Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

skkn một số phương pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 3 tuổi ở vùng dân tộc thiểu sổ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.28 KB, 19 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp hữu hiệu nhất giúp con người biểu đạt
được những mong muốn, sở thích, tình cảm, cảm xúc của mình… Một đứa trẻ
bắt đầu phát triển ngôn ngữ, thậm chí trước khi có trẻ dùng tư ngữ như khóc,
hay khi muốn đòi cái gì đó khi còn nhỏ. Việc chậm phát triển kỹ năng ngôn ngữ
có thể ảnh hưởng không tốt đến trẻ cũng như thiếu hụt khả năng truyền tải thông
tin sau này. Việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 3 tuổi ở vùng dân tộc
thiểu số là rất quan trọng đối với trẻ nhỏ trong việc trao đổi thông tin chính xác
với bạn bè, người thân trong gia đình và những người xung quanh theo cách có ý
nghĩa nhất, đặc biệt là đối với trẻ dân tộc thiểu số; việc phát triển ngôn ngữ sẽ
giúp trẻ dễ hòa nhập trong giao tiếp và thu nhận thông tin kiến thức. Có nhiều
cách biểu đạt ngôn ngữ, nhưng thông qua tác phẩm văn học thì việc phát triển
ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ sẽ là con đường ngắn nhất và nhanh nhất.
Văn học là nghệ thuật ngôn từ, là hình thức nghệ thuật sử dụng ngôn từ
làm chất liệu để chiếm lĩnh, tái hiện thế giới. Qua những tác phẩm văn học thế
giới tràn đầy âm thanh màu sắc, hình khối ngôn ngữ đã dần được hiện lên trong
trí tưởng tượng về cuộc sống gần gũi, quen thuộc của trẻ.
Ngôn ngữ chính là phương tiện quan trọng để phát triển trí tuệ, giúp cho
việc tiếp thu kiến thức học tập tốt, trong giao tiếp bằng ngôn ngữ nói mạch lạc.
Đó là nền tảng để hiểu về thế giới văn học và tiếp nhận nhiều tri thức mới. Vì
vậy, cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là một trong những nội dung quan
trọng cho trẻ mẫu giáo.
Đối với trẻ mẫu giáo khi làm quen với tác phẩm văn học qua sự truyền thụ
của giáo viên, giúp trẻ phát triển khả năng tư duy, ngôn ngữ, phát triển tình cảm
và kỹ năng xã hội, rèn luyện được khả năng chú ý, tái tạo và đặc biệt phát triển
khả năng trí tưởng tượng sáng tạo. Ngoài ra, việc cho trẻ làm quen với tác phẩm
văn học còn phát triển tư duy trực quan hành động và đặc biệt phát triển ngôn
ngữ mạch lạc cho trẻ. Khi trẻ làm quen với các tác phẩm văn học tạo nền tảng để
giúp trẻ thể hiện sự tự tin, thể hiện tình cảm, cảm xúc của mình trước sự vật,
hiện tượng xung quanh và diễn đạt rõ ràng, giao tiếp có văn hóa trong cuộc sống


hằng ngày; qua đó trẻ phát triển một cách toàn diện hơn cả về tâm lý và sinh lý.
Tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ quốc gia (tiếng phổ thông), là ngôn
ngữ chính thức dùng để giao tiếp và truyền đạt, trao đổi kiến thức trong nhà
trường; việc chuẩn bị cho trẻ có được ngôn ngữ mạch lạc cũng là hành trang bổ
trợ kiến thức ngôn ngữ giao tiếp, giúp cho trẻ có thể học tập tốt là một trong
những mục tiêu giáo dục toàn diện của giáo dục mầm non. Việc chuẩn bị ngôn
ngữ tiếng Việt là vấn đề vô cùng quan trọng, vì ngôn ngữ có chức năng làm công
cụ tư duy, công cụ biểu đạt tư tưởng, tình cảm, đồng thời cũng là phương tiện
giao tiếp với các thành viên khác trong xã hội.
Trên thực tế, phần lớn trẻ em dân tộc thiểu số trước khi tới trường mầm
non đều sống trong môi trường tiếng mẹ đẻ, ít có điều kiện và môi trường giao
1


tiếp bằng tiếng Việt, khi đến trường trẻ vẫn thích giao tiếp với nhau bằng tiếng
mẹ đẻ. Do đó, trẻ dân tộc thiểu số vẫn còn nhút nhát, chưa mạnh dạn tự tin trong
khi giao tiếp với bạn bè là người dân tộc Kinh. Vì vậy, tôi gặp rất nhiều khó
khăn trong khi tổ chức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
Nói tóm lại, việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 3 tuổi ở vùng dân
tộc thiểu số là nhiệm vụ rất quan trọng trong nhiều năm qua của ngôn ngữ tiếng
Việt cho trẻ. Với đặc điểm ở lớp mẫu giáo 3 tuổi, việc phát triển ngôn ngữ cho
trẻ tốt nhất là cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Trên cơ sở triển khai, sự
quan tâm tạo điều kiện của lãnh đạo, chuyên viên Phòng Giáo dục và Đào tạo
Mường Lát, sự hướng dẫn trực tiếp của Ban Giám hiệu trường Mầm non Quang
Chiểu. Qua thực tiễn đặc điểm tình hình lớp 3 tuổi khu Pùng do tôi phụ trách, có
hơn 90% là trẻ dân tộc thiểu số. Cùng với sự tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm từ
đồng chí, đồng nghiệp; qua thời gian 3 năm công tác tại địa bàn các xã khó khăn
của huyện vùng cao Mường Lát, do đó tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm:
“Một số phương pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 3 tuổi ở vùng dân
tộc thiểu số tại khu Pùng trường mầm non Quang Chiểu”.

2. Mục đích nghiên cứu.
Xây dựng một số phương pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu
giáo 3 tuổi ở vùng dân tộc thiểu số thông qua việc làm quen với tác phẩm văn
học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục mầm non, hòa nhập trẻ dân tộc thiểu số.
Một số vấn đề khi cho trẻ dân tộc thiểu số làm quen với tác phẩm văn học
trong trường mầm non.
Thực trạng phát triển ngôn ngữ khi cho trẻ dân tộc thiểu số 3 tuổi làm
quen với tác phẩm văn học trong trường Mầm non Quang Chiểu.
Nghiên cứu tìm ra nhiều phương pháp khác nhau phù hợp với từng chủ đề
để dạy trẻ, giúp trẻ có hứng thú trong tiết học nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ
mẫu giáo 3 tuổi ở vùng dân tộc thiểu số khi làm quen với tác phẩm văn học.
Đề xuất những biện pháp chỉ đạo và dạy học môn làm quen với tác phẩm
văn học cho trẻ 3 tuổi ở vùng dân tộc thiểu số học tiếng Việt.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu 31 trẻ mẫu giáo 3 tuổi khu Pùng trường mầm non Quang
Chiểu - Thuộc vùng dân tộc thiểu số qua việc làm quen với tác phẩm văn học.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu, phân tích, tổng hợp tài liệu từ Internet, tập san,
sách báo có liên quan đến đề tài;
- Phương pháp điều tra giáo dục;
- Phương pháp quan sát sư phạm;
- Phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp;
- Phương pháp sử dụng công nghệ thông tin;
- Phương pháp kiểm tra đánh giá;
- Phương pháp thực hành nghệ thuật.
2


