A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cuốn những điều cần biết về trẻ thơ đã viết. “Trẻ em là nguồn hạnh phúc
của mỗi gia đình, là tương lai của mỗi dân tộc, trẻ em hôm nay là thế giới ngày
mai. Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của nhà nước, của toàn
xã hội và mỗi gia đình”
Để xây dựng đất nước phồn vinh đòi hỏi phải có nguồn nhân lực khoẻ mạnh
và được đào tạo tốt. Chất lượng của nguồn nhân lực này chịu ảnh hưởng đáng kể
bởi quá trình hình thành và phát triển ngay từ lứa tuổi mầm non. Xác định được
điều đó, trong những năm gần đây Đảng và nhà nước ta đã quan tâm, chăm lo đến
việc giáo dục trẻ đặc biệt là giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho
trẻ mầm non.
Bởi dinh dưỡng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của trẻ ở lứa tuổi
mầm non. Trẻ ở độ tuổi này phát triển nhanh cả về thể lực và trí tuệ. Nếu được
chăm sóc, được nuôi dưỡng đầy đủ sẽ phát triển tốt, ít ốm đau bệnh tật, khoẻ mạnh.
Giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mầm non góp phần phát triển toàn diện cho trẻ về các
mặt:
- Thể lực sức khoẻ:
Giáo dục dinh dưỡng giúp trẻ biết ăn uống hợp lý, đúng cách để có lợi cho sức
khoẻ, biết giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh ăn uống, vệ sinh môi trường để phòng
tránh bệnh tật đặc biệt là trẻ có một số kỹ năng tự phục vụ trong ăn uống, để có sức
khỏe tốt.
- Về nhận thức:
Giáo dục dinh dưỡng giúp trẻ nhận thức bốn nhóm thực phẩm cơ bản, nguồn
gốc thực phẩm, có khả năng phân loại thực phẩm theo nhóm và theo đặc điểm
giống, khác nhau. Trẻ nhận biết được các chất dinh dưỡng cơ bản và tác dụng của
các chất đối với sự phát triển của cơ thể, biết thành phần những món ăn quen thuộc,
làm quen với cách chế biến các món ăn đơn giản.
- Về ngôn ngữ:
Giáo dục dinh dưỡng giúp trẻ gọi tên các loại thực phẩm các món ăn thông
thường, biết kể tên các món ăn mình thích, có khả năng kể truyện theo tranh, làm
sách tranh, đọc thơ...Về thực phẩm và dinh dưỡng. Từ đó phát triển ngôn ngữ mạch
lạc cho trẻ
- Về tình cảm – Xã hội:
1
Giáo dục dinh dưỡng giúp trẻ hình thành thói quen tốt, chia sẻ, giúp đỡ bạn bè,
biết yêu quý và tôn trọng người lao động, có ý thức tiết kiệm trong ăn uống, yêu
quý các con vật nuôi cây trồng, có ý thức bảo vệ chăm sóc môi trường sống.
Như vậy giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm ở trường mầm non
là việc làm cần thiết, đối với trẻ mẫu giáo nói chung, trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi nói
riêng. Trẻ lứa tuổi này rất dễ nhạy cảm và mau chóng tiếp thu những điều học được
ở trường, hình thành dấu ấn lâu dài, giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mẫu giáo sẽ góp
phần quan trọng tạo ra lớp người mới có sự hiểu biết đầy đủ về dinh dưỡng và vệ
sinh an toàn thực phẩm, biết lựa chọn ăn, uống hợp lý, đúng cách, đảm bảo sức
khoẻ tốt. Xây dựng những con người mới xã hội chủ nghĩa đảm bảo vừa đủ đức, đủ
tài, vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Để “Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”, những
chủ nhân tương lai của đất nước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và làm xã
hội ngày càng phát triển.
Với tầm quan trọng của việc giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn cho trẻ
mầm non, bản thân tôi luôn suy nghĩ, tìm tòi những biện pháp, thủ thuật trong quá
trình giáo dục trẻ, lôi cuốn trẻ tham gia vào các hoạt động dinh dưỡng, sức khoẻ và
vệ sinh an toàn thực phẩm một cách tích cực, đạt hiệu quả cao nhất. Vì vậy năm
học này tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng
giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ 5 – 6 tuổi”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Dinh dưỡng là nhu cầu sống của mỗi con người. Trẻ em cần dinh dưỡng để
phát triển về thể lực và trí lực, người lớn cần dinh dưỡng để duy trì sự sống và để
làm việc. Tất cả chúng ta đều thấy rõ tầm quan trọng của việc ăn uống. Đây là nhu
cầu hàng ngày, một nhu cầu cấp bách, bức thiết không thể không có, chứ không chỉ
là để giải quyết chống lại cảm giác đói. Ăn uống để cung cấp năng lượng cho cơ
thể hoạt động, ngoài ra thức ăn còn cung cấp các axit- amin, vitamin, khoáng chất
là những chất cần thiết cho sự phát triển cơ thể; duy trì các tế bào. Nếu thiếu hoặc
thừa các chất dinh dưỡng nói trên đều có thể gây bệnh hoặc ảnh hưởng bất lợi cho
sức khoẻ.
Chúng ta biết rằng tình trạng dinh dưỡng tốt của mọi người phụ thuộc vào
khẩu phần dinh dưỡng thích hợp, việc được chăm sóc sức khoẻ đầy đủ, có môi
trường sống hợp vệ sinh. Ngoài ra, tình trạng dinh dưỡng còn phụ thuộc vào các
2
kiến thức về ăn uống khoa học của mỗi người, các thói quen và tập quán ăn uống
của địa phương. Muốn khoẻ mạnh cần ăn uống hợp lý và chăm sóc sức khoẻ đầy
đủ. Ở trẻ em đang tuổi cơ thể phát triển mạnh, nhu cầu về dinh dưỡng rất lớn. Nếu
thiếu ăn, trẻ em sẽ là đối tượng đầu tiên chịu hậu quả về các bệnh dinh dưỡng như:
Suy dinh dưỡng, các bệnh do thiếu vi chất dinh dưỡng... Ở nước ta hiện nay vấn đề
thiếu dinh dưỡng vẫn còn là vấn đề nghiêm trọng ở các vùng nghèo. Bên cạnh đó
căn bệnh béo phì ở trẻ em có xu hướng gia tăng ở một số thành phố lớn.
Các nhà khoa học nghiên cứu và cho biết trẻ em ở lứa tuổi mầm non nhu cầu về
dinh dưỡng và nhu cầu về hoạt động là rất cao. Hơn thế nữa, theo cuốn dinh dưỡng
trẻ em của Nhà xuất bản giáo dục viết: “cơ thể trẻ là cơ thể đang phát triển tính
theo cân nặng ở trẻ nhỏ cần từ 100-120kcal cân nặng/ ngày, nhưng ở người lớn
chỉ cần 100kcal cân nặng/ ngày”. Theo Thông tư 17/2009/TT - BGD&Đ T ngày
25 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định: “đối với
trẻ mẫu giáo nhu cầu về năng lượng của một trẻ trong một ngày là: 1470 Kcalo.
