Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Kinh nghiệm sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy học môn Công nghệ 8 góp phần đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.4 MB, 21 trang )

Mục lục
Nội dung

Trang

1. Mở đầu.

2

- Lí do chọn đề tài.

2

- Mục đích nghiên cứu.

2

- Đối tượng nghiên cứu

3

- Phương pháp nghiên cứu

3

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.

3

2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm


3

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm

4

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

6

2.3.1. Sử dụng sơ đồ tư duy vào việc hình thành kiến thức mới
trong dạy học công nghệ khối lớp 8.

6

2.3.2. Sử dụng bản đồ tư duy trong hệ thống hóa kiến thức sau
một chương, một chủ đề

14

2.3.3. Sử dụng bản đồ tư duy trong kiểm tra đánh giá

15

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường

17


3. Kết luận, kiến nghị.

19

- Kết luận

19

- Kiến nghị

19

1. Mở đầu.
1


- Lí do chọn đề tài
Bước vào giai đoạn mới của cách mạng, giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế, đòi hỏi sự
nghiệp giáo dục Việt Nam cũng ngày càng phát triển. Để phát triển giáo dục trước
hết phải nâng cao chất lượng giáo dục, trong đó đổi mới phương pháp dạy và
phương pháp học là một trong những con đường quan trọng và công cụ thiết yếu.
Bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống được sử dụng ở các nhà trường
trung học cơ sở , có nhiều trường đã và đang kết hợp sử dụng các phương pháp dạy
học tích cực.
Môn Công nghệ là một trong những môn học quan trọng trong hệ thống kiến
thức của học sinh THCS, và là môn học đặc thù có thể sử dụng kết hợp các phương
pháp để nâng cao chất lượng dạy của giáo viên và chất lượng học của học sinh.
Những năm qua, thực hiện chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thanh
Hóa, đội ngũ giáo viên Trường THCS Nga Trường Huyện Nga Sơn đã từng

bước áp dụng phương pháp dạy học bằng sơ đồ tư duy (mind map) vào một số
môn như Công nghệ, Sinh học, Vật lý, Hóa học..., và đã thu được những kết
quả khả quan. Nhưng vấn đề đặt ra là làm sao giúp học sinh đang quen với
cách dạy học theo phương pháp truyền thống, chuyển sang học theo phương
pháp sử dụng bản đồ tư duy một cách hiệu quả nhất? Mặc dù sơ đồ tư duy
hay bản đồ tư duy (Mind Map) là một phương pháp học tập hiệu quả, tích
cực, hiện đại và nhiều lí thú. Nhưng làm thế nào để sử dụng sơ đồ tư duy một
cách có hiệu quả trong từng tiết dạy, từng kiểu bài, đặc biệt là đối với bộ môn
Công nghệ đó là vấn đề mà nhiều giáo viên gặp phải khi đưa sơ đồ tư duy vào
giảng dạy. Bản thân tôi những năm học gần đây tôi đã từng bước nghiên cứu
và sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy học môn công nghệ nói chung và môn công
nghệ khối 8 nói riêng kết quả thu được cũng rất khả quan, học sinh đã chủ
động tiếp thu kiến thức hơn, nhớ được kiến thức nhanh hơn và lâu quên hơn
vì vậy tôi mạnh dạn xin được trình bày “Kinh nghiệm sử dụng sơ đồ tư duy
vào dạy học môn Công nghệ 8 góp phần đổi mới phương pháp dạy học nhằm
phát huy tính tích cực của học sinh ở trường THCS Nga Trường huyện Nga
Sơn” để từ đó tôi muốn đưa ra những ý kiến, kinh nghiệm của cá nhân mình,
trong thời gian vừa qua để cùng các bạn đồng nghiệp thảo luận tìm ra những
giải pháp tốt nhất cho những tiết dạy của mình và các hoạt động ngoại khóa
của bộ môn Công nghệ.
- Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề xuất nội dung biện pháp sử dụng sơ đồ tư duy (SĐTD) vào dạy

2


học môn công nghệ 8, góp phần đổi mới phương pháp dạy học truyền thống sang
phương pháp dạy học tích cực, nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh
vào dạy và học môn Công nghệ 8 ở trường THCS Nga Trường Huyện Nga
Sơn.

- Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động dạy, học môn Công nghệ 8 bằng sơ đồ tư duy của Trường THCS
Nga Trường, Huyện Nga Sơn.
- Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam; sáng kiến được nghiên cứu và vận
dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp hệ thống - cấu trúc: được sử dụng trong quá trình hệ thống hóa
kiến thức các tác phẩm và thể hiện bằng SĐTD.
- Phương pháp thực nghiệm: Được sử dụng trong quá trình áp dụng đề tài đối
với các lớp được chọn làm đối tượng thực nghiệm.
- Phương pháp so sánh: Được sử dụng trong quá trình so sánh đối chiếu kết
quả bài kiểm tra giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Được sử dụng trong quá trình khảo sát,
phân tích kết quả thực nghiệm và tổng hợp kết quả thực nghiệm.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Sơ đồ tư duy là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý
tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức… bằng cách kết hợp
việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy
tích cực. Tác giả của SĐTD là Tony Buzan, ông là người đã thúc đẩy làn sóng
cách mạng học tập bùng nổ tại nhiều nước trên thế giới và khu vực, trong đó
có Việt Nam. Có thể nói, SĐTD là con đường dẫn học sinh đến với phương
pháp “học cách học”.
Ở Việt Nam, từ năm 2010, phương pháp dạy học tích cực bằng SĐTD đã
được triển khai thí điểm tại 355 trường trên toàn quốc. Trong dịp hè 2011, để
chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc tiến hành giảm tải nội dung dạy học
ở các nhà trường bậc phổ thông từ năm học 2011 -2012, phương pháp dạy học
bằng SĐTD là 1 trong 5 chuyên đề dạy học tích cực đã được tập huấn cho
hơn 4.000 giáo viên cốt cán bậc THCS cả nước. Đây là một trong những