II : NỘI DUNG

1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong cuộc sống, chúng ta đều phải sử dụng ngôn ngữ để nhận thức thế
giới, giao tiếp với mọi người và tư duy. Phát triển ngôn ngữ là phát triển các kỹ
năng nghe, nói, đọc, viết. Trẻ mầm non bắt đầu học ngôn ngữ, mà chủ yếu là
hình thành và phát triển kỹ năng nghe, nói, hiểu.
Đối với trẻ Mầm non, ngôn ngữ không phải là một bộ “quy tắc và ngữ
pháp” mà ngôn ngữ là công cụ để trẻ biểu đạt ý nghĩ, tình cảm, cảm xúc và
mong muốn của mình với người khác và qua đó người khác hiểu được trẻ. Ngôn
ngữ đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức,
giáo dục thẩm mĩ và phát triển thể lực cho trẻ.
Đối với trẻ Mẫu giáo ở vùng dân tộc thiểu số, tiếng Việt là ngôn ngữ thứ
hai. Quá trình trẻ mẫu giáo là người dân tộc thiểu số được phát triển ngôn ngữ
tiếng Việt khác với quá trình học ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ ở một số đặc điểm như:
Môi trường ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo ở vùng dân tộc thiểu số chủ yếu là môi
trường nhân tạo, bị thu hẹp cả về không gian và thời gian. Là ngôn ngữ thứ hai
nên đa phần chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ thứ nhất ở mức độ nhất định. Sự khác
biệt về điều kiện sống, chất lượng cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số có
tác động không nhỏ đối với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo ở vùng
dân tộc thiểu số. Sự khác biệt về văn hóa giữa các dân tộc, trong đó có ngôn
ngữ, ngôn ngữ từng dân tộc có cách phát âm, ngữ điệu, một số vốn từ vựng…
làm cho trẻ gặp khó khăn khi tiếp thu ngôn ngữ tiếng Việt.
Trong quá trình cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học ở trường Mầm
non, tôi nhận thấy trẻ ở vùng dân tộc thiểu số vẫn còn có những hạn chế trong
khi giao tiếp, trẻ vẫn còn nhút nhát, chưa mạnh dạn, tự tin khi muốn trình bày ý
kiến, mong muốn của mình; một số trẻ còn nói ngọng, nói lắp, phát âm chưa
chuẩn, diễn đạt chưa mạch lạc, rõ ràng, nói không đủ câu…
Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 3 tuổi ở vùng dân tộc thiểu số
có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cần thiết, để chuẩn bị hành trang cho bé bước
vào trường học. Từ những hạn chế trên của trẻ, bản thân tôi luôn trăn trở, suy
nghĩ và đưa ra một số phương pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 3 tuổi

ở vùng dân tộc thiểu số trong trường Mầm non.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
a. Đối với giáo viên.
Chưa phát huy hết khả năng sáng tạo, linh hoạt trong tổ chức hoạt động
phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 3 tuổi ở vùng dân tộc thiểu số, đôi khi còn
dập khuôn, máy móc, chưa có kinh nghiệm khi xây dựng kế hoạch giáo dục lấy
trẻ làm trung tâm.
Chưa khai thác hết khả năng phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 3 tuổi ở
vùng dân tộc thiểu số, chưa chú ý đến việc thể hiện tình cảm, cảm xúc của trẻ
dân tộc trong các hoạt động hằng ngày.
Giáo viên ít có thời gian làm đồ dùng, đồ chơi để phục vụ cho các hoạt
động phát triển ngôn ngữ mạch lạc của trẻ 3 tuổi ở vùng dân tộc thiểu số.
3


Khả năng truyền thụ tác phẩm văn học của giáo viên không đồng đều, một
số giáo viên còn hạn chế khi trò chuyện, đàm thoại, chưa tận dụng hết khả năng
phát triển kỹ năng nghe, hiểu, nói của trẻ.
b. Đối với trẻ.
Nhận thức của trẻ không đồng đều, khả năng sáng tạo của trẻ còn hạn chế.
Số trẻ đông, một số trẻ còn quá hiếu động, một số trẻ nhút nhát nên việc
rèn kỹ năng cá nhân ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức. Số trẻ 3 tuổi là
người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao (28 trẻ = 90,3%) tổng số trẻ.
Khả năng giao tiếp của trẻ còn nhiều hạn chế, vốn từ của trẻ chưa phong
phú do bất đồng ngôn ngữ; quá trình trải nghiệm, tiếp xúc với môi trường bên
ngoài còn có những hạn chế nhất định.
Sự khác biệt về văn hóa các dân tộc, trong đó, ngôn ngữ cũng ảnh hưởng
tới việc học tiếng Việt của trẻ mẫu giáo ở vùng dân tộc thiểu số.
Một số trẻ còn nói ngọng, phát âm không chuẩn (theo tiếng địa phương),
điều này đã ảnh hưởng trực tiếp tới sự tiếp thu kiến thức của trẻ.

Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai của trẻ là người dân tộc thiểu số nên chịu
ảnh hưởng bởi ngôn ngữ thứ nhất ở mức độ nhất định, vì nó có sự ảnh hưởng
giao thoa ngôn ngữ của tiếng mẹ đẻ và những điều kiện xã hội tác động vào việc
học ngôn ngữ thứ hai
c. Thực trạng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 tuổi ở vùng dân tộc thiểu
số làm quen với tác phẩm văn học.
Đầu năm học tôi nghiên cứu và tìm hiểu thấy được các trẻ là người dân
tộc thiểu số thường ít được quan tâm, chăm sóc, khả năng phát triển ngôn ngữ,
kỹ năng giao tiếp cho trẻ dân tộc về vốn từ, kỹ năng nói, khả năng hiểu và diễn
đạt còn nhiều hạn chế. Tôi nhận thấy một số giáo viên chưa phát huy hết khả
năng tư duy, sáng tạo trong việc lập kế hoạch giảng dạy, lấy trẻ làm trung tâm,
giáo viên vẫn còn dạy trẻ theo hướng thụ động, đa phần là sự truyền đạt ở cô nên
chưa phát huy được tính tính cực ở trẻ trong quá trình tổ chức; khi hướng dẫn
dẫn cho trẻ giáo viên thường hay mắc phải một số nhược điểm như: Giáo viên
còn nói nhiều, không phát huy được tính tích cực của trẻ khi tham gia các hoạt
động, sử dụng các phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc, nhất là khi
cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học còn hạn chế; cô chưa tạo ra được các tình
huống, chưa thường xuyên đặt ra được câu hỏi mang tính gợi mở, khuyến khích
tư duy của trẻ, tạo cho trẻ có cơ hội được diễn đạt nhiều. Hình thức tổ chức các
hoạt động chưa linh hoạt, sáng tạo, cứng nhắc, dập khuôn, sử dụng nhiều từ địa
phương. Sử dụng đồ dùng trực quan còn lúng túng, chưa khoa học.
Do đặc điểm tâm lý của trẻ dân tộc thiểu số rất nhút nhát, thiếu tự tin
trong giao tiếp, do môi trường giao tiếp của trẻ còn bó hẹp trong phạm vi gia
đình, người thân, mà người thân của trẻ cũng là người dân tộc thiểu số nên khi
giao tiếp với nhau chủ yếu bằng tiếng dân tộc thiểu số; do đó trẻ không có cơ hội
được giao tiếp tiếng Việt thường xuyên; chủ yếu trẻ chỉ được giao tiếp với ngôn
ngữ tiếng Việt khi ở trường. Trẻ thường mắc một số lỗi như: nói không hết câu,
nói không gãy góc, nói chống không, diễn đạt không rõ ràng, mạch lạc… Bên
4



cạnh đó, khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học trẻ rất ít giơ tay phát biểu,
chủ yếu do cô dùng biện pháp khuyến khích và gọi đích danh tên trẻ, lúc đó trẻ
mới có phản ứng, nhưng câu trả lời của trẻ thường diễn ra không theo ý nghĩa
của câu hỏi
Văn học dành cho trẻ từ lâu đã trở thành dụng cụ hữu hiệu nhất giúp trẻ
phát triển ngôn ngữ; đồng thời, qua đó giúp trẻ phát triển về cả mặt nhận thức và
tình cảm xã hội cùng với kỹ năng giao tiếp.
Dựa vào đặc điểm tình hình của lớp, đặc điểm tâm lý, nhận thức của trẻ là
người Kinh với trẻ là người dân tộc thiểu số khi tôi đưa ra bảng khảo sát, đánh
giá và so sánh, kết quả như sau:
* Đối với trẻ là dân tộc Kinh: 03 trẻ
Nội dung
Nghe hiểu nội dung tác phẩm
văn học
Nghe và làm theo từ 3 lời chỉ
dẫn liên tiếp trở lên
Mạch lạc, rõ ràng, nói đủ câu,
không nói lắp, nói ngọng
Tự tin khi giao tiếp, biết kể lại
trình tự sự việc một cách mạch
lạc
Biết kể chuyện theo tranh, đọc
sách qua hình vẽ

