọng công tác thông tin, tuyên truyền, bảo đảm đúng định hướng, không để các đối
tượng xấu, thế lực thù địch lợi dụng để chống phá, xuyên tạc.
Về tiến trình, từ năm 2011, Việt Nam đã tổ chức tổng kết thi hành Hiến pháp
năm 1992 đồng thời thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 2013. Sau hơn
một năm dự thảo, do có nhiều ý kiến khác nhau về một số vấn đề quan trọng, ngày
02/1/2013, Quốc Hội quyết định tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp năm 1992 – điều mà không được dự kiến trong kế hoạch ban đầu. Việc lấy ý kiến
theo kế hoạch sẽ được kết thúc vào ngày 31/3/2013, nhưng sau đó được kéo dài đến
cuối năm 2013, dưới ba hình thức chính: tổ chức các hội nghị, hội thảo; lấy ý kiến

thông qua mạng Internet và phát phiếu xin ý kiến đến từng hộ gia đình. Theo thông báo
của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, tính đến 17/5/2013, đã có hơn 26.091.000 lư ợt
ý kiến góp ý của nhân dân và hơn 28.000 hội nghị, hội thảo, tọa đàm được tổ chức.5
Ngày 28/11/2013, Quốc Hội khóa XIII bỏ phiếu thông qua Hiến pháp (sửa đổi)
năm 2013, với 97,59% (486/488) đại biểu có mặt bỏ phiếu tán thành, chỉ có 2 đại biểu
bỏ phiếu trắng. Bên cạnh quan điểm đánh giá rằng Hiến pháp năm 2013 sẽ giúp đẩy
mạnh toàn diện công cuộc Đổi mới,6cũng có ý kiến cho rằng với Hiến pháp năm 2013,
Việt Nam khó có sự thay đổi lớn về mọi mặt, đặc biệt là về chính trị.7 Mặc dù vậy, nếu
phân tích kỹ, có thể thấy Hiến pháp năm 2013 đã g ợi mở khá nhiều cơ hội cải cách về
thể chế ở Việt Nam, bao gồm thể chế về quản lý kinh tế, mà sẽ được đề cập cụ thể trong
các phần tiếp theo của báo cáo này.
1.2. Khái quát những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp
năm 1992
Hiến pháp năm 2013 có 11 chương, 120 điều. Về số lượng, so với Hiến pháp năm
1992 (có 12 chương, 147 điều), Hiến pháp năm 2013 giảm một chương, 27 điều. Tuy
nhiên, xét cụ thể về cấu trúc, so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã bổ
sung một chương mới (Chương X, về Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước)
Ủy ban Dự thảo sử a đổi Hiến pháp, Báo cáo số 287/BC-UBDTSĐHP ngày 17/5/2013 về việc giải trình, tiếp thu,
chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở ý kiến nhân dân .
6
Ví dụ, xem Nguyễn Sinh Hùng, Hiến pháp sửa đổi là bảo đảm chính trị -pháp lý vững chắc, tại
/>truy cập ngày 14/7/2014.
7
Ví dụ, xem Đỗ Kim Thêm, Với Hiến pháp mới, Việt Nam ít hy vọng thay đổi, trên
truy cập ngày
15/7/2014.
5

9



DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

và 12 điều mới (các Điều 19, 34, 41, 42, 43, 55, 63, 78, 111, 112, 117 và 118), đồng thời
sửa đổi, bổ sung 101 điều, chỉ giữ nguyên 7 điều (các Điều 1, 49, 77, 86, 87, 91 và 97)
(xem cấu trúc chi tiết của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 ở Phụ lục I).
Hiến pháp năm 2013 đã có m ột số thay đổi về kỹ thuật lập hiến (kết cấu và cách
thức diễn đạt) theo hướng ngắn gọn, xúc tích, chặt chẽ hơn so với Hiến pháp năm 1992,
với mục tiêu bảo đảm rằng nó ‘…đúng tầm là đạo luật cơ bản, có tính ổn định lâu dài’.8
Cụ thể như sau (xem thêm bản tóm tắt các điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với
Hiến pháp năm 1992 ở Phụ lục II và bản so sánh chi tiết hai Hiến pháp năm 1992, 2013
ở Phụ lục III):
1.2.1. Lời nói đầu
Lời nói đầu của Hiến pháp năm 2013 được viết cô đọng, súc tích hơn (còn 3
đoạn với 290 từ, so với 6 đoạn, 536 từ của Hiến pháp năm 1992)9, song vẫn kế thừa các
nội dung cơ bản như về truyền thống, lịch sử đất nước, dân tộc, lịch sử lập hiến, nhiệm
vụ của cách mạng trong giai đoạn mới, mục tiêu xây dựng đất nước của Hiến pháp năm
1992. Khác biệt quan trọng nhất là một quy định mới, nêu rằng: "Nhân dân Việt Nam
xây dựng và thi hành Hiến pháp này…” - cho thấy tư tưởng về chủ quyền của nhân dân
với hiến pháp (mà từng được nêu trong Hiến pháp 1946) đã đư ợc tái khẳng định sau khi
đã không đư ợc nhắc đến trong các Hiến pháp 1959,1980,1992.
1.2.2. Chế độ chính trị (Chương I, Điều 1-13)
Tên Chương I được viết gọn lại thành “Chế độ chính trị” (so với“Nước
CHXHCN Việt Nam - Chế độ chính trị” trong Hiến pháp năm 1992). Về cấu trúc, các
quy định về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh (vốn được quy
định trong Chương XI Hiến pháp năm 1992) cũng được đưa vào Chương này, vì được
xem là ‘..những nội dung quan trọng gắn liền với chế độ chính trị của quốc gia’.10
Về nội dung, Chương này tiếp tục khẳng định bản chất của chế độ chính trị
XHCN mà đã đư ợc xác định trong Điều 2 Hiến pháp năm 1992, trong đó nêu rằng:
‘Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì

nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức’, nhưng bổ sung một số
quy định sau đây để làm rõ hơn các đặc thù của mô hình chính trị ở Việt Nam:
- Bổ sung từ kiểm soát vào nguyên tắc "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp" (Điều 2). Đây là điểm mới rất quan trọng trong
chế định về thể chế chính trị của Hiến pháp năm 2013, một nỗ lực lớn trong việc kiểm
soát quyền lực nhà nước bằ ng Hiến pháp ở Việt Nam. Nó cho thấy Việt Nam đã tiến
thêm một bước nữa trong việc vận dụng các thuộc tính của nguyên tắc tam quyền phân
8

Xem Ðoàn thư ký kỳ họp, Một số nội dung cơ bản của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (sửa đổi), tài liệu
kèm theo Ðề cương báo cáo kết quả kỳ họp thứ 6, Quốc Hội khóa XIII (21/10-30/11/2013).
9
Xem Trương Đắc Linh, Nguyễn Mạnh Hùng, Những điểm mới cơ bản của Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam năm
2013, tại truy cập ngày 01/7/2014.
10
Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã dẫn, tr.3.

