Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Tâm lý học giao tiếp Trần Tuấn Lộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.35 KB, 65 trang )

TÂM LÝ HỌC GIAO TIẾP
TÂM LÝ HỌC GIAO TIẾP
PGS.TS. TRẦN TUẤN LỘ

Bài 1: GIAO TIẾP LÀ GÌ? PHÂN LOẠI GIAO TIẾP
1 – ĐỊNH NGHĨA KHÁI NIỆM GIAO TIẾP
1.1. Giao tiếp là hoạt động trong đó người này, do có một nhu cầu nào
đó, tiếp cận và tác động vào tâm lý của người kia, để tạo ra được một sự giao
lưu tâm lý giữa hai người, nhằm mục đích biết nhau, thông cảm với nhau và
đồng ý thực hiện những điều gì đó theo thỏa thuận của cả hai bên để đáp ứng
nhu cầu của mỗi bên.
1.2. Cần phân biệt sự khác nhau và mối quan hệ qua lại giữa các khái
niệm: giao tiếp và giao lưu, giao tiếp và ứng xử, giao tiếp và tiếp xúc, giao tiếp
và quan hệ, v.v…
2. BẢN CHẤT CỦA GIAO TIẾP
2.1 - Giao tiếp là một nhu cầu bẩm sinh và suốt đời của con người.
Đó là những nhu cầu:
2.1 1. Về người khác (nhu cầu có người thân ruột thịt (bố mẹ, anh chị
em, ông bà), có bạn, có người yêu, có vợ có chồng, có con, có cháu v.v... để
được gắn bó, yêu thương, chia sẻ, chăm sóc, giúp đỡ, bảo vệ.
2.1.2. Về những cái cần cho cuộc sống và hoạt động của bản thân
nhưng phải thông qua người khác mới có được (ví dụ cần tiền, cần đồ vật,
cần kiến thức và kỹ năng... thì phải giao tiếp với người có thể giúp mình có
tiền, có đồ vật có kiến thức và kỹ năng...)
2.2 - Giao tiếp là một hình thức vận động và biểu hiện của những
quan hệ giữa người và người trong xã hội.


2.2.1. Có rất nhiều loại quan hệ giữa người và người trong xã hội: quan
hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống (quan hệ vợ chồng, gia đình, họ hàng),
quan hệ hàng xóm - láng giềng, quan hệ bạn bè, quan hệ thầy trò, quan hệ


đồng nghiệp, quan hệ chủ - thợ, quan hệ cấp trên - cấp dưới, quan hệ tuổi
tác, quan hệ nam nữ, quan hệ tình cảm, quan hệ kinh tế, quan hệ tôn giáo
v.v...
2.2.2. Giao tiếp là hoạt động xác lập và tiếp tục mối quan hệ giữa hai
người, là sự phát triển và củng cố hoặc là sự duy trì trong một giới hạn nhất
định mối quan hệ đó.
2.2.3. Giao tiếp là để thể hiện một thái độ, một hành động cư xử (là đối
xử và ứng xử) với người khác một cách phù hợp hay không phù hợp với sự
mong đợi của người đó và với đạo lý của xã hội, pháp luật của nhà nước
hoặc giáo lý của một tôn giáo nào đó.
2.3 - Giao tiếp giữa hai người với nhau là gặp nhau của hai nhân vật
(tức là hai chức danh xã hội) và của hai nhân cách (tức là của hai tâm lý)
khác nhau.
Sự khác nhau giữa hai nhân vật sự là khác nhau về chức vụ, danh
hiệu, quyền lực, lợi ích, trách nhiệm, uy tín, lý lịch, thanh thế v.v...
Sự khác nhau giữa hai nhân cách là sự khác nhau về trí tuệ, tình cảm,
ý chí, đạo đức, xu hướng (nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng, lý tưởng, ước
mơ), năng lực, tính cách, khí chất v.v...
2.4. Giao tiếp là sự truyền thông, sự giao lưu về tâm lý giữa hai
người và nhiều người với nhau, qua ngôn ngữ, cử chỉ, bộ mặt và hành động
của nhau và tùy thuộc vào sự hiểu đúng hay sai, đầy đủ hay không đầy đủ
của mỗi bên đối với ngôn ngữ, cử chỉ, bộ mặt và hành động của bên kia. Điều
đó lại tùy thuộc vào cách sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ, cách thể hiện bộ mặt và
hành động của mỗi bên cũng như tùy thuộc vào mức độ gây nhiễu nhiều hay
ít của môi trường.


Cấu trúc và cơ chế vận hành của sự truyền thông - giao lưu giữa hai
chủ thể S1 và S2 trong một môi trường E có thể được phác họa qua sơ đồ
dưới đây:

3. PHÂN LOẠI GIAO TIẾP
3.1. Giao tiếp công việc, giao tiếp tình cảm.
3.2. Giao tiếp việc riêng, giao tiếp việc công.
3.3. Giao tiếp đời thường, giao tiếp nghiệp vụ.
3.4. Giao tiếp trực tiếp (mặt đối mặt), giao tiếp gián tiếp (điện thoại, thư,
E-mail, qua người trung gian).
3.5. Giao tiếp ở nhà, ở nơi công cộng, ở nơi làm việc.
3.6. Giao tiếp giữa hai người với nhau, giữa một người với nhiều người
và giữa nhiều người bên này với nhiều người bên kia.
3.7. Giao tiếp giữa nam và nữ (khác giới):
3.8. Giao tiếp giữa người trẻ và người già và giao tiếp giữa người trẻ
với nhau hoặc giữa người già với nhau, giao tiếp giữa người lớn và trẻ em,
giao tiếp giữa trẻ em với nhau.
3.9. Giao tiếp giữa cấp trên và cấp dưới, giao tiếp giữa đồng cấp.
3.10. Giao tiếp với người lạ, giao tiếp với người quen, người thân,
người yêu và giao tiếp với người đối địch.
3.11. Giao tiếp với người khỏe mạnh, bình thường và giao tiếp với
người bệnh hoặc người tàn tật.
3.12. Giao tiếp với người trong nước và giao tiếp với người nước
ngoài.
3.13. Giao tiếp với người cùng dân tộc và giao tiếp với người dân tộc
khác.


3.14. Giao tiếp với người cùng tôn giáo và giao tiếp với người khác tôn
giáo, giao tiếp giữa người không theo tôn giáo nào và người có theo một tôn
giáo nào đó.
3.15. Giao tiếp giữa người dân với nhau và giao tiếp giữa người dân
với người Nhà nước đang thi hành công vụ.
3.16. Giao tiếp giữa người bán và người mua.

3.17. Giao tiếp giữa người nổi tiếng và những người hâm mộ ở nơi
công cộng.
3.18. Giao tiếp giữa người giàu và người nghèo.

CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1 Giao tiếp là gì?
2. Phân biệt sự khác nhau và mối quan hệ qua lại giữa các khái niệm:
giao tiếp, giao lưu, giao thiệp, giao tế, giao dịch, giao ước.
3. Phân tích bản chất của giao tiếp.
4. Vẽ và giải thích sơ đồ cấu trúc và cơ chế vận hành của giao tiếp xét
về mặt nó là sự truyền thông - giao lưu giữa hai chủ thể S1 và S2 qua môi
trường E.
5. Có thể phân loại giao tiếp như thế nào?