Tốt
03 trẻ
-100%
02 trẻ 66,7%
03 trẻ 100%


Khá
0 trẻ 0%
01 trẻ 33,3%
0 trẻ 0%

03 trẻ
-100%
01 trẻ 33,3%

Xếp loại
T. bình

Yếu

0 trẻ - 0%

0 trẻ - 0%

0 trẻ - 0%

0 trẻ - 0%

0 trẻ - 0%

0 trẻ - 0%

0 trẻ 0%

0 trẻ - 0%


0 trẻ - 0%

01 trẻ 33,3%

01 trẻ 33,3%

0 trẻ - 0%

* Đối với trẻ là dân tộc thiểu số: 28 trẻ
Nội dung
Tốt
Khá
Nghe hiểu nội dung tác phẩm 0 trẻ - 0%
02 trẻ văn học
7,1%
Nghe và làm theo từ 3 lời chỉ 0 trẻ - 0%
01 trẻ dẫn liên tiếp trở lên
3,6%
Mạch lạc, rõ ràng, nói đủ câu, 0 trẻ - 0%
04 trẻ không nói lắp, nói ngọng
14,3%
Tự tin khi giao tiếp, biết kể lại
trình tự sự việc một cách mạch 0 trẻ - 0% 0 trẻ - 0%
lạc
Biết kể chuyện theo tranh, đọc
0 trẻ - 0% 0 trẻ - 0%
sách qua hình vẽ

Xếp loại

T. bình
08 trẻ 28,6%
06 trẻ 21,4%
10 trẻ 35,7%

Yếu
18 trẻ 64,3%
21 trẻ 75%
14 trẻ 50%

04 trẻ 14,3%

24 trẻ 85,7%

0 trẻ 0%

28 trẻ 100%

Sau khi khảo sát, tôi thấy tỷ lệ trẻ dân tộc Kinh tỷ lệ “Tốt”, “Khá” ở mức
độ cao hơn rất nhiều so với trẻ là dân tộc thiểu số.
Từ những kết quả trên, tôi nhận thấy việc nâng cao chất lượng phát triển
5


ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 3 tuổi ở vùng dân tộc thiểu số là rất cần thiết, nên tôi
đã nghiên cứu và đưa ra một số giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo ở
vùng dân tộc thiểu số qua việc làm quen với tác phẩm văn học, tôi xin mạnh dạn
đưa ra để các đồng nghiệp cùng tham khảo; đồng thời đóng góp ý kiến để tôi
chỉnh sửa, bổ sung trong thời gian tới, để sáng kiến kinh nghiệm được chất
lượng hơn cả về nội dung và hình thức, gắn với triển khai thực hiện có hiệu quả

trong hoạt động giảng dạy ở trường Mầm non.
3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
a.Giải pháp 1: Tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao trình độ
cho bản thân.
Công tác tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao trình độ cho bản
thân tôi cho rằng đó là một giải pháp rất quan trọng. Bởi vì nếu không tự bồi
dưỡng kiến thức sẽ ngày càng mai một theo thời gian. Khi bản thân có kiến thức,
kỹ năng, tổ chức hoạt động giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ, nhất là bồi
dưỡng lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở vùng dân tộc thiểu số.
Tìm hiểu đặc điểm, tâm sinh lý của trẻ dân tộc thiểu số theo lứa tuổi. Học
tập ngôn ngữ của dân tộc thiểu số để giao tiếp, hiểu được nhu cầu, mong muốn
của trẻ khi chưa biết thể hiện qua ngôn ngữ tiếng Việt nhằm giúp đỡ trẻ.
Nắm chắc mục tiêu, nội dung, kết quả mong đợi trong chương trình giáo
dục mầm non nói chung và trong lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 tuổi ở
vùng dân tộc thiểu số nói riêng.
Căn cứ mục tiêu, nội dung, kết quả mong đợi của từng độ tuổi trong lĩnh
động xây dựng kế hoạch hoạt động, hình thức tổ chức các hoạt động phát triển
ngôn ngữ cho trẻ, lựa chọn phương pháp giáo dục lấy trẻ làm trung tâm sao cho
phù hợp, hiệu quả, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ
Thường xuyên nghiên cứu tài liệu, giáo trình về giáo dục Mầm non, nhất
là sách hướng dân thực hiện chương trình giáo dục các độ tuổi, bồi dưỡng
thường xuyên, đặc biệt là tài liệu (hướng dẫn chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ Mẫu
giáo vùng dân tộc thiểu số).
Hàng tháng lên kế hoạch tự học tập, tự bồi dưỡng về những mặt còn hạn
chế như: Thiết kế một hoạt động phát triển ngôn ngữ. Bản thân tôi luôn phải đọc
kỹ tác phẩm, phân tích kỹ nội dung của tác phẩm, đưa ra bài học gì qua tác
phẩm, qua tác phẩm giáo dục trẻ những nội dung gì; từ đó tôi đưa ra mục tiêu
của hoạt động. Tôi tìm và chọn những phương tiện hỗ trợ cho việc đưa tác phẩm
đến với trẻ một cách dễ hiểu và hứng thú nhất, sau đó tiến hành làm đồ dùng, đồ
chơi phục vụ cho hoạt động

b. Giải pháp 2: Linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động có chủ đích.
Hoạt động có chủ đích là hình thức cơ bản và chủ yếu, tôi là người trực
tiếp hướng dẫn, gợi mở giúp trẻ thu nhận kiến thức, kỹ năng, thái độ một cách
có hệ thống lôgíc khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
Để hoạt động có chủ đích đi vào tâm hồn trẻ một cách sống động, không
khô khan, cứng nhắc thì tôi thực sự phải có khả năng dẫn dắt. Hoạt động học
làm quen với tác phẩm văn học đưa trẻ đến thế giới cổ tích, cuộc sống xung
6


quanh (thơ, truyện, đồng dao) đến với trẻ bằng nhiều phương pháp, hình thức
khác nhau. Khi dạy trẻ làm quen với tác phẩm văn học, bản thân tôi lựa chọn các
phương pháp, hình thức phù hợp với yêu cầu của từng tiết dạy.
Cụ thể: Tôi đưa trẻ vào trung tâm của quá trình hoạt động, phát huy tính
tích cực của trẻ, dạy trẻ theo hướng lồng ghép tích hợp. Tôi dùng câu hỏi gợi mở
để dẫn dắt trẻ, cho trẻ được thực hành trải nghiệm: đọc thơ, diễn kịch, trả lời câu
hỏi của cô nhiều lần; cho trẻ được thảo luận nhóm, thảo luận vai chơi, giao tiếp
và trình bày những nhận xét của bản thân mình về các nhân vật, tác phẩm văn
học.
Ví dụ:
+ Khi cho trẻ tự kể chuyện và hướng dẫn trẻ tập kể chuyện, tôi đã cho trẻ
kể chuyện bằng nhiều cách khác nhau như: Tôi kể một đoạn rồi cho trẻ kể tiếp
cho đến khi kết thúc câu chuyện; tôi cho trẻ kể chuyện theo tranh về một câu
chuyện dựa trên yếu tố trực quan; kể chuyện sáng tạo dựa trên ý tưởng, vốn kinh
nghiệm, sự tưởng tượng sáng tạo của cá nhân trẻ.
Tôi thường xuyên quan tâm trao đổi, trò chuyện nhiều hơn với trẻ người
dân tộc thiểu số, liên hệ từ tác phẩm văn học với cuộc sống hàng ngày của trẻ,
động viên, khuyến khích trẻ bằng lời nói, ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ nhẹ nhàng,
thân thương mà gần gũi.
Một yêu cầu đặt ra đối với tôi khi cho trẻ ở vùng dân tộc thiểu số “Làm