Nhu cầu khuyến nghị về năng lượng tại trường của một trẻ trong một ngày
(chiếm 50 - 60% nhu cầu cả ngày): 735 - 882 Kcalo. Số bữa ăn tại cơ sở giáo dục
mầm non tối thiểu một bữa chính và một bữa phụ”. Vì thế huyện Nga Sơn quy
định đối với các trường đạt chuẩn Quốc gia về năng lượng tại trường của một trẻ
trong một ngày (chiếm 70% nhu cầu cả ngày), đạt 1029 Kcalo. Điều đó cho thấy
nhu cầu dinh dưỡng ở trẻ ngày càng tăng, tình trạng trẻ suy dinh dưỡng, thấp còi
chiếm tỷ lệ còn cao, bên cạnh đó tình trạng trẻ béo phì hiện nay cũng khá phổ biến.
Theo kết quả điều tra gần đây, trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng chiếm tỷ lệ
30%. Nguyên nhân chính của vấn đề này là do thiếu ăn thiếu kiến thức về dinh
dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm, thiếu các dịch vụ về y tế, vệ sinh môi trường
kém. Vì vậy là giáo viên thì việc phòng chống suy dinh dưỡng, béo phì, giáo dục vệ
sinh an toàn thực phẩm cho trẻ là nhiệm vụ quan trọng và phải được thực hiện một
cách thường xuyên, liên tục. Với những băn khoăn trăn trở và qua các dẫn chứng
cụ thể nêu trên luôn thôi thúc tôi phải nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng và
vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ 5 – 6 tuổi.
II THỰC TRẠNG CỦA VẦN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Những thuận lợi
Năm học 2011 – 2012 tôi được phân công đứng lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi thực
hiện theo chương trình mầm non mới trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ tôi đã
phát hiện ra những điểm nổi bật sau:
3
* Đối với trẻ: Đa số các cháu đều nhận biết và gọi tên các loại thực phẩm sẵn có ở
địa phương. Các cháu có một số kỹ năng tự phục vụ trong ăn uống và vệ sinh cá
nhân.
* Đối với bản thân: Tôi có vốn kiến thức cơ bản về vấn đề về dinh dưỡng và vệ
sinh an toàn thực phẩm để thực hiện tốt việc chăm sóc và giáo dục trẻ.
* Đối với nhà trường: Là trường chuẩn Quốc gia, tổ chức nuôi bán trú 100% tại
trường nên có đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình chăm sóc nuôi dưỡng,
giáo dục trẻ và thực hiện chuyên đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm đạt hiệu quả.
Trường có khuôn viên thoáng mát, sạch sẽ có hệ thống cống rãnh hợp vệ sinh,
có nguồn nước sạch phục cho quá trình chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
Lớp tôi có đủ đồ dùng đồ chơi phục vụ quá trình chăm sóc , nuôi dưỡng và
giáo dục trẻ
* Đối với phụ huynh: luôn sát cánh cùng nhà trường cho nên công tác phối kết hợp
giữa gia đình trẻ, giữa nhà trường và cô giáo đạt hiệu quả cao.
2. Những khó khăn:
* Đối với trẻ: Trẻ lớp tôi đa số là con em nông thôn nên sự hiểu biết về dinh dưỡng
và vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều hạn chế. Những món ăn trẻ được tiếp xúc
còn ít, nhiều trẻ còn chưa biết mình thích ăn món gì nhất.
Trẻ đã có khả năng phân loại thực phẩm theo nhóm, đã nhận biết được thành
phần những món ăn, đã nhận biết được loại thực phẩm đang chế biến có chứa chất
gì, đã biết cách chế biến những món ăn đơn giản nhưng kết quả chưa cao.
Sự hiểu biết về ăn uống đúng cách để có lợi cho sức khoẻ và phòng tránh bệnh
tật còn nhiều hạn chế
* Đối với bản thân: Là một giáo viên trẻ mới vào nghề nên bề dày kinh nghiệm
chưa có nhiều. Khả năng gây hứng thú cho trẻ vào các hoạt động, nhất là hoạt động
giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều hạn chế.
* Đối với nhà trường: Trường còn thiếu một số trang thiết bị hiện đại phục vụ cho
công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ .
Giá cả thị trường không ổn định, tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm tăng. Do
đó nguồn thực phẩm tươi ngon phục vụ cho trẻ trở nên khan hiếm và đắt đỏ hơn,
gây nhiều khó khăn cho công tác nuôi dưỡng trẻ.
* Đối với phụ huynh: Một số bậc phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến sức khoẻ
của trẻ để trẻ ăn, ngủ, vệ sinh tuỳ thích, mất vệ sinh. Từ đó dẫn đến tình trạng trẻ
4
suy dinh dưỡng vẫn còn và trẻ bị mắc một số bệnh tật như: ngoài da, đau mắt, tiêu
chảy, hô hấp...
3. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên
* Kết quả cân đo, chấm biểu đồ:
Cụ thể đầu năm tôi đã cân đo chấm biểu đồ với số trẻ là 27 trẻ.
- Cân nặng
Số trẻ ở kênh BT: 21 trẻ = 77,8 %;
Số trẻ ở kênh SDD-2: 6 trẻ = 22,2 %
- Chiều cao
Số trẻ ở kênh BT: 26 trẻ = 96,3 %;
Số trẻ ở kênh thấp còi: 1 trẻ = 3,7 %
* Xuất phát từ thực tế đó tôi đã tiến hành khảo sát tổng số trẻ 27 trong đó 10 trẻ gái
và 17 trẻ trai. Qua bảng khảo sát chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn
thực phẩm như sau:
Nội dung khảo sát
Tổng
Kết quả đạt trên trẻ
Đạt
Chưa
số
T
đạt
Tốt % Khá % T % Số %
T
B
trẻ
Trẻ biết gọi tên các loại
27
1
6 22,2
8
29,6 7
26
6 22,2
thực phẩm đơn giản
Phân loại nhận biết phân
2
biệt được 4 nhóm thực
27
5 18,4
7
26
7
26
8 29,6
phẩm thông thường
Trẻ biết ăn nhiều loại thực
27
7
26
6
22,6 8 29,6 6 22,6
3
phẩm khác nhau
Trẻ biết sử dụng dụng cụ ăn
27
7
26
8
29.6
4 uống đơn giản, có thói quen
vệ sinh
Có thói quen vệ sinh văn
27
5 18.4
7
26
5 minh trong ăn uống, có thói
quen vệ sinh cá nhân
Biết hoạt động chế biến các
6
27
3 11.1
6
22.2
món ăn đơn giản
Qua bảng khảo sát cho thấy kết quả chung trên trẻ còn thấp:
7
26
5
18.4
7
26
8
29,6
8
29.6 10 37.1
5
- Tốt, khá: đạt chưa cao; Tỷ lệ trung bình, Yếu: còn nhiều
Từ thực trạng trên để nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an
toàn thực phẩm cho trẻ tôi đã nghiên cứu tìm tòi sáng tạo và áp dụng các hình thức
giáo dục phù hợp giúp trẻ tiếp thu một cách nhẹ nhàng, thoải mái. Từ đó giúp trẻ
phát triển một cách toàn diện hơn.