Bài 2: QUAN HỆ XÃ HỘI, MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI VÀ HOẠT ĐỘNG
TÂM LÝ TRONG GIAO TIẾP
1. QUAN HỆ XÃ HỘI
Sự giao tiếp giữa hai người với nhau bao giờ cũng diễn ra trong một
quan hệ xã hội nhất định nào đó giữa hai người (Ví dụ quan hệ vợ chồng,
quan hệ bạn bè, quan hệ thầy trò, quan hệ chủ thợ, quan hệ người bán người mua, quan hệ thầy thuốc - bệnh nhân...) và do đó mỗi người có một tư


cách nhất định để giao tiếp với người kia trong mối quan hệ đó (ví dụ tư cách
người vợ, tư cách người bạn, tư cách người thầy, tư cách người chủ, tư cách
người bán, tư cách người thầy thuốc khi giao tiếp với người chồng, với người
bạn, với người học trò, với khách hàng, với bệnh nhân của mình).
Một nguyên tắc của giao tiếp là phải giao tiếp với ý thức rõ ràng về tư
cách giao tiếp của bên này và bên kia, về mối quan hệ giao tiếp giữa 2 bên,
để hành vi giao tiếp không phá vỡ tính chất và không vượt quá giới hạn của
mối quan hệ đó (Ví dụ: thầy trò giao tiếp với nhau thì thầy phải ra thầy, trò

phải ra trò). Tất nhiên, khi giao tiếp với tư cách khác, trong mối quan hệ khác,
thì sự giao tiếp cũng phải khác, để phù hợp với tư cách và quan hệ đã đổi
khác. Sự chuyển đổi quan hệ và tư cách giao tiếp giữa hai người có thể được
thực hiện cách nhau một thời gian dài (qua nhiều năm, tháng) hoặc ngắn
(trong ngày), thậm chí ngay trong một lần giao tiếp.
2. MÔI TRUỜNG XÃ HỘI
Sự giao tiếp giữa hai người với nhau bao giờ cũng diễn ra trong một
môi trường xã hội nhất định nào đó, nghĩa là tại một chỗ nào đó, trong một
khung cảnh nào đó, với sự có mặt của nhiều hoặc ít người khác (những
người thứ ba) hoặc ở một nơi hoàn toàn vắng vẻ (ví dụ ở nhà, trong gia đình,
trên đường phố, nơi công cộng, trong cơ quan, trong nghĩa trang, trong nhà
thờ, trong rừng...). Tuỳ theo chỗ giao tiếp là ở đâu, có những ai chung quanh
hay không mà cách giao tiếp không chỉ phải phù hợp vời tính chất của mối
quan hệ giữa hai người, mà còn phải phù hợp với môi trường, với khung cảnh
chung quanh. (Ví dụ: cách giao tiếp của đôi tình nhân đối với nhau ở nơi vắng
vẻ và ở nơi công cộng, ở nhà và ở cơ quan, … không thể như nhau được).
Xét về mặt tâm lý, lối sống và hành vi, mỗi cá nhân là sản phẩm của
nền văn hóa của dân tộc mà cá nhân đó là thành viên, cũng có nghĩa là sản
phẩm của môi trường văn hóa trong đó cá nhân đó đã sinh ra và lớn lên. Mà
môi trường văn hóa, cũng như môi trường kinh tế, môi trường chính trị, v.v...
là một mặt của môi trường xã hội, thuộc về môi trường xã hội. Vì thế, mỗi cá
nhân, khi giao tiếp với ai, giao tiếp ở đâu thì cần phải lưu ý tới vấn đề: cách


giao tiếp - ứng xứ của mình với người đó và ở nơi đó có phù hợp với môi
trường văn hóa xung quanh và với đặc điểm văn hóa của cá nhân người đó
hay không.
3. HOẠT ĐỘNG TÂM LÝ
3.1 - Cảm giác và tri giác trong giao tiếp.
Sự giao tiếp đầu tiên giữa hai người bao giờ cũng bắt đầu bằng những

cảm giác và tri giác đo có sự tác động qua lại giữa hai người vào các cơ quan
thị giác và thính giác là vào mắt, để được thấy, và tai để được nghe người mà
mình giao tiếp.
Những cảm giác và sự tri giác về nhau giữa hai người trong giao tiếp là
quan trọng, vì chính những cảm giác đó, sự tri giác đó đưa đến sự đánh giá
nhân cách của đối tượng giao tiếp. Nhưng đó chỉ là cảm giác, tri giác mà thôi
tức chỉ là sự nhận thức cảm tính về những hiện tượng bên ngoài của đối
tượng mà thôi.
Vì thế, người nhìn và nghe, người nhận thức và đánh giá đối tượng
giao tiếp của mình không nên quá coi trọng và dừng lại ở hình thức bên ngoài
của đối tượng mà cần phải tư duy và tưởng tượng để có thể biết được, hiểu
được cái nội tâm (bên trong), cái bản chất nhân cách của đối tượng, nghĩa là
không dừng lại ở nhận thức và đánh giá cảm tính mà phải tiến lên nhận thức
và đánh giá lý tính nếu mối quan hệ và công việc của mình với đối tượng đòi
hỏi phải như vậy. Ngược lại, khi ta là đối tượng giao tiếp của người khác, nhất
là khi sự nhận thức và đánh giá của người đó đối với ta là quan trọng, thì ta
phải coi trọng đúng mức cái hình thức bên ngoài của mình, để có được sự
cảm tình ngay từ lần gặp đầu tiên của người đó, để tỏ lòng kính trọng người
đó và để người đó thấy rằng mình là một người lịch sự.
3.2 - Chú ý và trí nhớ trong giao tiếp.
Nói chung, trong giao tiếp với nhau, con người bao giờ cũng muốn
người mà mình giao tiếp phải nhìn và nghe mình. Ai mà không chán và khó


chịu khi nhận ra rằng người mà mình đang nói chẳng chú ý nghe mình nói mà
cứ nhìn đi đâu ấy hoặc tỏ ra sốt ruột, cứ nhấp nhổm muốn bỏ đi chỗ khác.
Trí nhớ cũng rất cần trong giao tiếp. Đã hứa với ai điều gì thì phải nhớ
lời đã hứa và phải thực hiện cho kỳ được lời hứa. Việc không nhớ tên, hoặc
nhớ nhầm tên nên gọi nhầm tên là một điều làm buồn lòng người mà mình
giao tiếp.