phương án nhận được nhiều sự ủng hộ của học sinh cũng như cán bộ trong
ngành giáo dục, đặc biệt là đội ngũ giáo viên.
Tuy nhiên, việc chuyển đổi các dòng chữ dài và đơn điệu trong sách giáo
khoa thành các bài học với những hình vẽ, đường cong sinh động và dễ hiểu
3


không phải là vấn đề dễ dàng đối với giáo viên và học sinh hiện nay. Việc
thay đổi cách nghĩ, cách học đối với các em học sinh nông thôn, những học
sinh cá biệt, hay các lớp học mà học sinh có mặt bằng nhận thức không đồng
đều, lại càng khó khăn và phức tạp hơn. Bởi vì, từ lâu các em đã quen với
việc chỉ cần ghi chép các nội dung mà thầy, cô truyền đạt, khi về nhà chỉ cần
học thuộc lòng bài cũ, không cần hiểu sâu hay áp dụng vào thực tế, tất cả
những điều đó đã ăn mòn trong cách học của các em bấy lâu nay, do vậy, việc
vận dụng phương pháp SĐTD lại càng trở nên nan giải đối với giáo viên.
Từ những vấn đề lý luận nêu trên, có thể khẳng định SĐTD là một công
cụ hữu ích trong giảng dạy và học tập. Bằng phương pháp này, giáo viên và
học sinh có thể trình bày ý tưởng và nội dung bài học một cách rõ ràng, sáng
tạo, thông tin được tóm tắt cô động, đưa ra được nhiều ý tưởng mới… Trong
đó, giáo viên đóng vai trò hướng dẫn, tổ chức, nhận xét, bổ sung và đánh giá
trong tiết học; học sinh không phải ghi chép nhiều, thời gian của tiết học được
dùng để thảo luận nghiên cứu và báo cáo; đồng thời học sinh được rèn luyện
nhiều kỹ năng, tự tin viết và báo cáo trước tập thể, qua đó giúp các em vượt
qua rào cản tự ti và dám thể hiện chính bản thân mình trước thầy, cô và các bạn
trong lớp…
Trong bối cảnh và thực trạng như vậy, là một giáo viên có hơn mười năm
thâm niên giảng dạy học sinh THCS, đã từng thử nghiệm phương pháp dạy
học theo SĐTD, tôi nhận thấy việc đưa ra những giải pháp nhằm giúp thầy và
trò chuyển đổi cách học từ phương pháp cũ sang phương pháp mới tích cực,
phối hợp các phương pháp dạy học tích cực với nhau để tạo hiệu quả cao

trong tiết học là rất cần thiết.
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm ở Trường
THCS Nga Trường Huyện Nga Sơn
* Thuận lợi:
- Trường THCS Nga Trường Huyện Nga Sơn luôn nhận được sự quan
tâm của các cấp lãnh đạo:
- Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thanh Hóa, Phòng Giáo dục và đào tạo
huyện Nga Sơn, Đảng ủy, UBND xã Nga Trường. Nhà trường có một cơ sở
dạy và học đáp ứng được nhu cầu của một trường chuẩn quốc gia giai đoạn I,
việc tiến hành sáng kiến kinh nghiệm này có những thuận lợi đáng kể.
Học sinh của Trường đa số là con em nông thôn nên rất ngoan ngoãn biết
nghe lời và chịu khó học tập. Bản thân tôi là giáo viên người địa phương nên
việc tìm hiểu hoàn cảnh, nắm bắt được khả năng tiếp thu bài của học sinh
cũng như phát hiện ra những học sinh có năng khiếu rất thuận tiện.. Bên cạnh
4


đó Ban Giám hiệu luôn quan tâm, chỉ đạo kịp thời nên giáo viên có những ý
tưởng mới hay những biện pháp dạy học mới mang tính sáng tạo sẽ được ủng
hộ và triển khai vào thực tế.
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi nói trên, khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm
này tôi cũng gặp không ít những khó khăn ví dụ như phòng thí nghiệm và đồ
dùng dạy học của môn Công nghệ còn thiếu thốn; học sinh là con em nông
thôn, hay một số học sinh cá biệt; mặt bằng kiến thức không đồng đều, các em
quen với lối học thụ động, một số gia đình Bố mẹ đi làm ăn xa, đi làm công
ty nên việc quan tâm tới con cái chưa được thường xuyên… Chính những khó
khăn trên đã khiến tôi luôn mong muốn tìm ra biện pháp tốt nhất để giúp các
em bù lấp những khoảng trống kiến thức ở lớp dưới, hỗ trợ để các em tiếp thu
tốt chương trình đang học, từng bước nâng cao chất lượng đào tạo của