quen với tác phẩm văn học” là các kiến thức khi truyền thụ đến trẻ phải hết sức
ngắn gọn, tuyệt đối tránh hình thức, dập khuôn, luôn sáng tạo đổi mới câu từ
phù hợp. Vì thế, trước khi thực hiện một tiết dạy “Làm quen với tác phẩm văn
học” tôi phải chuẩn bị đồ dùng, soạn bài và nghiên cứu kỹ bài soạn. Nắm rõ yêu
cầu của bài dạy, chọn trò chơi phù hợp với nguyên tắc chủ đề. Chuẩn bị tâm thế
bằng cách tôi luyện đọc, kể tác phẩm văn học nhiều lần để câu từ luôn chính
xác, rõ ràng, giúp trẻ dễ hiểu, nhập tâm vào tác phẩm để truyền tình cảm của
mình tới tất cả các học sinh trong lớp, đặt ra những tình huống sư phạm và
nghiên cứu tìm ra biện pháp giải quyết hữu hiệu nhất.
Ví dụ: Với tiết thơ, tôi chuẩn bị bài thơ với tranh, hình ảnh động sáng tạo
cho trẻ làm quen. Đầu tiên tôi đọc thơ diễn cảm cho trẻ nghe nhiều lần, cho trẻ
đọc đi đọc lại nhiều lần theo tổ, nhóm, cá nhân dưới nhiều hình thức: Luân phiên
theo tổ, to, nhỏ, nối tiếp… Trong quá trình trẻ đọc thì tôi chú ý lắng nghe, quan
sát, khen ngợi, động viên trẻ. Chú ý đến trẻ dân tộc thiểu số: quan tâm trẻ, trao
đổi, cho trẻ đọc đi đọc lại nhiều lần trước lớp, sửa sai cho trẻ.

7


Qua những tiết hoạt động có chủ đích như vậy: Trẻ là người dân tộc thiểu
số rất hứng thú, sôi nổi tham gia trả lời câu hỏi của tôi đưa ra, đồng thời trẻ đã
biết sử dụng câu hỏi của mình để giải quyết những thắc mắc của bản thân, thích
được thể hiện tình cảm, cảm xúc của mình với tác phẩm văn học: “Con thích
nhân vật cô Út, vì cô Út có hiếu với mẹ”… trẻ đã biết kết hợp thảo luận, trao đổi
với các bạn trong nhóm của mình: “Mình thích hoặc không thích nhân vật này,
vì nhân vật này có hiếu, hay nhân vật này không yêu thương mẹ…”
c. Giải pháp 3: Vận dụng các kỹ năng quan sát, nghe, nói, đọc của trẻ.
Vận dụng các kỹ năng quan sát, nghe, nói, đọc, để có kế hoạch bổ sung,
rèn luyện cho trẻ thường xuyên trong ngày, trong các hoạt động để trẻ được
quan sát, nghe, nói, đọc một cách đầy đủ. Từ kết quả khảo sát đó, tôi có kế

hoạch xây dựng hệ thống kiến thức, câu hỏi sắp xếp thời gian bồi dưỡng cho
những trẻ chưa đạt yêu cầu.
Sau mỗi chủ đề kết thúc, tôi tổ chức khảo sát, đánh giá trẻ theo các bài tập
với các kỹ năng quan sát, nghe, nói, đọc.
* Kỹ năng nghe và quan sát: Khi đàm thoại, giao tiếp với trẻ, tôi thường
dùng những lời nói nhẹ nhàng, sinh động, gần gũi với cuộc sống hàng ngày của
trẻ, giúp trẻ dễ hiểu và hình dung ra vấn đề; đồng thời có câu trả lời nhanh,
chính xác hơn, đồng thời cung cấp thêm vốn từ cho trẻ. Đặt nhiều câu hỏi, đặc
biệt là những câu hỏi gợi mở như: Trong câu chuyện “Tích Chu”, tôi đưa ra lời
gọi của bà khi bị ốm “Tích Chu ơi lấy cho bà ngụm nước, bà khát quá”; Sau đó
8


tôi hỏi trẻ: Tiếng gọi này của ai? Trong câu chuyện gì? Vì sao con biết? và cho
trẻ tập diễn đạt lại giọng điệu, lời nói của bà.
Giao bài tập cho trẻ bằng cách cho trẻ nghe một câu truyện, bài thơ trên
Máy vi tính (chỉ có lời, không có hình hoặc chỉ có hình mà không có lời) rồi đưa
ra câu hỏi về tác phẩm văn học đó như: Cô và các con vừa được xem phim gì?
Phim đó có những nhân vật nào? Trong câu chuyện gì? Rồi tiến hành cho trẻ
kể/đọc tác phẩm văn học đó.
Ví dụ: Tôi cho trẻ xem hình ảnh chị Tấm đang cho bống ăn thì trẻ sẽ liên
tưởng đến câu chuyện “Tấm Cám” và kể lại câu chuyện đó.
Sau khi khảo sát như vậy, tôi thấy kết quả trong lớp vẫn còn những trẻ chỉ
được ở mức “trung bình”, tôi lại tiến hành bố trí thời gian, không gian và xây
dựng kế hoạch kiến thức bồi dưỡng thêm cho trẻ vào các buổi chiều, giờ đón trả trẻ để củng cố thêm kiến thức và vốn từ cho trẻ.
Ngoài ra tôi còn dùng những hình ảnh sinh động để cuốn hút sự chú ý để
kiểm tra trẻ. Qua đó, đàm thoại với trẻ để trẻ được khám phá và phát triển thêm
vốn từ; đồng thời tôi thường xuyên làm những động tác vui, buồn…
Gây sự chú ý của trẻ bằng các hình ảnh sinh động, hấp dẫn trên máy vi
tính, tranh ảnh, sách, báo…

Tôi thường cho trẻ đọc các bài thơ dưới nhiều hình thức: đọc đồng dao,
đọc to – nhỏ, đọc luân phiên theo tổ, từ đó trẻ nghe được các âm thanh, ngữ
điệu, giọng nói khác nhau và độ to, nhỏ, nhanh, chậm của giọng nói, giọng đọc.
Tôi thường xuyên mở rộng và liên hệ với thực tế gần gũi với cuộc sống hàng
ngày của trẻ để trẻ tăng khả năng giao tiếp với cuộc sống xã hội.

9


Tôi thường sưu tầm những bộ phim, hình ảnh, làm giáo án điện tử trên
máy tính cho trẻ xem, trẻ khám phá kích thích sự tò mò ham hiểu biết của trẻ.
* Kỹ năng nói – đọc: Giúp trẻ nói – đọc mạch lạc, rõ ràng, tròn vành, rõ
chữ, nói đủ câu, không nói lắp, nói ngọng, dạy trẻ hiểu mối quan hệ giữa lời nói
và chữ viết bằng nhiều cách khác nhau: Tôi chú ý quan sát, lắng nghe khi trẻ thể
hiện tác phẩm, nhận ra điểm sai và sửa cho trẻ bằng cách cho trẻ đọc đi đọc lại
nhiều lần.
Ví dụ: Trong lớp có cháu Kim Ngân nói ngọng, âm “v” thành “b”. Khi đó
tôi thường cho cháu đọc những bài thơ có nhiều âm “v” và mỗi lần cháu đọc sai,
tôi lại đọc lại hoặc cho bạn khác không bị ngọng đọc lại câu đó, cứ như vậy
nhiều lần cháu sẽ khắc phục được và không bị nói ngọng nữa.
Bổ sung vốn từ ngữ cho trẻ, tạo cho trẻ có thói quen nói đầy đủ câu, rõ ý.
Ví dụ: Khi học xong tác phẩm “3 cô gái”, cô hỏi trẻ: “Qua câu chuyện con
yêu quý và học tập ai?” thì trẻ sẽ trả lời “Cô Út”; như vậy vẫn chưa đủ câu, để
giúp trẻ tôi lại hỏi ngược lại lần nữa: “Ai yêu quý và học tập cô Út nhỉ?”. Lúc
này trẻ sẽ có câu trả lời đầy đủ và rõ ràng, đó là: “Con yêu quý và học tập cô Út
ạ”.
Nhờ có kỹ năng quan sát, nghe, nói đọc trẻ sẽ biết thể hiện tối đa nhất về
tình cảm của mình cho tác phẩm văn học bộc lộ lên qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ,
lời nói. Đây cũng chính là những bước để tôi nắm bắt được đặc điểm tâm, sinh
lý của từng trẻ mà đặc biệt là trẻ dân tộc thiểu số trong lớp. Từ đó, tôi đưa ra

những biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ và chủ động điều chỉnh linh hoạt, sáng
tạo, phù hợp.
d. Giải pháp 4: Tạo môi trường ngôn ngữ phong phú, đa dạng:
Môi trường giáo dục trong lớp có tác dụng tốt đến quá trình chăm sóc giáo
dục trẻ, có tác động mạnh mẽ và trực tiếp tới tâm, sinh lý của trẻ. Để trẻ được
làm quen với tác phẩm văn học ở mọi lúc mọi nơi, tôi luôn tạo môi trường trong
và ngoài lớp thân thiện nhất, đẹp và sinh động cuốn hút trẻ.
Tạo tình huống, môi trường ngôn ngữ trong lớp gần gũi với trẻ. Tôi luôn
khuyến khích những bạn người Kinh tham gia trao đổi giao tiếp với bạn dân tộc
thiểu số. Khi cho trẻ chơi theo nhóm thì tôi cho xen kẽ, kết hợp 1 hoặc 2 bạn
người Kinh với 1 bạn người dân tộc thiểu số để trong khi trẻ hoạt động được tiếp
xúc với tiếng Việt, tạo cơ hội để trẻ được giao tiếp, thảo luận, bày tỏ ý kiến
nhiều nhất.
Tạo môi trường giao tiếp bằng ngôn ngữ cho trẻ: Tôi thường xuyên giao
tiếp, trao đổi, trò chuyện với trẻ chú ý đến trẻ dân tộc thiểu số thông qua các
hoạt động ở mọi lúc, mọi nơi về những chủ đề gần gũi với cuộc sống.
Ví dụ: Tôi thường xuyên trò chuyện với trẻ vào các thời điểm đón trẻ, giờ
chơi, giờ sinh hoạt, lúc rảnh rỗi nhằm tìm hiểu nhu cầu, hứng thú, tâm trạng, tình
cảm của trẻ về bản thân, sự vật hiện tượng xung quanh như: thời tiết hôm nay
như thế nào? Con cảm thấy mình như thế nào? Những đồ vật này có công dụng
gì? Cái này có thể dùng vào những việc gì?
10


Động viên khuyến khích trẻ tham gia trò chuyện với cô và bạn, tổ chức trò
chơi ngôn ngữ cho trẻ, trò chơi kết hợp vận động với lời ca, lời đồng dao đưa trẻ
vào hoạt động bằng cách bắt chước vần điệu và nhịp điệu ngôn ngữ.
Chụp lại những khoảnh khắc của cô và trẻ trong khi chơi, dạo chơi hay
đóng kịch kể lại truyện, khi trẻ được thực hành trải nghiệm, làm hình ảnh trang
trí dán vào tường trong lớp học để khi trẻ được tham gia trẻ nhận thấy sự tự tin,

hào hứng, phấn khởi, gần gũi, thân quen.
e. Giải pháp 5: Tích hợp qua các hoạt động khác.
Theo yêu cầu đổi mới giáo dục mầm non hiện nay, việc tổ chức cho trẻ
vùng dân tộc thiểu số làm quen với tác phẩm văn học cần phải đặc trong mối
liên hệ với các hoạt động khác cùng chủ đề; phải tổ chức theo tính tích hợp
nhằm kích thích tính tích cực và huy động được nhiều kinh nghiệm sống của trẻ.
Để thực hiện được yêu cầu này, tôi dựa trên khả năng, đặc điểm tâm lý,
sinh lý của trẻ vùng dân tộc thiểu số, khả năng của chính mình và những điều
kiện cụ thể của trường, lớp, địa phương để lựa chọn hướng tích hợp mang lại
hiệu quả nhất.
Tích hợp môn âm nhạc: Tôi thường chọn những bài thơ, câu chuyện ngắn
phù hợp với nội dung bài hát. Cho trẻ đọc thơ, kể cho trẻ nghe những mẩu
chuyện ngắn trong phần tạo hứng thú và cũng có thể ở phần kết thúc nếu phù
hợp. Ví dụ như khi cho trẻ hát theo nhạc bài hát “Màu hoa” cho trẻ làm quen với
tác phẩm thơ “Bó hoa tặng cô”.
Tích hợp môn khám phá khoa học: Môi trường xung quanh trẻ rất đa dạng
và phong phú. Ví dụ khi cho trẻ “Tìm hiểu về một số con vật nuôi trong gia
đình”, tôi sử dụng câu đố về con vật đó cho trẻ đoán, qua đó trẻ cũng được phát
triển vốn từ của mình…
Tích hợp môn làm quen với Toán: Trong khi cho trẻ làm quen với Toán,
tôi sử dụng các nhân vật trong tác phẩm, gắn số thẻ tương ứng. Hoặc trong câu
truyện đó. Đặt ra các câu hỏi khác nhau như: Trong truyện có mấy nhân vật, có
mấy người con, có mấy anh em? Như vậy trẻ sẽ phải nhẩm và đếm số người
trong tác phẩm đó và trả lời.
Tích hợp môn Tạo hình: Sau khi trẻ đã hoạt động nhiều thì môn tạo hình
rất phù hợp với trạng thái tĩnh. Tôi cho trẻ tô màu các nhân vật đó theo yêu cầu
của cô. Tôi dùng câu hỏi gợi mở yêu cầu trẻ nhẹ nhàng hình dung tưởng tượng
và tô màu các nhân vật trong tác phẩm.

11



Với mong muốn nhằm nâng cao chất lượng cho trẻ vùng dân tộc thiểu số
phát triển ngôn ngữ mạch lạc qua việc làm quen với tác phẩm văn học, tôi cần
phải cố gắng tranh thủ tận dụng triệt để và hiệu quả các hoạt động trong ngày để
trẻ làm quen một cách hợp lý và khoa học nhất.
Giờ đón – trả trẻ: Có thể cho trẻ đọc đồng dao, trò chuyện, đàm thoại bằng
những câu hỏi gần gũi, đơn giản với trẻ. Khuyến khích trẻ kể lại sự việc ngày
hôm qua, khi về nhà có những vui, buồn như thế nào cho cô và các bạn cùng
nghe.
Hoạt động học: Ngoài tiết dạy cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học với
tất cả các môn học khác nếu có thể đều lồng ghép thêm tác phẩm văn học vào
sao cho phù hợp với bài dạy.
Hoạt động góc: Tôi cùng trẻ làm ra các sản phẩm về chủ đề rồi gắn những
hình ảnh sinh động của tác phẩm văn học về chủ đề, chủ điểm đó để cho trẻ
quan sát, khám phá, tìm tòi và hứng thú để thể hiện, biểu diễn tác phẩm đúng
theo trình tự hình ảnh.
Ví dụ: Góc phân vai, tôi cho trẻ đóng kịch một tác phẩm văn học như
truyện “Tích Chu” chủ đề gia đình
Ví dụ: Góc xây dựng – lắp ghép, tôi tổ chức cho trẻ lắp ghép, xây dựng
suối Tiên, đường đến suối Tiên, ngôi nhà, khu vườn của bà Tích Chu.
Ví dụ: Góc học tập, tôi cho trẻ xem tranh ảnh về câu truyện, hình ảnh các
nhân vật trọng truyện “Tích Chu” lô tô về gia đình: Ông, bà, các cháu… làm bộ
sưu tập về gia đình.
12


Ví dụ: Góc nghệ thuật, tổ chức hướng dẫn cho trẻ nặn, vẽ, cắt – xé – dán,
tô màu các nhân vật trong tác phẩm: Tích Chu, bà, cô tiên. Múa hát những bài
hát về chủ đề, ca ngợi về bà: “Cháu yêu bà”, “Cả nhà thương nhau”…