3.3 - Tư duy và tưởng tượng trong giao tiếp.
Tư duy (suy nghĩ) là hiện tượng tâm lý thường diễn ra trong quá trình
giao tiếp khi một câu hỏi được người này đặt ra và yêu cầu người kia phải trả
lời. Nếu vấn đề đặt ra một cách đột ngột, bất ngờ, lại là vấn đề phức tạp, tế
nhị thì ta không thể trả lời ngay mà phải tư duy, phải suy nghĩ chín chắn để trả
lời, để giải quyết.
Khi ta sắp giao tiếp lần đầu tiên với một người mà ta chưa biết mặt, ta
thường tưởng tượng về bộ mặt, về cái vẻ bên ngoài của người ấy (hiền lành,
vui vẻ hay dữ tợn, lạnh lùng ...), về những gì sẽ diễn ra giữa hai người trong
lần giao tiếp sắp tới (dự đoán) để chuẩn bị cách đối phó, ứng xử sao cho
được việc. Ngay trong khi đang giao tiếp, ta cũng có thể tưởng tượng về
tương lai, hậu vận của người mà ta đang giao tiếp.
3.4 - Xúc cảm và tình cảm trong giao tiếp.
Trong khi giao tiếp với nhau, ngoại hình, lời nói, cử chỉ, hành động của
người này làm nảy sinh cảm xúc và tình cảm ở người kia và ngược lại.
Những xúc cảm và tình cảm đó được biểu lộ trên bộ mặt, trên lời nói, cử chỉ
và hành động trong giao tiếp, qua đó hai bên đều có thể biết được những xúc
cảm và tình cảm đó của nhau. Tuỳ theo những xúc cảm và tình cảm đó là như
thế nào mà sự giao tiếp có đạt được kết quả như mong muốn hay không, mối
quan hệ giữa hai người tốt lên, được củng cố, phát triển và tiếp tục hoặc xấu
đi, không muốn giao tiếp với nhau nữa và chấm dứt.
Sự biểu lộ xúc cảm và tình cảm có thể được thực hiện một cách chân
thực, tự nhiên, thoải mái. Nhưng cũng có thể có những trường hợp người ta


phải kiềm chế, giấu giếm cảm xúc và tình cảm của mình, hoặc biểu lộ một
cách giả tạo những xúc cảm và tình cảm không có thực, hoặc trái với những
xúc cảm và tình cảm có thực.
Mỗi người chúng ta cần phải có khả năng biết và hiểu được đúng cảm
xúc, tình cảm của người mà mình đang giao tiếp để có cách ứng xử đúng

đắn, cần thiết.
3.5 - Ý chí trong giao tiếp.
Có những khi ta gặp những khó khăn, thử thách rất lớn trong giao tiếp
(ví dụ: giao tiếp trong một môi trường không thuận lợi, với một đối tượng khó
tính, xấu tính về một vấn đề phức tạp, nên ta bị căng thẳng, mệt mỏi, bực bội,
...). Những khi đó, để đạt được mục đích của mình, ta phải chịu khó, phải cố
gắng để vượt qua, nghĩa là phải huy động sức mạnh ý chí, phát huy bản lĩnh
vững vàng của mình để kiềm chế sự bực bội, để chịu đựng, để thuyết phục
bên đối tác, để bảo đảm tính lịch sự, có văn hóa của mình trong giao tiếp.
3.6 - Xu hướng, năng lực, tính cách và khí chất của cá nhân trong giao
tiếp.
Qua giao tiếp, hai bên biết được xu hướng (nhu cầu, động cơ, hứng
thú, nguyện vọng, ...) của nhau (tức là biết nhau muốn gì), năng lực (trình độ
hiểu biết, khả năng xử lý, giải quyết vấn đề, thực hiện hành động, ...) của
nhau (tức là biết nhau có khả năng làm gì, làm được không), từ đó mà cộng
tác với nhau để thực hiện những việc đó.
Cũng qua giao tiếp, hai bên biết tính cách (thái độ và thói quen phản
ứng trong đối xử và ứng xử) của nhau, biết được mình có thể làm việc hay
sống chung với người có tính cách như thế hay không, và biết khí chất (tác
phong hoạt động mạnh hay yếu, nhanh hay chậm, đều hay không đều do kiểu
hoạt động của hệ thần kinhh tạo ra) của nhau, biết được mình có thể cộng tác
với người đó trong hoạt động nào đó của mình hay không.
3.7 - Ngôn ngữ, cử chỉ, cử động và hành động trong giao tiếp.


Nếu cảm giác và tri giác, tư duy và tưởng tượng, xúc cảm và tình cảm,
xu hướng, năng lực, tình cảm và khí chất là những quá trình và những thuộc
tính tâm lý nẩy sinh, diễn biến và tồn lưu trong não của mỗi người, không nhìn
thấy được thì ngôn ngữ, cử chỉ, cử động và hành động là những hành vi biểu
lộ phần nào đó những quá trình, những trạng thái và những thuộc tính tâm lý

nói trên, người khác có thể nhìn thấy, nghe thấy và do đó có thể biết phần nào
về những quá trình, trạng thái và thuộc tính tâm lý của người mà mình đang
giao tiếp. Tất nhiên, do hành vi của con người có thể là thật hay giả tuỳ theo
từng tình huống cụ thể, cho nên trong giao tiếp, bên này có thể biết và hiểu
đúng hoặc có thể hiểu sai, hiểu lầm tâm lý lúc đó của bên kia, bị bên kia đánh
lừa.
Ngôn ngữ (nói cho người khác nghe hoặc viết cho người khác đọc) là
những phương tiện giao tiếp quan trọng và phổ biến nhất, tất nhiên phải là
thứ ngôn ngữ mà cả hai bên đều sử dụng được. Không biết và do đó không
hiểu được tiếng nói và chữ viết của nhau thì không thể giao tiếp bằng ngôn
ngữ được.
Cử chỉ là những cử động có ý nghĩa thông tin một cách có ý thức kèm
theo lời nói để phụ hoạ cho lời nói hoặc thay thế cho lời nói. Nó là một thứ
ngôn ngữ không lời. Nếu ngôn ngữ là tiếng nói hay chữ viết của một dân tộc
nào đó thì cử chỉ và điệu bộ là thứ ngôn ngữ không lời, hầu hết là giống nhau
giữa các dân tộc. Tất nhiên, cũng có một số cử chỉ chỉ có ở dân tộc này mà
không có ở dân tộc khác, hoặc cùng có cả nhưng cách thể hiện có khác nhau
đôi chút.
Cử động là một phản xạ của cơ thể, không nhằm mục đích thông tin
một cách có ý thức cho người khác biết mình muốn nói điều gì với người đó,
nhưng người khác có thể qua sự nhìn thấy những cử động đó mà biết được
trạng thái tâm lý của người đang có cử động đó.
Hành vi biểu lộ đầy đủ nhất tâm lý của con người là hành động hay nói
cách khác là việc làm của chính người đó. Con người có thể nghĩ như thế nào
đó nhưng không nói ra, hoặc nói không đúng với điều mình đã nghĩ. Cũng


như thế, con người nói nhưng có thể không làm điều mình đã nói, hoặc làm
không đúng như đã nói. Dù sao thì đối với xã hội, hành động bao giờ cũng
quan trọng hơn là lời nói, và nhận xét đánh giá một con người phải căn cứ

chủ yếu vào hành động chứ không phải chỉ căn cứ vào lời nói.

CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1) Quan hệ xã hội giữa người và người nghĩa là gì và quan hệ xã hội là
yếu tố có tầm quan trọng như thế nào đối với sự giao tiếp? Cho ví dụ.
2) Môi trường xã hội của giao tiếp nghĩa là gì và có tầm quan trọng như
thế nào đối với sự giao tiếp? Cho ví dụ.
3) Hãy phân tích tầm quan trọng của cảm giác và tri giác trong giao
tiếp. Cho ví dụ.
4) Hãy phân tích tầm quan trọng của tư duy và tưởng tượng trong giao
tiếp? Cho ví dụ.
5) Hãy phân tích tầm quan trọng của xúc cảm và tình cảm trong giao
tiếp? Cho ví dụ.
6) Hãy phân tích tầm quan trọng của ý chí trong giao tiếp? Cho ví dụ.
7) Hãy phân tích tầm quan trọng của ngôn ngữ và cử chỉ trong giao
tiếp? Cho ví dụ.
8) Cử chỉ và cử động khác nhau ở chỗ nào? Trong giao tiếp giữa hai
người với nhau, cử động của người này có ý nghĩa gì không đối với người
kia. Cho ví dụ.
9) Hãy phân tích tầm quan trọng của hành động trong giao tiếp? Cho ví
dụ.
10) Nếu ngôn ngữ và hành động của con người không phải lúc nào và
ở đâu cũng thật, mà có thể giả vờ, thì trong giao tiếp ta nên thế nào?