10


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

lập, nhưng vẫn chưa chính thức thừa nhận nguyên tắc này. Với quy định mới đã nêu,
“kiểm soát quyền lực” đã được thừa nh ận là một nguyên tắc của nhà nước pháp quyền,
là một vấn đề mới trong tổ chức quyền lực Nhà nước ở Việt Nam, được thể hiện xuyên
suốt trong các Chương V, VI, VII, VIII và IX của Hiến pháp năm 2013 và sẽ tiếp tục
được thể chế hóa trong các luật có liên quan.11
-Trong khi kế thừa quy định của Điều 4 Hiến pháp năm 1992, trong đó khẳng

định vị trí lãnh đạo độc tôn của Đảng Cộng sản Việt Nam với nhà nước và xã hội như là
một vấn đề có ‘tính lịch sử, tính tất yếu khách quan’,12Điều 4 Hiến pháp năm 2013 bổ
sung quy định về bản chất của Đảng, trong đó nêu rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của
nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng”. Thêm vào đó, Điều này cũng bổ sung cụm từ “Ðảng gắn bó
mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách
nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”, đồng thời khẳng định không chỉ
các tổ chức của Ðảng mà cả các đảng viên cũng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật (Ðiều 4). Những bổ sung này được cho là ‘để làm rõ hơn bản chất,
vai trò và trách nhiệm của Ðảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội’.13
- Bổ sung quy định “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng hình thức dân
chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc Hội, Hội đồng Nhân dân (HĐND) và
thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Ðiều 6). Đây là quy định mới vì Hiến
pháp năm 1992 chỉ quy định “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc
Hội và HĐND” – tức là chỉ thông qua hình thức dân chủ đại diện. Quy định mới đã làm
rõ và mở rộng các phương thức thực hiện quyền dân chủ của nhân dân, đặc biệt là tạo
cơ sở để thúc đẩy các hình thức dân chủ trực tiếp mà vẫn còn khá mới mẻ ở Việt Nam.
- Bổ sung quy định “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và
pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ” (Điều 8). Quy định này phần nào cho thấy sự “giằng xé” trong tư duy của các
nhà lập hiến Việt Nam, thể hiện ở việc trong khi cố gắng củng cố các nguyên t ắc của
nhà nước pháp quyền (nhà nước tổ chức, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật), họ vẫn
chưa thể (hoặc không thể) thoát hẳn khỏi những nguyên lý của mô hình nhà nước
XHCN (nguyên tắc tập trung dân chủ).
- Điều 9 liệt kê đầy đủ 6 tổ chức chính trị - xã hội (gồm MTTQ Việt Nam, Tổng
LĐLĐ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn TNCS) Hồ Chí Minh, Hội LHPN
Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam ) và xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm của
các tổ chức này, đặc biệt là của MTTQ Việt Nam trong việc đại diện, bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã

Xem Một số nội dung cơ bản của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (sửa đổi), tài liệu đã dẫn.
Xem Một số nội dung cơ bản của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (sửa đổi), tài liệu đã dẫn.
13
Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã dẫn, tr.4.
11
12

11


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân.14 Quy định mới
về vai trò của MTTQ Việt Nam trong việc “tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát,
phản biện xã hội”phản ánh xu thế và nỗ lực thúc đẩy kênh giám sát quyền lực nhà nước
từ bên ngoài ở Việt Nam.15
- Tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp
tác của Việt Nam với tất cả các nước trên thế giới; đồng thời cam kết "tuân thủ Hiến
chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà CHXHCNViệt Nam là thành viên",
khẳng định Việt Nam "là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc" (Điều 11, Điều 12). Quy định mới này cho
thấy quyết tâm chính trị về việc hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đư ợc xác quyết và
ngày càng được củng cố.
- Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, tất cả các từ “Nhân
dân” trong Hiến pháp năm 2013 đều được viết hoa. Điều này được lý giải là để “thể
hiện sự tôn trọng và đề cao vai trò của Nhân dân với tư cách là chủ thể duy nhất của
toàn bộ quyền lực nhà nước”16.

1.2.3. Quyền con người, quyền và nghĩa v ụ cơ bản của công dân (Chương II,
Điều 14-49)
Chương II được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V
(Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) của Hiến pháp năm 1992. Ngoài việc chuyển
vị trí từ thứ 5 lên thứ 2, tên chương cũng đư ợc điều chỉnh thành: “Quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, với mục đích để ‘khẳng định giá trị, vai trò
quan trọng của quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp’-17một quan điểm
được cổ vũ mạnh mẽ, với sự đồng thuận cao trong lần sửa đổi Hiến pháp này ở Việt
Nam.
Chương II kế thừa và làm rõ hơn các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã
được quy định trong Chương V Hiến pháp năm 1992; đồng thời bổ sung một số quyền
mới mà được xem là thành tựu của gần 30 năm đổi mới đất nước18, nhằm ‘…thể hiện rõ
hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền
công dân’, 19 và để ‘…phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà
CHXHCN Việt Nam là thành viên’20. Xét tổng thể về nội dung, Chương II có nhiều
điểm mới nhất trong Hiến pháp năm 2013, thể hiện qua những quy định sau:
Xem Một số nội dung cơ bản của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (sửa đổi), tài liệu đã dẫn.
Ở Việt Nam, các chuyên gia về hiến pháp cho rằng có hai kênh chính để giám sát quyền lực nhà nước: (i) Kênh
bên trong (internal) là sự giám sát giữa các cơ quan nhà nước với nhau, thể hiện nổi b ật ở quy định về sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, v à (ii) Kênh bên
ngoài (external), thể hiện ở vai trò giám sát, phản biện, phê phán của các thiết chế ngoài nhà nước, mà nổi bật là
cá cơ quan truyền thông và các tổ chức xã hội dân sự.
16
Xem Phan Trung Lý, “Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam - Hiến pháp dân chủ, pháp quyền và phát
triển” (Bài phát biểu tại Hội nghị giới thiệu nội dung Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam tại Trường ĐH Luật
Tp. Hồ Chí Minh ngày 18/12/2013).
17
Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã d ẫn, tr.3.
18
Xem Một số nội dung cơ bản của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (sửa đổi), tài liệu đã dẫn.

19
Xem Một số nội dung cơ bản của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (sửa đổi), tài liệu đã dẫn.
20
Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã dẫn, tr.5.
14
15

12


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

- Lần đầu tiên xác định rõ và đ ầy đủ các nghĩa vụ của nhà nước trong việc "công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân" (Điều 3 và Điều
14 khoản 1). Quy định mới này phản ánh sự thay đổi tư duy trước đây ở Việt Nam coi
quyền con người, quyền công dân là những thứ nhà nước “ban phát” cho người dân,
sang nhận thức chung của cộng đồng quốc tế trong đó xem quyền con người, quyền công
dân là những giá trị tự nhiên, vốn có của con người mà nhà nước có nghĩa vụ ghi nhận và
bảo đảm.
- Bổ sung một số quyền mới, bao gồm: Quyền sống (Điều 19); Quyền hiến mô,
bộ phận cơ thể người, hiến xác (Điều 20); Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng
tư (Điều 21); Quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34); Quyền hưởng thụ và tiếp
cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều
41); Quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao
tiếp (Điều 42); Quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43); Quyền của
công dân không bị trục xuất, giao nộp cho nước khác (Điều 17); đồng thời quy định rõ
hơn (sửa đổi hoặc tách thành điều riêng) một số quyền kế thừa từ Hiến pháp năm 1992,
bao gồm: Bình đẳng trước pháp luật (Điều 16); Cấm tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân
đạo và hạ nhục (Điều 20 khoản 1); Bảo vệ đời tư và nơi ở (Điều 21, 22); Tiếp cận thông
tin (Điều 25); Tham gia quản lý nhà nước và xã hội (Điều 28); Bình đẳng giới (Điều

