Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Tiểu luận Biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 4 5 tuổi qua kể chuyện theo tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.16 KB, 46 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Giữ gìn sự trong sáng của tiếng mẹ đẻ chính là giữ gìn mảnh đất văn
hóa tinh khiết cuối cùng”
Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp, học tập, vui chơi, ngôn ngữ giữ vai trò
quyết định sự phát triển tâm lý trẻ em. Bên cạnh đó ngôn ngữ còn là phương tiện
để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy
nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hóa. Bác Hồ của chúng ta đã
dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc.
Chúng ta phải giữ gìn nó, tôn trọng nó”. Do đó, việc dạy tiếng mẹ đẻ cho trẻ
tuổi mầm non có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Theo Usinxkin: “Ngôn ngữ là
cơ sở của mọi sự phát triển trí tuệ và là kho tàng của mọi kiến thức. Tất cả mọi sự
hiểu biết đều bắt đầu từ ngôn ngữ, thông qua ngôn ngữ và trở lại cũng bằng ngôn
ngữ”. Ngôn ngữ góp phần giáo dục toàn diện con người, giữ một vai trò to lớn đối
với sự phát triển của con người và xã hội, làm cho xã hội tồn tại, vận động, phát
triển lên một tầm cao mới.
Ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ giúp cho trẻ nhận thức và giao tiếp tốt
góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Việc
phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ trong giao tiếp sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận
với các môn khoa học khác như : Môn làm quen với môi trường xung quanh,
làm quen với toán, âm nhạc, tạo hình... mà ở đây đặc biệt là thông qua bộ môn
văn học trẻ được đọc thơ, kể chuyện, đóng kịch tạo cho trẻ được hoạt động
nhiều, giúp trẻ khả năng phát triển trí nhớ, tư duy và ngôn ngữ, khả năng sáng
tạo cảm thụ cái hay, cái đẹp, cái tốt cái xấu của mọi vật xung quanh trẻ. Bởi vì
trẻ em được ví như tờ giấy trắng, trẻ đến lớp như mở đầu trang sách cô giáo đưa
ra những hình ảnh, những vốn từ, những nhân vật,cử chỉ khác nhau, thông qua
những bài thơ, câu chuyện giúp trẻ mở mang kiến thức về xã hội về tự nhiên
xung quanh cuộc sống của trẻ, thông qua môn văn học giúp trẻ phát triển ngôn
1



ngữ cho trẻ là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong chương trình giáo dục
toàn diện trẻ.
Ở trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi, vốn từ của trẻ ở lứa tuổi này đã dần mở rộng về
các biểu tượng, kiến thức về thế giới xung quanh vô cùng phong phú. Trẻ đã có
thể tự tìm hiểu sự vật hiện tượng xung quanh, biết diễn đạt ý nghĩ của mình rõ
ràng, rành mạch và chính xác từ đó giúp mọi người có thể hiểu hết ý nghĩa, tình
cảm, cảm xúc của trẻ. Hơn thế nữa, độ tuổi này trẻ có một đầu óc tư duy và trí
tưởng tượng vô cùng phong phú và đa dạng, với sự tư duy đó trẻ “vẽ” ra những
câu chuyện vô cùng hấp dẫn, thú vị bằng chính khả năng tích lũy của bản thân.
Ngôn ngữ có vai trò vô cùng to lớn, ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển tình
cảm, đạo đức, thẩm mĩ, là phương tiện để giao lưu cảm xúc và phát triển tình
cảm. Thông qua ngôn ngữ, trẻ dần hình thành được những thói quen và học được
những cách ứng xử đúng đắn, nhận thức được cái hay, cái đẹp trong cuộc sống.
Đặc biệt hơn, việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc có nhiệm vụ quan trọng trong
phát triển ngôn ngữ của trẻ, phát triển ngôn ngữ mạ ch lạc của trẻ mẫu giáo 4 –
5 tuổi góp phần phát triển tư duy trực quan hình tượng, làm giàu vốn biểu tượng
của trẻ, hình thành những cơ sở ban đầu cho sự xuất hiện tư duy trực quan hình
tượng ở giai đoạn cao hơn, giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh mình một
cách đầy đủ, chính xác và sâu sắc hơn, góp phần mở rộng phạm vi giao tiếp, phát
triển xúc cảm tình cảm và tâm lý trẻ nói chung đồng thời nâng cao kỹ năng ngôn
ngữ nói chung của lứa tuổi này.
Ngày nay, truyện kể và kể chuyện có vai trò rất quan trọng đối với cuộc
sống của chúng ta, từ xa xưa đến bây giờ có biết bao nhiêu điều trong lịch sử
được truyền lại cho chúng ta bằng truyện kể. Giúp chúng ta hiểu rõ sự hình thành
cội nguồn loài người và lịch sử của nhân loại và nó trở nên đặc biệt hơn khi xen
vào tranh ảnh minh họa. Điều này thật sự thu hút trẻ nhỏ, làm kích thích sự hứng
thú, say mê, lôi cuốn trẻ vào nội dung tác phẩm. Việc giúp trẻ mẫu giáo 4 – 5
tuổi kể chuyện theo tranh mang giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách có hiệu
quả
2



Hiện nay, trẻ mầm non tiếp cận với các tác phẩm văn học chưa phong phú
với vốn từ ngữ còn nghèo nàn, lạc hậu, trẻ không biết diễn đạt câu từ sao cho
mạch lạc, phù hợp với ngữ cảnh. Và để giúp trẻ khi đọc, nghe và chú ý sâu sắc
hơn, biết trình bày ý kiến, suy nghĩ mong muốn của mình với mọi người và thể
hiện cảm xúc với môi trường xung quanh. Vì vậy xuất phát từ những tí do trên
tôi chọn đề tài: “Biện pháp nhằm phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 4 - 5
tuổi thông qua kể truyện theo tranh”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vai trò phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ lâu được các nhà khoa học trong và
ngoài nước nghiên cứu. Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ được nghiên
cứu rất kĩ càng ở Liên Xô cũ với nhiều nhà sư phạm cùng nhiều công trình
nghiên cứu khoa học nổi tiếng. Những công trình này đi vào Việt Nam từ rất sớm
vì vậy giáo viên và sinh viên ở các trường Mầm non đã biết đến Chikhieva.E.I
như một tác giả có uy tín trong lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo,
ngoài ra còn nhiều tác giả cũng góp phần quan trọng trong việc hình thành
chuyên ngành phát triển ngôn ngữ như:
Nguyễn Thị Ánh Tuyết trong “Tâm lí học trẻ em lứa tuổi mầm non” đã
nghiên cứu về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo. Tác giả cho chúng ta
thấy được cái nhìn tổng quát về đặc điểm của trẻ để đi đến tổ chức hoạt động cho
trẻ.
Nguyễn Xuân Khoa trong “Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ
mẫu giáo" đã đi sâu một cách đầy đủ, chính xác như dạy cái gì, dạy như thế nào,
các phương pháp phát triển vốn từ, cách đặt câu…vừa nói lí thuyết vừa đi vào
thực hành cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, từ vựng, phát triểm cảm xúc
thẩm mỹ…