Bài 3: VĂN HOÁ GIAO TIẾP CỦA XÃ HỘI VÀ SỰ GIAO TIẾP CÓ VĂN
HÓA CỦA MỖI CÁ NHÂN
I. VĂN HÓA GIAO TIẾP CỦA XÃ HỘI.
Văn hóa giao tiếp của một xã hội, một dân tộc là toàn bộ những nguyên
tắc, những chuẩn mực và những qui đình chỉ đạo hoạt động giao tiếp giữa

người và người trong xã hội đó, thuộc dân tộc đó, để sự giao tiếp đó được
đánh giá là có giá trị đạo đức, có giá trị thẩm mỹ, hợp lý, phù hợp với quan
niệm xã hội đó và dân tộc đó về văn hóa và văn minh, về truyền thống và bản
sắc của dân tộc mình và phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội, kinh tế, văn
hóa của dân tộc đó.
Sự giao tiếp quốc tế, với tính chất là sự giao tiếp giữa hai người thuộc
hai dân tộc và hai đất nước khác nhau (thậm chí có vị trí địa lí khác xa nhau,
với truyền thống văn hóa và phong tục, tập quán khác nhau) tất nhiên không
thể thực hiện bằng cách tuân theo những nguyên tắc, chuẩn mực và qui định
của chỉ một bên nào, mà phải có những nguyên tắc, chuẩn mực và những qui
định chung, mang tính quốc tế, cho sự giao tiếp quốc tế giữa hai bên.
II. TRÌNH ĐỘ GIAO TIẾP VĂN HÓA CỦA MỖI CON NGƯỜI.
Mặc dù mỗi xã hội mỗi đất nước, mỗi dân tộc đều có văn hóa giao tiếp
mang tính truyền thống của mình, nhưng sự giao tiếp của mỗi con người
trong xã hội đó có là sự giao tiếp có văn hóa hay không, và sự giao tiếp có
văn hóa đó có mang sắc thái truyền thống của dân tộc hay không (hay là
mang sắc thái ngoại lai mất gốc) lại là chuyện khác. Điều đó tùy vào chỗ của
mỗi người có được gia đình và nhà trường giáo đục về văn hóa giao tiếp hay
không và tùy thuộc vào chỗ người đó có được sống và hoạt động trong môi
trường, một hoàn cảnh có văn hoá hay không. Như thế có nghĩa là: văn hóa
giao tiếp là một mặt, một bộ phận của văn hóa nói chung. Và trong quan niệm
về một con người có văn hóa phải bao gồm cả văn hóa giao tiếp. Văn hóa
giao tiếp là văn hóa về đạo đức và thẩm mỹ trong giao tiếp mà ta thường gọi
là phép lịch sự.
III. NHỮNG NGUYÊN TẮC CHUNG CỦA SỰ GIAO TIẾP CÓ VĂN HÓA


1. TÍNH KHOA HỌC:
Tính khoa học của sự giao tiếp (nhất là trong giao tiếp khoa học, trong
giao tiếp kinh doanh, trong giao tiếp hành chính, trong giao tiếp ngoại giao và

trong giao tiếp nghi lễ, v.v...) thể hiện ở chỗ: nội dung, hình thức, phương
pháp giao tiếp phải phù hợp với mục đích và tính chất giao tiếp.
2. TÍNH ĐẠO ĐỨC
Tính đạo đức của sự giao tiếp thể hiện ở thái độ quí trọng, cởi mở,
thông cảm, chia sẻ, ủng hộ, giúp đỡ đối với người mà mình giao tiếp, đồng
thời cũng thể hiện ở thái độ tự trọng, biết tự kiềm chế, nhường nhịn, khiêm
tốn, chân thành và lắng nghe của người giao tiếp.
3. TÍNH THẨM MỸ:
Tính thẩm mỹ của sự giao tiếp thể hiện ở chỗ, một là, tính khoa học và
tính đạo đức của giao tiếp được thẩm mỹ hóa, tức là thể hiện một cách cao
nhất và khéo léo nhất để thành ra cái đẹp, cái "có duyên", cái hoàn chỉnh ở
ngoại hình của người giao tiếp, ở bộ mặt, lời nói, cử chỉ, hành động của
người giao tiếp, ở cái đẹp của khung cảnh trong đó diễn ra sự giao tiếp.
4. TÍNH DÂN TỘC VÀ TÍNH QUỐC TẾ:
a - Tính dân tộc của sự giao tiếp thể hiện ở tâm lý dân tộc (tư tưởng và
tình cảm của con người Việt Nam, tính cách, bản lĩnh của người Việt Nam
trong cả nước và của từng vùng) của chủ thể giao tiếp, ở hình thức và
phương pháp giao tiếp của chủ thể mang tính dân tộc (theo phong tục, tập
quán của người Việt Nam trong cả nước nói chung và từng vùng nói riêng).
Người ngoại quốc vào nước ta, giao tiếp với người Việt Nam chúng ta,
thấy rất rõ tính dân tộc trong sự giao tiếp của người Việt Nam chúng ta với
nhau, cũng như là với họ. Còn người Việt Nam chúng ta cũng nhận thấy rất rõ
tính dân tộc trong cách giao tiếp của người ngoại quốc tùy theo họ là người
nước nào.


Tính dân tộc trong sự giao tiếp thể hiện sự bình đẳng giữa dân tộc này
với dân tộc khác và nước khác, thể hiện sự tự hào của một dân tộc, một
nước về truyền thống văn hoá của mình (trong đó có văn hoá giao tiếp) và là
bằng chứng của người giao tiếp đã không đánh mất bản sắc dân tộc trong

con người mình (mình vẫn là người Việt Nam, không phải là con người chung
chung hoặc lai căng, mất gốc).
b - Trong giao tiếp, tính dân tộc không đối lập với tính quốc tế, trái lại,
bên cạnh tính dân tộc, cần có tính quốc tế khi tính quốc tế đó không làm tổn
thương hoặc triệt tiêu mà bổ sung cho tính dân tộc.
5 -TÍNH TRUYỀN THỐNG VÀ TÍNH HIỆN ĐẠI:
Tính truyền thống không đối lập với tính hiện đại trong giao tiếp, trái lại,
có những truyền thống được hiện đại hóa bằng cách cải tiến, đổi mới, và có
những cái mới, cái hiện đại không có nguồn gốc trong truyền thống nhưng bổ
sung cho cái truyền thống.
Điều quan trọng nhất của sự giao tiếp có văn hoá là giao tiếp với tấm
lòng nhân hậu và trung thực: Nếu thiếu cái tâm đó thì sự giao tiếp dù có lịch
sự đến đâu cũng chỉ là cái bề ngoài khách sáo, xã giao mà thôi. Tất nhiên,
lịch sự trong giao tiếp, tự bản thân nó, đã là một giá trị.
Đó là chưa nói đến một điều quan trọng khác nữa là lòng tự trọng, là sự
không đánh mất nhân phẩm, danh dự và bản lĩnh của bản thân mình trước
bất cứ ai và trong bất cứ tình huống nào, mặc dù điều đó không đối lập với sự
khiêm tốn, ôn hòa, điều đạm, và hòa nhập với mọi người trong giao tiếp.

CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1) Văn hoá giao tiếp của một xã hội và trình độ văn hóa giao tiếp của
mỗi cá nhân trong xã hội đó có quan hệ với nhau như thế nào?
2) Phân tích nội dung của những nguyên tắc chung của sự giao tiếp có
văn hóa.


Bài 4: PHÉP LỊCH SỰ TRONG GIAO TIẾP VỚI TỪNG LOẠI NGƯƠI
TRONG XÃ HỘI
Đối với bất cứ ai, phép lịch sự trong giao tiếp với người đó đòi hỏi
chúng ta phải thể hiện được thái độ quý trong người khác, thương yêu người

khác, thong cảm và chia sẻ với niềm vui, nỗi buồn của người khác và sẵn
sàng giúp đỡ người khác, kể cả với người mà ta không quen biết. Tất cả
những thái độ đó đều là nội dung của chủ nghĩa nhân đạo, của mình người.
Tuy nhiên trong thực tế, mỗi lần chúng ta giao tiếp với ai là ta giao tiếp
với một con người cụ thể, với tư cách là một nhân cách cụ thể, trong đó tính
cách chung của con người nhân loại thống nhất với một cách hữu cơ với tính
đặc thù của một nhóm xã hội và tính cách độc đáo của một cá nhân.
Ở đây chúng ta chỉ xét đến tính đặc thù về mặt tâm lý của từng nhóm
xã hội thường có trong mỗi cá nhân là người thuộc nhóm đó để từ đó chúng
ta xác định được phép lịch sự khi giao tiếp với một con người thuộc nhóm đó
phải như thế nào.
Tất nhiên, một điều không đơn giản là ở chỗ: mỗi người đều vừa thuộc
về nhóm xã hội này và vừa thuộc vào nhóm xã hội kia.
1 - GIAO TIẾP VỚI NGƯỜI LẠ:
Người lạ là người ta chưa quen biết, và do đó, ta không biết họ và tên
của họ, không biết họ ở tại địa chỉ nào và làm việc ở đâu, ngành nào, không
biết tình trạng gia đình của họ (đã có chồng có vợ, có con chưa, cha mẹ còn
không, anh chị em có mấy người, ở đâu, làm gì), không biết xu hướng, năng
lực, tính cách, khí chất của họ, không biết họ đến giao tiếp với ta để nhằm
mục đích gì và với động cơ nào v.v... Những điều về họ mà ta không được
biết thì, ngược lại, những điều về ta họ cũng không được biết. Cả họ và ta,
khi giao tiếp với nhau, chỉ mới thấy ngoại hình của nhau, rồi hiểu nhau và


nghĩ về nhau được phần nào qua lời nói, qua cử chỉ và qua việc làm trong lúc
giao tiếp mà thôi.
Cả ta và họ đều có cái tâm lý nghe ngóng, thăm dò, rào đón, đề phòng
đối với nhau, để khỏi bị hiểu lầm về mục đích và động cơ giao tiếp, thậm chí
có khi để che đậy không cho người đối diện biết mục đích thực, động cơ thực,
con người thực của mình là như thế nào, do chưa tin nhau, chưa phải là bạn

của nhau.
Vì thế, cách giao tiếp với người lạ không thể thực hiện một cách dễ
dàng, thoải mái, cởi mở như với nó người quen, người bạn hay người thân
trong gia đình được
Phép lịch sự khi giao tiếp với người lạ đòi hỏi ta phải lễ phép trong cách
chào hỏi và trả lời. Phải thưa, phải xin phép, phải xin lỗi, phải cám ơn, phải trả
lời rằng "không có chi" với lời cám ơn của người ta. Phép lịch sự này cũng đòi
hỏi ta chớ tọc mạch, tò mò để hỏi han quá nhiều về người lạ đó khi không
thực là cần thiết. Và phép lịch sự này cũng khuyên ta chớ có ba hoa, “ruột bỏ
ngoài da” để đem hết chuyện nội bộ của nhà mình hay chuyện riêng tư thầm
kín của bản than mình ra “khoe” hay “tâm sự”, “than thở” với người lạ.
Tất nhiên ta phải sẵn sàng trả lời những câu hỏi của họ nếu ta thấy
không cần phải dấu, hoặc nếu đó là câu hỏi mà ta thấy khó trả lời, trả lời
không tiện thì ta xin lỗi họ mà nói rằng ta không biết trả lời như thế nào được.
2 – SỰ GIAO TIẾP GIỮA NAM GIỚI VÀ NỮ GIỚI:
Sự giao tiếp giữa nam giới và nữ giới với nhau có khác với sự giao tiếp
giữa nam giới với nhau hoặc giữa nữ giới với nhau. Đó là do sự khác nhau về
giới tính trên cả 3 mặc sinh lý, tâm lý và xã hội.
Sự khác nhau về sinh lý giới tính bao hàm trong nó khả năng nẩy sinh
mối quan hệ tình dục và tình yêu.
Sự khác nhau về tâm lý giới tính sẽ biểu lộ ra ở sự khác nhau về cách
đối xử cũng như về sự đòi hỏi cách đối xử giữa người này và người kia trong
quan hệ tình bạn, tình yêu và hôn nhân, kể cả quan hệ tình dục.


Cuối cùng, sự khác nhau về mặt xã hội cũng có thể ảnh hưởng tích cực
hay tiêu cực đến thái độ đối xử với nhau giữa nam và nữ, và thái độ có thể lại
khác nhau tùy theo chỗ họ giao tiếp với nhau ở ngoài đường hay ở trong nhà,
trước mặt mọi người hay chỉ khi có 2 người với nhau. Điều đó diễn ra khác
nhau trong những xã hội khác nhau về truyền thống văn hóa, đạo đức, tôn

giáo, phong tục, tập quán, về sự bình đẳng hay là bất bình đẳng giữa nam và
nữ, về vai trò của nam và nữ trong đời sống kinh tế, xã hội, v.v...
Dù có khác nhau, nhưng bất cứ thời nào và ở bất cứ nước nào, trong
mối quan hệ và giao tiếp giữa nam và nữ, khi họ chưa quen biết nhau, bao
giờ cũng có khoảng cách, một hàng rào nhất định và mỗi bên không dám
vượt qua để phân biệt mối quan hệ công việc, bạn bè với mối quan hệ của
tình yêu và tình vợ chồng.
Trong mối quan hệ và trong sự giao tiếp giữa nam và nữ, phép lịch sự
đòi hỏi ở người nam nhiều hơn ở người nữ: nam phải tôn trọng, phải tế nhị,
phải nhẹ nhàng với nữ, phải giúp đỡ và phải bảo vệ nữ, phải nhận lấy phần
nặng nề, vất vả, nguy hiểm và nhường cho nữ phần ít nặng nề, ít vất vả, và ít
nguy hiểm hơn.
Ngược lại, nam giới bao giờ cũng đòi hỏi nữ giới quan hệ và giao tiếp
với mình trong sự hiền lành và dịu dàng bẩm sinh của nữ giới.
3 - GIAO TIẾP GIỮA NGUỜI TRẺ VÀ NGƯỜI GIÀ, GIỮA NGƯỜI LỚN VÀ
TRẺ EM:
Tâm lý của người đã già khác nhiều so với tâm lý của người còn trẻ.
Phép lịch sự trong sự giao tiếp của người trẻ với người già đòi hỏi người trẻ
phải biết tâm lý của người già để có sự đối xử đem lại cho người già sự an ủi,
sự cảm động và niềm vui.
Người trẻ tuổi khi giao tiếp với người già phải tỏ ra lễ phép, khiêm tốn,
kính trọng, biết ơn người già, chân thành học hỏi kinh nghiệm của người già.
Đối lại, người già cũng nên tỏ ra thông cảm và tôn trọng thế hệ trẻ, không


khắt khe mà sẵn sàng tha thứ cho mọi sự vô tình và vụng về trong đối xử của
tuổi trẻ, hơn nữa, tin tưởng ở tuổi trẻ.
Trẻ em thời nào và ở đâu cũng là trẻ em. Các em ngây thơ, trong trắng,
vô tội hồn nhiên và rất cần tình thương và sự chăm sóc, giáo dục của người
lớn.