Ví dụ: Góc khám phá khoa học - thiên nhiên, tôi cùng trẻ tạo hình ảnh bà,
Tích Chu bằng cách xếp hình từ cây, que, lá khô, sỏi. Vẽ hình ảnh, chân dung
bà, Tích Chu, Cô Tiên trên cát. Khi thực hiện xong tôi cho trẻ kể lại truyện theo
trình tự diễn biến, miêu tả các nhân vật bằng ngôn ngữ.
Hoạt động ngoài trời, tôi cho trẻ quan sát và kể lại hoặc đọc các tác phẩm
văn học thông qua hoạt động quan sát, đàm thoại, nhận xét. Muốn trẻ học được
bài hiệu quả, tiếp thu nhanh và nhớ lâu, nếu trẻ được trực tiếp tham gia vào các
hoạt động đó; tôi sưu tầm, sáng tác một số trò chơi khi cho trẻ làm quen với tác
phẩm văn học tăng hứng thú, cung cấp, củng cố kiến thức, kỹ năng cho trẻ.
Tôi đóng vai trò là người hướng dẫn trẻ, hoặc có thể cũng là một trong
những vai chơi trong nhóm để chơi cùng trẻ.
Trò chơi “Kể chuyện theo tranh”. Cách chơi: Khi cô đưa tranh của đoạn
nào trong tác phẩm thì trẻ phải kể lại diễn biến của đoạn đó. Vì vậy bản thân tôi
luôn chịu khó tìm tòi sưu tầm và sáng tạo, sáng tác ra các trò chơi và biết vận
dụng hợp lý các trò chơi đó vào các giờ học ở mọi lúc, mọi nơi một cách phù
hợp sẽ kích thích trẻ ham tìm tòi, học hỏi, sáng tạo, trẻ sẽ hứng thú hơn khi đến
lớp và sẽ sôi nổi khi tham gia các hoạt động.
Đặc biệt hơn nữa là các trò chơi dân gian, với trò chơi dân gian có đặc
điểm thường là các trò chơi có lời: Hò, vè, đồng dao… trẻ vừa chơi vừa đọc lời
trong trò chơi bằng tiếng Việt. Qua đó vốn từ của trẻ ngày càng phát triển phong
phú hơn.
Hoạt động chiều, cho trẻ múa hát những bài thơ được phổ nhạc sang thành
bài hát hoặc đồng dao hay tổ chức cho trẻ đóng kịch: Trẻ sẽ được trực tiếp nhập
vai và trở thành nhân vật trong tác phẩm văn học; như vậy trẻ sẽ phát triển toàn
diện hơn.
Mọi hoạt động trong ngày của trẻ đều được lồng ghép các tác phẩm văn
học, mọi lúc mọi nơi trẻ ở vùng dân tộc thiểu số đều được thể hiện bằng ngôn
ngữ tiếng Việt sẽ giúp trẻ tạm thời quên đi tiếng mẹ đẻ khi đến lớp, đến trường,
từ đó vốn từ ngữ của trẻ càng được mở rộng và phong phú hơn, trẻ dần hòa nhập
mình vào ngôn ngữ tiếng Việt. Trẻ nói chính xác câu từ, vành tròn, rõ chữ,

không nói ngọng, đầy đủ câu và lễ phép hơn trong khi giao tiếp.
g. Giải pháp 6: Giáo dục cá nhân trẻ ở vùng dân tộc thiểu số tạo niềm tin
cho trẻ khi học tiếng Việt.
Việc giáo dục cá nhân có tác động tốt đến trẻ, đặc biệt trong lĩnh vực cho
trẻ làm quen với tác phẩm văn học, giáo dục cá nhân sẽ giúp cô giáo củng cố, bổ
sung kiến thức, kỹ năng phát âm và kỹ năng giao tiếp cho trẻ. Trong quá trình
cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học tôi luôn tìm hiểu khả năng, đặc điểm
tâm, sinh lý của trẻ, từ đó xây dựng các biện pháp giáo dục phù hợp. Trong lớp
có 28 trẻ là người dân tộc thiểu số (chiếm 90,3%) khả năng giao tiếp còn nhiều
hạn chế do vốn từ chưa nhiều, do trẻ ít được va chạm với môi trường bên ngoài,
13


trẻ chưa tự tin vào bản thân, chưa mạnh dạn và còn quá nhút nhát. Tôi thường
xuyên trao đổi, trò chuyện, gần gũi và quan tâm đến trẻ, cung cấp thêm vốn từ
cho trẻ bằng những câu đơn giản, câu ngắn có nội dung gần gũi, dễ hiểu gắn với
kinh nghiệm sống của trẻ, hàng ngày tôi lại tăng dần, mở rộng vốn từ cho trẻ.
Tôi thường xuyên nêu gương bạn tốt cho trẻ noi theo. Bên cạnh đó động viên trẻ
trả lời những câu hỏi để tăng dần mức độ khó của câu hỏi giúp trẻ phát triển cả
khả năng tư duy và ghi nhớ, khuyến khích trẻ tham gia các hoạt động cùng các
bạn và cô giáo
Ngoài ra, tôi còn phối, kết hợp với gia đình của trẻ, thường xuyên trò
chuyện, chơi cùng trẻ, động viên trẻ tham gia nhiều hoạt động tập thể khác.
Tranh thủ các cơ hội trẻ thể hiện để phát hiện và cho trẻ nhập mình vào các tác
phẩm văn học để trẻ mạnh dạn, tự tin hơn khi thể hiện mình
Trẻ hiếu động thường rất hay nghịch ngợm và đùa nghịch, trong giờ học
không để ý đến các hoạt động do cô giáo truyền thụ, vì thế làm cho trẻ không
nhớ được tên tác phẩm, tên tác giả, tên các nhân vật trong tác phẩm và nội dung
của tác phẩm. Với những trẻ hiếu động như vậy, tôi thường cho trẻ tham gia vào
các hoạt động tĩnh nhưng có giới hạn thời gian, trong giờ học chú ý đến trẻ hơn,

hay gọi trẻ phát biểu, dùng nhiều hình thức hấp dẫn thu hút trẻ chú ý hơn. Sau
khi thực hiện được một thời gian thì thấy trẻ ít nghịch và ham học hơn, thích
giúp đỡ bạn và thích tham gia các trò chơi học tập, nhớ được nội dung và chủ để
của tác phẩm và thích các nhân vật trong tác phẩm văn học.
Sự gần gũi, yêu thương của cô và hòa đồng với các trẻ sẽ giúp trẻ yên tâm
cả về thể chất và tinh thần; tự tin, mạnh dạn giao tiếp, trao đổi ý kiến của mình
với mọi người bằng ngôn ngữ tiếng Việt.
h. Giải pháp 7: Ứng dụng công nghệ thông tin.
Trong giai đoạn đổi mới, việc ứng dụng và sử dụng công nghệ thông tin
vào công tác giảng dạy là vô cùng quan trọng, sử dụng công nghệ thông tin giúp
cho trẻ có tư duy trực tiếp để phát huy tính tích cực của trẻ, trẻ hứng thú bao
nhiêu thì kết quả đạt được càng lớn. Nếu lựa chọn đề tài để dạy trẻ trên mọi tiết
học mà chỉ có tranh ảnh không thì trẻ rất dễ bị nhàm chán, chất lượng trẻ chắc
chắn sẽ không cao; hơn nữa sẽ không phát huy được tính tích cực, chủ động,
ham hiểu biết của trẻ. Chính vì vậy mà tôi luôn tìm tòi các trò chơi trên máy tính
với những hình ảnh sinh động và ngộ nghĩnh; đồng thời, tôi cũng khám phá
những trò chơi trong phần mềm Kidsmart, kixpix và happykids đưa ra cho trẻ
chơi và khám phá thêm về cuộc sống xung quanh trẻ.
Tôi cho trẻ trực tiếp lên thực hiện thao tác như: Vẽ, tô màu chân dung
nhân vật nào đó trong tác phẩm văn học trên phần mềm kixpix và đánh dấu bài
của mình bằng kí hiệu riêng, khi trẻ thực hiện xong tôi in ra và treo tranh lên góc
“Tranh đẹp của bé” để trẻ có cơ hội quan sát, ngắm lại những ý tưởng riêng của
mình, đồng thời cũng thông báo tới các bậc phụ huynh về khả năng cảm nhận
tác phẩm văn học và trí tái tạo, tưởng tượng, sáng tạo của con em mình.
Tôi thường xuyên sưu tầm những tài liệu về các tác phẩm văn học, những
bộ phim hoạt hình được chuyển thể từ các tác phẩm văn học, những bài thơ, bài
14


