Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Giải pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 4 5 tuổi qua hoạt động làm quen với văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.87 KB, 23 trang )

Giải pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 4-5 tuổi qua hoạt động làm quen
với văn học
MỤC LỤC
Table of Contents

PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. MỤC ĐÍCH CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã dạy:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”
Cũng bởi vậy mà Bác đã có lời dặn dò với ngành học Mầm non :
“ Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thế nào trước hết phải yêu
trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy phải bền bỉ chịu khó mới nuôi dạy được các cháu. Dạy
trẻ như trồng cây non, trồng cây non được tốt thì sau này các cháu thành người tốt.
Dạy trẻ tốt thì sau này các cháu thành người tốt”.
Ngày nay giá trị con người ngày càng được nhận thức đúng đắn và đánh giá một cách
toàn diện, sâu sắc thì công tác chăm sóc giáo dục trẻ càng mang một ý nghĩa nhân
văn cụ thể, càng trở thành một đạo lý của thế giới văn minh.
Thấm nhuần lời dạy của Bác, công tác giáo dục đào tạo thế hệ măng non - những
người chủ tương lai của đất nước đã, đang và sẽ là chủ trương lớn của toàn Đảng,
toàn dân. Để thực hiện tốt mục đích giáo dục này, cấp học mầm non đã có những
bước chuyển lớn nhằm góp phần đặt nền móng đào tạo con người phát triển toàn diện.
Và để thực hiện được mục tiêu đó đòi hỏi người giáo viên mầm non phải có tấm lòng
yêu nghề mến trẻ một cách thực sự bằng tất cả những gì mình có được cùng với
lương tâm nghề nghiệp để đầu tư trí tuệ, công sức lên mỗi cuốn giáo trình, mỗi trang
giáo án.
Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp trong năm học vừa qua tôi luôn tìm tòi áp
dụng mọi hình thức đổi mới và nâng cao phương pháp dạy trong quá trình chăm sóc
giáo dục trẻ. Đặc biệt là trong môn học làm quen với văn học, bởi vì môn học này có



vai trò rất quan trọng, nó là một phương tiện hỗ trợ đắc lực cho quá trình phát triển
ngôn ngữ trẻ.
Thông qua hoạt động văn học giúp trẻ nhận thức được thế giới xung quanh.
Ngoài ra hoạt động văn học còn mang tính nghệ thuật cao, qua ngữ điệu giúp trẻ cảm
nhận được cái hay,cái đẹp trong tiếng mẹ đẻ, những hành vi đẹp trong cuộc sống ,từ
đó trẻ biết sử dụng những ngữ điệu của mình để thể hiện tình cảm. Ngoài ra văn học
còn giúp phát triển trí nhớ ,tư duy cho trẻ 4-5 tuổi ,và là công cụ giúp trẻ nói lên
nhưng suy nghĩ cảm nhận của mình về nhân vật trong chuyện.
Nắm được ý nghĩa và tầm quan trọng của môn làm quen với văn học đối với sự
phát triển ngôn ngữ trẻ, tôi đã nhận thức được rằng mình cần phải tìm tòi đưa ra được
những nội dung phương pháp và hình thức dạy đổi mới để kích thích sự hứng thú, say
mê của trẻ vào tiết học nhằm khuyến khích trẻ nói nhiều, đọc nhiều. nâng cao hiệu
quả phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Từ những suy nghĩ trên đây, là một giáo viên Mầm non tôi đã mạnh dạn đưa đề
tài “Giải pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 4-5 tuổi qua hoạt động làm
quen với văn học” vào thử nghiệm.
Mục đích của tôi khi nghiên cứu đề tài này là nhằm phát triển vốn từ, ngôn ngữ mạch
lạc cho trẻ là phát triển khả năng nghe hiểu ngôn ngữ, khả năng trình bày logic, có
trình tự, chính xác và rèn kỹ năng nghe đọc, kể, diễn cảm các tác phẩm văn học cho
trẻ 4-5 tuổi
II. SKKN VỚI CÁC GIẢI PHÁP MỚI
- Xác định nội dung cần nói giúp cho lời nói của trẻ có nội dung thông báo ngắn
gon, rõ ràng. Sắp xếp nội dung đã lựa chọn giúp cho lời nói của trẻ được đầy đủ hợp
lý và có logic.
- Lựa chọn từ giúp trẻ diễn tả chính xác nội dung mình cần thông báo. Chọn từ
giúp cho lời nói của trẻ rõ rang, chính xác và mang sắc thái biểu cảm.
- Sắp xếp cấu trúc lời nói có sự liên kết các câu nói lại với nhau tạo thành chuỗi
lời nói nhằm diễn tả trọn vẹn một ý, một nội dung nào đó để giúp người nghe hiểu
được.Đây là sự sản xuất toàn bộ nội dung thong báo có logic.



- Diễn đạt nội dung nói phải ngừng nghỉ ngắt giọng đúng, để giọng nói của trẻ
không ê, a, ậm ừ. Luyện cho trẻ tác phong khi nói phải thoai mái, tự nhiên, khi nói
nhìn vào mặt người nói.
Nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ mạch lạc được thực hiện ở mọi lúc mọi nơi trong
sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Tiếp tục dạy trẻ biết nghe – hiểu – trả lời câu hỏi của
người lớn. Biết trò chuyện với những người xung quanh. Dạy trẻ kể chuyện về đồ
chơi, đồ vật theo tranh, kể lại tác phẩm văn học, kể có trình tự, diễn
cảm.
III. ĐÓNG GÓP CỦA SÁNG KIÊN KINH NGHIỆM:
-Đóng góp một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo bé qua hoạt
động làm quen với văn học.
- Giúp trẻ phát triển thẩm mĩ, giáo dục kỹ năng sống từ đó góp phần phát triển
toàn diện nhân cách trẻ.
Khi thực hiện sáng kiến này tôi nhận thấy trẻ đã có sự quan tâm đối với văn học,
đặc biệt là sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc có hiệu quả rõ dệt giúp hình thành và phát
triển hoàn thiện nhân cách trẻ. Tôi tin rằng nếu được áp dụng trong độ tuổi mẫu giáo
nhỡ trong toàn Trường Mầm non Thị Trấn Thứa cũng như trong các Trường Mầm
non khác thì không những chúng ta đã bồi đắp về tinh thần cho trẻ mà hơn thế nữa sẽ
giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc, góp phần giúp trẻ phát triển toàn diện và lưu
giữ những bài thơ, những câu chuyện cổ tích hay của văn học trẻ em Việt Nam.

PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC


1-Cơ sở lí luận
Phát triển ngôn ngữ mạch lạc qua làm quen với văn học cho trẻ 4-5 tuổi có ý nghĩa
và nhiệm vụ hết sức quan trọng trong việc phát triển toàn diện các mặt cho trẻ .
Trước hết môn học này có ý nghĩa to lớn , góp phần phát triển 5 mặt cho trẻ,cụ thể là:

“Giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, phát triển trí tuệ , phát triển thể lực, và rèn
luyện lao động”. Bên cạnh đấy, môn học này còn có nhiệm vụ quan trọng là :


Cung cấp cho trẻ những kiến thức, trí thức về thế giới xung quanh trẻ .



Mở rộng hiểu biết và tích luỹ vốn kinh nghiệm cá nhân .



Làm giầu vốn từ, phát triển ngôn ngữ giầu hình tượng, giầu sức biểu cảm đồng
thời rèn luyện khả năng tri giác đối tượng, khả năng trình bày ngôn ngữ một
cách mạch lạc, logic, có trình tự chính xác, và rèn kỹ năng nghe, đọc, kể diễn
cảm,các tác phẩm văn học cho trẻ 4-5 tuổi .



Giáo dục thái độ cách ứng xử cho trẻ thông qua các bài học, dạy trẻ biết yêu
quê hương, đất nước, yêu thiên nhiên và con người .
Nắm được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4 tuổi nên
trong năm học 2016-2017 được sự phân công công tác của Ban giám hiệu nhà
trường tôi được nhận nhiệm vụ trực tiếp chăm sóc - giảng dạy lớp mẫu giáo 4-5
tuổi. Tôi luôn có ý thức rèn luyện, đi sâu vào học tập, nghiên cứu kỹ chương
trình giảng dạy của “Lĩnh vực phát triển ngôn ngữ” qua bộ môn “Làm quen
với văn học cho trẻ mẫu giáo”. Tôi luôn suy nghĩ phải làm gì? làm như thế nào
để nâng cao nghệ thuật giảng dạy giúp trẻ hứng thú học tập.
.
Giải quyết được những vấn trên là chúng ta sẽ đạt được mục tiêu chung của

ngành học đó là lấy trẻ làm trung tâm, trẻ được trực tiếp tham gia vào các hoạt
động một cách chủ động, tích cực, sáng tạo, trẻ tự học là chính, học qua chơi,
qua khám phá, qua tìm hiểu, qua trải nghiệm bằng cách sử dụng các giác quan
và khám phá, nhờ vậy mà chúng ta có thể đáp ứng được nhu cầu .

2. Cơ sở thực tiễn :
Tôi nghiên cứu vấn đề này tại Trường Mầm non Thị Trấn Thứa nơi tôi đang
công tác. Trong quá trình giảng dạy các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực phát triển
ngôn ngữ cho trẻ tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau .


a.Thuận lợi :
- Tôi nhận được sự quan tâm, giúp đỡ từ Ban giám hiệu nhà trường khi thực
hiện đề tài này.
- Tôi nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ UBND Thị Trấn Thứa , Phòng Giáo
dục & Đào tạo huyện Lương Tài hỗ trợ phương tiện trình chiếu.
- Nhà trường tạo điều kiện cho tôi đi học các lớp bồi dưỡng chuyên đề, lớp tin
học, do sở GDĐT tỉnh Bắc Ninh và phòng GDĐT huyện Lương Tài mở để
nâng cao chất lượng chuyên môn.
- Nhà trường đã phân trẻ theo lớp theo đúng độ tuổi nên tạo điều kiện thuận lợi
cho giáo viên đứng lớp trong quá trình giảng dạy .
b. Khó khăn :.
-Do trình độ nhận thức không đồng đều, gần 50% trẻ lớp tôi mới lần đầu đến
trường, số trẻ nam nhiều hơn số trẻ nữ, do đó gặp nhiều khó khăn.
- Hơn 50% trẻ chưa phân biệt được sự khác nhau rất tinh tế trong cách phát âm
mà chỉ tiếp nhận một cách chung chung.
Ví dụ: tay – tai, muỗi – mũi, phân biệt l – n.
- 45% khả năng khả năng chú ý của trẻ còn yếu, không đều, không ổn định vì
vậy nên trẻ chưa chú ý đến thành phần trong câu, trong từ. Vì vậy những âm
điệu đọc lướt, những từ không nhấn mạnh trong câu trẻ dễ bỏ qua không chú ý.

- Trí nhớ của trẻ còn hạn chế, trẻ chưa biết khối lượng các âm tiếp thu ,cung
như trật tự các từ trong câu.Vì thế trẻ bỏ bớt từ, bớt âm khi nói.
- 70% kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, nhận thức hạn chế dẫn đến tình
trạng dùng từ không chính xác, câu lủng củng.
- 35% trẻ nói, phát âm sai do ảnh hưởng ngôn ngữ của người lớn xung quanh
trẻ (nói tiếng địa phương)
- Đa số phụ huynh bận công việc hoặc một lí do khách quan nào đó ít có thời
gian trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói.
Từ những thuận lợi và khó khăn đó, tôi thấy rằng phải dần dần khắc phục,
sửa đổi và hướng dẫn trẻ phát triển ngôn ngữ một cách đúng đắn nhất qua giao
tiếp và tập cho trẻ làm quen văn học.


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
I. THỰC TRẠNG :
1. Khảo sát :
Năm 2016 – 2017 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công chủ nhiệm và
giảng dạy lớp mẫu giáo 4-5 tuổi, tổng số cháu của lớp là 42 cháu.
như sau.
Số cháu khảo sát
Kĩ năng nghe kể chuyện diễn cảm
Kĩ năng đàm thoại
Kĩ năng kể lại chuyện và đóng kịch
42 Trẻ
25/42=59%
17/42=41% chưa có kĩ năng nghe kể.
- 25/42 cháu đạt =59%
- 17/ cháu đạt =41% chưa hăng hái,trả lời chưa rõ ràng đúng ý.
20/42 cháu chưa kể truyện diễn cảm, đóng kịch=47%
22/42 cháu chưa đạt =53% chưa mạnh dạn, chưa kể chuyện diễn cảm và chưa

thể hiện tính cách của nhân vật.