Vì thế, khi giao tiếp với các em, người lần phải nắm bắt được tâm lý
của các em mà có thái độ tôn trọng và tin tưởng ở các em, nói năng, đối xử
nhẹ nhàng, lịch sự với các em, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục các em.
4 – SƯ GIAO TIẾP GIỮA NGUỜI KHỎE MẠNH LÀNH LẶN VỚI NGƯỜI
BỆNH VÀ NGUỜI TÀN TẬT:
Khi giao tiếp với một người bệnh, nhất là bệnh nặng và bệnh hiểm
nghèo, người khỏe mạnh phải cố gắng để biết và thông cảm vôi nỗi đau đớn
và buồn lo của người bệnh, tránh nói những điều làm cho người bệnh thêm lo
lắng, bi quan hoặc làm tủi thân người bệnh và nên nói những lời động viên;
an ủi và tạo niềm tin, niềm hy vọng sẽ khỏi bệnh cho người bệnh.
Đối với người tàn tật, chúng ta phải thông cảm với mặc cảm bị tàn phế
của họ để mà an ủi, động viên và giúp đỡ. Đừng tỏ ra quá chú ý đến sự tàn
tật của họ, làm cho họ càng thêm mặc cảm.
5 – SỰ GIAO TIẾP VỚI NGƯỜI DÂN TỘC KHÁC VÀ VỚI NGƯỜI NƯỚC
NGOÀI
Người dân tộc khác và người nước ngoài khác ta về ngôn ngữ, về tâm
lý và về truyền thống văn hóa của dân tộc, về cách ăn mặc và có thể khác cả
về màu da, màu mắt, màu tóc và chiều cao v.v... Vì thế, họ có thể ngỡ ngàng,
lúng túng, vụng về khi tiếp xúc và đối tác với ta, nhất là khi cùng sinh hoạt với
ta theo cách của ta. Họ sẽ ngượng nghịu, thậm chí khó chịu khi thấy ta nhìn
họ một cách tò mò, giơ tay chỉ chỏ vào mặt họ rồi cười với nhau về họ. Họ rất
cám ơn và đánh giá cao ta nếu ta tỏ ra kính trọng, yêu mến, cởi mở và giúp
đỡ họ.


Điều quan trọng nhất là ta chớ có làm điều gì đối với họ hoặc trước mắt
họ để họ hiểu lầm hoặc khinh bỉ đối với dân tộc ta và đất nước ta, làm nhục
quốc thể, làm tổn thương nghiêm trọng danh dự của dân tộc Việt Nam.
6 – SỰ GIAO TIẾP GIỮA CẤP TRÊN VÀ CẤP DƯỚI:
Cấp trên lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy và ra quyết định cho cấp dưới thi

hành và thực hiện. Cấp dưới phục tùng và thi hành, thực hiện nghiêm chỉnh
lệnh của cấp trên. Ngoài điều đó ra, cấp trên không có quyền vì thế mà hống
hách đối với cấp dưới xúc phạm đến nhân phẩm của người được quyền
mình. Cấp dưới phải kính trọng và phải có tinh thần trách nhiệm đối với cấp
trên, nhưng không vì thế mà khúm núm, nịnh bợ cấp trên.
7 – SỰ GIAO TIẾP GIỮA NGƯỜI KHÔNG THEO TÔN GIÁO NÀO VỚI
NGƯỜI CÓ THEO MỘT TÔN GIÁO VÀ GIỮA NGƯỜI THEO TÔN GIÁO
NÀY VỚI NGƯỜI THEO TÔN GIÁO KHÁC:
Theo Hiến pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, mọi công dân
đều có quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng. Vì thế, ở nước ta
có nhiều người theo một tôn giáo nào đó (đạo Phật, đạo Công Giáo, đạo Tin
Lành, đạo Hồi, đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo v.v...)
Truyền thống đại đoàn kết của dân tộc ta và phép lịch sự trong giao tiếp
đòi hỏi mọi người phải có thái độ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và tự do
không tín ngưỡng, tôn trọng mọi giáo sĩ mà mọi tín đồ bất kể họ theo tôn giáo
nào.
Sự hiểu biết về mỗi tôn giáo giúp mỗi người chúng ta biết những gì là
cấm kỵ đối với từng tôn giáo và do đó biết tránh né không nói và không làm
những điều cấm kỵ với tín đồ của tôn giáo có những điều cấm kỵ đó khi giao
tiếp với họ hoặc khi vào thăm viếng nhà thờ, chùa chiền, đền miếu của họ.
8 – SỰ GIAO TIẾP GIỮA NGƯỜI DÂN VÀ NGƯỜI CÔNG CHỨC NƠI
NHIỆM SỞ
Người công chức (tức là cán bộ và nhân viên làm việc trong bộ máy
Nhà nước) khi tiếp dân nơi nhiệm sở của mình phải luôn luôn có thái độ kính


trọng người dân và tinh thần tận tuỵ phục vụ nhân dân, tuyệt đối không được
có thái độ cửa quyền và gây phiền hà cho người dân.
Người dân khi đến một cơ quan Nhà nước, dù cơ quan đó là cấp nhỏ
nhất trong bộ máy Nhà nước, phải có thái độ tôn trọng những quy định,

những yêu cầu của cơ quan đó đối với người dân để bảo đảm trật tư và an
ninh chốn công quyền.
Trong khi giao tiếp với nhau, nếu có điều gì trái ý nhau thì cả hai bên
đều phải bình tĩnh và ôn hoà trình bày ý kiến phản hồi của mình, tránh gây
căng thẳng, ảnh hưởng không tốt đến việc giải quyết vấn đề và đến không khí
làm việc chung của công sở.
9 – SỰ GIAO TIẾP GIỮA NGƯỜI BÁN VÀ NGƯỜI MUA
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động mua bán theo giá thị trường là
hiện trong phổ biến. Tuy nhiên mua bán không đơn giản chỉ là chuyện trả tiền
và nhận tiền, giao hang và nhận hang mà còn là chuyện giao tiếp có văn hóa
hay kém văn hóa giữa người mua và người bán.
Do quy luật cạnh tranh của kinh tế thị trường, người bán phải thi nhau
chiều khách (khách hàng là thượng đế) để “vui lòng khách đến, vừa lòng
khách đi”, để được khách tín nhiệm, lần sau lại đến mua nữa. Ngay cả khi
khách hàng không mua mà chỉ xem thôi, người bán cũng vẫn niềm nở, ân
cần.
Người mua, dù biết rằng người bán cần mình, cũng không vì thế mà
thiêu lịch sự với người bán.
10 – SỰ GIAO TIẾP GIỮA NGƯỜI NỔI TIẾNG VÀ NGƯỜI HÂM MỘ Ở
NHỮNG NƠI CÔNG CỘNG:
Trong lĩnh vực ca nhạc, thể thao, điện ảnh, v.v... có những người nổi
tiếng tài năng (những ngôi sao) và có hàng trăm, hàng ngàn người hâm mộ
cuồng nhiệt. Có những cuộc giao lưu giữa đông đảo những người hâm mộ
với “ngôi sao” của mình để được ngắm nhìn, được hỏi han, được nghe trả lời,
được cho chữ ký, được tặng hoa và được reo hò, vỗ tay hoan nghênh...