Trường.
Hiện nay trong thực tế, sơ đồ tư duy đã được đưa vào giảng dạy nhưng
chưa thường xuyên hoặc có sử dụng cũng chỉ là việc trình chiếu của giáo viên
học sinh chưa có kĩ năng vẽ và trình bày kiến thức dưới dạng sơ đồ tư duy dẫn
đến việc nhiều học sinh học tập một cách thụ động, đơn thuần là chỉ nhớ kiến
thức một cách máy móc mà không rèn luyện kỹ năng tư duy hay thuyết trình.
Với cách học truyền thống đã khiến tư duy của nhiều học sinh đi vào lối mòn,
học sinh chỉ ghi chép thông tin bằng các ký tự, đường thẳng… với cách ghi
chép này chúng ta không kích thích được sự phát triển của trí não, điều đó làm
cho một số học sinh tuy học tập rất chăm chỉ nhưng sự tiếp thu vẫn hạn chế, thụ
động. Học sinh học bài nào biết bài đó, cô lập nội dung của các môn mà chưa
nhận thấy sự liên hệ của kiến thức vì thế chưa phát triển được tư duy logic và
tư duy hệ thống, việc vận dụng kiến thức vào các bài học tiếp theo và ứng dụng
trong thực tiễn còn rất hạn chế. Các em không nắm bắt được kiến thức trọng
tâm, mối liên kết của chúng, bài học trở nên đơn điệu, khó nhớ kiến thức,
không kích thích được tính sáng tạo, tích cực học tập của cá nhân và tập thể. Vì
thế cuối tiết học tôi đặt câu hỏi để kiểm tra xem các em có ghi nhớ được gì
không. Câu trả lời là hầu hết các em không thể nhớ được nội dung và hệ
thống hóa được kiến thức của bài. Qua một số bài kiểm tra tôi cũng nhận ra
được thực trang chung là làm bài kiểm tra cũng hay bị thiếu hoặc sót nội
dung.
Đầu năm học 2014-2015 tôi đã thử nghiệm ở hai lớp 8A, 8B bằng hai
phương pháp khác nhau. Sử dụng phương pháp truyền thống ở lớp 8A, sử
dụng sơ đồ tư duy ở lớp 8B cho bài “ Bản vẽ chi tiết” môn Công nghệ 8. Sau
đó tôi đặt câu hỏi củng cố bài:
5


Em hãy cho biết nội dung của bản vẽ chi tiết? Trình tự đọc bản vẽ chi
tiết?

Kết quả đạt được như sau:
Lớp

Trả lời đầy
đủ kiến thức

Trả lời được
nội dung
chính
SL
%

SL

%

8A (28HS)

0

0

15

8B(24HS)

15

62.5


Tổng
(52HS)

15

28.8

Không trả lời
được
SL

%

53.6

13

46.4

7

29.1

2

8.4

22

42.3


15

28.9

Ghi chú

Đến hết năm học 2014-2015 kết quả học tập của hai lớp có sự khác biệt
rõ rệt.
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu, kém
Lớp
8A (28HS)
8B(24HS)

SL
3
12

%
10.7
50

SL
10
7

%

35.7
29.1

SL
14
5

%
50
20.9

SL
1
0

%
3.6
0

Từ thực tế trên tôi đã phần nào thấy được sự cần thiết của việc áp dụng
sơ đồ tư duy vào dạy học môn công nghệ 8 để giúp các em nâng cao trình độ
nhận thức, tiếp thu bài học nhanh, nhớ kiến thức được lâu hơn, phát huy tính
sáng tạo, khả năng tư duy và tích cực học tập. Tôi đã nghiên cứu, áp dụng và
mạnh dạn đưa ra biện pháp sử dụng SĐTD trong môn Công nghệ khối lớp 8
bằng các giải pháp thiết thực nhất cho từng kiểu bài để thực hiện như sau:
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Sử dụng sơ đồ tư duy vào việc hình thành kiến thức mới trong dạy học
công nghệ khối lớp 8
Để giúp học sinh đạt được kết quả cao trong việc hình thành kiến thức
mới bằng sơ đồ tư duy chúng ta cần phải dẫn dắt học sinh làm quen dần theo

mức độ từ dễ đến khó bằng một số hình thức tổ chức như sau:
a. Giáo viên cùng học sinh khai thác nội dung bài học mới bằng Sơ đồ tư
duy:
+ Hướng dẫn học sinh hiểu khái niệm, ý nghĩa của sơ đồ tư duy và tìm từ
chìa khóa.
Để áp dụng được phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy giáo viên cần có tiết
ngoại khóa hoặc phụ đạo để giúp các em hiểu khái niệm sơ đồ tư duy là gì, bài

6


phỏng vấn với tác giả của sơ đồ tư duy, các hình ảnh thực tế, thông qua hoạt
động này giúp các em say mê hứng thú trong việc tiếp cận với phương pháp
học mới.
+ Giáo viên cho học sinh tập “ Đọc hiểu” và tự vẽ sau từng bài học.
Ban đầu để học sinh làm quen dần với phương pháp mới này ngoài việc

giới thiệu về SĐTD giáo viên nên hướng dẫn học sinh cách phân tích nội
dung bài học và thể hiện nó bằng SĐTD thông qua một số tiết học có thể bằng
hình thức vẽ trực tiếp hoặc sử dụng giáo án powerpoint để tiết kiệm thời gian.
Với cách này giáo viên vẽ SĐTD ở trung tâm bảng – là nội dung chính
của bài học sau đó giới thiệu các nội dung tiếp theo của bài học qua các nhánh
cấp 1, cấp 2, cấp 3… kết hợp phương pháp đàm thoại, vấn đáp gợi mở, thuyết
trình của giáo viên và học sinh hoàn thiện dần SĐTD. Cuối cùng khi sơ đồ
hoàn thiện chính là nội dung bài học mà học sinh cần phải nắm được .
Ví dụ: Khi dạy bài “Hình chiếu” theo các bước như sau:
+ Bước 1: Giáo viên đặt vấn đề vào bài và vẽ (hoặc trình chiếu) chủ đề
trung tâm của bài học “ Hình chiều”
+ Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi để học sinh tự tìm hiểu những nội dung
chính của bài ( nhánh cấp 1)

Qua việc nghiên cứu trước bài mới ở nhà em hãy cho biết bài này gồm
những nội dung chính nào? (Khái niệm về hình chiếu, Các phép chiếu, Các
hình chiếu vuông góc, Vị trí các hình chiếu). Sau đó giáo viên khẳng định đó
chính là các nhánh cấp 1 của sơ đồ tư duy và vẽ từng nội dung ứng với các
nhánh bằng các màu phấn khác nhau.
+ Bước 3: Giáo viên dẫn dắt học sinh cùng nghiên cứu nội dung bài học
bằng cách phối hợp các phương pháp khác như đàm thoại, vấn đáp, thuyết
7


trình…từ đó hoàn thành tiếp các nhánh cấp 2, cấp 3 của từng nội dung bài
học.
Như vậy qua việc làm này học sinh vừa hoàn thành việc nghiên cứu nội
dung bài học vừa nhẹ nhàng tiếp cận và học cánh vẽ sơ đồ tư duy.
Giáo viên cần chú ý cho học sinh kỹ năng ghi chép trên sơ đồ tư duy đó
là: Dùng từ khóa và ý chính; Viết cụm từ, không viết thành câu; Dùng các từ
viết tắt. Có tiêu đề. Đánh số các ý; Liên kết ý nên dùng nét đứt, mũi tên, số,
màu sắc; Ghi chép nguồn gốc thông tin để có thể tra cứu lại dễ dàng; Sử dụng
màu sắc để ghi.