2. Đánh giá :
Qua phần khảo sát trên, tôi phải phân loại đối tượng trong lớp để nắm được
tình hình thực tế tìm hiểu và giáo dục một số trẻ cá biệt. Do đó chỉ tiêu cần đạt
cuối năm học là từ 90 – 95% trẻ lớp tôi có kĩ năng sử dụng ngôn ngữ mạch lạ
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP


1. Bồi dưỡng nâng cao nhận thức
Hiện nay chương trình Giáo dục Mầm non được cải cách, thay đổi nhiều ở tất
cả các lĩnh vực đặc biệt lĩnh vực phát triển ngôn ngữ, trước sự thay đổi nhiều
về phương pháp giảng dạy và nhu cầu lĩnh hội kiến thức của trẻ được nâng cao.
Với bản thân tôi nói riêng và các giáo viên mầm non nói chung phải không
ngừng học tập, trau rồi nâng cao trình độ, để tìm gia những phương pháp dạy
học tích cực nhất, thu hút trẻ tập chung vào bài học, và mang lại kết quả nhận
thức cao nhất cho trẻ.
Hiện nay Công nghệ thông tin ngày càng được ứng dụng nhiều trong các lĩnh
vực. Bậc học Mầm non đã đưa Công nghệ thông tin vào trong các hoạt động
để giúp trẻ nhận thức và gây hứng thú cho trẻ. Vì vậy tôi nghĩ bản thân phải có
phương pháp sử dụng ứng dụng công nghệ thông tin vào bài dạy của mình sao
cho hợp lý để giúp trẻ tiếp thu bài nhanh nhất, hiệu quả nhất trong mục tiêu
giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc. do đó yêu cầu đặt ra với bản thân tôi nói
riêng và các giáo viên mầm non nói chung phải không ngừng học tập, trau dồi
nâng cao trình độ cả về lý thuyết lẫn thực hành vi tính sao cho sử dụng thành
thạo. Bên cạnh đó tôi vẫn tìm tòi học hỏi thêm cách soạn giáo án powerpoint
trên máy vi tính, đây cũng là những gợi ý tốt để giáo viên có thêm những ý
tưởng sáng tạo mới nhằm tổ chức các hoạt động cho trẻ một cách sinh động,
cuốn hút và đạt hiệu quả cao hơn .
Không chỉ bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho cô, mà cũng cần cho trẻ được

làm quen ,tiếp cận với những đồ dùng đồ chơi cô đã chuẩn bị, điều đó cũng
giúp cho giáo viên nắm bắt được sâu hơn tâm lý và sở thích của trẻ .
2. Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của trẻ.
Tôi tiến hành tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của trẻ 4 tuổi để so sánh với trẻ 5
tuổi, từ đó có biện pháp bồi dưỡng giáo dục trẻ 4 tuổi.
* Đặc điểm phát âm:
- Nói chung trẻ đã phát âm tốt hơn, ít ê a, ậm ừ. Trẻ vẫn còn phát âm sai, những
âm thanh khó có 2-3 âm tiết như: lựu – nịu, hươu – hiu, lá- ná, nói – lói, chiêm
chiếp – chim chíp, Tuy nhiên lỗi sai đã ít hơn so với trẻ 3 tuổi.
* Đặc điểm vốn từ:


- Vốn từ của trẻ tăng nhanh khoảng 1300 – 2000 từ. Danh từ và động từ ở trẻ
vẫn chiếm ưu thế. Tính từ và các loại từ khác trẻ đã sử dụng nhiều hơn.
- Trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ biểu tượng về kích thước như:
Cao – thấp, dài – ngắn, rộng – hẹp, các từ chỉ tốc độ như: Nhanh – chậm, các từ
chỉ màu sắc: đỏ, vàng, trắng, đen. Ngoài ra các từ khái niệm thời gian như:
Hôm qua, hôm nay, ngày mai…trẻ dùng còn chưa chính xác. Một số trẻ còn
biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như: Xám, xanh lá cây, tím, da cam.
- 100% trẻ biết sử dụng các từ cao, thấp, dài , ngắn, rộng, hẹp. Có 55% số trẻ
đếm được từ 1- 10. Tuy nhiên trẻ sử dụng một số từ còn chưa chính xác. Ví dụ:
Mẹ có muốn ngồi hông? ( không)
* Đặc điểm ngữ pháp:
- Trẻ ít sử dụng câu cụt hơn. Tuy nhiên trong một số trường hợp trẻ sử dụng từ
vẫn chưa thật chính xác. ví dụ: Mẹ ơi! Con muốn cái dép kia! Chủ yếu trẻ vẫn
sử dụng câu đơn mở rộng.
- Trẻ có khả năng kể lại chuyện và kể chuyện có trình tự logic. Thế nhưng qua
tìm hiểu quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ 4 tuổi chuyện có trình tự logic.
3.Tạo môi trường cho trẻ làm quen với văn học.
* Về phía lớp:

Ngay từ đầu năm học tôi đã phối hợp với cha mẹ học sinh khuyến khích sưu
tầm và đóng góp các loại băng đĩa ghi hình, ghi tiếng về các bài thơ câu
chuyện, sách chuyện, tranh chuyện, họa báo, tạp chí, để xây dựng góc sách
chuyện mang những nội dung giúp trẻ làm quen văn học, để các giờ hoạt động
góc trẻ được xem tranh vẽ về các câu chuyện, bài thơ.Trong giờ hoạt động góc
này cô giúp trẻ, hướng dẫn trẻ dần dần chi giác và đọc kể được những bài thơ
câu chuyện đó.
Trong giờ đón và trả trẻ tôi mở đĩa ghi hình và tiếng những bài thơ câu chuyện
cho trẻ xem nhằm giúp trẻ tri giác dần dần nội dung những bài thơ câu chuyện
đó.
- Tôi luôn tận dụng diện tích phòng học, chú ý bố trí sắp xếp các học cụ, đội
hình để tạo môi trường học và thoải mái cho trẻ.


Trong lớp tôi trang trí những mảng tranh chuyện thể hiện nội dung những bài
thơ, câu chuyện theo từng chủ điểm. VD: với chủ diểm thế giới thực vật tôi
trang trí mảng tranh truyện “ Cây thìa là” hoặc thơ “Cây dây leo” hoặc tôi
hướng dẫn các cháu cùng làm những quyển tranh về những câu chuyện, bài thơ
trẻ đã được làm quen để tăng thêm phần phong phú cho góc sách chuyện và tận
dụng khả năng tối đa nâng cao chất lượng làm quen văn học cho trẻ.
- Tôi sử dụng các nguyên vật liệu mở như: Thanh tre. Ly nhựa, nắp thiếc, hộp
sữa, lõi giấy vệ sinh… để làm thành những con rối xinh xắn. Trẻ cũng có thể sử
dụng được để kể chuyện theo ý thích.
- Để làm trang phục cho trẻ khi đóng kịch tôi dùng: Vải vụn, giấy, lá cây, tạo
nhiều kiểu dáng trang phục lạ mắt thu hút trẻ.
- Chú ý đến khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ để có sự điều chỉnh và sửa
sai, rèn luyện khả năng ngôn ngữ cho trẻ.
-Bản thân tôi trước khi tổ chức hoạt động cũng phải tự luyện giọng kể, cách sử
dụng tranh, sách tranh, rối, mô hình, giáo án powerpoint…để giúp trẻ cảm thụ
văn học một cách tốt nhất.