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Tạo môi trường giáo dục phong phú phù hợp với chủ đề, giúp trẻ biết
thêm về các loại thực phẩm, cả những thực phẩm mà địa phương không có.
Ngay từ đầu năm học tôi đã vận động phụ huynh cùng tham gia làm đồ dùng,
đồ chơi trang trí lớp, nhằm giúp trẻ tích cực khám phá tìm tòi phục vụ trong quá
trình học tập của trẻ.
Trong lớp tôi đã trang trí làm nổi bật góc “Bé khám phá khoa học” với nhiều
nội dung phong phú gắn liền với từng chủ đề thực hiện
Ví dụ: Ở chủ đề “Thế giới thực vật” tôi cho trẻ quan sát sự nảy mầm của hạt. Để
sau khi trẻ được ăn những loại quả, biết được tên gọi, đặc điểm cấu tạo, chất dinh
dưỡng mà quả cung cấp. Đồng thời giáo dục trẻ biết gieo hạt, hạt nảy mầm thành
cây và cây được lớn lên như thế nào?
Ở chủ đề “Những con vật đáng yêu” tôi dùng lá xoài khô, bẹ ngô, đĩa CD, làm
những con cá sống ngoài biển, như cá thu, cá chim, làm những con vật, ở địa
phương không có để cho trẻ được làm quen.
2. Tổ chức cho trẻ được thăm quan, quan sát thực tế để trẻ tiếp thu tri
thức mới và có dịp củng cố kiến thức đã học
Đặc điểm của trẻ là dễ nhớ mau quên. Vì vậy việc cho trẻ quan sát thực tế là rất
cần thiết giúp trẻ ghi nhớ có chủ định. Trong giờ hoạt động ngoài trời tôi cho trẻ
thăm quan vườn rau sạch của bé và sắp xếp cho trẻ đi thăm quan mô hình vườn, ao,
chuồng của gia đình ông Lành gần trường để trẻ được quan sát trực tiếp các loại
rau, quả.... Khi được thăm quan tâm trạng của trẻ thích thú, phấn khởi. Trong quá
trình thăm quan trẻ được trải nghiệm, được nói, được trao đổi trò chuyện theo sự
hiểu biết của cá nhân như: Khi cho trẻ quan sát luống cà chua, trẻ sôi nổi thảo luận
với cô và bạn. Cây cà chua có nhiều quả xếp thành từng chùm, quả chín đỏ, quả lại
có màu xanh, vỏ nhẵn, cà chua nấu với trứng làm canh, cá sốt cà chua….Nhờ đó
mà trẻ nhớ tên gọi đặc điểm của từng lạoi rau, củ.
Trẻ mầm non thường thích bắt chước các thao tác, cách làm của người lớn để thu
lượm kiến thức và cùng trải nghiệm thoả mãn nhu cầu tò mò, ham hiểu biết. Vì thế
tôi đã tổ chức cho trẻ thăm quan công việc của cô bác cấp dưỡng để trẻ quan sát các
6
thao tác chế biến món ăn đơn giản như: cách làm rau muống luộc, làm rau mồng tơi
để nấu canh, làm bí để hầm xương; cách rửa sạch rau, quả để nấu ăn; cách cầm dao
để thái, cắt; cách vo gạo và nấu cơm …? Trong quá trình quan sát trẻ luôn thắc mắc
về cách chế biến từng món ăn đó như thế nào? Tôi và các cô bác cấp dưỡng lần
lượt giải đáp những thắc mắc đó của trẻ bằng cách vừa làm, vừa hướng dẫn trẻ: Để
nấu canh rau mồng tơi, trước hết phải làm rau sạch, ngắt bỏ lá già, lá bị sâu; sau đó
rửa sạch rau, bỏ vào rổ để ráo nước; lấy thớt, dao để thái rau. Tay phải cầm dao, tay
trái cầm rau…. Làm xong các cô bác vệ sinh cá nhân như: rửa tay sạch sẽ đúng quy
trình và lau khô tay. Ngoài ra các bác còn vệ sinh chung khu vực nhà bếp như: quét
dọn sạch sẽ nơi chế biến, rửa dao thớt, giặt khăn lau…Qua việc thăm quan hàng
ngày, trẻ được quan sát và rất thích thú với những công việc mà cô bác cấp dường
thường làm, hiểu được nỗi vất vả của cô bác khi nấu ăn cho trẻ, để trẻ thi đua nhau
ăn hết xuất. Đồng thời, đây còn là điều kiện, phương tiện hữu hiệu nhất để trẻ được
củng cố và càng khắc sâu nhiều kiến thức về dinh dưỡng.
3. Tạo điều kiện để trẻ được trải nghiệm thực tế giúp trẻ có cơ hội thực
hành rèn luyện kỹ năng chế biến món ăn, kỹ năng vệ sinh cá nhân và vệ sinh
chung. Thường xuyên tổ chức cho trẻ “Tập làm nội trợ”.
3.1 Tạo điều kiện để trẻ được trải nghiệm thực tế giúp trẻ có cơ hội thực hành
rèn luyện kỹ năng chế biến món ăn, kỹ năng vệ sinh cá nhân và vệ sinh chung.
Để trẻ thực hành trên sản phẩm thực tế được tốt trước hết phải hướng dẫn trẻ
cụ thể, cách đong đếm, cách sử dụng một số đồ dùng, dụng cụ nấu ăn và pha chế
thức uống như dao, thìa, cốc, chén…Sau đó, hướng dẫn trẻ thực hành từng bước
trên sản phẩm. Dạy trẻ biết sử dụng đồ dùng phục vụ việc ăn uống, tạo ra một số
món ăn, nước uống đơn giản như: pha nước chanh, pha nước cam… Tôi đã hướng
dẫn trẻ thực theo quy trình pha nước cam sau: rót 2/3 cốc nước sôi để nguội ->
thêm 2 thìa đường -> cắt đôi quả cam -> vắt nước cam -> rót nước cam vừa vắt ->
khuấy đều -> uống. Làm như vậy trẻ được thực hành chế biến trực tiếp nước uống
đơn giản, gần gũi, được sử dụng một số đồ dùng ăn uống quen thuộc như: ca, cốc,
thìa, dao, thớt. Sau đó tôi chia trẻ thành các tổ và thi đua thực hành trải nghiệm
xem tổ nào có thao tác nhanh và đúng quy trình nhất. Pha xong các ly nước cam trẻ
được uống sản phẩm mình tự làm, trẻ rất hứng thú và mong muốn được thực hành
trải nghiệm thường xuyên hơn.