26); Bỏ phiếu trong trưng cầu dân ý (Điều 29); Xét xử công bằng (Điều 31); Tư hữu tài
sản (Điều 32); An sinh xã hội (Điều 34); Việc làm (Điều 35).
- Bổ sung một nguyên tắc hiến định, đó là quyền con người, quyền công dân chỉ
có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng,
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng (Điề u 14,
khoản 2).Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc ngăn ngừa các cơ quan nhà
nước tùy tiện giải thích và hạn chế các quyền hiến định mà đã xảy ra khá nhiều ở Việt
Nam, bởi nó nêu rõ những lý do có thể được sử dụng để hạn chế quyền, cùng với việc giới
hạn chủ thể duy nhất là Quốc Hội mới có thể quyết định việc này (bằng luật), chứ không
phải bất cứ cơ quan nhà nước nào (bằng pháp luật 21) như trong Hiến pháp năm 1992. Có
quan điểm cho rằng, nguyên tắc này còn có ý nghĩa là các quy định liên quan đến các
quyền bất khả xâm phạm của con người, của công dân (như quyền được sống, quyền
không bị tra tấn, quyền bình đẳng trước pháp luật v.v.) là có hiệu lực trực tiếp ; chủ thể của
các quyền này được viện dẫn các quy định của Hiến pháp để bảo vệ các quyền của mình
khi bị xâm phạm.22 Mặc dù vậy, quan điểm này có thể gây tranh cãi. Thực t ế cho thấy các
quyền hiến định chưa bao giờ chứng tỏ có h iệu lực áp dụng trực tiếp ở Việt Nam.
- Không còn đồng nhất quyền con người và quyền công dân (như ở Điều 50 Hiến
pháp năm 1992). Thay vì sử dụng đại từ “công dân” là chủ thể của mọi quyền như Hiến
pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 chủ yếu sử dụng đại từ “mọi người” , “không ai” để
chỉ chủ thể của các quyền mà áp dụng với cả công dân Việt Nam và nước ngoài có mặt hợp
pháp trên lãnh thổ Việt Nam, chỉ sử dụng đại từ “công dân” trong một số quy định về
những quyền hoặc nghĩa vụ áp dụng riêng đối với công dân Việt Nam. Sự điều chỉnh
Ở Việt Nam, khái niệm pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các VBQPPL do các cơ quan nhà
nước từ trung ương đến địa phương ban hành. Còn luật thì chỉ có thể do Quốc Hội thông qua.
22
Xem Những điểm mới cơ bản của Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam năm 2013, tài liệu đã dẫn.
21

13



DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm các quyền con người trong bối cảnh hội
nhập quốc tế, cũng như trong việc thực hiện các điều ước quốc tế về nhân quyền mà Việt
Nam đã tham gia.
- Sắp xếp lại các điều theo các nhóm quyền, bắt đầu từ các quy định chung (gồm
các nguyên tắc, các bảo đảm thực hiện quyền, giới hạn quyền và hạn chế quyền ), sau đó
đến nhóm các quyền dân sự, chính trị , nhóm các quyền kinh tế, xã hộ i, văn hóa; các
nghĩa vụ của công dân; quyền và nghĩa vụ của người nướ c ngoài.
1.2.4.Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường
(Chương III, Điều 50-63)
Chương III được xây dựng trên cơ sở lồng ghép Chương II (Chế độ kinh tế) và
Chương III (Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ) của Hiến pháp năm 1992. Việc
lồng ghép như vậy là để ‘..thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế,
bảo đảm công bằng xã hội với phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo
vệ môi trường’.23
Với phương châm là chương này chỉ quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc,
khái quát ở tầm hiến pháp, còn những nội dung cụ thể sẽ do các văn bản pháp luật chuyên
ngành điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu trong từng giai đoạn phát triển của đất
nước24nên về mặt cấu trúc, nhiều quy định chi tiết, mang nặng tính ‘tuyên ngôn’ trong
các Chương II và III của Hiến pháp năm 1992 đã đư ợc bỏ đi hoặc sửa đổi trong chương
này.
1.2.4.1.Về kinh tế
Chương này tiếp tục khẳng định chính sách phát triển nền kinh tế thị trường nhiều
thành phần định hướng XHCN, coi các thành phần kinh tế đều là bộ phận quan trọng
của nền kinh tế quốc dân (Điều 51) nhưng không liệt kê các thành phần kinh tế cụ thể
như trong Hiến pháp năm 1992. Điều này là để tránh tình trạng càng liệt kê càng bất
cập.
Điều 51 vẫn quy định “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”, tiếp tục khẳng định

vai trò của Nhà nước và kinh tế nhà nước trong việc định hướng, điều tiết sự phát triển
của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với lý giải rằng ‘quy định như vậy không
ảnh hưởng đến sự vận hành của nền kinh tế thị trường và vị trí, vai trò của các thành
phần kinh tế khác’25. Tuy nhiên, thực chất việc này cho thấy tư tưởng đổi mới quản lý
kinh tế vẫn chưa triệt để, tâm lý bám giữ thành phần kinh tế này (cùng với thành phần
kinh tế tập thể) như là một nền tảng để duy trì chế độ chính trị vẫn rất nặng nề. Mặc dù
vậy, do việc quy định về tính chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước gây ra nhiều vấn
đề như quản lý yếu kém, thua lỗ nghiêm trọng và tình trạng tham nhũng rộng khắp
trong các doanh nghiệp nhà nước nên Hiến pháp năm 2013 đã không kế thừa các quy
định “Kinh tế nhà nước được củng cố và phát triển…cùng với kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc của kinh tế quốc dân”, và quy định “sở hữu toàn dân và sở
23

Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã d ẫn, tr.3.
Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã d ẫn, tr.3.
25
Xem Những điểm mới cơ bản của Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam năm 2013, tài liệu đã dẫn.
24

14


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

hữu tập thể là nền tảng’ của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong các Điều 19 và 15
Hiến pháp năm 1992.
Một vấn đề khác cũng gây nhiều tranh cãi đó là việc Hiến pháp năm 2013 tiếp tục
khẳng định đất đai "…thuộc sở hữu toàn dân" (Điều 53) như trong các Hiến pháp năm
1992, 1980. Điều này được lý giải là bởi “trong điều kiện phát triển của nước ta hiện
nay, việc phải thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội vẫn cần