*Về phía nhà trường:
Từ những năm học trước thực hiện chuyên đề “Văn học” nhà trường đã có suy
nghĩ cần phát huy hiệu quả phòng thư viện, đồ chơi,phòng máy tính với các
trang thư viện điện tử ở đó lưu trữ những giáo án văn học có ứng dụng công
nghệ thông tin hoặc những hình ảnh, giữ liệu liên quan để thiết kế giáo án ứng
dụng công nghệ thông tin phục vụ tiết dạy làm quen văn học.
Đến nay trường đã có đủ sách, tranh chuyện, tranh thơ, thư viện đồ chơi, thư
viện giáo án điện tử phục vụ tiết dạy văn học cho tất cả các lứa tuổi.
-Về chuyện thì có truyện cổ tích, chuyện kể sang tạo theo từng chủ điểm,
những bài thơ, ca dao, cùng với nguồn tài liệu được lựa chọn với khả năng
nhận thức củ trẻ.
-Trong thư viện đồ chơi có vòng quay kỳ diệu, tranh rời, để trẻ tự sắp thành câu
chuyện, có sân khấu rối với đủ loại rối, trang phục để trẻ diễn tập tạo nhiều
hứng thú để giới thiệu nhân vật trong chuyện và trong thơ, trẻ có thể đóng kịch
thể hiện các nhân vật trong chuyện, trong thơ.


Ngoài ra phòng thư viện còn trang bị đầy đủ phương tiện nghe nhìn như đài,
băng hình, trang thư viện giáo án điện tử, máy chiếu, máy tính sách tay để phục
vụ tốt cho việc dạy và học môn làm quen văn học cho trẻ.
4 Tổ chức tiết học nhẹ nhàng linh hoạt.
Để thu hút sự chú ý, gây hứng thú của trẻ tôi đã sử dụng công nghệ thông tin,
mô hình rối, tranh minh họa vào một số bài dạy cụ thể sau :
Ví dụ : Dạy câu chuyện : “ Cây thìa là ”
Chủ đề : Thế giới thực vật
Chủ đề nhánh : Một số loại cây .
Với bài dạy này tôi đã sử dụng phần mềm PoWerPoint để soạn giáo án
điện tử phục vụ một số hoạt động trong tiết dạy.
Ví dụ: phần gây hứng thú cho trẻ, tôi chuẩn bị một số hình ảnh trên máy chiếu
về cây, rau , quả. Tôi đọc câu đố, cho trẻ đoán và chiếu hình ảnh minh họa lên

để trẻ kiểm tra câu trả lời của mình.
- Tôi kể chuyện lần 2 và giảng nội dung theo tranh minh họa trên máy chiếu.
-Tôi sử dụng rối trong kể chuyện lần 3 cho trẻ nghe và dạy trẻ kể chuyện
cùng cô đã gây được sự hấp dẫn, tập chung chú ý cho trẻ.
Trước khi vào tiết dạy tôi còn chuẩn bị máy tính xách tay đã cài đặt phần
mềm PoWerPoint, máy chiếu, phông chiếu là những đồ dùng cần thiết khi
giảng dạy .
Vào giờ học để thu hút sự chú ý của trẻ tôi gọi trẻ đến bên cô và hỏi :
- Các con thấy thời tiết hôm nay như thế nào ?
- Với thời tiết đẹp thế này các con có dự định đi đâu ? ( trẻ nêu ý định)
- Bây giờ cô có một đề nghị , cô con mình sẽ cùng đi chơi , cô sẽ đưa chúng
mình đến thăm “vườn cây xanh” cô - các con cùng khám phá những điều thú
vị trong khu vườn nhé!.
Sau đó tôi sẽ nhẹ nhàng đọc câu đố, trẻ đoán tên cây, quả… và chiếu cho
trẻ xem hình ảnh về các loại cây trên máy chiếu và trò chuyện cùng cô . Tiếp đó
cô nhẹ nhàng dẫn dắt trẻ vào câu truyện và cô kể diễn cảm cho trẻ nghe câu
tryện bằng lời của cô sau đó cô hướng trẻ nhìn lên màn hình và giơí thiệu cho


trẻ được quan sát những hình ảnh về câu tryện mà cô đã chuẩn bị sẵn trên máy,
trẻ cùng cô đàm thoại nội dung câu truyện trên máy chiếu và lắng nghe cô kể
câu chuyện đó trên băng đĩa .
Với việc sử dụng công nghệ thông tin vào tiết dạy, trẻ đặc biệt có hứng thú,
trước khi vào bài học, khi nhìn thấy trong lớp có máy vi tính, có máy chiếu, tất
cả trẻ đều ngạc nhiên đến sửng sốt và rất hưng thú, đến khi vào tiết học khi
được xem trực tiếp các hình ảnh động âm thanh, bài hát trên màn hình trẻ vô
cùng thích thú. Tiết học trôi qua một cách nhẹ nhàng đầy lôi cuốn trẻ từ đầu
đến cuối. Đến khi hết tiết học trẻ còn nói “ học tiếp đi cô”
Với bài dạy này trẻ được quan sát kỹ các hình ảnh các loại cây một cách sống
động và trung thực, trẻ được quan sát kỹ nội dung tranh truyện trên máy chiếu

thay vì quyển tranh truyện bé ở ngoài . Trẻ được xem và khắc sâu tính cách
nhân vật hiền lành tốt bụng, tham lam độc ác qua cử chỉ, nét mặt của từng
nhân vật, qua đó trẻ tập trung cao độ vào tiết học, hăng hái phát biểu xây dựng
bài, giờ học sôi nổi .
Từ đó phát huy được tính tích cực, phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Giờ học đạt kết
quả từ 90-95%.

Ví dụ 2:

Thơ “Gấu qua cầu”

Chủ đề : Giao thông
Với bài dạy này tôi chuẩn bị :
+ Mũ gấu, mũ nhái bén, một cây cầu.
Mở đầu bài dạy tôi cho trẻ đến bên cô, cô đọc câu đố về đèn hiệu giao thông :
‘‘ Đèn mắt đỏ,mắt xanh
Suốt đêm không ngủ
Đứng canh bên đường’’

( đèn hiệu giao thông)

cùng trò chuyện về chủ đề giao thông sau đó cho trẻ xem hình ảnh hai con gấu
đang đi qua cầu trên máy chiếu và đàm thoại cùng trẻ .