7
Hình ảnh minh hoạ trẻ thực hành quy trình vắt nước cam
Từ đó giúp hình thành ở trẻ thói quen ăn uống tốt, thích thú với các món ăn do
mình tạo ra và giúp trẻ có thói quen vệ sinh, hành vi văn minh, lao động tự phục vụ
ở trẻ, hình thành kĩ năng sống cơ bản cho trẻ.
3.2. Thường xuyên tổ chức cho trẻ “Tập làm nội trợ”.
- Mục đích thường xuyên tổ chức cho trẻ “Tập làm nội trợ” là giúp trẻ có nhiều
cơ hội được trải nghiệm để:
+ Trẻ biết tên gọi các loại thực phẩm:
Ví dụ: Với các loại rau (rau cải, rau muống...) tôi hướng dẫn trẻ thực hành các
thao tác chế biến đơn giản để chế biến thành rau xào, luộc. Trong quá trình hướng
dẫn trẻ tôi hỏi trẻ tên các loại rau, trẻ đang chế biến món ăn từ rau gì? nhằm cung
cấp về tên gọi một cách chính xác để trẻ ghi nhớ.
Với các loại quả:( quả na, quả táo...) tôi hướng dẫn trẻ thực hành thao tác rửa
quả, bóc vỏ, gọt vỏ... trong quá trình trẻ thực hành trải nghiệm, tôi hỏi trẻ về tên gọi
các loại quả, trẻ đang ăn quả gì? làm như vậy trẻ sẽ được cung cấp, ghi nhớ về tên
gọi của các loại quả trên.
+ Trẻ biết phân loại và phân biệt 4 nhóm thực phẩm thông thường.
Ví dụ: nhóm chất đạm (cua, tôm....), nhóm chất bột đường (cơm, gạo, khoai,
ngô...), nhóm chất vitamin và muối khoáng( các loại rau, củ quả), nhóm chất béo
(dầu mỡ, lạc, vừng...). Tôi sử dụng các tranh lô tô đủ 4 nhóm chất; các loại rau, củ
quả, tôm, cá, cua, trứng, thịt gà.... được làm bằng nhựa; các loại quả, con vật, cây
rau được làm bằng các đồ phế liệu, phế thải (đồ chơi tự tạo), sau đó chia nhóm cho
8
trẻ tự thảo luận, phân loại, trải nghiệm và phân biệt đúng 4 nhóm thực phẩm thông
thường. Qua đó nâng cao kỹ năng phân loại, phân biệt cho trẻ và giúp trẻ ghi nhớ
nhanh từng nhóm thực phẩm
+ Trẻ biết ăn nhiều loại thực phẩm khác nhau:
Để giúp trẻ biết ăn đầy đủ các loại thực phẩm khác nhau có trong 4 nhóm chất.
Tôi phải sử dụng rất nhiều thời gian để quan sát, theo giõi từng trẻ biết trẻ thích ăn
gì, không thích ăn thực phẩm gì, để có biện pháp động viên khích lệ trẻ và cho trẻ
tập ăn những món ăn mà trẻ không thích trong các giờ ăn hàng ngày tại lớp. Tôi
phát hiện có một số cháu không ăn các loại rau thơm ( hành, mùi). Tôi còn cho trẻ
thi đua nhau cùng ăn hết xuất. Do đó trong suốt quá trình thử nghiệm và trẻ thực
hiện thi đua đã kích thích trẻ ăn hết xuất và trẻ có hứng thú khi được ăn đầy đủ
nhiều loại thực phẩm khác nhau.
+ Biết sử dụng dụng cụ ăn uống đơn giản, có thói quen vệ sinh.
Ví dụ: Trước giờ ăn hàng ngày tôi cho trẻ chơi trò chơi “ Tay phải, tay trái” tay
phải cầm thìa, tay trái giữ bát. Ngoài ra tôi còn cho trẻ thực hành sử dụng các dụng
cụ ăn uống đơn giản qua trò chơi nấu ăn hàng ngày. Làm như vậy trẻ sẽ hứng thú
thực hành và đến giờ ăn 100% trẻ sử dụng đúng.
+ Có thói quen vệ sinh văn minh trong ăn uống, có thói quen vệ sinh cá nhân.
Ví dụ: Tôi cho trẻ chơi trò chơi đôi bàn tay đẹp, miệng ai xinh hơn, ai sạch sẽ hơn,
Để trẻ biết gĩư gìn vệ sinh trong ăn uống và có thói quen vệ sinh cá nhân như: rửa
tay sạch trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, không nói chuyện, cười đùa trong giờ
ăn, không làm cơm rơi vãi.
+ Trẻ biết hoạt động chế biến các món ăn đơn giản.
Tôi đã tổ chức cho trẻ được thực hành chế biến một số món ăn đơn giản như: Cho
trẻ làm quen với quy trình làm muối lạc, pha sữa, trứng rán, làm bánh mỳ kẹp bơ.
Thông qua tổ chức hội thi “Bé tập làm nội trợ” lồng ghép với hội thi “Bé khoẻ bé
ngoan”, tại lớp. Nhờ đó tôi thu được kết quả rất khả quan, có gần 90 % trẻ thực
hiện đúng các quy trình và hoạt động chế biến các món ăn đơn giản như trên.
Qua hoạt động “Tập làm nội trợ” trẻ được thực hành, trải nghiệm và học tập
một cách tích cực các bài học về dinh dưỡng như cách ăn, cách chọn thức ăn giàu
dinh dưỡng.
- Động viên khuyến khích, huy động sự tham gia của các bậc cha mẹ trong việc tổ
chức cho trẻ thực hiện các nội dung “Tập làm nội trợ” Qua đó trẻ gọi tên, phân
biệt được các loại quả, các món ăn cách trang trí sắp sếp và vệ sinh sau khi tiến
hành hoạt động “Tập làm nội trợ” như: Đóng góp các thực phẩm để trẻ thực hành
9
(đóng góp rau, củ, quả, tiền….) thu thập các tài liệu, tranh ảnh có liên quan; tham
gia “Triển lãm” tranh “ Bé tập làm nội trợ”; tham gia tổ chức hội thi “bé tập làm
nội trợ” liên hoan sinh nhật, lễ, tết với trẻ; phụ huynh trò chuyện hướng dẫn trẻ
thực hành “Tập làm nội trợ” qua các trò chơi: Tập làm bánh trôi, bánh chay.
Hình ảnh minh hoạ phụ huynh tham gia hướng dẫn trẻ quy trình làm bánh trôi,
bánh chay tại lớp để chuẩn bị tổ chức hội thi “ Bé khoẻ, bé ngoan”
4. Giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ thông qua các
hoạt động.