Những tiết tiếp theo tập cho các em tự vẽ bằng cách cho key words- tên
chủ đề hoặc một hình ảnh, hình vẽ của chủ đề chính vào vị trí trung tâm rồi
đặt các câu hỏi gợi ý để các em tiếp tục vẽ ra các nhánh cấp 1, cấp 2, cấp 3,…
vào một trang giấy. Có thể vẽ chung trên một cuốn vở hoặc để thành các trang
giấy rời, rồi kẹp thành một tập. Mỗi bài học được vẽ kiến thức trọng tâm trên
một trang giấy giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần, chỉ cần rút tờ
sơ đồ tư duy của bài đó ra là các em nhanh chóng ôn lại kiến thức một cách dễ
dàng.
Ví dụ: Sau khi học chương I – Công nghệ 8 “ Bản vẽ các khối hình học”,
mỗi em đã có một tập BĐTD: Bản vẽ các khối đa diện, Bản vẽ các khối tròn

xoay, …

Bản vẽ các khối đa diện
8


Bản vẽ các khối tròn xoay
b- Phối hợp hoạt động nhóm, thảo luận, báo cáo của cá nhân trong dạy,
học môn công nghệ 8
Sau khi các em đã hình thành được khả năng tự vẽ sơ đồ tư duy chúng ta
sẽ sử dụng sơ đồ tư duy để tìm chiến lược giải quyết một vấn đề bằng phương
pháp hoạt động nhóm theo các bước tiến hành như sau:
+ Đánh giá tình tình cụ thể của đối tượng dạy để phân nhóm
Trước tiên cần kiểm tra học lực và kết quả môn Công nghệ của học sinh
thông qua bảng điểm của những năm học trước, tiếp theo giáo viên đưa ra
những câu hỏi có cấp độ khó nâng cao dần để chọn lọc và đánh giá đúng thực
chất của học sinh.
Sau đó giáo viên tiến hành phân nhóm để các em hoạt động cố định trong
các tiết học. Thông thường với sĩ số học sinh trung bình của trường tôi là 25
học sinh/lớp, tôi chia mỗi lớp thành 5 nhóm, trong đó có cả học sinh giỏi, khá,
trung bình và yếu xen lẫn nhau. Kết quả hoạt động của mỗi thành viên chính
là kết quả hoạt động chung của cả nhóm. Trong đó thành viên nào của nhóm
sẽ báo cáo không được biết trước để tránh trường hợp ỷ lại.
Việc chia nhóm ngay từ những ngày đầu rất quan trọng vì nó sẽ ảnh
hưởng tới kết quả hoạt động và điểm số của các em sau này.
+ Tiến trình phối hợp hoạt động nhóm, thảo luận, báo cáo của cá
nhân trong việc sử dụng sơ đồ tư duy
*Chuẩn bị của giáo viên và học sinh:
Đối với giáo viên: soạn bài và thiết kế bài học theo SĐTD. Dựa vào nội
dung bài mới để đưa ra hệ thống câu hỏi. Phần câu hỏi này có thể được ghi

chép sẵn trên bảng phụ hoặc viết lên bảng. Chuẩn bị một số đồ dùng dạy học
như tranh ảnh, sơ đồ, ảnh động, máy chiếu… với nội dung tương ứng để minh
9


họa cho kiến thức được thể hiện trên SĐTD bởi vì khi sử dụng SĐTD, sẽ
không đủ diện tích bảng để học sinh vẽ hay lồng ghép tranh ảnh vào sơ đồ.
Chuẩn bị danh sách học sinh và đối tượng học sinh nào giáo viên muốn đánh
giá trong buổi học hôm đó.
Muốn việc tổ chức hoạt động nhóm không bị mất thời gian và gây ồn khi
học sinh quay lại với nhau để thảo luận sau đó lại trở về vị trí thì điều cần
thiết là phải bố trí không gian lớp học phù hợp cho nên tôi thường bố trí theo
hình chữ U để các nhóm thuận tiện trong các hoạt động.
Đối với học sinh: Toàn bộ học sinh đã được hướng dẫn thiết kế SĐTD sẽ
chuẩn bị bài mới ở nhà bằng cách tự thiết kế sơ đồ theo ý tưởng của mình.
Bên cạnh đó các em chuẩn bị thêm một số hình ảnh có liên quan tới bài học,
giải thích các hình vẽ và sơ đồ có trong nội dung bài mới. Lớp học phải có
phấn màu và nơi treo tranh, bảng phụ.
*Tiến trình bài mới:
Ví dụ khi dạy – học bài “ Vật liệu cơ khí”.
Bước 1: Giáo viên kiểm tra công tác chuẩn bị ở nhà của học sinh
Giáo viên dành khoảng 5 phút để kiểm tra việc chuẩn bị sơ đồ ở nhà của
học sinh. Khoảng thời gian này tương ứng với việc kiểm tra bài cũ theo cách
dạy truyền thống. Giáo viên chọn ra những bài làm đạt chất lượng tốt về hình
thức, có tính sáng tạo cao và một số bài làm sơ sài, có tính chống đối. Sau đó
phân tích những điểm được và chưa được của công việc chuẩn bị bài của học
sinh, khuyến khích các em đã chuẩn bị tốt bằng những lời khen, chỉ ra các
điểm mạnh mà các em này đã làm được. Bên cạnh đó nhắc nhở các em chưa
tích cực, chỉ ra các điểm tồn tại của học sinh bằng những câu nhận xét hài
hước, tránh làm các em cảm thấy bị tổn thương vì khả năng vẽ, phối màu, tổ

chức và thiết kế bài học cần có năng khiếu và thời gian làm quen làm. Qua
hoạt động kiểm tra bài soạn ở nhà giáo viên sẽ khởi động tiết học, gây hứng
thú cho học sinh ngay khi mới vào giờ học.