Có những con vật gì ?



Chúng đang làm gì ?





Những con vật này sống ở đâu ?
Sau đó cô đọc cho các cháu nghe .
Thay vì trước đây tôi chỉ có thể sử dụng tranh ảnh hoặc những con vật
bằng rối rẹt để giới thiệu với trẻ nên bài dạy chưa thực sự hấp dẫn, trẻ không
hứng thú .Thì nay với công nghệ thông tin tôi có thể dễ dàng tìm được hình
ảnh những con vật sống trong rừng ở trên mạng thật dễ dàng .
Cũng với những hình thức trên tôi giới thiệu tranh, đọc thơ, giảng nội dung
theo tranh trên máy chiếu.
Tiếp theo tôi cho trẻ đọc thơ diễn cảm nhiều lần với nhiều hình thức khác
nhau, khi trẻ đọc thơ đã hay và diễn cảm tôi tiến hành cho trẻ đóng kịch với vở
kịch “Gấu qua cầu” tôi đã biên đạo sẵn.
Chính điều đó kích thích sự hứng thú trẻ vào tiết học, trẻ nào cũng chăm
chú theo dõi, khi kết thúc vở kịch trẻ vui mừng vỗ tay khen thưởng bạn. Qua
tiết học trẻ không chỉ được làm quen với một số luật lệ đi đường đơn giản, mà
còn được học chữ viết, được phát triển ngôn ngữ tích cực, trẻ đựơc học một
cách thoải mái, nhẹ nhàng , vui chơi là chính, nhưng trong chơi có học . Giờ
học đạt kết quả cao.
5. Chú ý rèn nề nếp, rèn kỹ năng và kích thích sự sáng tạo của trẻ:
- Cô hướng dẫn trẻ biết chia nhóm kể chuyện, tạo cho trẻ cảm giác tự tin,
mạnh dạn, nhanh nhẹn và linh hoạt qua việc trẻ biểu diễn hoặc đóng kịch.
- Rèn kỹ năng nhập vai nhân vật, bắt chước giọng điệu, thái độ, để thể
hiện tính cách nhân vật trong chuyện từ đó khuyến khích trẻ thể hiện sự sáng
tạo của mình trong khi biểu diễn hoặc đóng kịch.
- Cô tổ chức tiết dạy mang tính chất gợi mở, tạo điều kiện cho trẻ tự thỏa
thuận và tự chọn vai kể theo ý thích về sự sáng tạo của trẻ. Có thể dùng lời để
khuyến khích, động viên trẻ thực hiện các vai diễn sáng tạo.

- Rèn trẻ một số nề nếp, thói quen văn minh trong giờ học, biết ngoan
ngoãn, chú ý, lắng nghe cô và bạn kể chuyện, đọc thơ, đóng kịch… Hăng hái
tham gia các hoạt động cùng cô và bạn.


6.Tổ chức ôn luyện mọi lúc, mọi nơi, ôn luyện thông qua lễ hội:
Ôn luyện mọi lúc, mọi nơi cũng là một biện pháp giúp ổn định trẻ.
Tôi thường xuyên tổ chức ôn tập cho trẻ vào các hoạt động trong ngày,
trong giờ hoạt động chính cô tích hợp cho trẻ đọc thơ hoặc vè trong phần gây
hứng thú đầu giờ, trong giờ hoạt động ngoài trời cô tích hợp đồng dao vào các
trò chơi vận động.
Ví dụ: Trò chơi “Mèo đuổi chuột” lồng ghép bài đồng dao “Mèo đuổi
chuột”,

Vào các buổi chiều trong tuần trước khi tổ

chức các hoạt động chiều tôi thường cho trẻ đọc ôn lại các bài thơ, vè, đồng
giao, câu chuyện trước, tổ chức hoạt động chiều sau.
Thông qua các hoạt động tổ chức lễ hội tổ chức hoạt động kể chuyện đóng
kịch, đọc thơ… theo một chương trình biểu diễn văn nghệ mà 100% trẻ được
tham gia nhằm giúp trẻ hứng thú với bộ môn làm quen văn học.
Ví dụ: lễ hội 20/11chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam. cho trẻ kể chuyện
sáng tạo về cô giáo của mình.
7. Thực hiện công tác tuyên truyền, Phối hợp với phụ huynh:
- Tôi đã làm bảng tin tuyên truyền về chương trình dạy theo chủ đề và
thay tin hàng tuần để phụ huynh biết, trong bảng tuyên truyền này tôi đã ghi rõ
nội dung của từng câu chuyện, bài thơ, vè, đồng dao, để phu huynh nắm được
nội dung và phối hợp với giáo viên rèn luyện thêm cho trẻ ở nhà.
- Vận động phụ huynh hỗ trợ vật phế phẩm: thùng giấy, sách báo cũ,
chuyện đọc, chuyện tranh, hoặc những đồ dùng đồ chơi do phụ huynh tự làm,

dụng cụ hóa trang…
- Tôi thường trao đổi, động viên phụ huynh cố gắng dành thời gian để
tâm sự với trẻ và lắng nghe trẻ nói. Khi trò chuyện với trẻ phải nói rõ ràng
mạch lạc, tốc độ vừa phải để trẻ nghe cho rõ.
- Cha mẹ, người thân cố gắng phát âm đúng để trẻ bắt chước.
- Khuyến khích hặc tuyên truyền với phụ huynh cung cấp kinh nghiệm
sống cho trẻ. Tránh không nói tiếng địa phương, cần tránh cho trẻ nghe những
hình thái ngôn ngữ không chính xác.