thiết’.26Tuy nhiên, để tránh tình trạng thu hồi đất tràn lan, tùy tiện,27Hiến pháp năm
2013 đồng thời bổ sung quy định nêu rõ, đất đai "..do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý" (Điều 53), quyền sử dụng đất là quyền tài sản được pháp luật bảo hộ
(Điều 54, khoản 2), Nhà nước chỉ thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng ‘..trong
trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh
tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng’, và ‘..việc thu hồi đất phải công khai, minh
bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật’ (Điều 54 khoản 3).
Bên cạnh những vấn đề trên, Chương III Hiến pháp năm 2013 còn bổ sung một số
quy định như: Xác định vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng và hoàn thiện thể chế
kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường; thực hiện phân
công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo
đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân (Điều 52); khẳng định quyền tự do kinh
doanh và sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế (Điều 51); làm rõ khái niệm và vai
trò đại diện chủ sở hữu và quản lý của nhà nướcvới tài sản công (đất đai, tài nguyên
nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên
khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý) (Điều 53); làm rõ khái niệm, vai trò
đại diện quản lý của nhà nước và các nguyên tắc quản lý các nguồn tài chính công (ngân
sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn khác được coi là
tài chính công) (Điều 55); quy định về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống
tham nhũng trong hoạt động kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước (Điều 56). Những quy
định bổ sung này cũng phản ánh những nỗ lực và tạo cơ sở cho việc tiếp tục cải cách nền
quản trị quốc gia, đặc biệt là quản trị về kinh tế, mà hiện là nhu cầu cấp bách ở Việt Nam.
Nội dung và tác động lập pháp của những quy định mới về kinh tế trong Hiến
pháp năm 2013 mà đã nêu ở trên được phân tích cụ thể hơn ở Phần III của Báo cáo này.
1.2.4.2.Về xã hội, văn hóa
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa các quy định trong Hiến pháp năm 1992 về
trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong lĩnh vực lao động, việc làm và an sinh xã hội,
chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, xây dựng gia đình
truyền thống, phát triển con người (các Điều 58-60); đồng thời bổ sung quy định về
trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao

động người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài
hòa và ổn định (Điều 57).

26
27

Xem Những điểm mới cơ bản của Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam năm 2013, tài liệu đã dẫn.
Xem Những điểm mới cơ bản của Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam năm 2013, tài liệu đã dẫn.

15


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

Nhìn chung, những quy định về xã hội, văn hóa trong Hiến pháp năm 2013 ít thay
đổi so với Hiến pháp năm 1992. Điều này một phần là bởi các nguyên tắc nền tảng
(hiến định) về xã hội, văn hóa ở Việt Nam mang tính chất ổn định, khó điều chỉnh hơn
so với quy định về những lĩnh vực khác.
1.2.4.3.Về giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường
Hiến pháp năm 2013 kế thừa những quy định về giáo dục, khoa học, công nghệ
trong Hiến pháp năm 1992, cụ thể như tiếp tục khẳng định phát triển giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, tiếp tục xác định mục đích, mục tiêu
của phát triển giáo dục và khoa học, công nghệ...,nhưng diễn đạt lại một cách ngắn gọn,
xúc tích hơn, trong đó chỉ nêu những định hướng lớn đã đư ợc xác định trong Cương
lĩnh năm 2011 (các Điều 61,62). Tuy nhiên, Hiến pháp năm 2013bổ sung một điều
riêng (Điều 63), trong đó khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong quản lý, bảo vệ
môi trường, sử dụng, bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học; phòng
chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Quy định mới này phản ánh mối quan tâm và
phản ứng của Nhà nước với các vấn đề về môi trường và sử dụng, bảo tồn tài nguyên thiên
nhiên mà mới nổi lên như là những ưu tiên cấp bách ở Việt Nam trong khoảng hơn hai thập

kỷ gần đây.
1.2.5. Bảo vệ Tổ quốc (Chương IV, Điều 64-68)
Chương này kế thừa bố cục và nội dung các quy định của Chương IV Hiến pháp
năm 1992, trong đó tiếp tục khẳng định việc bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh quốc gia
là sự nghiệp của toàn dân, song lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Do
vấn đề bảo vệ Tổ quốc có nội hàm rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực quốc phòng, an
ninh, đối ngoại, kinh tế, văn hóa, xã hội nên Hiến pháp năm 2013 có một quy định khái
quát “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là sự nghiệp của toàn dân” (Điều 64), sau đó cụ
thể hóa từng lĩnh v ực đã nêu trong các Đ iều 65, 66, 67, 68 và trong một số nội dung
khác của Hiến pháp.
So với Hiến pháp năm 1992, chế định bảo vệ Tổ quốc trong Hiến pháp năm
2013 có hai điểm mới quan trọng, đó là: (i) Quy định Nhà nước Việt Nam sẽ ‘…góp
phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới’ (Điều 64), và (ii) Quy định bổ sung
nhiệm vụ của lực lượng vũ trang là ‘..tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với
Đảng và Nhà nước28..’ (Điều 65). Bổ sung thứ nhất nêu trên là để mở đường cho việc
Việt Nam gửi quân tham gia lực lượng giữ gìn hòa bình của Liên hợp quốc – điều mà
đã đư ợc Đảng Cộng sản và Nhà nước đặt kế hoạch vài năm trước đó.
1.2.6.Về bộ máy nhà nước
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa các quy định về bản chất và mô hình tổng
thể của bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1992 nhưng làm rõ hơn nguyên tắc phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; đồng thời xác
định rõ hơn chức năng và điều chỉnh một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này.
Một điểm mới quan trọng khác là Hiến pháp năm 2013 bổ sung quy định về một số
Điều 45 Hiến pháp 1992 chỉ quy định lực lượng vũ trang có nhiệm vụ tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân
dân.

28

16



DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

thiết chế hiến định độc lập, bao gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước.
Đáng tiếc là Hội đồng Hiến pháp – thiết chế được kỳ vọng và cổ vũ m ạnh mẽ bởi các
chuyên gia luật học vì cho rằng đó là một sự bổ sung rất cần thiết cho cơ chế kiểm soát
quyền lực trong bộ máy nhà nước hiện có quá nhiều lỗ hổng của Việt Nam – đã bị bỏ ra
khỏi dự thảo vào sát thời điểm nó được thông qua.29
1.2.6.1.Quốc Hội (Chương V,Điều 69-85)
Trong Hiến pháp năm 2013, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ
chức của Quốc Hội, các cơ quan của Quốc Hội cơ bản giữ như quy định của Hiến pháp
năm 1992, tuy nhiên có sửa đổi, bổ sung một số quy định để ‘..phù hợp với chức năng
của cơ quan thực hiện quyền lập pháp và mối quan hệ giữa các cơ quan thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp’,30cụ thể như sau:
Về Quốc Hội:
- Điều 69 kế thừa quy định ở Điều 83 Hiến pháp năm 1992, trong đó tiếp tục
khẳng định Quốc Hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam, Quốc Hội có các quyền lập hiến, lập
pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt
động của Nhà nước; tuy nhiên, điểm mới là Điều 69 không quy định Quốc Hội là cơ
quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp như trong Điều 83 Hiến pháp năm 1992.
Việc không quy định Quốc Hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến là để phù
hợp với quy định mới về chủ quyền của nhân dân trong hoạt động lập hiến trong Lời
Nói đầu của Hiến pháp năm 2013. Nó ‘để ngỏ khả năng về một cơ chế lập hiến với sự
kết hợp giữa thẩm quyền của Quốc Hội với quyền lập hiến của nhân dân thông qua
thẩm quyền của Quốc Hội quyết định trưng cầu ý dân về Hiến pháp’31mà đã có cơ sở từ
quy định bổ sung tại Khoản 4 Ðiều 120, trong đó nêu rằng: "..Việc trưng cầu ý dân về
Hiến pháp do Quốc Hội quyết định".
Liên quan đến quyền lập pháp, kế thừa nội dung Điều 87 Hiến pháp năm 1992,
Điều 84Hiến pháp năm 2013quy định các chủ thể có quyền sáng kiến lập pháp bao gồm