4.1 Hoạt động đón - trả trẻ:
- Tôi trò chuyện với trẻ về các loại thực phẩm mà trẻ biết tác dụng của thực phẩm
đó đối với sức khoẻ con người phù hợp với chủ đề, giáo dục trẻ giữ gìn vệ sinh cá
nhân, vệ sinh chung.
Ví dụ: Ở chủ đề “thế giới thực vật” tôi trò chuyện với trẻ về các loại rau, quả như
tên gọi, đặc điểm, là thực phẩm chứa nhiều chất vitamin, chất khoáng, ăn các loại
rau quả giúp cho cơ thể tăng sức đề kháng, phòng chống bệnh tật. Trước khi ăn
phải làm sạch, gọt rửa các loại thực phẩm, rửa tay, rửa các dụng cụ chế biến.
- Tôi cho trẻ làm quen với đồ dùng, đồ chơi mới, từ đó giới thiệu thêm một số thực
phẩm mới cho trẻ biết về tên gọi các chất có trong các loại thực phẩm đó giúp trẻ
có thêm kiến thức về các loại thực phẩm mà địa phương không có.
Ví dụ: chủ đề “thế giới động vật” tôi cho trẻ làm quen với đồ chơi mới do bản thân
tôi tự làm về các loại cá nước lợ, nước mặn mà ở địa phương tôi không có. Như cá
chim, cá thu, cá hồi... Sau đó tôi giới thiệu về tên gọi của từng loại cá và cho trẻ
10
biết các loại cá này sống ở biển và vùng gần biển nên ở địa phương không có các
loại cá này là thực phẩm chứa nhiều chất đạm...
Ngoài ra tôi còn cho trẻ kể tên các món ăn mà trẻ biết và để trẻ tự kể mình
thích ăn món gì nhất, qua đó tôi cũng tranh thủ giới thiệu thêm các món ăn khác để
góp phần làm tăng vốn hiểu biết phong phú về các món ăn cho trẻ.
4.2. Hoạt động học có chủ định
Tổ chức các giời hoạt động có chủ định là hoạt động chủ đạo để giúp tôi lồng
ghép, tích hợp giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ một cách
tốt nhất. Bởi vậy, căn cứ vào nội dụng cụ thể của từng hoạt động mà tôi tiến hành
lồng ghép phù hợp như sau:
* Với hoạt động khám phá môi trường xung quanh :
Đậy là hoạt động chính giúp trẻ tiếp thu những kiến thức cơ bản về các loại
thực phẩm, các chất dinh dưỡng - sức khoẻ và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Thông qua các hoạt động cho trẻ khám phá về các loại rau, củ, quả các loại,
các con vật nuôi trong gia đình. Tôi dạy trẻ biết gọi tên các loại thực phẩm, tên gọi
các món ăn chế biến từ các loại thực phẩm ấy và giúp trẻ biết được nguồn gốc các
loại thực phẩm các chất có trong các thực phẩm ấy.
Ví dụ: Khi cho trẻ khám phá về các con vật nuôi trong gia đình cụ thể là con gà mái
trẻ biết được gà mái đẻ ra trứng, trứng là thực phẩm có nhiều chất đạm ăn trứng
giúp cơ thể trẻ nhanh lớn. Qua đó động viên những trẻ chưa thích ăn trứng để trẻ tự
giác ăn, động thời giáo dục những trẻ thích ăn trứng gà ăn ở mức độ vừa phải nếu
ăn trứng gà hàng ngày sẽ bị mắc bệnh không tốt cho sức khoẻ. Trứng có thể chế
biến thành các món ăn: Trứng rán, trứng luộc, trứng đúc thịt, trứng có thể dùng nấu
canh cà chua.
* Với hoạt động làm quen với tác phẩm văn học.
Như chúng ta đã biết văn học là tác phẩm nghệ thuật, ngôn ngữ của văn học là
ngôn ngữ biểu cảm lôi cuốn người nghe, các tác phẩm văn học có các tình huống
hấp dẫn thu hút sự chú ý của trẻ. Chính vì vậy những hoạt động làm quen với tác
phẩm văn học là những hoạt động lồng ghép giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an
toàn thực phẩm một cách nhẹ nhàng và thoải mái nhất từ đó trẻ lĩnh hội nhanh
những kiến thức mà cô truyền thụ.
Ví dụ: Qua bài thơ “Bắp cải” trẻ biết được đặc điểm cây bắp cải, cô giới thiệu cho
trẻ biết bắp cải là một loại rau có rất nhiều vitamin và chất khoáng, bắp cải có thể
nấu canh, luộc, xào. Qua truyện “Hai anh em” trẻ biết phân biệt nguồn gốc của hạt
gạo, gạo nấu thành cơm nuôi sống con người, trong gạo có rất nhiều chất bột
11
đường, lúa gạo là do người nông dân trồng, chăm sóc, từ đó mà trẻ quý trọng sản
phẩm mà người lao động làm ra, yêu quý người lao động
* Với hoạt động tạo hình
Thông qua hoạt động tạo hình tôi cũng khéo léo lồng ghép giáo dục dinh
dưỡng: Giúp trẻ biết thêm về các thực phẩm, tên thực phẩm, đặc điểm thực phẩm
các chất có trong thực phẩm đó. Trẻ được trực tiếp tham gia hoạt động như vẽ, nặn,
cắt, xé dán từ đó giúp trẻ nhớ lâu các loại thực phẩm đó.
Ví dụ: Với hoạt động vẽ “Vườn cây ăn quả” Tôi cho trẻ gọi tên các loại quả, mầu
sắc của các loại quả, giáo dục trẻ ăn quả cung cấp cho ta nhiều vitamin, giáo dục vệ
sinh cho trẻ trước khi ăn quả phải rửa sạch gọt vỏ bỏ hạt, sau khi ăn phải bỏ vỏ hạt
vào thùng rác khi rửa quả phải biết tiết kiệm nước…
* Thông qua các hoạt động khác: âm nhạc, làm quen với toán, làm quen chữ cái:
Ví dụ 1: Dạy hát bài “Quả gì” tôi khéo léo lồng ghép giáo giục trẻ để trẻ được biết
có rất nhiều loại quả khác nhau, trẻ kể tên các loại quả có trong bài hát và giáo dục
cho trẻ biết trong các loại quả chứa nhiều vitamin và chất khoáng khi ăn thì phải
rửa sạch gọt vỏ, bỏ hạt.
Ví dụ 2: Làm quen với Toán: Cho trẻ nhận biết số 7 chủ đề thế giới động vật tôi sử
dụng các nhóm đồ vật gồm 7 con thỏ và 7 củ cà rốt để trẻ nhận biết và lập số 7. Sau
đó tôi lồng ghép giáo dục dinh dưỡng bằng cách: trò chuyện với trẻ thỏ rất thích ăn
cà rốt vì ăn cà rốt cung cấp chất VTM giúp gia dẻ hồng hào, khỏe mạnh ... Các con
có thích ăn cà rốt không? Ăn cà rốt cung cấp chất gì?...