8. Xây dựng kế hoạch:
- Tôi xây dựng kế hoạch phát triển ngôn ngữ mach lạc cho trẻ cho trẻ
theo từng quý xuyên suốt trong một năm học.
Tháng 9 + 10: Tôi chú ý chọn những bài tập luyện tai nghe cho trẻ nhằm
phát triển thính giác âm vị (cho trẻ nghe những bài hát, những câu chuyện,
những bài đồng dao…). Tôi tạo mọi điều kiện để trẻ tập trung chú ý luyện khả
năng chú ý thính giác cho trẻ thông qua các bài tập, trò chơi (Tai ai thính, ai
đoán giỏi…) Cố gắng phát âm đúng, không phát âm sai vì trẻ hay bắt trước.
Sửa lỗi phát âm cho trẻ khi phát âm sai mọi lúc, mọi nơi trong các hoạt động
hàng ngày.
Tháng 11+ 12: Tôi tập trung vào việc làm để tăng vốn từ cho trẻ?
Giáo viên cần nói diễn cảm, rõ ràng, giải thích nghĩa của từ khó giúp cho
trẻ hiểu, nhớ và vận dụng được từ để đặt câu. Để đẩy mạnh sự phát triển khả
năng vận động các cơ quan phát âm cần tập cho trẻ các bài tập luyện cơ quan
phát âm thích hợp:
“Con có cái ca, cô cắt quả cà, con cầm cái ca, cùng cười ha ha”.
“ Có con ba ba, đội nhà đi trốn, bì bà bì bõm, bé bắt ba ba.”
“Bà bảo bé, bé búp bê, bé bồng,bé bé, búp bê ngoan nào.”
“ Lúa lên lớp lớp đòng đòng, lá non xanh.”
Tháng 1 + 2: Vẫn xuyên suốt hai nhiệm vụ trên nhưng tôi đào sâu vấn đề

luyện trí nhớ cho trẻ qua các bài thơ, đồng dao đặc biệt là những câu chuyện
đầy lôi cuốn và hấp dẫn. Gợi ý cho trẻ sử dụng những loại câu đơn giản, đủ
nghĩa.
Tháng 3 + 4 + 5: Tôi xây dựng những trò chơi giúp trẻ nói đúng ngữ
pháp, nói mạch lạc. Ví dụ: Trẻ “nói theo mẫu câu” của một câu chuyện nào đó:
“Người anh tham lam chiếm hết ruộng vườn, nhà cửa, trâu bò của cha mẹ đẻ
lại”(truyện cây khế) hoặc “nói nốt câu” Ví dụ: Cô nói: Bà biến thành chim vì…
Trẻ nói: Bà muốn bay đi tìm nước uống, hoặc: vì Tích Chu ham chơi không lấy
nước cho bà…Cô lưu ý thay đổi các câu tùy theo mức độ phát âm của trẻ, cho
trẻ chơi từ dễ đến khó, các mẫu câu phức tạp dần lên hoặc “đặt câu với từ”, “kể


nốt truyện”, “kể chuyện” … để củng cố kỹ năng nói đúng ngữ pháp, phát triển
trí tưởng tượng, sáng tạo của trẻ.
Một khi đã có một số lượng vốn từ phong phú trẻ sẽ tự tin kể chuyện, đọc
thơ, đóng kịch…một cách hứng thú và tự nhiên.
9. Làm đồ dùng đồ chơi:
- Tôi tận dụng tất cả những nguyên vật liệu có thể sử dụng làm đồ chơi:
Sách báo, lịch cũ, lõi giấy vệ sinh, ống lon, chai nhựa, xốp, vải vụn, cành cây
khô…làm đồ chơi phục vụ tiết học phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Dựa vào từng chủ đề tôi triển khai kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi một
cách cụ thể, mỗi chủ đề đều có một bộ đồ dùng đồ chơi phục vụ cho quá trình
giảng dạy và vui chơi của trẻ. Hàng tháng Tôi và các cháu đều sử dụng những
vật liệu có sẵn như giấy vụn, các loại lá, các màu, hạt bột… để xé dán thành
những cuốn tranh truyện do trẻ tự làm bằng những hình ảnh sưu tầm được, gợi
ý cho trẻ tự kể chuyện theo trí tưởng tượng của trẻ.
Từ những quần áo, vải vụn, ống giấy… Tôi hướng dẫn trẻ làm các con
rối thật xinh xắn từ những câu chuyện cổ tích trẻ được học hoặc được nghe
hoặc được làm các nhân vật theo sự sáng tạo của trẻ.
Khi kể chuyện tôi thường sử dụng những loại sách tranh truyện do đó

việc vẽ trang trí cũng góp phần làm cho trẻ hứng thú khi nghe, xem hoặc muốn
được sử dụng sách. Trẻ sẽ biết cách sử dụng sách và giữ gìn sách, tranh truyện
hơn.
10. Biện pháp tổ chức thực hiện giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc:
Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc qua bộ môn làm quen văn học,
tôi cho trẻ kể lại truyện, chơi đóng kịch và đóng vai theo chủ đề.
* Dạy trẻ kể lại chuyện:
- Trẻ tái hiện lại một cách mạch lạc, diễn cảm tác phẩm văn học mà trẻ
đã được nghe. Trẻ sử dụng nội dung, hình thức ngôn ngữ đã có sẵn của các tác
giả và của giáo viên. Tuy nhiên yêu cầu trẻ không học thuộc lòng câu chuyện
một cách tự do thoải mái nhưng phải đảm bảo nội dung cốt truyện.
- Yêu cầu đối với trẻ:


+ Kể nội dung chính của câu chuyện, không yêu cầu trẻ kể chi tiết toàn bộ
nội dung tác phẩm. Lời kể phải có các cấu trúc ngữ pháp. Khuyến khích trẻ
dùng ngôn ngữ chính của mình kể lại. Giọng kể diễn cảm, to, rõ, không ê a, ấp
úng, cố gắng thể hiện đúng ngôn ngữ đối thoại hay độc thoại.
+ Chuẩn bị: Tiến hành trước giờ học, kể chuyện cho trẻ nghe. Trước khi
kể cô giao nhiệm vụ trẻ ghi nhớ và kể lại.
+ Tiến hành : Đàm thoại về nội dung câu chuyện. Đàm thoại nhằm mục
đích giúp trẻ nhớ lại nội dung câu chuyện, giúp trẻ xây dựng dàn ý câu chuyện
kể,lựa chon hình thức gôn ngữ (cách dùng từ đặt câu)
Ví dụ: Truyện “Dê con nhanh trí” – Dê mẹ dặn dê con như thế nào?
Câu hỏi phải phù hợp với trẻ cả về hình thức ngữ pháp và nhận thức. Khi
đàm thoại cô cần lưu ý giới thiệu cho trẻ biết thêm các từ đồng nghĩa những
cụm từ thay thế để tạo điều kiện cho trẻ lựa chọn từ để kể.
Tôi dùng ngôn ngữ ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với nhận thức của trẻ kể
lại nộ dung tác phẩm: Cô kể diễn cảm, lời kể có các mẫu câu cần luyện cho trẻ
(mới). Mẫu truyện của cô có tác dụng chỉ cho trẻ thấy trước kết quả trẻ cần đạt