3



TS.Trần Nguyễn Nguyên Hân trong “Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ mầm
non” đặt vấn đề một cách rõ ràng về ngôn ngữ, cơ chế phát triển ngôn ngữ và
cách thức phát triển ngôn ngữ cho trẻ em trong một tiến trình khoa học nhưng
đảm bảo tự nhiên. Chúng ta sẽ tìm thấy sự tương đồng trong suy nghĩ – tư duy
và cả cảm xúc khi nhận ra những “sự tiếp nhận ngôn ngữ bằng xúc cảm”
Lê Thị Ánh Tuyết và Hồ Lam Hồng trong: “Các hoạt động phát triển
ngôn ngữ của trẻ mầm non” đã hướng giáo viên trò chuyện với trẻ về một chủ
đề nào đó, giới thiệu một số trò chơi nhằm phát triển ngôn ngữ. Mặc dù cuốn
sách này đã giúp giáo viên nắm và hiểu được một số cách tổ chức trò chơi để
phát triển ngôn ngữ nhưng tác giả chỉ đề cập trong phạm vi trò chơi mà chưa tập
trung vào nghiên cứu phương pháp kể chuyện theo tranh.
Bước đầu tìm hiểu về vấn đề này tôi đã được tiếp xúc với nhiều công trình
nghiên cứu của một số tác giả liên quan đến vấn đề này: “Văn học và phương
pháp giúp trẻ làm quen với tác phẩm văn học” Do tác giả: Cao Đức Tiến ( chủ
biên) cùng với Nguyễn Đắc Diệu Lam, Lê Thị Ánh Tuyết - Hà nội 1992, “ Cuốn
đọc và kể chuyện văn học ở vườn trẻ” của tác giả M-Kbogolaupskai
V.VseptenKo do Lê Đức Mẫn dịch (NXBGD 1976).
Những công trình nghiên cứu này đã dựa vào đặc điểm phát triển tâm –
sinh lý và ngôn ngữ của trẻ. Đó là những đóng góp vĩ đại trên các phương diện
lý luận và thực tiễn, tuy vậy việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ thông
qua kể chuyện theo tranh vẫn chưa có nhiều, gần như chưa có một công trình
nghiên cứu nào chuyên sâu về vấn đề này.
3. Mục đích nghiên cứu
Nhằm tìm hiểu rõ hơn về ngôn ngữ mạch lạc, các tác phẩm văn học truyện
kể để từ đó tìm ra một số biện pháp giúp trẻ 4 -5 tuổi phải triển ngôn ngữ mạch
lạc thông qua kể chuyện theo tranh từ đó giúp phát triển khả năng nghe, hiểu
ngôn ngữ, khả năng trình bày có logic, có trình tự, chính xác và có hình ảnh nội
dung, góp phần giúp hoàn thiện nhân cách trẻ.
4



4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận có liên quan điến việc phát triển ngôn ngữ mạch
lạc cho trẻ 4 - 5 tuổi. Thu thập tài liệu và đi sâu vào nghiên cứu nhiều khía cảnh
xung quanh các tác phẩm văn học truyện kể để từ đó đưa ra các biện pháp phù
hợp.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: biện pháp nhằm phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho
trẻ qua kể chuyện theo tranh.
Phạm vi nghiên cứu: Trẻ 4 – 5 tuổi.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phân tích tổng hợp lí thuyết: thông qua các tài liệu, sách báo, tạp chí liên
quan đến tổ chức hoạt động dạy học phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 4 – 5
tuổi thông qua kể chuyện theo tranh
Phương pháp phân loại, hệ thống hóa lí thuyết để làm rõ cơ sở lí luận vấn
đề nghiên cứu
7. Đóng góp của đề tài
Đóng góp một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn văn học
Giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc qua môn làm quen tác phẩm văn
học thể loại kể chuyện theo tranh
Tạo cho trẻ hoạt động thông qua hoạt động học tập, vui chơi từ đó phát
triển ngôn ngữ
Tuyên truyền với phụ huynh để tạo điều kiện cho trẻ làm quen với thể
loại này
8. Cấu trúc
5


Ngoài phần mở đầu, kết, phần nội dung còn chia làm hai chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Biện pháp nhằm phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 4 - 5
tuổi thông qua kể truyện theo tranh

6


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Khái niệm, vai trò, chức năng của ngôn ngữ
1.1.1. Khái niệm về ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một hệ thống phức tạp con người sử dụng để liên lạc hay
giao tiếp với nhau cũng như chỉ chính năng lực của con người có khả năng sử
dụng một hệ thống như vậy. Ngành khoa học nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ
được gọi là ngôn ngữ học. Theo lối duy danh định nghĩa người ta có thể hiểu
ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội gồm hai mặt: ngôn và ngữ.
Ngôn là lời nói do các cá nhân trong xã hội nói ra mà ta nghe được. Lời
nói được tạo ra bởi các âm, các thanh và chứa đựng nội dung thông tin, có thể
gồm một hoặc nhiều câu nói. Ở các xã hội đã phát triển, đã có chữ viết, lời nói
có thể được ghi lại dưới dạng lời viết.
Ngữ là phần trừu tượng tồn tại trong trí óc của một cộng đồng xã hội
thường là một tộc người. Ðấy là một kho tàng được thực tế nói năng của những
người cùng một cộng đồng ngôn ngữ lưu lại.
Ănghen đã nói “Trước hết là lao động, sau lao động là ngôn ngữ, đó là
hai yếu tố đã biến não vượn thành não người”. Vì vậy ngôn ngữ là công
cụ, là phương tiện của loài người, nó đặc trưng cho mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng
người, để tạo điều kiện cho con người có thể gia nhập vào xã hội loài người, cóp
thể tham gia vào hoạt động để giao tiếp với nhau, để nhận thức và cải tạo thế
giới, đồng thời cải tạo chính bản thân mình.
1.1.2. Chức năng ngôn ngữ

Ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp vạn năng bởi vì: Thứ nhất, về mặt
số lượng: ngôn ngữ phục vụ cho cả loài người; thứ hai là về mặt chất lượng:
ngôn ngữ giúp cá nhân con người bộc lộ hết cái nhu cầu giao tiếp. Để đáp ứng
7


được những nhu cầu giao tiếp của xã hội do đó loài người đã tạo ra và thiết lập
rất nhiều các hệ thống tín hiệu khác nhau bên cạnh hệ thống tín hiệu ngôn ngữ.
Có những hệ thống tín hiệu có thể vượt biên giới quốc gia, các ranh giới của thể
chế chính trị để phục vụ loài người (ví dụ như hệ thống kí hiệu hóa học, toán
học…). Nhưng người dùng chúng lại rất chọn lọc (ví dụ như: ít nhất phải có
trình độ học vấn nhất định hoặc phải là những nhà chuyên môn có trình độ cao).
Với tính chọn lọc cao như vậy là xa lạ với ngôn ngữ từng tộc người (ngôn ngữ tự
nhiên không phân biệt giới tính, tuổi tác, địa vị xã hội, trình độ học vấn... mà
phục vụ cộng đồng một cách vô tư). Như vậy, khái niệm vạn năng của ngôn ngữ
phải được hiểu là một phương tiện không kén người dùng, vạn năng có nghĩa là
sự phổ biến và phổ thông, đó là nghĩa về số lượng. Nghĩa về chất lượng của
phương tiện giao tiếp: ngôn ngữ có thể chuyển tải được tất cả các nội dung thông
tin khác nhau mà người nói có nhu cầu..Trong khi đó, những phương tiện khác
chỉ đáp ứng được một phần nào đó rất nhỏ những nhu cầu về bộc lộ và giao tiếp
của con người.
Ngôn ngữ là phương tiện tư duy thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, ngôn
ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có từ nào biểu hiện khái niệm, tư
tưởng và ngược lại; thứ hai, ngôn ngữ trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành
tư tưởng: mọi ý nghĩ, tư tưởng trở nên rõ ràng khi đuộc biểu hiện bằng ngôn
ngữ. Vì vậy ngôn ngữ và tư duy thống nhất với nhau, có ngôn ngữ thì có tư duy
và ngược lại.
1.1.3. Vai trò ngôn ngữ đối với sự phát triển của trẻ
Ngôn ngữ có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển toàn diện của trẻ
1.1.3.1. Ngôn ngữ là phương tiện hình thành và phát triển nhận thức trẻ

về thế giới xung quanh
Ngôn ngữ là phương tiện nhận thức nhận thức về thế giới xunh quanh, là
cơ sở của mọi sự suy nghĩ, là công cụ của tư duy. Trẻ có nhu cầu tìm hiểu về thế
giới xung quanh, thông qua ngôn ngữ, lời nói của người lớn, trẻ sẽ làm quen với
8