10


Bài chuẩn bị tốt
Bước 2: Hoạt động nhóm.

Bài chuẩn bị chưa tốt

Kết thúc phần kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh, giáo viên
yêu cầu học sinh cả lớp nhìn bao quát bài mới và đọc rõ tiêu đề bài học, dẫn
dắt học sinh vào bài mới.
Giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi liên quan tới nội dung bài học, khi trả
lời các câu hỏi này, học sinh sẽ nắm được nội dung bài mới. Các câu hỏi này
có thể được chuẩn bị trước bằng bảng phụ hay giáo viên sẽ viết lên bảng trong
khi học sinh hoạt động nhóm.
Học sinh cùng thảo luận với nhau theo nhóm đã chia trước (hai dãy dọc
mỗi dãy 2 nhóm và dãy ngang 1 nhóm), các em sẽ đưa SĐTD đã thiết kế ở nhà,
đối chiếu với bài của các bạn khác trong nhóm, kiểm tra lại các mục và nội
dung chính, bổ sung các thông tin còn thiếu trong bài của mình, trả lời các câu
hỏi trong sách giáo khoa và giải thích hình vẽ hay sơ đồ trong bài học. Trong
quá trình chuẩn bị SĐTD ở nhà các em có thể vẽ vào giấy A4 hay vở học, có
chừa ra những khoảng trống để bổ sung thêm khi giáo viên giảng bài, toàn bộ
SĐTD sau giờ học sẽ được lưu giữ lại như vở ghi chép của các em.
Trong khi học sinh hoạt động nhóm, giáo viên hỗ trợ các em khi gặp các
câu hỏi khó, sau đó giáo viên vẽ phần trung tâm với tiêu đề bài mới để trong
hoạt động tiếp theo các em sẽ tiếp tục thiết kế SĐTD.


Giáo viên hỗ trợ học sinh khi thảo luận nhóm
Kết thúc hoạt động nhóm học sinh phải nắm bắt được tổng thể kiến thức
có trong bài học, giải thích được kênh hình của bài, trả lời các câu hỏi của giáo
viên và câu hỏi trong sách giáo khoa, bổ sung được sơ đồ của mình theo ý
11


tưởng thảo luận của nhóm và sẵn sàng để chuyển sang hoạt động tiếp theo của
tiết học. Thời lượng của việc hoạt động nhóm khoảng 1/3 thời gian tiết học.
Bước 3: Báo cáo và thiết kế bài mới bằng SĐTD trên bảng.
Sau khi kết thúc hoạt động nhóm, giáo viên yêu cầu các nhóm cử đại diện
lên bảng thiết kế các mục của bài học bằng các đường nét, hình vẽ màu sắc
khác nhau. ví dụ nhóm thứ nhất thiết kế phần I, nhóm thứ hai sẽ thiết kế phần
II…, nhóm còn lại không có thành viên đựợc gọi lên bảng vẽ SĐTD sẽ được
báo cáo trước tập thể lớp. Như vậy các em đã thảo luận toàn bộ nội dung của cả
bài học, nhưng khi thiết kế SĐTD trên bảng thì mỗi nhóm chỉ vẽ một mục. Các
nhóm sẽ không biết trước nhóm mình sẽ thiết kế mục nào nên bắt buộc các em
phải thảo luận kỹ lưỡng nội dung của cả bài, không có hiện tượng bỏ qua kiến
thức. Nếu giáo viên giao nhiệm vụ trước cho học sinh, các em sẽ tập trung vào
mục mình sẽ làm mà bỏ qua các mục khác, dẫn tới có nội dung được nghiên
cứu sâu, nhưng có những mục các em không hiểu.
Từ phần trung tâm mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn trên bảng, các em là đại
diện của mỗi nhóm phải hội ý với nhau và thống nhất cách sẽ thiết kế và sử
dụng màu sắc cho sơ đồ bài học mới. Các học sinh đã lên thiết kế ở tiết này sẽ
không lên ở tiết sau, điều này sẽ giúp học sinh luôn ở tư thế chuẩn bị để làm
việc.
Giáo viên sẽ chỉ định một số học sinh có trong danh sách đã chuẩn bị ở
nhà để lên báo cáo (học sinh được gọi là của nhóm không có thành viên lên
vẽ). Các học sinh này còn yếu về khả năng tổng hợp, báo cáo hay còn chưa có

điểm miệng sẽ được gọi lên bảng.
Học sinh được chỉ định báo cáo sẽ lên đứng trên bục giảng giữa lớp học,
nói to, rõ, giới thiệu họ tên của mình, nhóm hoạt động và nội dung cần báo
cáo, giải thích hình vẽ trong mục nếu có. Giáo viên và cả lớp sẽ theo dõi bài
báo cáo này.