Chủ tịch nước, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc Hội, Chính phủ,
TANDTC, VKSNDTC, Kiểm toán nhà nước, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và
các tổ chức thành viên của Mặt trận. Ở đây, theo nhận thức mới của các nhà lập hiến
Việt Nam, quyền trình sáng kiến lập hiến/sáng kiến lập pháp là một yếu tố không thể
thiếu được của quyền lập hiến/quyền lập pháp, vì vậy, việc không quy định Quốc Hội là
cơ quan duy nhất có quyền lập pháp là để phù hợp với quy định ở Điều 84.32

Quy định về Hội đồng Hiến pháp vẫn còn đư ợc nêu trong Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
năm 1992 ngày 5/01/2013 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, cũng như trong D ự thảo 3 (Dự thảo được
tiếp thu, chỉnh lý trên cơ sở ý kiến của nhân dân để trình Quốc Hội tại kỳ họp thứ 5, Quốc Hội khoá XIII, ngày
17/5/2013, và được công bố công khai trên trang duthaoonline của Văn phòng Quốc Hội).
30
Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã d ẫn, tr.8.
31
Xem Đào Trí Úc, Quốc Hội và Chủ tịch Nước trong Hiến pháp mới,
tại
truy cập ngày 5/7/2014.
32
Xem Đào Trí Úc, Quốc Hội và Chủ tịch Nước trong Hiến pháp mới, tài liệu đã dẫn.
29

17


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

- Khoản 2 Điều 70 bổ sung thẩm quyền của Quốc Hội trong việc giám sát, quy
định tổ chức và hoạt động, quyết định nhân sự đối với Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm
toán Nhà nước và các cơ quan khác do Quốc Hội thành lập. Quy định này là để phù hợp
với việc hiến định hai thiết chế độc lập mới là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán

nhà nước (các Điều 117,118).
- Khoản 3 Điều 70chỉ quy định Quốc Hội quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách
và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chứ không quyết định kế
hoạch phát triển kinh tế - xã Hội của đất nước như trong Điều 84 Hiến pháp năm 1992.
Sự thay đổi này được lý giải là ‘..để xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm và mối quan
hệ giữa Quốc Hội và Chính phủ’.33 Thực tế cho thấy sự điều chỉnh này sẽ giúp Chính
phủ chủ động, năng động hơn trong điều hành, quản lý đất nước trong điều kiện kinh tế thị
trường. Cũng v ới mục đích tương tự, Khoản 1 Điều 70 đã bỏ quy định về thẩm quyền
của Quốc Hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh mà được nêu trong
Khoản 1 Điều 84 Hiến pháp năm 1992, nhằm tạo điều kiện cho Chính phủ chủ động, linh
hoạt trong việc đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh.
- Khoản 4 Điều 70 quy định Quốc Hội có thẩm quyền "quyết định chính sách cơ
bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định
phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa
phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ Chính phủ; quyết
định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương, phê chuẩn quyết
toán ngân sách Nhà nước". Như vậy, so Hiến pháp năm 1992, Quốc Hội trong Hiến pháp
năm 2013 chỉ tập trung vào quyết định các chính sách cơ bản và các vấn đề được minh
định rõ ràng. Sự sửa đổi này được cho là một mặt giúp làm rõ hơn vị trí của Quốc Hội cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất – trong
việc quyết định các vấn đề tài chính, tiền tệ, kinh tế quan trọng của quốc gia34; đồng thời
mở ra khả năng thực hiện phân cấp, phân định nhiệm vụ, quyền hạn hợp lý hơn giữa các
cơ quan ở Trung ương và địa phương, phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương
trong những vấn đề có liên quan đến kinh tế - xã hội nói chung của quốc gia35.
Liên quan đến thẩm quyền của Quốc Hội trong việc quyết định dự toán và phê
chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước, có ý kiến cho rằng cần tách bạch hoàn toàn giữa
ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, theo đó thẩm quyền của Quốc Hội chỉ
dừng lại ở ngân sách cấp trung ương. Tuy nhiên, ý kiến này không được tiếp thu, với lý
giải rằng tuy việc nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương về ngân
sách là cần thiết để địa phương chủ động trong việc triển khai ngân sách nhằm hoàn
thành những mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế - xã hội của mình, nhưng ‘..việc tách bạch hoàn

toàn giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương là không phù hợp với tình
hình thực tế hiện nay ở nước ta’, bởi Nhà nước Việt Nam là thống nhất nên tài chính

33

Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã dẫn, tr.8.
Xem Đào Trí Úc, Quốc Hội và Chủ tịch Nước trong Hiến pháp mới, tài liệu đã dẫn.
35
Hội
pháp
(sửa
đổi) ,
Xem
Đinh
Xuân
Thảo,
Quốc
trong
Hiến
truy cập ngày 5/7/2014.
34

18

tại


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

nhà nước và ngân sách nhà nước cũng phải được quản lý thống nhất bởi Quốc Hội là cơ

quan đại diện cho cử tri cả nước.36
- Khoản 7 Điều 70 bổ sung quy định về thẩm quyền của Quốc Hội trong việc phê
chuẩn, miễn nhiệm và cách chức Thẩm phán TANDTC theo đề nghị của Chánh án
TANDTC. Quy định bổ sung này được lý giải là ‘để phù hợp với yêu cầu đổi mới mô
hình TAND, làm rõ hơn vai trò c ủa Quốc Hội trong mối quan hệ với cơ quan thực hiện
quyền tư pháp, đồng thời nâng cao vị thế của Thẩm phán theo tinh thần cải cách tư pháp
[Nghị quyết số 49/NQ-TW năm 2005 của Bộ chính trị về cải cách tư pháp]’.37 Với quy
định bổ sung này, vị trí của thẩm phán TANDTC được nâng cấp ngang hàng với bộ
trưởng và các thành viên Chính phủ, “thể hiện vị trí, vai trò quan trọng ngày càng tăng
của chức danh Thẩm phán TANDTC trong mối tương quan với các chức danh khác
trong bộ máy nhà nước”. 38
- Khoản 7 Điều 70 đồng thời bổ sung quy định: "Sau khi được bầu, Chủ tịch
nước, Chủ tịch Quốc Hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án TANDTC phải tuyên thệ
trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp”. Quy định bổ sung này nhằm tăng
cường ý thức về danh dự và trọng trách của những người giữ các chức vụ chủ chốt
trong bộ máy nhà nước, là sự thể hiện‘…trách nhiệm chính trị sâu sắc,… lời cam kết
mạnh mẽ của các chức danh lãnh đạo quan trọng đứng đầu cơ quan lập pháp, hành pháp
và tư pháp trong bộ máy nhà nước trước nhân dân khi thực hiện nhiệm vụ được Ðảng,
Nhà nước, Quốc Hội, nhân dân giao cho’.39
- Khoản 9 Điều 70 quy định thẩm quyền của Quốc Hội trong việc “Quyết định
thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia,
điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật’. So
với quy định tại khoản 8 Ðiều 84 Hiến pháp năm 1992, thẩm quyền của Quốc Hội được
mở rộng và quy định chặt chẽ hơn, không chỉ giới hạn ở việc thành lập, giải thể mà cả
việc nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính của đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
Ngoài ra, thẩm quyền của Quốc Hội còn được mở rộng sang việc thành lập, bãi bỏ cơ
quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật – điều mà chưa được nêu trong Hiến
pháp năm 1992.
- Khoản 14 Điều 70 quy định cụ thể các điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê
chuẩn hoặc bãi bỏ của Quốc Hội, đó là các điều ước quốc tế về chiến tranh và hòa bình,

các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia, quyền và nghĩa v ụ cơ bản của công dân,
tư cách thành viên của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực, thương mại quốc tế
(Điều 83 Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định chung là Quốc Hội có quyền “..phê chuẩn
hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ
các điều ước quốc tế khác đã đư ợc ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch
nước”). Sự bổ sung này cũng nhằm mục đích phân định rõ hơn vai trò và quy ền hạn của
36