các sự vật hiện tượng và hiểu những đặc điểm, tính chất, cấu tạo, công dụng của
chúng và trẻ học được từ tương ứng (từ và hình ảnh trực quan đi vào nhận thức
của trẻ cùng một lúc), trẻ tiếp nhận và phản hồi lại khiến cho vốn từ của trẻ được
nâng lên rõ rệt. Ngôn ngữ giúp trẻ mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh, từ
ngữ giúp cho việc củng cố những biểu tượng đã được hình thành. Nhờ có ngôn
ngữ, trẻ nhận biết ngày càng nhiều các sự vật hiện tượng mà trẻ được tiếp xúc
trong cuộc sống hàng ngày, giúp trẻ hình thành, phát triển phong phú các
biểu tượng và thế giới xung quanh. Sự phát triển ngôn ngữ giúp cho hoạt động trí
tuệ, các thao tác tư duy ngày càng được hoàn thiện, kích thích trẻ tích cực, sáng
tạo hoạt động trí tuệ. . Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giúp trẻ nhận thức thế
giới xung quanh mà còn là phương tiện để trẻ biểu hiện nhận thức của mình.
Nhờ có ngôn ngữ, trẻ nhận thức được về môi trường xung quanh và tiến hành
hoạt động với nó, đồng thời trẻ cũng sử dụng ngôn ngữ để kể lại, miêu tả lại sự
vật hiện tượng và những hiểu biết của trẻ để trao đổi với mọi người. Có nhiều
phương tiện để nhận thức thế giới xung quanh nhưng ngôn ngữ là phương tiện
nhận thức hữu hiệu. Thông qua ngôn ngữ trẻ nhận thức được thế giới xung
quanh chính xác, rõ ràng, sâu và rộng.
1.1.3.2. Ngôn ngữ là phương tiện phát triển tình cảm đạo đức thẩm mỹ
Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong việc hình thành và điều chỉnh những
hành vi của trẻ. Trong quá trình phát triển trẻ được giao tiếp và thiết lập nên các
mối quan hệ khác nhau do đó ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất.
Đặc biệt, đối với trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu xúc cảm trực tiếp
với những người xung quanh, hình thành những cảm xúc tích cực. Bằng những

câu hát ru, những câu chuyện kể, những lời nói âu yếm… đã mang đến cho trẻ
các giác yên bình, sự thích thú, vui mừng hơn hở. Sự giao lưu cảm xúc và ngôn
ngữ đầu tiên của trẻ chính là tiếng nói của người mẹ, ầu ơ, trò chuyện với trẻ. Từ
những cuộc trò chuyện này sẽ làm cho trẻ vui mừng, hình thành những tình cảm
thân thương đối với những người xung quanh trẻ từ đó hình thành ở trẻ những
cảm xúc tích cực. Khi giao tiếp với người lớn, trẻ tiếp nhận được những sắc thái
tình cảm khác nhau. Qua nét mặt, giọng nói, ngữ điệu, chứa đựng trong các từ,
9


các câu nói, dần dần trẻ cũng biết thể hiện những cảm xúc khác nhau của mình.
Thông qua ngôn ngữ trẻ biết những gì nên, không nên…qua đó rèn luyện những
phẩm chất đạo đức tốt ở trẻ, dần dàn hình thành ở trẻ những khái niệm ban đầu
về đạo đức ( ngoan – hư, tốt – xấu). Trong quá trình giao tiếp, người lớn luôn
hướng dẫn, uốn nắn hành vi của trẻ bằng lời nói, nét mặt, nụ cười giúp trẻ nhận
ra hành vi của mình là đúng hay sai. Bằng con đường đó, đứa trẻ dần dần hình
thành được những thói quen tốt và học được cách ứng xử đúng đắn. Đồng thời,
thông qua ngôn ngữ trẻ nhận thức được những cái hay, cái đẹp trong cuộc sống
xung quanh như: Những bông hoa, những hàng cây, con đường, cảnh đẹp làng
quê với những từ ngữ thể hiện nó. Trẻ sẽ có nhiều ấn tượng đẹp, có sự rung
động, có cảm nhận tươi mới tâm hồn trẻ trung và có ý thức giữ gìn cái hay, cái
đẹp. Hay thông qua ngôn ngữ văn học (thơ, truyện, ca dao, đồng dao…) trẻ
cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong tiếng mẹ đẻ, những hành vi đẹp trong cuộc
sống. Ngôn ngữ có tác dụng to lớn trong việc hình thành những phẩm chất đạo
đức tốt đẹp ở trẻ. Ngôn ngữ đã góp phần không nhỏ vào việc trang bị cho trẻ
những hiểu biết về nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, rèn luyện cho trẻ những tình
cảm và hành vi đạo đức phù hợp với xã hội mà trẻ đang sống.
1.1.3.3. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hòa nhập cộng đồng và trở thành
thành viên của cộng đồng
Nhờ có những lời chỉ dẫn của người lớn, trẻ dần hiểu được quy định

chung của cộng đồng mà mọi thành viên trong cộng đồng phải thực hiện. Trước
hết là những nề nếp sinh hoạt của gia đình, nhóm trẻ, trường mầm non, trẻ phải
tập cho mình khả năng thích ứng với mọi thứ xung quanh để có thể phát triển tốt.
Sau đó là một số quy định ngoài xã hội như tuân luật giao thông, giữ gìn vệ sinh
chung, bảo vệ môi trường, lễ phép với mọi người... Những gì trẻ có thể được
phép làm và những gì trẻ không được phép làm, phát triển điểm mạnh mà trẻ sẵn
có như sự hồn nhiên trong cách suy nghĩ sẽ làm cho cuộc đời luôn tươi tắn, dễ
thương. Mặt khác, trẻ cũng có thể dùng ngôn ngữ của mình để bày tỏ những nhu
cầu về vui chơi – giải trí,học tập, mong muốn của mình với các thành viên trong
cộng đồng, tự học hỏi, khám phá mọi thứ xung quanh, những điều mới lạ mà có
10


thể trẻ mới tiếp xúc lần đầu.. Điều đó giúp trẻ dễ dàng hòa nhập với mọi người.
Nhờ có ngôn ngữ, thông qua các câu chuyện, trẻ dễ dàng hòa nhập với xã hội tốt
hơn.
1.2. Phát triển ngôn ngữ mạch lạc ở trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi
1.2.1. Khái niệm ngôn ngữ mạch lạc
Phát triển ngôn ngữ mạch lạc là nhiệm vụ quan trọng nhất trong các
nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ trẻ mầm non. Rèn luyện khả năng nói mạch lạc
cho trẻ là giúp trẻ sử dụng ngôn ngữ giao tiếp một cách hoàn chỉnh, lưu loát. Sự
phát triển ngôn ngữ mạch lạc không tách rời với việc phát triển các nhiệm vụ
khác của phát triển lời nói: giáo dục chuẩn mực âm thanh lời nói, làm giàu và
tích cực hóa vốn từ, hình thành cấu trúc ngữ pháp.
Có nhiều quan niệm về ngôn ngữ mạch lạc. Tuy nhiên ngôn ngữ được coi
là mạch lạc khi có đủ những yếu tố sau:
Các câu phải đúng ngữ pháp và có ý nghĩa
Có dùng các phép liên kết một cách hợp lý.
Nội dung thông báo phải đầy đủ, khúc chiết, chính xác, hợp lý và có chủ
đề xác định.