12


Học sinh đang hoàn thành sơ đồ và báo cáo
Bước 4: Giáo viên hướng dẫn thảo luận chung.
Kết thúc phần báo cáo của học sinh, giáo viên sẽ điều khiển hoạt động
của cả lớp với tư cách người dẫn chương trình. Trước tiên giáo viên nhận xét
về học sinh lên báo cáo bao gồm nội dung kiến thức và hình thức báo cáo
được chưa, tiếp theo là nhận xét về các ý kiến đóng góp, có ý kiến đúng có ý
kiến chưa hợp lý, giáo viên cần phân tích để cả lớp thấy được mặt ưu điểm và
mặt tồn tại của cả người lên báo cáo và người đưa ra ý kiến đóng góp. Cuối
cùng giáo viên sẽ giải thích lại và bổ sung kiến thức cần mở rộng trong nội
dung mục này.
Kết thúc phần này giáo viên sẽ kiểm tra luôn phần thiết kế của mục tương
ứng với mục vừa báo cáo trên bảng. Giáo viên cần căn thời gian làm sao để
khi học sinh thứ nhất báo cáo xong thì các em thiết kế trên bảng cũng đã hoàn
thành nhiệm vụ của mình và về chỗ để cùng hoạt động chung với cả lớp. Giáo
viên nhận xét phần nhánh thiết kế và bổ xung thêm kiến thức nếu cần, sử
dụng đồ dùng dạy học để minh họa cho nội dung của mục. Sau đó yêu cầu
học sinh kiểm tra lại bài thiết kế ở nhà của mình, bổ sung kiến thức nếu các
em còn thiếu. Cứ như thế, giáo viên tiếp tục chỉ định học sinh khác lên báo
cáo, các em khác đưa ra ý kiến nhận xét, giáo viên nhận xét và hoàn chỉnh
kiến thúc và SĐTD của từng nhóm trên bảng.
Thời lượng tiến hành hoạt động này chiếm gần 2/3 hoạt động của tiết học.

Bước 5: Giáo viên nhận xét tiết học, đánh giá hoạt động từng nhóm và
xếp loại. cho điểm những em có thành tích tốt trong tiết học.
Kết quả bài học được xây dựng bởi hoạt động chuẩn bị ở nhà của học
sinh, hoạt động thảo luận nhóm, báo cáo trước lớp, thiết kế sơ đồ của các cá
nhân và hoạt động thảo luận chung của cả lớp. Kết thúc bài học SĐTD hoàn
chỉnh với toàn bộ nội dung bài học trên bảng, học sinh sẽ kiểm tra lại bài của
mình để bổ sung.

13


Sơtrong
đồ bàihệhọc
hoàn
2.3.2. Sử dụng bản đồ tư duy
thống
hóachỉnh
kiến thức sau một chương,
một chủ đề
Việc sử dụng sơ đồ tư duy để hệ thống hóa kiến thức về bản chất cũng
giống như việc xây dựng sơ đồ trên, đều phát triển các nhánh theo cấu trúc
của vấn đề. Việc sử dụng sơ đồ tư duy rất thuận lợi cho việc củng cố và hệ
thống hóa kiến thức.Vì nội dung của môn công nghệ khá đa dạng, thời lượng
dành cho các tiết ôn tập để hệ thống hóa kiến thức cho một chủ đề, một
chương rất hạn chế nên việc lựa chọn nội dung và hình thức tổ chức phải
được giáo viên chuẩn bị chu đáo để dẫn dắt học sinh tiến hành theo các bước
sau:
Bước 1: GV cho HS hoặc nhóm HS vẽ BĐTD để hệ thống hóa kiến
thức.
Đối với các chương có sử dụng sơ đồ tư duy ở từng bài ví dụ: Chương I

“ Bản vẽ các khối hình học” như đã trình bày ở giải pháp (a) thì lúc này giáo
viên yêu cầu học sinh sắp xếp lại tập bản đồ đã vẽ của từng bài học và xem
lại là các em đã nhanh chóng ôn lại kiến thức một cách dễ dàng, và mất rất ít
thời gian (vì chương này sau khi học xong không có tiết ôn tập chương)
Đối với các chương không sử dụng sơ đồ tư duy ở các bài thì trước tiên
giáo viên nên định hướng cho học sinh lập bản đồ tư duy bằng việc trả lời các
câu hỏi để: Xác định chủ đề trung tâm (đặt trên mặt giấy nằm ngang), tiếp
theo là các tiêu đề phụ, trong từng tiêu đề phụ vẽ thêm các ý chính và các chi
tiết hỗ trợ (ở bước này giáo viên cần lưu ý cho HS có thể thêm nhiều hình ảnh
nhằm giúp các ý quan trọng thêm nổi bật, cũng như giúp lưu chúng vào trí
nhớ của các em tốt hơn)
Ví dụ: Tiết 34 ôn tập phần II “ Cơ Khí”
Trước hết giáo viên yêu cầu học sinh trả lời một số câu hỏi như sau:
Chủ đề trọng tâm của chương II là gì?
Ở chương này có mấy tiêu đề phụ?
Các tiêu đề phụ gồm những nội dung nào?
Từ đó HS vẽ sơ đồ tư duy để hệ thống hóa những kiến thức đã học của
phần II: Cơ khí.
Kết quả đạt được như sau:

14


Bước 2: HS trình bày.
Sau khi các nhóm đã hoàn thành sơ đồ tư duy của mình. Giáo viên cho
HS trình bày kết quả của mình trước lớp theo hình thức báo cáo như đã trình
bày ở giải pháp (3.1b). Các nhóm khác lắng nghe, đối chiếu với kết quả nhóm
mình.
Bước 3: Chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện.
Ở bước này giáo viên yêu cầu các nhóm chuyển kết quả cho nhau theo

thứ tự ( nhóm 1 chuyển đến nhóm 2, nhóm 2 chuyển đến nhóm 3, nhóm 3
chuyển đến nhóm 4, nhóm 4 chuyển đến nhóm 5, nhóm 5 chuyển đến nhóm
1) hoặc GV chiếu bằng máy chiếu để cho học sinh các nhóm nhận xét chéo
lẫn nhau cuối cùng giáo viên là người chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện kiến
thức có thể bằng một sơ đồ tư duy đã được chuẩn bị sẵn để học sinh tham
khảo rút ra bài học cho bản thân.
2.3.3. Sử dụng bản đồ tư duy trong kiểm tra đánh giá
Như chúng ta đã biết kiểm tra và đánh giá là hai khâu quan trọng trong
một quy trình thống nhất nhằm xác định kết quả thực hiện mục tiêu dạy học.
Theo tôi việc kiểm tra bằng sơ đồ Tư duy là một hình thức kiểm tra toàn diện.
Thông qua đó, giáo viên không chỉ đánh giá được kiến thức của học sinh, khả
năng ghi nhớ, sự chuyên cần học tập. Hơn thế nữa, nó còn cho phép giáo viên
đánh giá được năng lực tư duy khoa học, tính logic, trí tưởng tượng, óc thẩm
mỹ và sáng tạo của học sinh. Chính vì điều đó, sự phản hồi của học sinh
thông qua sơ đồ Tư duy có giá trị hơn rất nhiều so với phương pháp kiểm tra
tự luận và trắc nghiệm khách quan.
- Cuối các tiết học (phần củng cố kiến thức)
Tùy vào nội dung của bài học dài hay ngắn mà chúng ta có thể chọn linh
hoạt một trong các cách sau:
+ Những bài có nội dung kiến thức dài như bài “ Dụng cụ cơ khí” chúng
ta nên tổ chức trò chơi nhằm thay đổi không khí tiết học:
Cách 1. Chọn thẻ bài
Giáo viên chuẩn bị sẵn những thẻ bài đã ghi nội dung, đề mục chính của
bài lên mỗi thẻ. Thẻ được làm bằng giấy bìa cứng, sau có đính băng dính 2
mặt. Yêu cầu học sinh sắp xếp các thẻ bài thể hiện nội dung bài học.
Cách 2. Các đội đua tài
15


Yêu cầu đưa ra là một sơ đồ chưa hoàn thành được chuẩn bị trước bằng

bảng phụ (nếu bài dạy không sử dụng CNTT), hoặc bằng cách trình chiếu.

Sơ đồ chưa hoàn thành bài Thiết bị đóng-cắt và lấy điện của mạng điện trong nhà

Giáo viên chia lớp thành 3 đội ( 3 dãy) trong đó 2 đội chơi và một đội
làm giám khảo. Yêu cầu mỗi đội chơi hoàn thành một nội dung của bài theo
sơ đồ tư duy. Đội giám khảo sẽ có nhiệm vụ nghiên cứu nội dung bài học,
nhận xét kết quả của 2 đội chơi theo tiêu chí giáo viên đã đưa ra.
+ Những bài có nội dung kiến thức ngắn chúng ta nên cho học sinh làm
việc theo nhóm và hoàn chỉnh nội dung toàn bộ bài bằng một sơ đồ tư duy.
Ví dụ ở những tiết học chúng ta sử dụng các phương pháp khác như bài “
Đặc điểm và cấu tạo của mạng điện trong nhà” để kiểm tra việc tiếp thu kiến
thức của HS giáo viên đặt câu hỏi để củng cố bài như sau: Em hãy nêu những
đặc điểm và cấu tạo của mạng điện trong nhà bằng một sơ đồ tư duy? GV sẽ
dành thời gian cho HS thảo luận nhóm trong 5 phút vào khổ giấy A 3 và sau đó
cho học sinh nhận xét chéo kết quả.
- Kiểm tra 15 phút
Sử dụng sơ đồ tư duy để kiểm tra 15 phút sẽ giúp GV dễ ra đề- dễ đánh
giá năng lực sáng tạo của HS và GV dễ chấm bài hơn. Thông thường việc
kiểm tra 15 phút sẽ được đưa ra bằng một vài câu hỏi tự luận như vậy sẽ
không đánh giá được học sinh có ghi nhớ được các nội dung của bài hay
không và cũng không thể phát huy được tính sáng tạo của học sinh, thay vào
đó chúng ta nên sử dụng sơ đồ tư duy để kiểm tra được sự phản hồi của học
sinh.

16


Ví dụ sau khi học xong tiết 41 Chúng ta tiến hành kiểm tra 15 phút để
xác định được mức độ đạt được về nội dung sau khi kết thúc của chương đồ

dùng điện gia đình bằng câu hỏi như sau:
Trình bày kiến thức về các đồ dùng điện gia đình bằng sơ đồ tư duy?
Với đề bài này học sinh sẽ phải thể hiện được tất cả những kiến thức về
các đồ dùng điện gia đình như việc phân nhóm, nghuyên lí làm việc của mỗi
nhóm, nêu một số đồ dùng thuộc mỗi nhóm….

Một bài làm của học sinh
+ Kiểm tra 1 tiết
Đối với đề kiểm tra 1 tiết chúng ta không nên dùng sơ đồ tư duy cho toàn
bộ số lượng các câu hỏi như vậy sẽ gây ra nhàm chán, phản tác dụng mà chỉ
nên sử dụng cho câu cuối để đánh giá, phân loại học sinh khá giỏi.
Ví dụ: Tiết 44 kiểm tra một tiết ở học kì II. Chúng ta có thể dùng sơ đồ tư
duy bằng một trong những câu hỏi sau:
Trình bày kiến thức về vật liệu kĩ thuật điện bằng một sơ đồ tư duy?
Trình bày kiến thức về đèn sợi đốt bằng một sơ đồ tư duy?
Trình bày kiến thức về máy biến áp bằng một sơ đồ tư duy?
Trình bày kiến thức về việc sử dụng hợp lí điện năng bằng một sơ đồ tư
duy?
Trình bày kiến thức về các thiết bị đóng cắt, bảo vệ và lấy điện của mạng
điện trong nhà bằng một sơ đồ tư duy?
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Việc sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy học sẽ đạt được một số kết quả như
sau:
17