Xem Những điểm mới cơ bản của Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam năm 2013, tài liệu đã dẫn.
Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã d ẫn, tr.8-9.
38
Xem Đinh Xuân Thảo, Quốc Hội trong Hiến pháp (sửa đổi) , tài liệu đã dẫn.
39
Xem Đinh Xuân Thảo, Quốc Hội trong Hiến pháp (sửa đổi) , tài liệu đã dẫn.
37

19


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

Quốc Hội và Chính phủ trong việc phê chuẩn các điều ước quốc tế. Đây được xem là
‘nền tảng hiến định cho việc tạo lập hành lang pháp lý theo hư ớng chuẩn mực, hoàn
thiện hơn cho việc bảo đảm, thực thi chủ quyền quốc gia, thực thi chính sách đối ngoại
trong thời gian tới’.40
-Khoản 3 Điều 71 bổ sung quy định: “Việc kéo dài nhiệm kỳ của một khóa Quốc
Hội không được quá mười hai tháng, trừ trường hợp có chiến tranh”. Bổ sung này nhằm
làm rõ hơn thẩm quyền kéo dài nhiệm kỳ của Quốc Hội (Hiến pháp năm 1992 chỉ quy
định Quốc Hội có quyền quyết định kéo dài nhiệm kỳ của mình mà không nêu giới hạn
thời gian cụ thể).

- Điều 78 bổ sung quy định về thẩm quyền của Quốc Hội trong việc thành lập Ủy
ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định
khi cần thiết. Bổ sung này nhằm tạo điều kiện thực thi thẩm quyền của Quốc Hội trong
việc nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định mà đã đư ợc
quy định tại Luật hoạt động giám sát của Quốc Hội và Luật tổ chức Quốc Hội. Ở góc
độ khác, bổ sung này được cho là để ‘..phù hợp với yêu cầu của việc thực hiện các hoạt
động xây dựng pháp luật, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề quan trọng của
Quốc Hội [mà] ngày càng nhiều hơn và phức tạp hơn’.41 Yếu tố này cũng đư ợc sử dụng
để lý giải cho quy định bổ sung ở Khoản 3 Điều 76, trong đó nêu rằng: ‘Việc thành lập,
giải thể Ủy ban do Quốc Hội quyết định”.42
Về Ủy ban Thường vụ Quốc Hội
Hiến pháp năm 2013 bổ sung một số thẩm quyền cho UBTVQH, trong đó bao
gồm:
- “Đề nghị Quốc Hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc
Hội, Phó Chủ tịch Quốc Hội, Ủy viên UBTVQH, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Chủ
nhiệm Ủy ban của Quốc Hội, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà
nước”(khoản 6 Điều 74). Bổ sung này để gắn kết với các quy định về thẩm quyền của
Quốc Hội trong việc bầu ra những chức danh đã nêu, bao gồm hai cơ quan hiến định
độc lập mới được quy định là Hội đồng Bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước, đồng
thời để ‘…làm rõ và chi tiết hơn quy trình của việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các
chức vụ đó’.43
- ‘…giám sát hoạt động của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, Kiểm toán Nhà
nước và cơ quan khác do Quốc Hội thành lập” (khoản 3 Điều 74). Việc bổ sung Kiểm
toán nhà nước và các cơ quan khác do Quốc Hội thành lập vào danh sách các chủ thể
chịu sự giám sát của UBTVQH cũng là đ ể tương thích với quy định mới về việc thành
lập các cơ quan này trong Hiến pháp năm 2013.
- "Quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành
chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương" (khoản 8 Điều 74). Trong thực tế,
Xem Đinh Xuân Thảo, Quốc Hội trong Hiến pháp (sửa đổi) , tài liệu đã dẫn.
Xem Đào Trí Úc, Quốc Hội và Chủ tịch Nước trong Hiến pháp mới, tài liệu đã dẫn.

42
Xem Đào Trí Úc, Quốc Hội và Chủ tịch Nước trong Hiến pháp mới, tài liệu đã dẫn.
43
Xem Đào Trí Úc, Quốc Hội và Chủ tịch Nước trong Hiến pháp mới, tài liệu đã dẫn.
40
41

20


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

quy định bổ sung này là sự chuyển dịch thẩm quyền từ Chính phủ (trong Hiến pháp
năm 1992) sang cho UBTVQH, với mục đích nhằm tăng cường vai trò và quyền lực
của cơ quan lập pháp trong việc quyết định vấn đề quan trọng là thành lập và điều chỉnh
địa giới đơn vị hành chính ở cấp địa phương cao nhất của quốc gia (tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương).
- "Phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của
nước CHXHCN Việt Nam " (khoản12 Điều 74). Bổ sung này là sự kế thừa quy định của
Hiến pháp 1959 (điểm 11, Ðiều 53) và Hiến pháp 1980 (điểm 14, Ðiều 100) và được lý
giải là để tương thích với tầm quan trọng của vị trí đại sứ đại diện đặc mệnh toàn quyền
của quốc gia ở nước ngoài, cũng như đ ể phù hợp với thông lệ quốc tế.44
Về Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc Hội
Hiến pháp năm 1992 quy định Quốc Hội bầu tất cả lãnh đạo và ủy viên của Hội
đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc Hội (Điều 94, 95). Tuy nhiên, Hiến pháp năm
2013 sửa đổi các quy định này, theo đó Quốc Hội chỉ bầu Chủ tịch Hội đồng Dân tộc và
Chủ nhiệm các Ủy ban; còn Phó Chủ tịch và Ủy viên Hội đồng Dân tộc; Phó Chủ
nhiệm và Ủy viên các Uỷ ban sẽ do UBTVQH phê chuẩn (Điều 75, 76). Sự sửa đổi như
vậy được cho là để phù hợp với‘..tính chất hoạt động [không thường xuyên] của Quốc
Hội và các cơ quan của Quốc Hội, cũng như yêu c ầu của công tác cán bộ”45ở Việt Nam,

cụ thể là để ‘bảo đảm tính chủ động, kịp thời, không phức tạp về quy trình, thủ tục
trong trường hợp cần có sự điều chỉnh về nhân sự [của Hội đồng Dân tộc và các Ủy
ban] do yêu cầu của thực tiễn’. 46 Ở một góc độ khác, sự sửa đổi này cũng phản ánh
‘tinh thần phân cấp thẩm quyền của Hiến pháp mới’. 47
Bên cạnh sửa đổi nêu trên, Hiến pháp năm 2013 cũng bổ sung quy định về quyền
yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Tổng
Kiểm toán Nhà nước và cá nhân hữu quan giải trình về những vấn đề cần thiết (Điều 94
Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định thẩm quyền của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban
được yêu cầu các chủ thể này trình bày và cung cấp tài liệu). Quy định mới này nhằm
tăng cường vị trí, vai trò và hiệu quả hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban
của Quốc Hội.
Về đại biểu Quốc Hội
Hiến pháp năm 2013 bổ sung quy định về quyền của đại biểu Quốc Hội trong
việc “..tham gia làm thành viên của Hội đồng Dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc Hội”
(Điều 82 khoản 1). Quy định mới này được cho là sẽ tạo sự chủ động cho đại biểu Quốc
Hội tham gia hoạt động trong Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc Hội, qua đó giúp
họ phát huy sở trường và năng lực, kinh nghiệm công tác của mình.48 Tuy nhiên, một đề
xuất quan trọng về quyền của đại biểu Quốc Hội được miễn trừ trách nhiệm pháp lý khi