Các hoạt động ngôn ngữ được thực hiện trong các câu phải dung hợp nhau
và thể hiện được chức năng giao tiếp của ngôn ngữ.
Có sắc thái biểu cảm khi nói (thể hiện bằng ngữ điệu) và khi viết (thể hiện
bằng dấu câu).
Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ là phát triển khả năng nghe, hiểu
ngôn ngữ, khả năng trình bày có logic, trình tự, chính xác, đúng ngữ pháp và có
hình ảnh một nội dung nhất định.
1.2.2. Các hình thức của ngôn ngữ mạch lạc
Có hai hình thức cơ bản của ngôn ngữ là ngôn ngữ hội thoại và ngôn ngữ
độc thoại.
11


Ngôn ngữ hội thoại:
Trong ngôn ngữ hội thoại, các chủ thể nói năng sử dụng những câu có cấu
trúc ngữ pháp đơn giản, tỉnh lược các thành phần, có thể chỉ còn một từ, một
mệnh đề (thành phần lược bỏ có thể hiểu được do hoàn cảnh nói năng). Vì ngôn
ngữ hội thoại được sự hỗ trợ của đối tượng giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp nên
nó không phức tạp về mặt tâm lý. Trong ngôn ngữ hội thoại, các phương tiện
biểu cảm phi ngôn ngữ đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Ngôn ngữ độc thoại:
Độc thoại thường được dùng để miêu tả (thông báo về các sự kiện tồn tại
đồng thời), tường thuật (thông báo về các sự kiện tiếp nối nhau) và phán đoán
(thông báo về các sự kiện tồn tại trong mối quan hệ nhân quả).
Trong ngôn ngữ độc thoại, các từ ngữ được sử dụng ở mức độ chính xác
cao. Các câu thường được xây dựng đúng về ngữ pháp và theo quy luật gần
giống với ngôn ngữ viết. Các từ nối, từ liên kết được sử dụng một cách linh hoạt
để lời nói trở nên mạch lạc. Khi sử dụng ngôn ngữ độc thoại, chủ thể nói năng
phải chuẩn bị lời nói của mình từ trước một cách cẩn thận và có trí nhớ tốt, phải
có sự kiểm tra, ý thức trong từng câu nói của mình. Người nói phải tự tin để trình

bày, thuyết phục người nghe. Các phương tiện biểu cảm phi ngôn ngữ trong
ngôn ngữ độc thoại cũng đóng vai trò quan trọng.
1.2.3. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ trẻ 4 – 5 tuổi
Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục trẻ trở thành
con người phát triển toàn diện. Sự phát triển chậm trễ về mặt ngôn ngữ có ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển của trẻ, đặc biệt là trẻ 4 – 5 tuổi, lứa tuổi trung
gian, dễ nhạy cảm nhất. Cho nên cần phải xác định rõ ràng các đặc điểm phát
triển ngôn ngữ của trẻ như: ngữ âm, vốn từ, ngữ pháp, ngôn ngữ mạch lạc… để
đề ra nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, hình thức phát triển ngôn ngữ cho trẻ
đúng lúc và phù hợp.
Về mặt ngữ âm: Ngữ âm của trẻ lứa tuổi này dần được hoàn thiện. Nhìn
chung trẻ đã phát âm tốt hơn, rõ hơn, ít ê a, ậm ừ. Trẻ vẫn còn sai những âm
thanh khó hoặc hoặc những từ có 2, 3 âm vị, sai những âm tiết có nhiều âm vị.
12


Tuy nhiên các lỗi sai đã ít dần và ngày càng được hoàn thiện hơn. Ở trẻ đã xuất
hiện những lời nói khái quát, kết luận đơn giản một cách mạch lạc. Mặt âm thanh
lời nói cũng nhanh chóng phát triển: Trẻ lĩnh hội được và phát âm đúng nhiều âm
vị; phát âm từ, câu rõ nét hơn: trẻ bắt đầu biết điều chỉnh tốc độ, cường độ của
giọng nói. Trẻ đang dần hoàn thiện khả năng nghe các âm tiết, phát âm đúng tất
cả các âm vị tiếng Việt trong các từ, câu một cách rành mạch, rõ ràng; tiếp tục
rèn luyện kĩ năng điều chỉnh giọng nói với cường độ, tốc độ phù hợp với tình
huống giao tiếp. Ở giai đoạn trước, trẻ chủ yếu bắt chước thì ở giai đoạn này trẻ
tự tập phát âm với sự hỗ trợ của giáo viên, gia đình… (sử dụng các bài tập – trò
chơi). Trẻ được luyện tập phát âm theo một trình tự logic phù hợp với các âm vị
trong tiếng Việt. Các âm vị khó phát âm như s, tr, r, x, ch, l… phải chú ý tập cho
trẻ ngay từ khi chúng 3 tuổi. Lỗi phát âm của trẻ được giảm dần theo lứa tuổi và
các thành phần âm tiết mà trẻ mắc lỗi được xếp theo thứ tự từ ít đến nhiều: thanh
điệu, âm chính, phụ âm đầu, phụ âm cuối, âm đệm. Trẻ được luyện các bộ phận

của cơ quan phát âm: môi, lưỡi, hàm…, chính xác hóa việc phát âm các âm vị
riêng biệt trong âm tiết và biết tách một âm ra khỏi âm khác, củng cố phát âm
đúng các âm trong từ và trong lời nói. Đến 5 tuổi trẻ có thể phát âm mềm dẻo và
hoàn thiện khả năng giao tiếp một cách mạch lạc.
Về mặt vốn từ: Vốn từ của trẻ tăng nhanh cả về mặt số lượng và mặt cơ
cấu từ loại. Số lượng từ tăng nhanh khoảng 1300 – 2000 từ. Danh từ và động từ
chiếm ưu thế, tính từ và các loại từ khác nhau trẻ đã biết sử dụng nhiều hơn. Tuy
nhiên, tốc độ tăng vốn từ ở các độ tuổi khác nhau, chậm dần theo độ tuổi, cuối 4
tuổi so với đầu 4 tuổi vốn từ tăng 40, 58%, cuối 5 tuổi so với đầu 5 tuổi vốn từ
chỉ tăng 10, 40% và như thế giảm dần mức độc tăng vốn từ. Mặt khác, cơ cấu từ
loại trong vốn từ của trẻ lứa tuổi này ban đầu chỉ là danh từ, sau đó là động từ và
tính từ, các từ loại khác xuất hiện sau. Tiếp nhận vốn từ khi trẻ đã có ở 3 – 4 tuổi,
trẻ phát triển, học hỏi, trau dồi để tăng thêm lượng vốn từ cho bản thân , làm tiền
đề cho trẻ bước qua giai đoạn mới, giai đoạn mà đòi hỏi trẻ phải tự mình lĩnh hội
kiến thức về thế giới xung quanh trẻ. Trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi đã sử dụng chính
13


xác các từ chỉ tính chất không gian như: Cao, thấp, dài, ngắn; các từ chỉ tốc độ:
Nhanh, chậm; màu sắc như: vàng, đỏ, xanh… Ngoài ra các từ có khái niệm
tương đối như: Hôm nay, ngày mai, hôm qua, trẻ vẫn dùng chưa chính xác. Vì
thế mà số lượng từ của trẻ tăng nhanh theo độ tuổi, trong đó các danh từ, động từ
chiếm ưu thế, các từ chỉ tính chất, đặc điểm…chiếm số ít và tăng chậm. Trẻ dùng
từ chưa chính xác và chưa hợp hoàn cảnh vì kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo
nàn, chưa hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của từ. Nội dung vốn từ của trẻ chỉ xoay
quanh các mặt như cuộc sống riêng, cuộc sống xã hội, thế giới tự nhiên… Trẻ sẽ
bắt đầu tập dùng những từ nối: Khi, nhưng…; thể hiện cảm xúc phức tạp: Bối
rối, khó chịu, sung sướng…; giải thích ý nghĩ: Không biết, nhớ là…Qua đây ta
thấy được vốn từ của trẻ không chỉ tăng về số lượng mà còn tăng cả về chất
lượng. Cuối tuổi mẫu giáo trẻ biết sử dụng cả những từ có tính chất khái quát,