Trong những tình huống như vậy, thái độ giao tiếp của "ngôi sao" với công
chúng của mình là một vấn đề rất quan trọng: sự vui vẻ, sự khiêm tốn, sự
kính trọng của nhân vật "ngôi sao" đối với công chúng là thước đo trình độ

văn hoá, phẩm chất, nhân cách của người được hâm mộ. Mọi lời nói, cử chỉ,
hành động sai sót, đáng chê trách của “ngôi sao” sẽ lập tức gây ra sự thất
vọng rất lớn đối với cộng chúng và sẽ gây tổn thất cho uy tín của chính mình.
11 – SỰ GIAO TIẾP GIỮA NGỜI GIÀU VÀ NGƯỜI NGHÈO:
Trong nền kinh tế thị trường, nhiều thành phần và mở cửa, chắc chắn
phải có sự phân hoá giàu nghèo: một số người này làm ăn giỏi và may mắn
nên giàu lên; một số người khác làm ăn kém và rủi ro, nên phá sản, nghèo đi.
Đó là chưa kể những kẻ giàu lên một cách phi pháp và vô đạo đức (buôn lậu,
lừa đảo, tham nhũng...).
Vấn đề đặt ra là: Trong giao tiếp với nhau, người giàu không nên có thái
độ khinh bỉ người nghèo, lấy đồng tiền để o ép, điều khiển, sai khiến người
nghèo, bắt người nghèo phải chịu thua thiệt, lép vế để bóc lột; còn người
nghèo thì không nên vì nghèo mà chịu sự sỉ nhục và o ép của người giàu. Nói
cách khác dù một bên giàu sang, một bên nghèo khổ, nhưng đều là công dân
bình đẳng trước Pháp luật, đều có nhân cách, nhân phẩm của mình mà
không một ai có quyền xúc phạm.

CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Giao tiếp với người lạ nên như thế nào? Tại sao?
2. Nam giao tiếp với nữ thì nên như thế nào, còn nữ giao tiếp với nam
thì nên như thế nào? Tại sao?
3. Người trẻ giao tiếp với người già thì nên như thế nào, còn người già
giao tiếp với người trẻ thì nên như thế nào? Tại sao? Người lớn nên giao tiếp
với trẻ em như thế nào? Tại sao?


4. Người khỏe mạnh nên giao tiếp với người bệnh như thế nào? Người
lành lặn nên giao tiếp với người tàn tật như thế nào? Tại sao?
5. Nên giao tiếp với người dân tộc khác và với người nước ngoài như
thế nào? Tại sao?

6. Người không theo tôn giáo nào nên giao tiếp với người có tôn giáo
như thế nào? Người theo tôn giáo này giao tiếp với người theo tôn giáo khác
như thế nào? Tại sao?
7. Công chức giao tiếp với người dân tại công sở phải như thế nào, tại
sao? Người dân khi đến công sở nên giao tiếp với cán bộ hay nhân viên Nhà
nước ở đó như thế nào, tại sao?
8. Cấp trên và cấp dưới nên giao tiếp với nhau như thế nào? Tại sao?
9. Người bán và người mua nên giao tiếp với nhau như thế nào? Tại
sao?
10. Người nổi tiếng giao tiếp với đông đảo những người hâm mộ mình
nên như thế nào? Tại sao?
11. Người giàu nên có thái độ giao tiếp như thế nào đối với người
nghèo và người nghèo nên có thái độ giao tiếp như thế nào đối với người
giàu?

Bài 5: PHÉP LỊCH SỰ TRONG GIAO TIẾP Ở NHÀ, Ở CƠ QUAN VÀ Ở
NƠI CÔNG CỘNG
1. PHÉP LỊCH SỰ TRONG GIAO TIẾP Ở NHÀ
1.1 - Đặc điểm của việc giao tiếp ở nhà
Giao tiếp ở nhà là giao tiếp giữa những người trong gia đình với nhau
(giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa ông bà và cháu chắt, giữa
các anh chị em, giữa chú, bác, cô, dì với cháu...), tức là giữa những người có
quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống với nhau. Đây là sự giao tiếp trong
nội bộ một nhóm nhỏ của những người cần được chung sống với nhau lâu


dài dưới một mái nhà, với trách nhiệm đạo đức và pháp lý đối với nhau và
nhất là với tình cảm thương yêu nhau.
Nhà ở (môi trường gia đình) là nơi con người có thể sống hoàn toàn
thoải mái và so với môi trường cơ quan hay nơi công cộng, cuộc sống trong

môi trường gia đình hoàn toàn tuỳ thuộc vào ý muốn của cả gia đình nói
chung và của từng con người nói riêng.
Mỗi gia đình có những đặc điểm và điều kiện riêng của nó về kinh tế
(giàu hay nghèo), về văn hóa (được học cao/ hay thấp) về nghề nghiệp, về lối
sống..., do đó, sự giao tiếp giữa những người trong gia đình với nhau hoặc
với khách đến nhà cũng ít nhiều có khác nhau, nhất là về các phương tiện vật
chất cho sự tiếp khách, về thời gian tiếp khách, về thái độ giao tiếp đối với
nhau....
1.2 - Phép lịch sự trong giao tiếp của nhưng người trong gia đình với
khách đến nhà
a. Khách đến nhà, bất kể là khách của ai, người trong nhà đều phải tỏ
ra niềm nở, vui vẻ, mời khách vào nhà ngồi rồi báo cho người nhà có khách
đó ra tiếp. Nếu đó là người mà cả gia đình đều quen biết thì người tiếp khách
phải là người phù hợp nhất với khách. Ví dụ khách của người ông trong nhà
thì người tiếp là người ông, nếu người ông đi vắng thì người tiếp là người bà
(vợ của ông), nếu hai ông bà đi vắng cả thì mới là người con tiếp. Để tỏ lòng
quý mến khách hơn nữa thì người ông ra tiếp còn mời luôn cả bà ra tiếp nữa.
b. Theo phong tục nước ta, khách đến nhà thì người nhà phải mời
khách uống nước, mà trang trọng nhất là pha trà để khách uống tách nước trà
nóng.
c. Khách đến thăm tất nhiên phải hỏi han về sức khoẻ, sự làm ăn, sự
học hành của những người trong nhà như là bày tỏ sự quan tâm và sự mong
muốn gia đình được hạnh phúc. Sau đó, nếu cần thì mới bàn bạc công việc
có liên quan đến mình và cần sự giúp đỡ của người trong nhà. Trước khi đến