44

Xem Một số nội dung cơ bản của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (sửa đổi), tài liệu đã dẫn.
Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã d ẫn, tr.9.
46
Xem Đinh Xuân Thảo, Quốc Hội trong Hiến pháp (sửa đổi) , tài liệu đã dẫn.
47
Xem Đào Trí Úc, Quốc Hội và Chủ tịch Nước trong Hiến pháp mới, tài liệu đã dẫn.
48
Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã dẫn, tr.9.
45


21


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

tranh luận, nêu câu hỏi, kiến nghị, lựa chọn biểu quyết hay phát biểu về bất kỳ vấn đề gì
đặt ra tại trước Quốc Hội49 đã không đư ợc tiếp thu.
Bên cạnh đó, liên quan đến vị trí, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của đại biểu
Quốc Hội, Hiến pháp năm 2013 còn có hai điểm mới đáng chú ý:
Thứ nhất,Khoản 1 Điều 79 quy định ‘Đại biểu Quốc Hội là người đại diện cho ý
chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước’. Như
vậy, khác với quy định tại Điều 97Hiến pháp năm 1992 trong đó nêu rằng ‘Đại biểu
Quốc Hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho
nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước’, Hiến pháp
năm 2013 nhấn mạnh trách nhiệm của đại biểu Quốc Hội trước hết là với người dân ở
đơn vị bầu cử, sau đó là người dân cả nước. Quy định này được cho là để ‘phù hợp với
hiểu biết chung về chế độ đại diện đã đư ợc khẳng định ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới’.50
Thứ hai, cũng với tinh thần nhấn mạnh trách nhiệm đại diện của đại biểu Quốc Hội,
Điều 82 khẳng định: ‘Đại biểu Quốc Hội có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đại
biểu’. Đây là quy định rõ ràng, mang tính chất yêu cầu, ràng buộc cao hơn rất nhiều so
với quy định tại Điều 100 Hiến pháp năm 1992 mà trong đó chỉ nêu rằng: ‘Đại biểu Quốc
Hội phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu’.
Về kỳ họp Quốc Hội
Khoản 1 Điều 83 Hiến pháp năm 2013 bổ sung quy định về tính chất các kỳ họp
của Quốc Hội, theo đó nêu rằng: ‘Quốc Hội họp công khai. Trong trường hợp cần thiết,
theo đề nghị của Chủ tịch nước, UBTVQH, Thủ tướng Chính phủ hoặc của ít nhất một
phần ba tổng số đại biểu Quốc Hội, Quốc Hội quyết định họp kín’. Hiểu theo cách trình
bày của Điều 83, Quốc Hội chủ yếu họp công khai, việc họp kín chỉ trong trường hợp đặc

biệt (khi cần thiết).51 Vì Điều 83 không quy định cụ thể về những ‘trường hợp cần thiết’
có thể triệu tập họp Quốc Hội theo hình thức họp kín nên vấn đề này sẽ do luật định.
1.2.6.2.Chủ tịch nước (Chương VI, Điều 86-93)
Hiến pháp năm 2013 không có sự thay đổi đáng kể về hình thức và nội dung của
chế định Chủ tịch nước. Chương VI kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992 về
vị trí, vai trò của Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước CHXHCN
Việt Nam về đối nội và đối ngoại (Điều 86), với lý giải là để ‘...phù hợp với bản chất và
mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước’52 của Việt Nam.Nói chung, Chủ tịch nước tiếp
tục được Hiến pháp năm 2013 xác định là một thiết chế quan trọng trong bộ máy nhà
nước, có vai trò phối hợp quyền lực, là bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện các chức
năng đối nội, đối ngoại của Nhà nước và cho hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành

Về vấn đề này, xem Hoàng Minh Hiếu, “Bổ sung quy định về quyền miễn trừ trách nhiệm của đại biểu Quốc
Hội vào Hiến pháp 1992”, trong cuốn Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tập
I, NXB Hồng Đức, 2012.
50
Xem Đào Trí Úc, Quốc Hội và Chủ tịch Nước trong Hiến pháp mới, tài liệu đã dẫn.
51
Xem Đào Trí Úc, Quốc Hội và Chủ tịch Nước trong Hiến pháp mới, tài liệu đã dẫn.
52
Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã dẫn, tr.10.
49

22


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

pháp, tư pháp của quyền lực nhà nước.53 Chỉ có một số sửa đổi, bổ sung nhỏ trong
Chương này, với mục tiêu nhằm ‘làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch

nướctrong mối quan hệ với cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp’54; cụ thể như sau:
- Khoản 5 Điều 88 quy định cụ thể quyền của Chủ tịch nước được“quyết định
phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải
quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục
chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam ” (khoản 9 Điều 103 Hiến pháp năm 1992 chỉ
quy định chung là Chủ tịch nước có quyền quyết định phong hàm, cấp sĩ quan c ấp cao
trong các lực lượng vũ trang nhân dân). Bổ sung này được lý giải là để ‘…làm rõ hơn
nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc thống lĩnh các lực lượng vũ trang’ 55.
- Điều 90 bổ sung quy định: ‘Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp
bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của Chủ tịch nước” (Điều 105 Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định, khi xét thấy cần thiết,
Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ). Bổ sung này được lý
giải là để ‘…làm rõ hơn thẩm quyền của Chủ tịch nước trong việc tham dự các cuộc
họp của Chính phủ’56.
- Khoản 3 Điều 88 bổ sung quy định thẩm quyền của Chủ tịch nước bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TANDTC căn cứ vào nghị quyết của Quốc Hội và
quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án khác. Bổ sung này
được lý giải là để làm rõ hơn th ẩm quyền của Chủ tịch nước trong việc bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức thẩm phán, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp57.
- Liên quan đến Chủ tịch nước, Khoản 2 Điều 89 quy định thẩm quyền của Hội
đồng Quốc phòng và An ninh do Chủ tịch nước làm Chủ tịch được: “…trình Quốc Hội
quyết định tình trạng chiến tranh, trường hợp Quốc Hội không thể họp được thì trình
UBTVQH quyết định; động viên mọi lực lượng và khả năng của đất nước để bảo vệ Tổ
quốc; thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt do Quốc Hội giao trong trường
hợp có chiến tranh; quyết định việc lực lượng vũ trang tham gia ho ạt động góp phần
bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới’. So với quy định trong Điều 104 Hiến pháp
năm 1992, Hội đồng Quốc phòng và An ninh được bổ sung các thẩm quyền mới, quan
trọng, đó là trình Quốc Hội quyết định tình trạng chiến tranh, quyết định việc lực lượng
vũ trang tham gia ho ạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.