trìu tượng, gợi cảm.
Về mặt ngữ pháp: Ngôn ngữ của trẻ mang tính chất hoàn cảnh, tình
huống nghĩa là ngôn ngữ của trẻ gắn liền với sự vật, hoàn cảnh, con người, hiện
tượng đang xảy ra trước mắt trẻ. Vì vậy mà cấu trúc ngữ pháp của trẻ được chỉnh
chu hơn. Mô hình cấu trúc chủ yếu trong lời nói của trẻ là cấu trúc Chủ ngữ - Vị
ngữ (C – V), chủ ngữ thường là danh từ, vị ngữ là động từ, tính từ…, ví dụ như:
“Mẹ đi chợ”, “Bạn hoa rất xinh”… Trẻ dùng câu dài hơn, có nhiều từ ngữ “đắt”
hơn như: Ở nhà con có nhiều váy lắm: màu xanh, màu đỏ… hay là những câu có
cả trạng ngữ, từ cảm thán: “Hôm nay, trời đẹp quá!”. Trẻ ít sử dụng câu ghép,
câu cụt hơi, có nhiều câu đơn mở rộng thành phần trạng ngữ chỉ thời gian, địa
điểm chiếm 20% [ tr142]. Cuối 4 tuổi, ngôn ngữ của trẻ đã bắt đầu biết nối kết
giữa tình huống hiện tại với quá khứ thành một "văn cảnh". Chính vì vậy mà nội
dung dạy trẻ dặt câu cũng được chú ý tới, đặt câu phải có đầy đủ thành phần chủ
ngữ - vị ngữ, có thể là những câu ghép đẳng lập với nhiều kiểu quan hệ khác
nhau như quan hệ nhân quả, quan hệ tương phản… Ở giai đoạn này là bước
chuyển nên ngữ âm của trẻ cũng phát triển mạnh hơn, vốn từ phong phú, đa

14


dạng, kết hợp với cách hiểu cấu trúc, kết cấu của một câu trẻ sẽ dễ dàng giao tiếp
với mọi người và phát triển ngôn ngữ mạch lạc.
Về mặt ngôn ngữ mạch lạc: Vốn từ của trẻ tăng lên không chỉ số lượng
từ mà điều quan trọng là lĩnh hội được các cấu trúc ngữ pháp đơn giản. Điều này
đã hình thành những cảm xúc ngôn ngữ qua giọng nói, ngữ điệu, âm tiết... nhằm
phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ. Tuy nhiên dưới tác động của cảm xúc trẻ
có thể nghe nhầm, phát âm nhầm. Dưới sự hướng dẫn của cô giáo, đặc biệt trong
hoạt động vui chơi, tạo hình, các tiết kể chuyện, tham quan, âm nhạc, thể
dục...và các nhiệm vụ do người lớn giao cho trẻ, xác định trách nhiệm của trẻ
một cách đơn giản, trẻ lĩnh hội được nhiều từ mới và ý nghĩa sử dụng của chúng,

là tiền đề quan trọng giúp trẻ hoạt động sau này. Đối với trẻ mẫu giáo, ngôn ngữ
mạch lạc là khả năng sử dụng lời nói gọn gàng, dễ hiểu, có thứ tự trong giao tiếp.
Sự mạch lạc càng tốt hơn khi trẻ vào giai đoạn cuối tuổi mẫu giáo. Trẻ đã có khả
năng kể lại chuyện, kể theo tranh và kể theo trình tự trước sau. Tuy nhiên độ
chính xác vẫn chưa cao như “Con thưa Thầy cô”, một số trẻ nói mạch lạc và đọc
những bài đồng dao, thơ rất mượt mà nhưng vẫn còn một số trẻ nói gọng, nói
chưa lưu loát. Trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi bắt đầu được học đặt những câu chuyện
nhỏ theo tranh, theo đồ chơi nhưng chỉ đơn thuần là mô phỏng lại mẫu của người
lớn. Sự mạch lạc được thể hiện ở tính hoàn chỉnh và tính liên kết, hoàn chỉnh về
nội dung, hình thức; liên kết sao cho nội dung và hình thức ăn khớp với nhau.
Chính vì vậy mà ngôn ngữ mạch lạc của trẻ được xem là nhiệm vụ quan trọng
nhất trong các nhiệm vụ phát triển lời nói của trẻ.
1.2.4. Ý nghĩa phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo 4 – 5
tuổi
Phát triển ngôn ngữ mạch lạc của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi góp phần phát
triển tư duy trực quan hình tượng, làm giàu vốn biểu tượng của trẻ, hình thành
những cơ sở ban đầu cho sự xuất hiện tư duy trực quan hình tượng ở giai đoạn
cao hơn, giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh mình một cách đầy đủ, chính
xác và sâu sắc hơn, góp phần mở rộng phạm vi giao tiếp, phát triển xúc cảm tình
15


cảm và tâm lý trẻ nói chung đồng thời nâng cao kỹ năng ngôn ngữ nói chung của
lứa tuổi này. Trong lứa tuổi mẫu giáo nhỡ, sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc chịu
ảnh hưởng lớn từ việc tích cực hóa vốn từ ( khối lượng lúc này đã đạt đến
khoảng 700 từ), lời nói của trẻ đã trở nên được mở rộng hơn, có trật tự hơn, mặc
dù cấu trúc còn chưa hoàn thiện. Trẻ mẫu giáo nhỡ bắt đầu được học đặt những
câu chuyện nhỏ theo tranh, theo đồ chơi, nhưng phần lớn những câu chuyện của
trẻ giờ đây chỉ đơn thuần là mô phỏng lại mẫu của người lớn và những lời nói
văn cảnh phát triển mạnh mẽ nghĩa là nói chỉ tự mình hiểu được.

Như vậy, ngôn ngữ mạch lạc là một hình thức ngôn ngữ rất cần thiết cho
trẻ mẫu giáo nhỡ 4 – 5 tuổi. Nó là phương tiện thỏa mãn hàng loạt nhu cầu của
trẻ ( nhu cầu nhận thức, giao tiếp, phối hợp hoạt động…) nhằm đáp ứng sự phát
triển cho trẻ ở giai đoạn này. Do đó phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu
giáo đặc biệt là trẻ mẫu giáo nhỡ 4 – 5 tuổi là một trong những nội dung phát
triển ngôn ngữ rất cần thiết cho trẻ ở trường mầm non.
1.3. Kể chuyện theo tranh cho trẻ 4 – 5 tuổi
1.3.1. Kể chuyện theo tranh
Kể chuyện là một hình thức hoạt động ngôn ngữ độc thoại của trẻ. Trong
hoạt động này, trẻ phải lựa chọn ý tưởng, nội dung, hình thức ngôn ngữ để thể
hiện. Trẻ sử dụng tất cả khả năng của mình (vốn từ, cách sử dụng câu, ngữ
điêu…) để diễn tả lại sự việc bằng ngôn ngữ một cách mạch lạc và dễ hiểu.
Theo “ Bách khoa toàn thư mở” kể chuyện là bất kỳ sự tường thuật nào để
kết nối các sự kiện, trình bày cho người đọc hoặc người nghe bằng một chuỗi câu
viết hoặc nói hoặc một chuỗi hình ảnh. Để kể chuyện, trẻ phải tự chọn nội dung,
hình thức ngôn ngữ, trong kể chuyện thể hiện chủ yếu là kinh nghiệm, tình cảm của
trẻ. Đối với trẻ mẫu giáo, dạy trẻ kể chuyện là một hoạt động trong “ phương pháp
hướng dẫn trẻ làm quen với tác phẩm văn học”, là môt trong những phương pháp
hiệu quả để phát triển ngôn ngữ mạch lạc của trẻ. Nhu cầu muốn được kể, được
chia sẻ những câu chuyện, những cảm xúc, tâm tư, tình cảm với mọi ngườ đặc biệt
là bạn đồng trang lứa chính là động lực thúc đẩy trẻ hoạt động một cách tự nguyện
và hứng thú.
16