hát, vè, đồng dao… hợp với lứa tuổi, phù hợp với sức của tiếp thu của trẻ để

coppy vào USB đưa vào máy vi tính để mở cho trẻ xem vào các buổi chiều
i. Giải pháp 8: Công tác phối hợp, tuyên truyền với phụ huynh.
Khi trẻ đến trường được tôi cho làm quen với tác phẩm văn học thông qua
các hoạt động với nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, các kiến thức, kỹ năng
mà trẻ thu nhận được cũng cần phải được ôn luyện tại nhà. Vì vậy, để trẻ được
học tốt cần có sự phối hợp cộng tác giữa giáo viên và phụ huynh học sinh. Trong
khi đó, để công tác tuyên truyền với phụ huynh một cách khoa học và đạt hiệu
quả tốt, tôi đã thực hiện như sau:
Hàng ngày tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khỏe
và học tập của trẻ để về nhà phụ huynh kết hợp dạy thêm cho trẻ ở nhà. Hôm
nay con được chơi trò gì, chơi như thế nào, con được hát bài hát gì? con kể, hát,
làm lại cho bố mẹ xem.. n kế hoạch, thông báo chương trình dạy trẻ ghi rõ ràng
nội dung giáo dục vào bảng “Cha mẹ cần biết” để phụ huynh theo dõi, ôn luyện
thêm cho con em mình khi ở nhà. Đưa nội dung trẻ đã được học ở lớp cho phụ
huynh về nhà cùng tham khảo và hướng dẫn trẻ.
Khuyến khích phụ huynh trao đổi về đặc điểm, tâm lý, nhu cầu tình cảm
của trẻ để tôi nắm rõ thêm đặc điểm của từng trẻ, từ đó giúp tôi lựa chọn và điều
chính kế hoạch linh động, sáng tạo phù hợp với trẻ.
Sự kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh ở vùng dân tộc thiểu số, phụ
huynh đã nhận thấy tầm quan trọng của tiếng Việt, khi ở nhà phụ huynh đã hạn
chế nói tiếng mẹ đẻ khi giao tiếp với trẻ. Từ môi trường tiếng Việt, trẻ nói được
rõ ràng, mạch lạc, gãy gọn, không nói ngọng, nói lắp… mà nói đủ câu và có lễ
phép.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Dựa trên những nghiên cứu với những biện pháp nêu trên, sau một thời
gian tôi thấy trẻ có tiến bộ rõ rệt, kết quả mà tôi thu được cụ thể là:
Trẻ đã mạnh dạn, tự tin khi thể hiện, trình bày tác phẩm, thể hiện tình
cảm, cảm xúc của mình trước sự vật hiện tượng bằng những câu đơn, câu ghép
khác nhau; kể lại sự việc một cách mạch lạc theo tình tiết diễn biến.

Trẻ nói – đọc mạch lạc, rõ ràng, rõ chữ, nói đủ câu, không bị nói lắp, nói
ngọng, trẻ đã hiểu được mối quan hệ giữa lời nói và chữ viết. Đặc biệt và bất
ngờ hơn, đó là trẻ nhập tâm vào trong các nhân vật của tác phẩm văn học và đã
biết dùng lời nói, cử chỉ, hành động, điệu bộ để thể hiện rõ ràng cảm xúc. Quan
sát được các cử chỉ, điệu bộ, sắc thái: Vui, buồn, đồng ý hoặc không đồng ý của
người khác theo từng tình huống khác nhau.
Trẻ nghe và phân biệt được các âm thanh, ngữ điệu, giọng nói khác nhau
và độ to, nhỏ, nhanh, chậm của giọng nói, giọng đọc. Biết trả lời những câu hỏi
về nguyên nhân, kết quả, so sánh và đã biết đặt câu hỏi, tại sao, như thế nào, để
làm gì?... cho người khác. Dùng cử chỉ, điệu bộ, nét mặt để thể hiện cảm xúc
của mình, phù hợp với yêu cầu và hoàn cảnh giao tiếp.
Phụ huynh của trẻ ở vùng dân tộc thiểu số đã nhận thức rõ tầm quan trọng
15


của ngôn ngữ tiếng Việt, qua việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, đặc
biệt hơn nữa là rất phấn khởi khi thấy con em mình biết thể hiện một tác phẩm
văn học có trình tự, thể hiện tình cảm, cảm xúc của mình vào trong tác phẩm.
Qua việc nghiên cứu và thực hiện các biện pháp trên, tôi đã thu được một
số thành quả cụ thể như sau:
* Đối với trẻ dân tộc Kinh: 03 trẻ
Nội dung
Nghe hiểu nội dung tác
phẩm văn học
Nghe và làm theo từ 3 lời
chỉ dẫn liên tiếp trở lên
Mạch lạc, rõ ràng, nói đủ
câu, không nói lắp, nói
ngọng
Tự tin khi giao tiếp, biết

kể lại trình tự sự việc 1
cách mạch lạc
Biết kể chuyện theo tranh,
đọc sách qua hình vẽ

Tốt
03 trẻ 100%
03 trẻ 100%

Khá

Xếp loại
T. bình

Yếu

0 trẻ - 0%

0 trẻ - 0%

0 trẻ - 0%

0 trẻ - 0%

0 trẻ - 0%

0 trẻ - 0%

03 trẻ 100%


0 trẻ - 0%

0 trẻ - 0%

0 trẻ - 0%

03 trẻ 100%

0 trẻ - 0%

0 trẻ - 0%

0 trẻ - 0%

03 trẻ 100%

0 trẻ - 0%

0 trẻ - 0%

0 trẻ - 0%

* Đối với trẻ vùng dân tộc thiểu số: 28 trẻ
Nội dung
Nghe hiểu nội dung tác
phẩm văn học
Nghe và làm theo từ 3 lời chỉ
dẫn liên tiếp trở lên
Mạch lạc, rõ ràng, nói đủ
câu, không nói lắp, nói

ngọng
Tự tin khi giao tiếp, biết kể
lại trình tự sự việc 1 cách
mạch lạc
Biết kể chuyện theo tranh,
đọc sách qua hình vẽ

Xếp loại
Trung bình
04 trẻ 14,4%
06 trẻ 21,5%

Tốt
16 trẻ 57%
12 trẻ 42,8%

Khá
08 trẻ 28,6%
10 trẻ 35,7%

Yếu

20 trẻ 71,4%

07 trẻ 25%

01 trẻ 3,6%

0 trẻ - 0%


08 trẻ 28,6%

10 trẻ 35,7%

07 trẻ - 25%

03 trẻ 10,7%

07 trẻ 25%

08 trẻ 28,6%

10 trẻ 35,7%

03 trẻ 10,7%

0 trẻ - 0%
0 trẻ - 0%

Nhìn vào bảng đánh giá, so sánh trên, tôi nhận thấy sau khi áp dụng
những biện pháp trên vào việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 3 tuổi ở
vùng dân tộc thiểu số. Tôi thấy nội dung phát triển ngôn ngữ của trẻ ở vùng dân
tộc thiểu số có tỷ lệ tương đương với nội dung phát triển ngôn ngữ của trẻ em
dân tộc Kinh.
16


Bảng so sánh kết quả đánh giá trẻ ở vùng dân tộc thiểu số đầu năm và
cuối năm:
Các nội

dung
Nghe hiểu
nội dung tác
phẩm văn
học
Nghe và làm
theo từ 3 lời
chỉ dẫn liên
tiếp trở lên
Mạch lạc, rõ
ràng, nói đủ
câu, không
nói lắp, nói
ngọng
Tự tin khi
giao tiếp, biết
kể lại trình tự
sự việc 1
cách mạch
lạc
Biết kể
chuyện theo
tranh, đọc
sách qua hình
vẽ