Những quy định mới này là để làm rõ hơn thẩm quyền của thiết chế quan trọng này,
cũng như để gắn kết với quy định mới về việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế của lực lượng
vũ trang ở Điều 65.
1.2.6.3.Chính phủ (Chương VII, Điều 94-101)
Về Chính phủ
53

Xem Đào Trí Úc, Quốc Hội và Chủ tịch Nước trong Hiến pháp mới, tài liệu đã dẫn.
Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã d ẫn, tr.10.
55
Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã d ẫn, tr.10.
56
Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã d ẫn, tr.10.
57
Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã dẫn, tr.10.
54

23


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

Chương VII Hiến pháp năm 2013 kế thừa các quy định về vị trí, chức năng, cơ
cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong Chương VIII Hiến pháp năm
1992 song có một số quy định được sửa đổi, bổ sung, sắp xếp lại, với mục đích là để
‘cho phù hợp với vị trí, chức năng của Chính phủ với tính chất là cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, cơ quan chấp hành của Quốc Hội’,58 cụ
thể như sau:
- Điều 94 kế thừa quy định Chính phủ "là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất
của nướcCHXHCN Việt Nam ", "là cơ quan chấp hành của Quốc Hội" của Hiến pháp

năm 1992, song bổ sung một quy định mới trong đó lần đầu tiên chính thức khẳng định
Chính phủ "là cơ quan thực hiện quyền hành pháp". Điều này được lý giải là để “phù
hợp với quan điểm và nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước có sự phân công, phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp”59mà đã được thể hiện ngay từ Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (quy định được bổ
sung vào năm 2001). Nói cách khác, cùng với quy định bổ sung về kiểm soát giữa các
cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp ở khoản 3 Điều 2 (đã phân tích ở trên), và quy
định bổ sung về tòa án thực hiện quyền tư pháp (phân tích ở chế định tòa án dưới đây),
quy định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp ở Điều 94 cũng cho thấy nỗ
lực của các nhà lập hiến Việt Nam trong việc thiết lập một cơ chế kiểm soát quyền lực
trong nội bộ bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tam quyền phân lập. Tuy nhiên, các quy
định mà Điều 94 kế thừa từ Hiến pháp năm 1992 phần nào cũng cho thấy ý chí níu giữ
nguyên tắc tập quyền XHCN - với đặc điểm về vị trí tối cao và toàn quyền của Quốc
Hội trong mối quan hệ với các cơ quan nhà nước khác, trong đó có Chính phủ- điều mà
về nguyên tắc là đi ngược với nỗ lực xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực theo tam
quyền phân lập.
- Điều 96 khoản 2 bổ sung nhiệm vụ của Chính phủ trong việc “…đề xuất, xây
dựng chính sách trình Quốc Hội, UBTVQH quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền
để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này…”. Đây là quy định mới nhằm
khẳng định vai trò hoạch định chính sách của Chính phủ - một yêu cầu ngày càng nổi lên
rõ hơn trong thực tế quản trị quốc gia ở Việt Nam kể từ khi Đổi mới (1986) đến nay. Quy
định này sẽ kéo theo những cải cách về quy trình và thủ tục xây dựng và sửa đổi, bổ sung
luật, pháp lệnh và các VBQPPLkhác ở Việt Nam trong thời gian tới.
- Chuyển thẩm quyền của Chính phủ quyết định về điều chỉnh địa giới hành
chính (thực tế là cả chia tách, thành lập mới) các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh
(khoản 10 Điều 112 Hiến pháp năm 1992) sang thẩm quyền của UBTVQH, với lý giải
là ‘để phù hợp với tính chất và tầm quan trọng của việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành
chính lãnh thổ’.60
- Điều 95 khoản 1 quy định: “Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ
tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng

thành viên Chính phủ do Quốc Hội quy định…’ Như vậy, so với Hiến pháp năm 1992,
58

Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã d ẫn, tr.11.
Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã d ẫn, tr.11.
60
Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã dẫn, tr.11.
59

24


DỰ ÁN PHÁT TRIỂN LẬP PHÁP QUỐC GIA (NLD)

Hiến pháp năm 2013 đã bỏ cụm từ“các thành viên khác” và bổ sung cụm từ “cơ cấu, số
lượng thành viên Chính phủ do Quốc Hội quy định”. Những sửa đổi, bổ sung này nhằm
làm rõ hơn quy đ ịnh về cơ cấu, thành phần của Chính phủ.
Về Thủ tướng Chính phủ
Chương VII Hiến pháp năm 2013 có một số quy định được sửa đổi, bổ sung
theo hướng tiếp tục đề cao vị trí, vai trò của Thủ tướng Chính phủ.
- Khoản 2 Điều 95 bổ sung một quy định mới, trong đó nêu rõ ‘Th ủ tướng Chính
phủ là người đứng đầu Chính phủ’, đồng thời quy định rõ hơn và bổ sung trách nhiệm
giải trình của Thủ tướng, đó là: Chịu trách nhiệm trước Quốc Hội về hoạt động của Chính
phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ trước Quốc Hội, UBTVQH, Chủ tịch nước (Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định ‘Thủ
tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc Hội và báo cáo công tác với Quốc Hội,
UBTVQH, Chủ tịch nước’).
- Sắp xếp, cơ cấu lại quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ
(khoản 1,2 Điều 98), để ‘làm rõ hơn thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong việc
định hướng, điều hành hoạt động của Chính phủ và lãnh đạo hệ thống hành chính nhà

nước từ trung ương đến địa phương, qua đó bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của
nền hành chính quốc gia’.61
- Bổ sung thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ về chỉ đạo việc đàm phán, ký
kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước, đàm phán,
ký hoặc gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, chỉ đạo thực hiện điều ước
quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là thành viên (khoản 5 Điều 98); đồng thời bổ sung
quy định về trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ trong việc thực hiện chế độ báo cáo
trước Nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan
trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ (khoản 6
Điều 98). Những bổ sung này trước hết là để “bảo đảm sự tương thích [giữa nhiệm vụ,
quyền hạn của Thủ tướng] với nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ”.62
- Sửa đổi, gộp thẩm quyền trong việc ban hành VBQPPL của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ vào một điều (Điều 100) để
quy định khái quát việc ban hành văn bản của các chủ thể này, đồng thời không quy
định cụ thể về các loại VBQPPL mà các chủ thể này có thẩm quyền ban hành như Hiến
pháp năm 1992 mà để cho luật định, với mục đích để ’bảo đảm tính ổn định, lâu dài
trong các quy định của Hiến pháp’.63 Sửa đổi này để mở khả năng cho việc sửa đổi các
quy định có liên quan trong Luật ban hành VBQPPL năm 2008.
Về các thành viên Chính phủ
Hiến pháp năm 2013 có một số sửa đổi, bổ sung nhằm tăng cường vai trò, trách
nhiệm cá nhân của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thể hiện rõ hơn vị trí, nhiệm
vụ, trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với tư cách vừa là thành
61

Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã d ẫn, tr.11.
Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã d ẫn, tr.12.
63
Xem Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã dẫn, tr.12.
62


25


×