Có rất nhiều hình thức kể chuyện để dạy trẻ kể chuyện: dạy trẻ kể chuyện
theo tranh, dạy trẻ kể chuyện với đồ chơi, dạy trẻ kể lại chuyện văn học, dạy trẻ kể
chuyện theo kinh nghiệm, dạy trẻ kể chuyện sáng tạo. Những hình thức trên đều có
một đặc điểm riêng biệt mà mang sức hút riêng cho trẻ nhưng hoạt động kể chuyện
theo tranh mang lại sự hứng thú và rất phù hợp đối với trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi. Bởi

trẻ ở lứa tuổi này rất náo động, thích xem tranh ảnh, đặc biệt là những bộ tranh có
chủ đề, đó cũng chính là con đường phát triển vốn từ phong phú cho trẻ, trí tưởng
tượng và khả năng sáng tạo, trẻ có thể kể lại câu chuyện trên cơ sở những gì nhìn
thấy một cách trực quan qua bức tranh hay bộ tranh.
Chính vì vậy, kể chuyện theo tranh là một hình thức đặc biệt quan trọng
không chỉ phát triển nhận thức, tư duy, trí tưởng tượng, sáng tạo mà quan trọng hơn
còn hoàn thiện ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ.
1.3.2. Đặc điểm tâm – sinh lý của trẻ liên quan đến hoạt động kể
chuyện theo tranh
Ở lứa tuổi này sự hình thành não bộ đang trể đà phát triển, sự nhận thức
về thế giới xung quanh của trẻ rất đa dạng và phong phú, chính vì thế mà việc
dạy trẻ kể chuyện vào lúc này là rất thích hợp. Bởi trẻ cảm nhận được sự phong
phú trong các tác phẩm văn học để từ đó trẻ cảm nhận và thể hiện tác phẩm một
cách độc đáo theo sự cảm nhận riêng của trẻ. Chính vì vậy mà đặc điểm tâm –
sinh lý của trẻ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kể chuyện.
Về mặt tâm lý:
Đối với trẻ 4 - 5 tuổi thì mức độ nhạy cảm với môi trường xung quanh cao
nên giáo viên cần lựa chọn nội dung dạy trẻ kể chuyện phức tạp hơn, nâng cao
sự hiểu biết của trẻ. Trẻ tiếp nhận mọi thứ xung quanh mình một cách ngây thơ,
triệt để. Trong tiếp nhận văn học trẻ ít bị chi phối bởi lý trí và chứa đựng trí
tưởng tưởng mạnh mẽ. Chính vì thế mà cần phát triển khả năng tưởng tượng, tư
duy ở trẻ một cách khao học, hiệu quả nhất.
Mặt khác, sự thay đổi tâm lý cũng ít nhiều ảnh hưởng đến quá trình tham
gia hoạt động kể chuyện theo tranh của trẻ. Ở tuổi mẫu giáo bé, hoạt động vui

17


chơi đã phát triển mạnh, nhưng đến tuổi mẫu giáo nhở thì hoạt động vui chơi này
mới ở dạng chính thức và hình thành nên xã hội trẻ em.

Trong hoạt động vui chơi, trẻ 4 – 5 tuổi thể hiện rõ rệt tính tự lực, tự do,
và chủ động. Trẻ bộc lộ toàn bộ tâm trí của mình, nhận thức, tình cảm, ý chí, nói
năng đều tỏ ra tích cực và chủ động, ít khi lệ thuộc vào người lớn và hoàn toàn
tùy thuộc vào ý thích của mình. Tính tự do được thể hiện ở việc lựa chọn chủ đề
và nội dung chơi, lụa chọn bạn cùng chơi, tự do tham gia vào trò chơi nào mà
mình thích và tự do rút ra khỏi những trò chơi mà mình đã chán. Trẻ lứa tuổi này
ít nhiều cũng có vốn sống của riêng bản thân mình, nhờ việc tiếp xúc hàng ngày
với thế giới đồ vật, giao lưu rộng rãi với mọi người xung quanh, tiếp xúc với
tranh ảnh, nghe kể chuyện từ người lớn nên trẻ thỏa sức lựa chọn nội dung và
chủ đề chơi trông cuộc sống muôn màu, muôn vẻ này. Việc lựa chọn bạn cũng
chơi sẽ kích thích hứng thú tham gia chơi của trẻ, vừa học hỏi được từ bạn bè,
vừa thiết lập được những mối quan hệ thực cũng như quan hệ trong khi chơi. Khi
trẻ tham gia vào hoạt động kể chuyện trẻ sẽ được nhập vai vào các nhân vật có
trong câu chuyện đó, trẻ thích thú khám phá cũng như tiếp nhận tác phẩm văn
học một cách đầy hào hứng. Trẻ được học, được chơi nên quá trình trẻ biết đến
những hình ảnh, những câu chuyện càng được đến gần, trẻ tích lũy kiến thức,
xây dựng cho riêng mình một kho truyện khổng lồ.
Giai đoạn này phát triển mạnh về tư duy trực quan hình tường. Chính vì
vậy mà việc cho trẻ làm quen với hoạt động kể chuyện theo tranh là rất cần thiết.
Giáo viên là người hướng dẫn cho trẻ làm quen với những câu chuyện, tranh ảnh
khác nhau, hình thành ở trẻ những biểu tượng cần thiết để phục vụ cho chính bản
thân trẻ. Đầu tuổi mẫu giáo, trẻ biết tư duy bằng những hình ảnh trong đầu,
nhưng do biểu tượng còn nghèo nàn và tư duy mới được chuyển từ bình diện bên
ngoài vào bình diện bên trong nên trẻ chỉ tư duy theo kiểu trực quan – hình
tượng. Cùng với sự hoàn thiện hoạt động vui chơi và các hoạt động khác (kể
chuyện, nặn, vẽ…) vốn biểu tượng của trẻ 4 – 5 tuổi được giàu lên, lòng ham
hiểu biết và hứng thú nhận biết tăng lên rõ rệt.

18



Ở trẻ 4 – 5 tuổi, những câu chuyện, những hình ảnh trở nên dần phức tạp,
đòi hỏi trẻ phải vận dụng những kiến thức sẵn có của bản thân, học hỏi từ người
lớn để giải quyết vấn đề một cách hoàn chỉnh nhất. Các em có nhu cầu khám phá
các mối quan hệ có trong xã hội như quan hệ anh chị em, quan hệ giữa các sự vật
– hiện tượng với nhau… Trẻ bắt đầu hướng cho mình những bài toán mà trẻ
muốn tự mình giải quyết nên việc cho trẻ tham gia vào hoạt động kể chuyện theo
tranh là điều rất cần thiết. Ở đó có những hình ảnh mà trẻ chưa bào giờ nhìn thấy,
nhờ sự hướng dẫn của giáo viên cộng với khả năng tư duy của trẻ, trẻ sẽ tưởng
tượng và cảm nhận được những điều mà giáo viến muốn truyền đạt. Khi hành
động với các biểu tượng trong đầu, trẻ hình dung được các hành động thực tiễn
đối với các đối tượng và kết quả của những hành động đó là trẻ kể được những
câu chuyện theo cách riêng của trẻ nhưng vẫn giữ được cốt truyện, tính chân thật
mà tác giả muốn gửi gắm.
Không dừng lại ở đó, đặc điểm tâm lý của trẻ 4 – 5 tuổi còn được thể hiện
ở mặt tình cảm. Trẻ giờ đây đã biết bày tỏ cảm xúc, thái độ của mình đối với mọi
thứ xung quanh. Khi đọc một câu chuyện về tình anh em, tình mẫu tử hay sự
tham lam độc ác của phú ông trong truyện “Cây tre trăm đốt” thì trẻ sẽ bày tỏ
cảm xúc của mình được biểu hiện ra khuôn mặt, cử chỉ, điệu bộ… phản ánh
đúng nhất những tình tiết, cảm xúc chưa đựng trong những câu chuyện đó. Trẻ
biết đồng cảm với mọi người xung quanh, them khát một cuộc sống đầy sự mến
thương nhưng đồng thời trẻ cũng rất sợ sự thờ ơ, lạnh nhạt của mọi người xung
quanh. Tình cảm là cái mà khó nói ra thành lời chính vì thế mà trẻ sẽ diễn tả
bằng các cử chỉ khác nhau, những hành động trìu mến, đầy tình thương. Những
hành vi, động cơ của trẻ cũng dần được hình thành ở lứa tuổi này. Trẻ muốn tự
khẳng định mình, muốn được sống và làm việc giống như người lớn, muốn nhận
thức sự vật, hiện tượng xung quanh nên trẻ tự mình tìm hiểu khám phá, phát
triển tính tự lập ở trẻ. Trẻ có thái độ và ý thức đối với những việc mình đang làm,
bước tiến này cho thấy trẻ đã thực sự muốn tham gia vào môi trường xã hội
người lớn. Những động cơ, hành vi của trẻ bây giờ đều có chủ đích, muốn thể