được về nội dung, độ dài, trình tự câu chuyện.
Trẻ kể xong, cô nhận xét, đánh giá truyện kể của trẻ, không nên để đến
cuối buổi trẻ sẽ quên mất những ưu, nhược điểm của mình hay của bạn. Cô cần
nhận xét đúng, chính xác để có tác dụng khuyến khích, động viên trẻ,nhận xét
cả về nội dung, ngôn ngữ tác phong.
* Chơi đóng vai theo chủ đề:
- Khi chơi đóng vai theo chủ đề, trẻ phải tham gia vào các cuộc nói
chuyện với bạn để phân vai, trao đổi với nhau trong khi chơi, trẻ bắt chước các
nhân vật mà trẻ đóng vai, làm cho ngôn ngữ đàm thoại của trẻ thêm phong phú
và đa dạng.
Ví dụ: Chủ đề gia đình- chơi nấu ăn: Trẻ tự phân vai chơi của mình: Mẹ
đi chợ, nấu ăn, chăm sóc các con, ba đi làm.
* Chơi đóng kịch:
- Tổ chức cho trẻ chơi đóng kịch là một phương pháp tốt để phát triển
ngôn ngữ đối thoại cho trẻ. Trẻ làm quen với các mẫu câu văn học đã được gọt


giửa, chọn lọc. Khi đó trẻ cố gắng thể hiện đúng ngữ điệu, tính cách nhân vật
mà trẻ đóng, giúp cho ngôn ngữ của trẻ mang sắc thái biểu cảm rõ rệt.
Ví dụ: Chủ đề gia đình, câu chuyện Tích Chu.
Cháu Thịnh đóng vai Tích Chu: Lúc đầu ham chơi, thái độ không vâng
lời, sau biết lỗi tỏ thái độ nhận lỗi, giọng chầm (Bà ơi, bà đi đâu! Bà ở lại với
cháu, cháu sẽ mang nước cho bà, bà ơi!)
Cháu Ánh Nguyệt đóng vai bà(giọng run run, rứt khoát) Bà đi đây! Bà
không về nữa đâu!
Cháu Thùy đóng vai bà tiên (tính cách hay giúp đỡ mọi người, giọng dịu
dàng,nhỏ nhẹ) Nếu cháu muốn bà cháu trở lại thành người thì cháu phải đi lấy
nước suối tiên cho bà cháu uống. Đường lên suối tiên xa lắm cháu có đi được
không?
* Dạy trẻ kể chuyện ở các hoạt đông khác:

* Hoạt động ngoài trời:
Dạy trẻ kể về những hiện tượng, sự kiện trong cuộc sống hàng ngày,
những điều trẻ đã biết, tưởng tượng… Trẻ phải tự chọn nội dung, hình thức
ngôn ngữ sắp xếp chúng theo một chật tự nhất định.
Tôi chủ yếu tập cho trẻ kể theo hai dạng: kể chuyện miêu tả, kể chuyện
theo chủ đề.
* Kể chuyện miêu tả: Tôi dạy trẻ nêu tên, đặc điểm theo thứ tự khảo sát,
tính liên hệ, kết thúc nêu ý nghĩa hoặc hành động.
Ví dụ: Miêu tả thời tiết – Trời âm u, mây đen ,gió thổi mạnh, trời sắp
mưa.
* Kể chuyện theo chủ đề: Tôi chủ yếu rèn cho trẻ truyền đạt lại những
sự kiện sảy ra trong một thời gian nhất định của nhân vật nào đó.
Ví dụ: Truyện: Dê con nhanh trí – Con chó sói giả làm dê mẹ lúc dê mẹ
đi vắng, nó giả giọng dê mẹ, nó nhúng chân vào thùng bột cho chân trắng giống
dê mẹ. Nhưng chó sói vẫn bị dê con phát hiện ra và đuổi sói đi.


Thời gian đầu trẻ kể theo mẫu của cô, sau đó có thể trẻ nhận thức chậm kể
theo mẫu của cô. Để tập cho trẻ kể cô có thể cầm con rối để kể từng câu một,
sau đó đặt câu hỏi để trẻ kể về con rối của trẻ
Khi trẻ kể tôi thường nhắc trẻ: Trẻ phải đứng quay mặt về phía các bạn.
Giọng kể rõ ràng, tốc độ hợp lí, tư thế tự nhiên thoải mái. Khi trẻ kể tác phong
không đúng kể sai, phát âm ngọng... cô nên để trẻ kể song rồi mới sửa, nhận xét
nhưng không nên dừng lại quá lâu. Nếu trẻ quên hoặc không nói, cô đặt câu hỏi
gợi ý giúp trẻ. Sau khi trẻ kể, cô nhận xét đánh giá chuyện kể của từng trẻ ngay,
không nên để cuối giờ học.
* Dạy trẻ kể chuyện theo trí nhớ:
-Mục đích: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc, ghi rõ mẫu câu cần luyện.
- Chọn đề tài phù hợp với nhận thức và kinh nghiệm của trẻ. Để trẻ ghi
nhớ một cách có chủ đích chuẩn bị kể được tốt, tôi thường giao nhiệm vụ trước

cho trẻ. Ví dụ: Ngày mai là ngày cuối tuần, các con ở nhà làm gì? Các con chú
ý nhớ những việc đã làm, hoặc được đi chơi thế nào kể lại cho cô và bạn nghe
nhé.
Trước tiên tôi chọn những đề tài chung (hoạt động mà cả lớp cùng được
tham gia) Khi trẻ đã quen với cách kể, cô cho trẻ kể theo kinh nghiệm của trẻ.
* Dạy trẻ kể chuyện sáng tạo;
- Yêu cầu: Truyện kể mạch lạc, logic, các câu nói đúng ngữ pháp, thể hiện
rõ ngôn ngữ đàm thoại hay độc thoại trong khi kể.
Các dạng kể chuyện sáng tạo: kể nốt chuyện, kể theo đề tài và dàn ý cho
trước, kể theo chủ đề tự cho, kể theo mô hình.
- Chuẩn bị: Cô kể một đoạn chuyện rồi yêu cầu trẻ suy nghĩ kết thúc câu
chuyện ( giao nhiệm vụ). Cô cho trẻ xem mô hình trước một ngày, đàm thoại
gợi ý trước đề tài để trẻ suy nghĩ.
- Tổ chức sinh động để phát huy trí tưởng tượng của trẻ, giúp trẻ xây dựng
câu chuyện một cách hoàn chỉnh theo ý của từng cá nhân.
- Một số cháu đã kể được khi sử dụng mô hình, sách tranh, con rối, tranh
ảnh sưu tầm... sau mỗi lần kể tôi chú ý nhận xét kĩ lời kể của trẻ và tao mọi cơ
hội cho trẻ được kể chuyện sáng tạo.