Tốt

Khảo sát đầu năm
Khá TB

Yếu

0 trẻ
0%

02 trẻ
7,1%

08 trẻ
28,6%

18 trẻ 16 trẻ
64,3% 57%

0 trẻ
0%

01 trẻ
3,6%

06 trẻ
21,4%

21 trẻ
75%

Tốt

12 trẻ
42,8%


Kết quả cuối năm
Khá
TB
08 trẻ
28,6%
10 trẻ
35,7%

Yếu

04 trẻ
14,4%

0 trẻ
0%

06 trẻ
21,5%

0 trẻ
0%

1
0 trẻ
0%

04 trẻ 10 trẻ
14,3% 35,7%


14 trẻ
50%

20 trẻ
71,4%

07 trẻ
25%

01 trẻ
3,6%

0 trẻ
0%

0 trẻ
0%

0 trẻ
0%

4 trẻ
14,3%

24 trẻ 08 trẻ
85,7% 28,6%

10 trẻ
35,7%


07 trẻ
25%

03 trẻ
10,7%

0 trẻ
0%

0 trẻ
0%

0 trẻ
0%

28 trẻ
100%

08 trẻ
28,6%

10 trẻ
35,7%

03 trẻ
10,7%

07 trẻ
25%


Nhìn vào bảng so sánh trẻ, tôi thấy sau khi áp dụng giải pháp vào thực
tiễn chăm sóc giáo dục trẻ, đến cuối năm các nội dung đánh giá tỷ lệ % trẻ ở
vùng dân tộc thiểu số đạt tốt và khá nâng lên rõ rệt, tỷ lệ yếu kém giảm xuống
đáng kể tăng tỷ lệ “Tốt”, “Khá” gần tương đương với trẻ dân tộc Kinh.
Với những giải pháp đã sử dụng trong quá trình giảng dạy, tôi xin rút ra
một số kinh nghiệm như sau:
Luôn không ngừng trau dồi kiến thức, sáng tạo, bồi dưỡng nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ. Nắm vững yêu cầu phương pháp bộ môn khi cho trẻ
làm quen với tác phẩm văn học. Chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi sáng tạo, sinh động,
phù hợp đối với trẻ. Tổ chức tốt các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ dân
tộc thiểu số; có khả năng truyền thụ tác phẩm văn học đến với trẻ, khai thác hết
khả năng phát triển ngôn ngữ cho trẻ nói chung và trẻ 3 tuổi ở vùng dân tộc
thiểu số nói riêng

17


III : KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Trong môi trường hoạt động ngôn ngữ thì các kỹ năng nghe, hiểu, nói của
trẻ được phát triển tốt nhất. Mỗi hoạt động có những đặc thù riêng, nhưng đều
có tác dụng để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Để giúp trẻ mẫu giáo 3 tuổi ở vùng
dân tộc thiểu số phát triển mạch lạc ngôn ngữ tiếng Việt, cảm thụ tốt nhất khi
cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, bản thân tôi cũng không ngừng trau dồi
kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ, tìm hiểu ngôn ngữ tiếng dân tộc, tìm hiểu đặc
điểm riêng của từng trẻ mẫu giáo là người dân tộc thiểu số bằng cách khảo sát
trẻ thường xuyên, theo dõi trẻ qua các hoạt động trong ngày để tìm ra nguyên
nhân, để từ đó có biện pháp phù hợp giúp đỡ, gần gũi trong ngôi nhà của mình,
đồng thời cảm thấy được sự mới lạ mà gần gũi yêu thương, thích đến lớp hơn ở
nhà. Tạo môi trường trong và ngoài lớp đa dạng, phong phú cho trẻ hoạt động,

đưa hình ảnh về chủ đề vào ứng dụng công nghệ thông tin có tương tác điện tử.
Nhiệt tình, chịu khó trao đổi, học hỏi kinh nghiệm để không ngừng nâng cao
nghệ thuật và kỹ năng lên lớp, sáng tạo đồ dùng đồ chơi, trò chơi, đổi mới
phương pháp để gây hứng thú cho trẻ tham gia vào các hoạt động trong ngày.
Nắm chắc phương pháp, đồng thời có thêm nhiều kỹ năng hơn khi cho trẻ
làm quen với tác phẩm văn học. Điều đó đã thấy được kết quả của việc nghiên
cứu sáng kiến kinh nghiệm góp phần làm cho kiến thức chuyên môn được đổi
mới hơn. Nắm vững phương pháp dạy trẻ Mẫu giáo làm quen với tác phẩm văn
học; từ đó xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình chăm sóc giáo dục trẻ:
Sáng tạo trò chơi, làm đồ dùng, đồ chơi đảm bảo tính thẩm mỹ cao và khoa học
để thu hút trẻ. Tạo môi trường văn học phong phú, vận dụng môi trường đó để
lôi cuốn trẻ tham gia các hoạt động. Tham khảo, bồi dưỡng kiến thức từ đồng
nghiệp, sách báo... Kịp thời vận dụng linh hoạt, sáng tạo sáng kiến kinh nghiệm
phù hợp với độ tuổi và khả năng nhận thức của trẻ. Chú ý đến khả năng hứng
thú của trẻ, nhất là đối với trẻ ở vùng dân tộc thiểu số, tạo điều kiện cho trẻ bộc
lộ hết khả năng tư duy sáng tạo của bản thân.
2. Kiến nghị.
Trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ, giáo viên phải linh
hoạt, sáng tạo. Thường xuyên thay đổi các hình thức, môi trường trong, ngoài
lớp học và sử dụng các thủ thuật lên lớp, giúp trẻ hứng thú và hoạt động một
cách tích cực; bổ sung, thay đổi đồ dùng dạy học một cách sáng tạo.
Biết vận dụng biện pháp lồng ghép tích cực các môn học một cách khoa
học, nhẹ nhàng, thoải mái để khai thác tối đa hoạt động nhận thức cho trẻ. Bản
thân mỗi giáo viên cũng cần phải không ngừng học tập, trau dồi kiến thức để
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Biết kết hợp hoạt động trong tiết học
và ngoài tiết học một cách phù hợp và khoa học nhằm phát huy tối đa tính tích
cực hoạt động của trẻ, cung cấp kiến thức cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi. Giáo viên
nên có sổ nhật ký để cập nhật thông tin trong từng ngày để bổ sung, điều chỉnh
cho trẻ một cách kịp thời.
Đề nghị Ban Giám hiệu tổ chức các buổi hội nghị, hội thảo về chuyên đề

18


Làm quen với tác phẩm văn học để giáo viên được trao đổi những vướng mắc
trong chuyên môn. Xây dựng khu vườn cổ tích ngoài trời chung cho toàn trường
để trẻ được vui chơi, học tập, trải nghiệm và giao lưu, trao đổi, giao tiếp.
Đề nghị Phòng Giáo dục và đào tạo chọn những sáng kiến kinh nghiệm có
chất lượng để phổ biến rộng rãi cho chúng tôi được tham khảo, học tập. Tạo điều
kiện cho giáo viên đi học tập các trường bạn, được tham gia các giờ dạy mẫu.
Đầu tư thêm cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học: Máy in, máy chiếu,
tranh ảnh, trang phục cho trẻ để trẻ biểu diễn, đóng kịch lại một tác phẩm văn
học.
Trên đây là một số phương pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 3
tuổi ở vùng dân tộc thiểu số khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học mà tôi
đã rút ra được trong quá trình giảng dạy. Với khuôn khổ một bài viết nhỏ, vấn đề
chỉ dừng lại ở một phạm vi hạn chế. Trong quá trình thực hiện và hoàn thành đề
tài không thể tránh khỏi những thiếu xót nhất định; Bản thân tôi rất mong nhận
được các ý kiến đóng góp của Ban Giám hiệu, lãnh đạo, bộ phận chuyên môn
Phòng Giáo dục và đào tạo, các đồng chí đồng nghiệp góp thêm ý kiến để tôi
chỉnh sửa, bổ sung trong thời gian tới, để sáng kiến kinh nghiệm được chất
lượng hơn cả về nội dung và hình thức, gắn với triển khai thực hiện có hiệu quả
trong công tác giảng dạy trẻ ở vùng dân tộc thiểu số./.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 06 tháng 04 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.


Nguyễn Thị Thu Hòa

19



×