hiện, muốn làm cái gì đó cho người khác, mang lại niềm vui cho mọi người. Đó
19


là những điều mà trẻ đang muốn hướng tới, muốn trải nghiệm, và muốn mọi
người đón nhận.
Về mặt sinh lý:
Sự phát triển của bộ máy phát âm ở trẻ chưa hoàn thiện, trẻ còn nói
ngọng, nói chưa đầy đủ câu, câu nói chưa dài… Nhưng chính từ sự phát triển
mạnh mẽ của não bộ lại làm cho việc học kể chuyện ở trẻ được phát triển nhanh
hơn và ngôn ngữ của trẻ cũng từ đó mà phát triển theo.
Ở giai đoạn này, trẻ dần hoàn thiện về mặt ngữ âm, các phụ âm đầu, âm
cuối, thanh điệu dần dần được định vị. Trẻ phát âm đúng hầu hết các vị âm, biết
điều chỉnh nhịp điệu, cường độ của giọng nói vì vậy mà giúp trẻ tham gia hoạt
động kể chuyện theo tranh một cách tích cực và đạt hiệu quả cao.
Tuy nhiên, đặc điểm sinh lý của trẻ về khoang họng, cũng như dây thanh
quản của trẻ còn yếu, chư hoàn thiện nên trẻ vẫn còn mắc một số lỗi về phát âm,
nhầm lẫn khi phát âm một vài phụ âm và nguyên âm, thanh điệu, đặc biệt là dấu
ngã và dấu hỏi. Chính vì thế mà trong quá trình tổ chức hoạt động kể chuyện
theo tranh ngoài việc cung cấp vốn từ cho trẻ giáo viên còn chú ý sửa sai cho trẻ
để ngôn ngữ của trẻ hoàn thiện hơn, việc kể chuyện theo tranh cũng dễ dàng hơn.
Có thể nói, trẻ 4 – 5 tuổi là chặng giữa tuổi mẫu giáo, là chặng đường mà
phát triển tương đối ổn định nhất cả về tính hình tượng, tính dễ cảm xúc và tính
đồng cảm nên đã hình thành ở trẻ tính độc đáo mà các lứa tuổi khác không có
được.
1.3.3. Các yêu cầu khi tổ chức dạy kể chuyện theo tranh
1.3.3.1. Yêu cầu về nội dung, nghệ thuật của các bức tranh
Tranh ảnh chính là phương tiện để minh họa cho câu chuyện nhằm làm
câu chuyện theo sinh động và hấp dẫn hơn, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ vì vậy
yêu cầu về nội dung và nghệ thuật phải có những nét nổi bật thì trẻ mới tiếp cập

với ngôn ngữ nhanh hơn.
Tranh dành cho trẻ và giáo viên đều hướng đến một nội dung nhất định.
Nội dung của những bức tranh có thể là những sự vật, hiện tượng xung quanh
20


trẻ, những cảnh sinh hoạt gần gũi hằng ngày hay là những con vật đáng yêu mà
trẻ luôn thích thú mỗi khi nhìn thấy chúng. Phản ánh được tính chân thực của
cuộc sống để trẻ có thể dựa trên những hình ảnh đó liên tưởng, tưởng tượng ra
những khung cảnh khác khi không có tranh ảnh như thế nữa. Từ đó phát triển
khả năng tư duy của trẻ, đồng thời phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể
chuyện theo tranh này. Yếu tố nghệ thuật trong mỗi bức tranh rất khác nhau, có
những bức tranh gợi những kí ức tuổi thơ của trẻ, lại có những bức tranh khơi
gợi cảm xúc về cảnh vật thiên nhiên thơ mông. Những đường nét, màu sắc, bố
cục của tranh cũng phải được thể hiện rõ. Lứa tuổi này, trẻ rất thích những màu
sắc sặc sỡ, nổi bật, hình ảnh dễ thương, gần gũi với trẻ, bố cục rõ ràng, dễ hiểu,
từ đó trẻ có thể thỏa sức sáng tạo cảm nhận theo những cách khác nhau, bằng
những giác quan khác nhau.
Bức tranh đẹp, hấp dẫn trẻ, màu sắc tươi sáng, thể hiện rõ khung cảnh
không gian của câu chuyện đặc biệt là khi trẻ nhìn vào phải thấy được ý đồ của
tác giả muốn truyền đạt, hình ảnh gần gũi với trẻ. Trẻ nhìn vào và hiểu được bức
tranh đó vẽ ai? Vẽ cái gì? Nói lên điều gì? Gây được niềm hứng thú, sự tò mò ở
trẻ. Do đó yếu tố nội dung và nghệ thuật là hai yếu tố không thể thiếu trong mỗi
bức tranh, hướng đến câu chuyện hoàn mỹ hơn.
1.3.3.2. Yêu cầu đối với giáo viên khi tổ chức dạy kể chuyện theo tranh
Giáo viên chính là người thường xuyên tiếp xúc, ảnh hưởng nhiều nhất
đến trẻ, vì vậy cần phải khắt khe hơn khi đưa ra những yêu cầu đối với một
người giáo viên.
Điều quan trong nhất ở đây là giáo viên phải có kỹ năng sư phạm ( năng
khiếu), phương pháp dạy phù hợp với độ tuổi, địa phương mình và nhận thức của

trẻ. Khi tổ chức một hoạt động dạy kể chuyện thì giáo viên phải chuẩn bị đầy đủ
mọi thứ từ lên ý tưởng, giáo án, đồ dùng đồ chơi và quan trọng là tâm lý trước
khi dạy. Một người giáo viên thực sự có kỹ năng sư phạm thì họ sẽ làm việc một
cách có tâm huyết, làm sao cho trẻ hiểu, tiếp thu nhanh nhất, đồng thời giáo viên
cần phải linh động trong tất cả các tình huống bởi hiện nay xây dựng môi trường
giáo dục theo tiêu chí áp dụng quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm nên đòi
21


hỏi giáo viên phải chủ động. Giáo viên nên rèn trẻ, điều hành trẻ, khơi nguồn
hứng thú ở trẻ, chủ yếu cho trẻ tích cực hoạt động, trẻ phải hiểu được nội dung
truyện, tính cách nhân vật, ngữ điệu giọng nói khi kể chuyện và rút ra được bài
học giáo dục. Khi tổ chức, giáo viên phải thu hút được trẻ, kích thích trẻ tham
gia bằng nhiều cách như tạo tình huống, đố trẻ, hỏi trẻ về vấn đề mình sẽ cho trẻ
làm quen ngay sau đó. Trẻ sẽ thích thú vì mình được chú ý, mình được chơi cũng
như học. Phải biết lồng ghép khéo léo các trò chơi vào bài học vì lứa tuổi này
“chơi mà học, học mà chơi”. Ví dụ như khi tổ chức dạy trẻ kể chuyện theo tranh,
để tạo sự bất ngờ cho trẻ cô nên sử dụng các hoạt động chuyển tiếp như trò chơi
“Trời tối, trời sáng”, khi bé thức dậy sẽ thấy có bức tranh rất là đẹp hiện ra trước
mắt mình, như thế trẻ sẽ rất hứng thú so với việc trẻ được nhìn thấy bức tranh
của cô ngay từ đầu.
Tuy nhiên, một số ít giáo viên cũng chưa làm tốt những yêu cầu đó, nhiều
khi cảm xúc cá nhân lấn át, không kiềm chế được cảm xúc, không nắm vững kiến
thức cần phát triển, làm cho trẻ đi sai hướng. Chính vì thế, để trở thành một người
giáo viên tốt cần tham khảo, học hỏi mọi người xung quanh rất nhiều để hoàn thiện
bản thân mình hơn.
1.3.3.3. Yêu cầu về cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy kể chuyện theo
tranh
Yếu tố không gian, ngoại cảnh là một trong những yếu tố không thể
thiếu trong việc tổ chức hoạt động dạy kể chuyện theo tranh, nó tác động trực