Ví dụ 3: Làm quen với chữ cái: Trong quá trình tổ chức cho trẻ làm quen với nhóm
chữ cái i,t,c chủ đề thế giới động vật: trẻ được làm quen khám các hình ảnh về
những con vật sống dưới nước và sống trong rừng: tôm, cá, cua ... có các chữ cái
i,t,c. Sau đó tôi lồng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm bằng cách
trò chuyện với trẻ về các con vật có trong hình ảnh mà trẻ được khám phá như: nơi
ở, đặc điểm cấu tạo, cung cấp chất dinh dưỡng gì khi được ăn?
Cứ như vậy tôi nhẹ nhàng lồng ghép tích hợp giáo dục dinh dưỡng vào các hoạt
động trẻ đạt hiệu quả rất cao, trẻ nhận biết tốt và thích khám phá.
4.3. Hoạt động ngoài trời:
Tổ chức cho trẻ hoạt động ngoài trời cũng có ý nghĩa rất quan trọng trẻ được
trực tiếp thăm quan, dạo chơi ngoài trời, giúp trẻ biết tên các loại thực phẩm, trực
tiếp quan sát đặc điểm của các loại thực phẩm.
Ví dụ: Quan sát vườn rau trẻ được gọi tên các loại rau, quan sát đặc điểm của các
loại rau, củ, quả...; các con vật tôm, cá, cua, ngao ốc, gà, vịt ....
12
* Tổ chức các trò chơi.
Tôi cũng tìm những trò chơi phù hợp với hoạt động có lồng ghép giáo dục dinh
dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Từ đó trẻ lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ
nhàng, nhớ lâu. Tôi đã sử dụng các trò chơi: bé tập làm nội trợ, thi tài phân loại các
thực phẩm theo 4 nhóm chất, tôi thích ăn món nào, cùng mẹ đi chợ, vườn rau sạch
của bé, trang trại gia đình, xếp chuồng cho các con vật, cùng thi tài chế biến món
ăn....
Ngoài việc lồng ghép giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm vào
các tiết học, việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi, tạo điều kiện để trẻ tiếp thu và
phản ánh những hiểu biết của mình về dinh dưỡng là hoạt động hết sức quan trọng.
Trẻ được tiếp xúc với các đồ vật đồ chơi, qua trò chơi tạo điều kiện để trẻ tự học
hỏi nhau, thể hiện sự hiểu biết của mình về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm.
Qua các trò chơi tôi tạo điều kiện để trẻ vui chơi với đồ chơi, khi trẻ gọi tên các
thực phẩm, trẻ học cách chế biến món ăn và trẻ được thực hiện các thao tác chế
biến món ăn, cách chế biến thực phẩm và vệ sinh thực phẩm, vệ sinh cá nhân và vệ
sinh chung.
4.4 Với hoạt động góc
Việc tổ chức cho trẻ hoạt động góc với tất cả các góc mở giúp trẻ được trải
nghiệm hoạt động của người lớn, trẻ được làm thí nghiệm, từ đó giúp trẻ hiểu biết
thêm về dinh dưỡng.
- Qua hoạt động góc: Trẻ gọi tên các thực phẩm, biết đặc điểm của các loại thực
phẩm, trẻ tự học cách chế biến những thực phẩm thành những món ăn. Biết cách
tạo ra những thực phẩm trong cuộc sống, biết vệ sinh cá nhân và hành vi văn minh.
Ví dụ: Ở góc phân vai, trẻ mua hàng muốn mua loại thực phẩm gì thì hỏi người bán
hàng “Bác ơi, bác có bán trứng không?” Người bán hàng nhớ đặc điểm của trứng
mà lấy bán cho người mua hàng. Từ đó giúp trẻ biết tên và nhớ loại thực phẩm.
Ví dụ: Ở góc phân vai, trẻ đóng vai con hỏi trẻ đóng vai mẹ “Mẹ ơi, mẹ nấu món gì
đấy?” Mẹ trả lời “Mẹ nấu món trứng rán”.Từ đó giúp trẻ biết trứng được chế biến
thành những món ăn khác nhau.
Cũng ở góc phân vai trẻ được trực tiếp chơi với những dụng cụ nấu ăn bằng đồ
chơi và biết cách thao tác các dụng cụ khi chế biến thực phẩm.
Ví dụ: Khi thái thịt cần dao và thớt
Đồng thời trẻ cũng biết thao tác chế biến món ăn
13
Ví dụ: Muốn nấu món cá kho thì phải làm thịt cá, đánh vẩy, bỏ ruột, cho gia vị vào
kho...
Ở góc xây dựng giúp trẻ biết cách tạo ra thực phẩm tự trồng rau quả, nuôi các
con vật qua trò chơi xây dựng vườn rau, quả, khu chuồng trại...ở góc thiên nhiên trẻ
lại được trực tiếp trồng và chăm sóc rau quả, chăm sóc các con vật nuôi ở góc học
tập, góc nghệ thuật trẻ được chơi lô tô, được ra những bức tranh, được dọc thơ, ca
dao, đồng dao, vè... về các loại thực phẩm.
Từ đó giúp trẻ nhớ thêm về các loại thực phẩm, biết các loại thực phẩm được
phân thành 4 nhóm, trẻ biết thêm được tầm quan trọng của các chất đối với sự phát
triển của trẻ. Việc giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm ở hoạt động
góc có hiệu quả vô cùng to lớn để lại ấn tượng cho trẻ rất tốt.
4.5. Thời điểm cho trẻ ăn
Ngoài việc lồng ghép giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm vào
các hoạt động trên việc giáo dục dinh dưỡng ở giờ ăn cũng rất quan trọng và rất
thực đối với trẻ.
Ở giờ ăn: Trẻ học cách tự phục vụ bản thân, lấy ghế, bát, thìa...trẻ còn giúp
nhau kê bàn ghế, biết vệ sinh cá nhân trước khi ăn, biết chào mời người khác trước
khi ăn, khi ăn trẻ biết giữ vệ sinh chung và những hành vi văn hóa khác...
Vào giờ chia ăn tôi tranh thủ giới thiệu các món ăn cho trẻ và thành phần các
món ăn chứa nhiều chất gì? Tác dụng của chất đó đối với cơ thể của trẻ, động viên
trẻ ăn món đó tập ăn dần, lúc đầu ăn ít sau đó ăn đủ...