CHƯƠNG IV:KIỂM CHỨNG CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ TRIỂN KHAI
Trong quá trình thực hiện tiết truyện kể,đọc thơ ở lớp mẫu giáo 4-5 tuổi
100% các cháu rất thích nghe cô kể chuyện, đọc thơ, 90-98% các cháu hăng
hái phát biểu xây dựng bài , kể lại được chuyện và tham gia đóng kịch theo nội
dung truyện
Qua đây tôi thấy việc gây hứng thú cho trẻ khi kể chuyện, đọc thơ là rất cần
thiết, vì thế người giáo viên cần làm tốt những việc sau:
- Nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn của chính bản thân mình,coi ngôn
ngữ là phương tiện giáo dục chủ đạo.
- Giáo viên cần sưu tầm tranh ảnh có nội dung phù hợp, trao đổi kiến thức tự

học qua sách báo, internet, qua đồng nghiệp.
- Phối hợp với phụ huynh để động viên giáo dục trẻ thực hiện tốt yêu cầu
cần đạt phù hợp lứa tuổi trẻ.
Qua khảo sát cuối năm trẻ lớp tôi đã đạt được kết quả như sau.


95% vốn từ của trẻ phát triển rõ rệt. Trẻ nói rõ ràng, mạch lạc hơn, nói nhiều
câu có nghĩa đầy đủ. Trẻ đã phân biệt được ý nghĩa một số từ.



85% Kinh nghiệm sống của trẻ đã phong phú hẳn lên, trẻ hứng thú tham gia
học, phát biểu, kể chuyện và đóng kịch.



80% Trẻ mới, nhận thức chậm đã mạnh dạn tham gia vào các hoạt động: đóng
kịch, kể chuyện.



100% Trẻ phân biết được sự đúng, sai, thiện , ác, chăm chỉ, lười biếng và có
tình cảm , thái độ phù hợp qua câu truyện mình học .



90%Trẻ phát âm rõ ràng, nói năng mạch lạc,có khả năng giao tiếp có văn hóa.




100% Phụ huynh ủng hộ cho trẻ mang thêm đồ dùng, đồ chơi, tranh ảnh sách
báo sưu tầm, truyện tranh phù hợp với chủ đề, góp phần phát triển ngôn ngữ
mạch lạc cho trẻ.



Kết quả thể hiện qua bảng so sánh:
Chưa ứng dụng giải pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ qua hoạt
động làm quen văn học.


Lớp
Sĩ số trẻ
Trẻ đạt kết quả

Khá – Tốt

Trẻ đạt kết quả

Trung bình

4-5 tuổi
42
25/42 = 59%

17/42 = 41 %

Sau khi đã ứng dụng giải pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ qua hoạt
động làm quen văn học.


Lớp
Sĩ số trẻ
Trẻ đạt kết quả

Khá - Tốt

Trẻ đạt kết quả

Trung bình

4-5tuổi
42
40/42=95%
2/42=5%

PHẦN III: KẾT LUẬN
1. Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập:

Luyện cho trẻ nói mạch lạc thông qua môn làm quen văn học là
toàn bộ nội dung rèn luyện ngôn ngữ cho trẻ. Nói mạch lạc chứng tỏ
ngôn ngữ của trẻ đã

đạt yêu cầu cao về mặt biểu hiện âm thanh, từ diễn

đạt câu đúng ngữ pháp cũng như sự mạnh dạn tự tin trong giao tiếp là vai


trò quan trọng, nó trang bị đầy đủ kiến thức cơ bản, góp phần hình thành
nhân cách trẻ, đáp ứng với yêu cầu xã hội. Đề tài nghiên cứu này sẽ là cơ
sở vững chắc cho việc học tập của trẻ những năm tiếp theo.

Với trẻ mầm non cần có những bài học văn học thật phong phú,
thật gần gũi với trẻ, học đi đôi với hành cần cho trẻ trải nghiệm, được
đọc, được kể diễn cảm những bài thơ, câu chuyện.
2. Hiệu quả thiết thực:
* Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ qua làm quen văn học có
tác dụng và ảnh rất lớn đến trẻ, bước đầu được áp dụng trong phạm vi,
một lớp đã mang lai hiệu quả rất cao trong việc phát triển ngôn ngữ
mạch lạc cho trẻ, nếu được áp dụng rộng rãi trong toàn đơn vị và toàn
nghành thì sẽ mang lại nhiều hiệu quả thiết thực cụ thể:
- Góp phần phát triển nhân cách cho trẻ.
- Hình thành và rèn cho trẻ một số đức tính tốt như: Ham hiểu biết, luôn
yêu thích khám phá tìm tòi những điều mới lạ.
- Rèn các kỹ năng: Ghi nhớ, chú ý, quan sát, lắng nghe và phát triển tư
duy lô gíc, phát triển ngôn ngữ, óc quan sát phán đoán cho trẻ.
- Qua bài học trẻ biết học tập những điều tốt, điều xấu .
* Bên cạnh việc có tác dụng và ảnh hưởng đến trẻ thì phát triển ngôn
ngữ cho trẻ qua làm quen văn học cũng có tác dụng và ảnh hưởng đến
giáo viên.


Mở rộng tầm hiểu biết và nâng cao kiến thức cho các cô.



Cô học được cách làm việc cùng trẻ có hiệu quả

- Cô được làm quen với công nghệ thông tin hiện đại và đã, đang từng bước có
những sáng tạo trong làm đồ dùng đồ chơi phục vụ giảng dạy.
- Qua công nghệ thông tin cô truyền thụ được đến trẻ tất cả những nội dung giáo dục
không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hình ảnh minh hoạ, âm thanh, tiếng động một

cách sống động và trung thực.
3.Kiến nghị với các cấp quản lý.
*Với Ban Giám hiệu nhà trường.


-Tạo mọi điều kiện tốt nhất để giáo viên thực hiện tốt chuyên đề.
-Tiếp tục quan tâm đầu tư kinh phí cho các chuyên đề, xây dựng, mua sắm cơ sở vật
chất phục vụ công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
Người viết sáng kiến

PHẦN IV: PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1-Văn học và phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ
2- Tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non theo hướng
tích hợp .
3-Tâm lí học trẻ em.
4- Chương trình chăm sóc giáo dục mẫu giáo ( từ 4-5 tuổi)
5- Tuyển chọn thơ ca, truyện theo chủ đề lớp 4-5 tuổi
6- Đọc kể chuyện ở vườn trẻ.
7- Tạp chí Giáo dục Mầm non
8- Hướng dẫn tổ chức thực hiện các hoạt động Giáo dục Mầm non theo chủ đề (trẻ 45 tuổi )
9- Trang web.thư viện giáo án điện tử Mầm non.




×