tiếp đến khả năng tiếp thu, sáng tạo của trẻ, vì vậy việc yêu cầu về cơ sở vật chất
là rất quan trọng để trẻ có thể tiếp thu câu chuyện một cách hiệu quả nhất.
Mỗi trường nằm trong mỗi vùng miền, có những điều kiện cơ sở vật chất
khác nhau nhưng nhìn chung không gian để phục vụ cho việc kể chuyện theo
tranh chỉ cần thoáng mát, gọn gàng sạch sẽ thân thiện với trẻ. Không gian được
trang trí cần phải có tính thẩm mỹ, bắt mắt, thu hút trẻ, phù hợp với từng chủ đề,
chủ điểm của trường mầm non để cho lớp học thêm sinh động, thú vị hấp dẫn
trẻ.

22


Ngoài ra việc chuẩn bị những trang thiết bị phục vụ việc kể chuyện theo
tranh là rất quan trọng, như: giá đỡ tranh, màn hình chiếu lớn để trẻ có thể quan
sát, với âm thanh đủ độ thoáng để trẻ có thể tiếp nhận tốt nhất. Đồ dùng đồ chơi
cũng phải chuẩn bị kĩ càng, đầy đủ cho tất cả càng trẻ. Do đó giáo viên cần phải
linh động trọng việc kiểm tra cơ sở vật chất trạng thiết bị ở phòng mình, thường
xuyên trang trí, thay đổi không gian tránh gây sự nhàm cho trẻ, kích thích trẻ
hứng thú học hỏi, khám phá những điều mới mẻ.

23


CHƯƠNG 2: BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ MẠCH
LẠC CHO TRẺ MÂU GIÁO 4 – 5 TUỔI THÔNG QUA KỂ
CHUYỆN THEO TRANH
2.1. Vài nét về hoạt động kể chuyện theo tranh nhằm phát triển ngôn
ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 -5 tuổi ở trường mầm non hiện nay
Hiện nay, đối với việc chăm sóc và giáo dục trẻ nói chung và việc tổ
chức hoạt động kể chuyện theo tranh nhằm phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ

nói riêng, khi giáo viên có nhận thức đúng đắn, chính xác sẽ là động cơ quan
trọng để họ nỗ lực thực hiện hoạt động. Nhận thức sẽ tác động trực tiếp tới hành
động. Nếu người giáo viên nhận thức đúng về vai trò và ý nghĩa của hoạt động
kể chuyện theo tranh nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi. Họ
sẽ có trách nhiệm trong việc tổ chức hoạt động kể chuyện theo tranh cho trẻ để
làm sao phát triển ngôn ngữ như giáo dục chuẩn mực ngữ âm tiếng Việt, hình
thành và phát triển vốn từ cho trẻ, dạy trẻ nói đúng ngữ pháp hay là việc phát
triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ một cách tốt nhất. Từ đó hình thành cho trẻ
những kỹ năng cần thiết phục vụ cho việc học cũng như khả năng giao tiếp với
mọi người xung quanh trẻ. Hiện nay, đa số ở các trường mầm non giáo viên đều
thức thức được việc tổ chức hoạt động kể chuyện theo tranh cho trẻ có ý nghĩa
thiết thực. Hoạt động kể chuyện theo tranh làm phương tiện để giáo viên kể
chuyện, cho trẻ tiếp xúc trực tiếp với sự vật hiện tượng xung quanh trẻ đặc biệt
là việc phát triển ngôn ngữ ở trẻ ở lứa tuổi này. Hơn nữa, hầu hết các giáo viên
cho rằng hoạt động kể chuyện theo tranh có vai trò quan trọng trong phát triển trí
tuệ, trẻ nhận thức về thế giới xung quanh thông qua những bức tranh, vì vậy mà
giáo viên thường xuyên tổ chức hoạt động kể chuyện theo tranh để phát triển
ngôn ngữ. Giáo viên kể chuyện cho trẻ mang tính chất mô tả về một bức tranh có
chủ đề hay kể một câu chuyện dựa trên những chi tiết xuất hiện trong bức tranh
24


có chủ đề và kể theo trình tự logic hợp lý, họ đang từng ngày hoàn thiện để đưa
hoạt động kể chuyện theo tranh này vào các hoạt động khác nhau mang tính
thường xuyên và thống nhất. Để làm được điều này các cô giáo đều nắm bắt
được đặc điểm tâm lí cũng như khả năng của trẻ bởi trẻ mẫu giáo là lứa tuổi ham
vui những điều mới lạ, dễ nhớ dễ quên, dễ thích dễ chán, vì hiểu được đặc điểm
tâm – sinh lý của trẻ ở lứa tuổi này nên đa số giáo viên phải lên kế hoạch tổ chức
hợp lý chứ không phải tùy theo sở thích của giáo viên, hoạt động này không chỉ
tổ chức trong tiết dạy làm quen với tác phẩm văn học mà còn trong các hoạt

động khác như hoạt động chiều, các trò chơi về tranh ảnh…Để tổ chức hoạt
động kể chuyện theo tranh một cách có hiệu quả thì các giáo viên rất chú trọng
khâu chuẩn bị tranh ảnh, bởi khâu chuẩn bị là khâu quan trọng nhất, quyết định
sự thành công của hoạt động. Tranh ảnh là công cụ, phương tiện để giúp trẻ
khám phá, tìm hiểu, sáng tạo ra những điều mới lạ, trẻ có thể nhìn tranh để miêu
tả nội dung bức tranh , vì vậy giáo viên phải sử dụng tranh ảnh nhiều, thường
xuyên hơn để trẻ phát huy tính chất nghệ sĩ của mình. Tất cả giáo viên đều nhận
thấy được tầm quan trọng của việc sử dụng tranh ảnh vào trong hoạt động kể
chuyện theo tranh nên mức độ sử dụng tranh ảnh càng ngày càng thường xuyên
hơn. Ngoài ra, giáo viên phải đáp ứng được những yêu cầu khi chuẩn bị tranh
ảnh để tổ chức hoạt động kể chuyện theo tranh: nội dung phải phù hợp với chủ
đề và đặc điểm tâm – sinh lý của trẻ; lựa chọn các sự vật hiện tượng trong bức
tranh phải phù hợp với độ tuổi để cung cấp cho trẻ; kích thức, màu sắc, bố cục
tranh phải hợp lý, hài hòa; Không những thế các yêu cầu về: chuẩn bị và sử dụng
tranh minh họa logic hấp dẫn; tạo thói quen, sự tự tin cho trẻ; sửa lỗi sai về ngôn
ngữ; cung cấp từ mới và giải thích từ khó cũng không thể bỏ sót đối với hoạt
động kể chuyện theo tranh.
Hiện nay, nhận thức của giáo viên lớp 4 – 5 tuổi về xây dựng các biện
pháp tổ chức kể chuyện theo tranh nhằm phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ
vẫn còn ngần ngại khi đề xuất đưa ra biện pháp mới, đa số giáo viên đều sử dụng
các biện pháp quen thuộc: Đàm thoại về nội dung tác phẩm; cô kể mẫu kết hợp
25


×