Ví dụ: Tôi sử dụng hệ thống câu hỏi mở để giới thiệu và đàm thoại với trẻ về
các món ăn: Các con ơi! Hôm nay, các cô dinh dưỡng nấu cho các con ăn món ăn
gì? (Cá súp cà chua). Ăn cá chứa nhiều chất gì? ( chất đạm). Chất đạm giúp cơ thể
các con như thế nào? (giúp cơ thể các con nhanh lớn, thông minh, học giỏi). vì vậy
các con nên ăn cá nhé...
4.6. Hoạt động chiều
Trong hoạt động chiều, khi trò chuyện với trẻ ở giờ trả trẻ tôi hỏi trẻ hôm nay
các con được ăn những món gì? Cung cấp chất gì? Để trẻ nhớ được tên món ăn và
chất dinh dưỡng mà món ăn đó cung cấp. Đồng thời tôi cho trẻ quan sát tranh các
loại rau củ quả, các con vật, chơi các trò chơi phân loại các chất dinh dưỡng theo 4
nhóm bằng lô tô, đồ chơi bằng nhựa...
Chính vì tôi tổ chức tốt giáo dục dinh dưỡng vệ sinh an toàn thực phẩm thông qua
các hoạt động, biết tận dụng các điều kiện, biết vận dụng các kiến thức, kỹ năng
trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ giúp trẻ phát triển toàn diện nên qua hội
14
thi:”Bé khoẻ, bé ngoan” cấp trường, cấp Huyện đều đạt giải cao, trong đó: có 5
cháu đạt giải nhất hội thi cấp trường và hội thi cấp Huyện có ba cháu đạt giải nhì và
ba cháu đạt giải ba.
5. Phối kết hợp chặt chẽ với các bậc phụ huynh trong việc chăm sóc sức
khỏe và giáo dục dinh dưỡng tại gia đình bằng nhiều hình thức khác nhau.
- Thông qua các buổi họp phụ huỵnh
- Thông qua các góc trao đổi với phụ huynh.
- Tranh thủ trao đổi với phụ huynh trong giờ đón, trả trẻ.
Qua việc tuyên truyền đến các bậc phụ huynh giúp phụ huynh hiểu rõ về vai
trò quan trọng của giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ, đồng
thời phối kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình quan tâm đến vấn đề dinh
dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ. Góp phần giảm tỷ lệ trẻ suy dinh
dưỡng và hoàn thiện thêm về các mặt: Thể lực, nhận thức, ngôn ngữ và tình cảm xã
hội. Để làm được điều này bản thân tôi là giáo viên đứng lớp luôn theo dõi những
biểu hiện về dinh dưỡng và vệ sinh cuả trẻ từ đó trao đổi với phụ huynh nhằm giúp
trẻ tiếp nhận các thông tin về dinh dưỡng một cách hào hứng, không gò bó, gượng
ép. Đồng thời tôi cũng tiến hành khảo sát những nội dung về dinh dưỡng và vệ sinh
an toàn thực phẩm trên trẻ sau đó xếp loại rồi thống nhất nội dung kết hợp với gia
đình về giáo dục dinh dưỡng cho trẻ để gia đình nắm được
Ví dụ: Khi thực hiện chủ đề “Thế giới thực vật” và chủ đề “ Thế giới động
vật” tôi tuyên truyền với các bậc phụ huynh cho trẻ được làm quen với các loại rau
củ quả tại gia đình. Hay còn phô tô sưu tầm các bài thơ, bài hát, câu chuyện có nội
dung về dinh dưỡng và sức khỏe để các bậc phụ huynh cho trẻ học tại nhà như: câu
chuyện Hai anh em, Cây khế, Sự tích quả dưa hấu, sự tích Bánh chưng, bánh giày,
thơ bắp cải, đồng giao Bác bầu, bác bí...; Bài thơ Nàng tiên ốc, Tìm ổ, Rong và
cá...; Bài hát tôm, cá, cua thi tài, năm ngón tay ngoan, tập đếm, Tập rửa mặt, Mời
bạn ăn...Cứ như vậy sẽ giúp trẻ khắc sâu kiến thức nhanh nhất.
6. Làm đồ dùng đồ chơi
Ngoài việc lồng ghép giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ
vào các hoạt động trên, tôi luôn tìm tòi sáng tạo ra những đồ dùng đồ chơi đẹp, hấp
dẫn, có tính thẩm mỹ cao có đầy đủ số lượng và có nhiều chủng loại để trẻ được
học, được trực tiếp hoạt đông với đồ dùng đồ chơi giúp trẻ nhớ lâu và hiểu thêm về
những thực phẩm có trong cuộc sống của chúng ta.
15
Ví dụ: Tôi cùng trẻ dùng ống nước rửa bát màu xanh lá cây làm sạch, sau đó cắt
thành hình lá bắp cải để trẻ ghép thành cây bắp cải, cắt thành các loại rau quả khác
nhau để trẻ được chơi, được trực tiếp hoạt động.
- Tôi cùng trẻ dùng các que kem, giấy màu, màu nước phù hợp để gắn thành hình
con gà trống cho trẻ học và chơi.
- Hay tôi cùng trẻ tận dụng vỏ quả trứng và xốp màu cắt dán tạo thành và bể cá,
làm cây cam, cây xoài, rồi dùng giấy làm các quả bồi và nhiều đồ chơi khác. Trong
qua trình trẻ và cô cùng thực hiện trẻ được gọi tên các thực phẩm, được khám phá
trải nghiệm về đặc điểm các thực phẩm đó.
- Ngoài ra tôi cũng cùng trẻ đã cùng các loại phế liệu sẵn có ở địa phương để cắt
tạo ra những con vật, những loại quả… phục vụ cho các hoạt đông học tập, hoạt
động chơi và trưng bày tại môi trường xung quanh lớp đẹp, hấp dẫn, phù hợp với
16
chủ đề, chủ điểm như: bộ ấm chén, lợn con… Tôi còn cắt tỉa các hộp nước rửa bát,
ống luồng tạo thành hình thù một đàn lợn 10 con có kích thước khác nhau, dùng để
trồng và gieo các loại hạt cho trẻ quan sát khám phá sự nảy mầm và lớn lên của
cây.
Thông qua làm đồ dùng đồ chơi giúp trẻ gọi tên đồ dùng đồ chơi, phân loại đồ
dùng đồ chơi, biết cách sử dụng đồ dùng khi làm đồ chơi, biết chơi với đồ chơi đó
như thế nào trong mỗi góc chơi.