thăm, khách nên điện thoại hoặc nhắn tin trước và tốt nhất là chỉ nên đến
thăm vào lúc thuận tiện đối với gia đình, được gia đình hẹn trước.
d. Khách nên có ý thức giới hạn thời gian ngồi thăm gia đình để khỏi
làm mất nhiều thời gian cho gia đình, nghĩa là phải xin ra về đúng lúc. Còn về

phía gia đình thì lại nên có ý mời khách ở lại thêm chút nữa, và nếu sắp đến
giờ ăn thì mời khách ăn luôn cho vui. Thường là khách từ chối và cám ơn vì
không muốn làm phiền. Nhưng cũng có khi sự ở lại ăn cơm với gia đình là
cần thiết về mặt tình cảm.
e. Sự giao tiếp với khách ở nhà, nếu là khách được mời, tất nhiên là có
sự chuẩn bị trong một mức độ nào đó, còn nếu là khách tự động đến, gia đình
không biết trước, thì cứ tiếp khách tự nhiên trong điều kiện bình thường, chỉ
cần nói với khách rằng không được biết trước nên chẳng chuẩn bị gì cả và tất
nhiên là khách vẫn vui vẻ.
g. Trong khi đang tiếp khách, gia đình đừng để xảy ra những điều
không vui cho khách, nghĩa là đừng có chuyện xích mích, la mắng, đánh đập
con cái trước mặt khách. Nhỡ có xảy ra thì phải xin lỗi khách vì đã làm khách
mất vui.
h. Khi khách ra về, người tiếp khách phải tiễn khách và chờ khách đi rồi
mới quay vào nhà.
Sự giao tiếp với nhau trong nội bộ những người trong gia đình tất nhiên
là thoải mái và tự nhiên nhìn, không như giao tiếp ở cơ quan hay với người lạ
ở nơi công cộng. Đó cũng là sự giao tiếp, sự ứng xử trên cơ sở niềm tin vào
tình thương yêu nhau và sự sẵn sàng tha thứ, bỏ qua mọi lỗi lầm cho nhau
khi người có lỗi đã hết được mình có lỗi.
k. Sự quan tâm hỏi han và chăm sóc cho nhau giữa những người trong
gia đình là quý nhưng cũng không vì thế mà làm ảnh hưởng tới sự nghỉ ngơi,
sự yên tĩnh, hay sự làm việc riêng của mỗi người.
2. PHÉP LỊCH SỰ TRONG GIAO TIẾP Ở CƠ QUAN.
2.1 - Đặc điểm của việc giao tiếp ở cơ quan


Khác với ở nhà (ở gia đình) những người trong một cơ quan là một
thành viên của tập thể lao động, đến cơ quan chỉ để làm việc do cơ quan giao
cho, đến đúng giờ và ra về đúng giờ, và chỉ có quan hệ với nhau về công việc

là chính, tức là quan hệ công tác, quan hệ chỉ huy và chấp hành, quan hệ
công tác và phối hợp, quan hệ liên đới trách nhiệm trước cơ quan, trước xã
hội.
Sự giao tiếp ở cơ quan không chỉ là sự giao tiếp giữa những người là
thành viên của cơ quan (sự giao tiếp nội bộ) mà còn có sự giao tiếp với khách
đến cơ quan và với các cơ quan khác để làm việc với tư cách là đại diện cho
cơ quan. Sự giao tiếp của người trong cơ quan với người ngoài cơ quan
không đòi hỏi phải có sự quen biết, phải có nhu cầu của cá nhân, phải có tình
cảm đối với nhau, mà đòi hỏi phải có lý do vì công việc, vì trách nhiệm và
thuộc thẩm quyền. Vì thế, người trong cơ quan phải có đeo trước ngực áo
hay đính bảng ghi họ tên và chức vụ của mình, hoặc đặt bảng đó trên mặt
bàn làm việc của mình. Và nhiều trường hợp sự giao tiếp để giải quyết công
việc đòi hỏi phải có giấy giới thiệu, giấy chứng minh, sổ hộ khẩu...
2.2 - Phép lịch sự trong giao tiếp giữa các thành viên trong cơ quan với
nhau.
a. Mỗi ngày, khi mới đến cơ quan và khi sắp ra về, mọi người đều chào
nhau, thậm chí còn hỏi han nhau một vài câu nếu cần.
b. Tôn trọng sự làm việc của người khác trong cơ quan, không quấy rầy
họ vì những chuyện ngoài cơ quan hay thuộc đời tư của nhau. Đến cơ quan
chỉ để làm việc và làm việc, không nói chuyện riêng hay đùa cợt với nhau.
c. Tiếp khách của cơ quan ở phòng khách hay ở phòng làm việc, công
khai, không nên mời khách cùng với mình ra ngoài phố ngồi hay vào căn tin
có thể gây hiểu lầm. Không nên hẹn và tiếp khách riêng của mình để giải
quyết việc riêng của mình tại cơ quan.
d. Nếu không có trách nhiệm thì không nên can thiệp vào công việc của
người khác. Nếu liên quan đến trách nhiệm của mình thì có nói rõ lý do can


thiệp và nếu có ý kiến thì trước hết góp ý thẳng thắn và thân mật với người có
liên quan khi đã tìm hiểu đầy đủ sự thực.

e. Không điên thoại cơ quan vào việc riêng của mình, nhất là không nên
dùng vào việc riêng quá lâu trong khi có người khác đang cần dùng đến điện
thoại đó.
g. Quan hệ nam nữ trong cơ quan là một vấn đề rất nhạy cảm. Nên cố
gắng tránh quan hệ tình vêu hay tình dục đối với người khác giới trong cơ
quan (vì "lửa gần rơm rất dễ cháy") vì nó có thể ảnh hưởng tới chất lượng và
hiệu quả của công việc, tới sự khách quan và công bằng trong khen thưởng
và kỷ luật trong phê bình và tự phê bình, đó là chưa nới tới ảnh hưởng đến
hạnh phúc của một gia đình, đến người thứ ba (là vợ hay chồng của "đương
sự") ở nhà.
Quan hệ này sẽ phương hại tới uy tín của giám đốc nếu có chuyện
"quấy rối tình dục" của giám đốc với nữ thư ký của mình, hoặc chuyện nữ thư
ký dùng vẻ đẹp của mình để lung lạc và lợi dụng quyền lực của giám đốc.
2.3 - Phép lịch sự trong giao tiếp giữa cán bộ, nhân viên của cơ quan với
khách đến cơ quan.
a. Nếu khách là bên đối tác của cơ quan, thì người đại diện cho cơ
quan tiếp và làm việc với khách phải giao tiếp với tinh thần thương thảo,
thương lượng, trung thực và có trách nhiệm để giải quyết công việc vừa có lợi
cho cả 2 bên, vừa củng cố được mối quan hệ làm ăn lâu dài.
b. Nếu khách là người dân thì người thay mặt cơ quan tiếp dân phải thể
hiện thái độ kính trọng, niềm nở, phục vụ, tránh thái độ "cửa quyền", quan
liêu, hống hách, nhũng nhiễu. Nếu cơ quan là một công ty, một nhà hàng, một
khách sạn,… thì phải luôn nhớ rằng người dân là khách hàng, là "thượng đế
".
3. PHÉP LỊCH SỰ TRONG GIAO TIẾP Ở NƠI CÔNG CỘNG
Khác ở nhà (trong gia đình) và khác với nơi làm việc (nhiệm sở: cơ
quan, xí nghiệp, nhà máy, công ty, trường học, bệnh viện...) là nơi mà mỗi



×