Kết quả: Tôi đã làm 10 cây bắp cải, cây xanh, 10 con lợn, vườn củ cà rốt, 10
củ su hào và nhiều đồ dùng ăn uống khác được nhà trường đánh giá, xếp loại A
VI. KẾT QUẢ KIỂM NGHIỆM
Bằng những biện pháp và hình thức mới cải tiến trên, kết quả giáo dục dinh
dưỡng và an toàn thực phẩm cho trẻ lớp tôi có những chuyển biến đáng phấn khởi,
sức khỏe của trẻ tăng lên rõ rệt. Đặc biệt hơn đối với trẻ 5 – 6 tuổi lớp tôi đang thực
hiện chương trình phổ cập giáo dục. Theo quy định của Sở Giáo dục và đào tạo
phải giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở thể cân nặng và thấp còi chỉ còn 8%. Qua việc
áp dụng các biện pháp cải tiến mới tôi đã mạnh dạn đưa ra chỉ tiêu phấn đấu giảm
tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng từ 22,2% xuống còn 8%. Kết quả cụ thể bằng việc:
* Tôi tiến hành cân đo chấm biểu đồ vào ngày 15/4:
Tổng số trẻ: 27.
- Cân nặng
Số trẻ ở kênh BT: 25 trẻ = 92,6 %;
Số trẻ ở kênh SDD-2: 2 trẻ = 7,4 %
- Chiều cao
17
Số trẻ ở kênh BT: 26 trẻ = 96,3 %;
Số trẻ ở kênh thấp còi: 1 trẻ = 3,7 %
Kết quả trên cho thấy nhờ có sáng kiến này mà tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng đã vượt
chỉ tiêu bản thân đề ra xuống chỉ còn 7.4%. Đó là một thành công lớn nhất mà một
năm qua tôi đã giày công áp dụng nghiên cứu đề tài này.
* Tôi cũng tiến hành khảo sát lần 2 trên trẻ kết quả như sau:
Tổng
Mức độ % trên trẻ
Chưa
Nội dung khảo sát
Đạt
số
đạt
T %
K
% TB % Số %
TT
trẻ
18 66,6 7
26
2
7,4 0
0
Trẻ biết gọi tên các loại thực
27
1
phẩm đơn giản
Phân loại nhận biết phân biệt
27
17 63
6 22,2 4 14,8 0
0
2
được 4 nhóm thực phẩm
thông thường
27
14 52
13
48
0
0
0
0
Trẻ biết ăn nhiều loại thực
3
phẩm khác nhau
Trẻ biết sử dụng dụng cụ ăn,
27
14 52
8 29,6 5 18,5 0
0
4 uống đơn giản, có thói quen
vệ sinh
27
17 63
5 18,5 4 14,8 1 3,7
Có thói quen vệ sinh văn
5 minh trong ăn uống, có thói
quen vệ sinh cá
27
8 29,6 9 33,4 8 29,6 2 7,4
Biết hoạt động chế biến các
6
món ăn đơn giản nhân
Qua bảng khảo sát lần 2 cho thấy sau khi áp dụng các biện pháp giáo dục dinh
dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ, kết quả chung trên trẻ tăng lên rõ rệt:
Khá – tốt: tăng cao; Trung bình: giảm ; Đặc biệt trẻ yếu chiếm tỷ lệ rất ít. Điều này
cho thấy kết quả rất khả quan trong công tác giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an
toàn thực phẩm cho trẻ sau khi áp dụng đề tài nghiên cứu ở các tỷ lệ đạt khá cao.
Cho thấy việc cô giáo và phụ huynh đóng vai trò rất quan trọng giúp trẻ lĩnh hội
được nhiều hiểu biết của mình về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Từ đó
góp phần quan trọng trong việc giáo dục cho trẻ có kiến thức vũng vàng về dinh
dưỡng sức khỏe và vệ sinh an toàn thực phẩm là góp phần tạo ra một lớp người mới
18
có sự hiểu biết đầy đủ, tạo ra nguồn nhân lực khỏe mạnh cho đất nước làm cho xã
hội ngày càng phát triển.
Từ kết quả trên bản thân tôi rút ra bài học kinh nghiệm trong công tác giáo dục
dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non.
C.KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
I. KẾT LUẬN
Gần một năm nghiên cứu và tìm tòi sau đó áp dụng các biện pháp vào việc
chăm sóc giáo dục trong trẻ 5 - 6 tuổi về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm,
để đạt được kết quả tốt không phải là dễ. Chính vì vậy trong các hoạt động ngoài
việc truyền thụ kiến thức cơ bản của từng môn tôi khéo léo lồng ghép, kết hợp giáo
dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm sao cho phù hợp, nhẹ nhàng, thoải
mái. Ngoài các hoạt động có chủ định ra tôi cũng khéo léo lồng ghép giáo dục dinh
dưỡng cho trẻ vào các hoạt động khác, từ đó trẻ sẽ lĩnh hội một cách nhanh chóng
và thoải mái, không gò ép.
- Để giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ 5 - 6 tuổi người
giáo viên cần phải có năng lực và trình độ chuyên môn, có kiến thức về dinh dưỡng
để làm tốt nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục trẻ, ngoài ra cần phải có lòng yêu nghề
mến trẻ.
- Bản thân tôi luôn tự học hỏi đồng nghiệp, tìm tòi những biện pháp hay trong tài
liệu sau đó áp dụng vào việc chăm sóc giáo dục trẻ.
- Cần phải chuẩn bị tốt đồ dùng và đồ chơi đẹp rõ ràng cả về màu sắc và đặc điểm
cho trẻ khám phá.
- Thường xuyên tạo cơ hội cho trẻ được trực tiếp quan sát những thực phẩm thật.
- Luôn tìm tòi tranh có liên quan về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm đẹp,
hấp dẫn. Giới thiệu góc học tập và trao đổi với phụ huynh.
- Tôi luôn kết hợp giữa gia đình và nhà trường để giúp trẻ tiếp cận và lĩnh hội
những kiến thức cơ bản về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm một cách tốt
hơn.
- Học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước, nghiên cứu tài liệu để từ đó rút
cho mình những bài học hay nhất góp phần vào việc chăm sóc và giáo dục trẻ đạt
kết quả cao.
II. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
19
- Đối với nhà trường ban giám hiệu cần tham mưu với lãnh đạo địa phương cũng
như tuyên truyền vận động sự ủng hộ của phụ huynh để bổ sung thêm vào cơ sở vật
chất và các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục trẻ.
Cần tổ chức hội nghị phụ huynh toàn trường tuyên truyền với các bậc phụ huynh
tăng thêm khẩu phần ăn cho các cháu để đảm bảo năng lượng hơn nữa cho các
cháu.
- Phòng giáo dục: Tổ chức buổi tập huấn về chuyên đề dinh dưỡng và vệ sinh an
toàn thực phẩm cho toàn bộ giáo viên được tham dự.
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ được rút ra trong quá trình tôi giảng dạy
nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ. Những kinh nghiệm trên của tôi không tránh khỏi
phần thiếu sót và hạn chế. Những vấn đề đó nếu được cấp trên đóng góp ý kiến xây
dựng, tôi sẽ khắc phục trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ nói chung và giáo
dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm nói riêng trong những năm học tiếp
theo đạt kết quả tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Nga Lĩnh, ngày 16 tháng 4 năm 2012
Người viết sáng kiến kinh nghiệm
Yên Thị Liễu
20