+ Đối với học sinh: Vận dụng được khả năng sáng tạo của bản thân trong
việc học và làm, đặc biệt hơn nữa các em hiểu và thuộc bài ngay trên lớp. Có
ý thức chủ động học bài tốt hơn. Mỗi cá nhân đều phát huy hết khả năng của

mình và được giáo viên cùng các bạn ghi nhận. Điều này đã khuyến khích
học sinh say mê môn học này hơn.
+ Đối với giáo viên: Với cách dạy này GV đóng vài trò người hướng dẫn,
chỉ đạo và kiểm tra, hoàn toàn không phải giảng giải quá nhiều, mất thời gian
và gây nhàm chán. Trong việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh
cũng đơn giản hơn rất nhiều.
+ Ảnh hưởng của sáng kiến kinh nghiệm đến phong trào giáo dục trong
nhà trường: Học sinh trường THCS Nga Trường đa số là con em nông thôn
nên áp dụng phương pháp dạy – học nêu trên giúp các em tiếp cận một cách
dễ dàng với phương pháp dạy học mới như lấy học sinh làm trung tâm, phát
huy được tính tích cực học tập của học sinh. Các em không chỉ áp dụng cách
học này đối với môn môn Công nghệ, mà còn áp dụng tốt trong quá trình học
các môn học khác như: Toán, Lý, Sinh, Địa, Giáo dục công dân, Văn, tiếng
Anh…
Tuy nhiên việc chỉ sử dụng mỗi SĐTD vào dạy học môn Công nghệ sẽ
gặp một số hạn chế nhất định vì không phải bất cứ tiết học nào cũng có thể áp
dụng SĐTD để dạy và học một cách thành công, chúng ta cần biết cách lồng
ghép kết hợp với các phương pháp khác như thảo luận nhóm, ứng dụng công
nghệ thông tin, trò chơi… để các tiết học thêm phần sinh động và đạt được
hiệu quả tốt nhất.
+ Kết quả thu được qua khảo nghiệm:
Sau gần 2 năm đưa vào áp dụng phương pháp này tại khối 8 trường
THCS Nga Trường tôi đã thu được một số kết quả nhất định đặc biệt năm học
2015-2016 tôi đã thu được kết quả rất khả quan như sau:
Ví dụ: Sau khi học xong bài “ Bản vẽ chi tiết” môn Công nghệ 8 trong
năm học 2015-2016 tôi cũng đặt ra câu hỏi củng cố bài:
Em hãy cho biết nội dung của bản vẽ chi tiết? Trình tự đọc bản vẽ chi
tiết?
Kết quả đạt được như sau:
Trả lời được Trả lời được

Không trả lời
đầy đủ kiến
nội dung
Ghi chú
Lớp
được
thức
chính
SL
%
SL
%
SL
%
8A (25HS)
14
56
11
44
0
0
18


8B (25HS)
Tổng
(50HS)

16


64

9

36

0

0

30

60

20

40

0

0

Ngoài ra kết quả kiểm tra giữa học kì II của bộ môn Công nghệ ở các lớp
khối 8 đều rất cao:
Kết quả kiểm tra giữa học kì II năm học 2015-2016 như sau:
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu, kém
Lớp

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

8A

12

48

8

32

4

16


1

4

8B

11

44

8

32

5

20

1

4

Từ kết quả nói trên, tôi đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào
tạo của trường, góp phần đưa chất lượng đại trà, và tỷ lệ học sinh khá giỏi của
trường luôn đứng thứ hạng cao của huyện Nga Sơn.
3 . Kết luận, kiến nghị
- Kết luận
Bằng việc sử dụng SĐTD vào dạy học phối hợp với các phương pháp dạy học
khác trong tổ chức dạy học môn Công nghệ nói chung và môn Công nghệ 8 nói
riêng, cho thấy SĐTD thật sự là một công cụ hữu ích trong giảng dạy và học

tập.
Tuy nhiên, phương pháp dạy học bằng sử dụng SĐTD còn khá mới mẻ
và chưa thật sự phổ biến. Để thực hiện SĐTD đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của
cả giáo viên và học sinh, với nhiều giai đoạn và công việc khác nhau. Vì vậy,
giáo viên cần kiên trì trong việc tổ chức để giúp cho học sinh từng bước làm
quen với phương pháp học còn tương đối mới để chuyển từ phương pháp dạy
và học truyền thống sang học theo phương pháp sử dụng SĐTD có hiệu quả;
Tôi tin tưởng rằng phương pháp dạy – học bằng SĐTD sẽ nhận được sự ủng
hộ của giáo viên, học sinh, và sẽ góp phần quan trọng nâng cao chất lượng
dạy học ở bậc THCS.
- Kiến nghị
Đối với giáo viên cần kiên trì tổ chức từng bước, giúp học sinh tiếp cận,
làm quen với từng cách học mới sau đó mới phối hợp lại thành một bài học
hoàn thiện. Cần cho các em thời gian làm quen từ bước chuẩn bị bài ở nhà
theo dạng soạn truyền thống, học và báo cáo theo phương thức chuyển đổi
dần từ chỗ giáo viên làm việc sang phương thức học sinh làm việc, tiếp theo
đó là cách thức thiết kế SĐTD bài học mới ở nhà, thảo luận, sau đó tập vẽ trên
bảng và báo cáo, cuối cùng giáo viên tổ chức cho học sinh phối hợp các
19


phương thức trên thành một tiết học tốt. Giáo viên phải thường xuyên nhận
xét và khuyến khích học sinh, biểu dương kịp thời khi các em có sự tiến bộ
trong học tập, khai thác những khả năng tiềm ẩn của học sinh phát huy khả
năng sáng tạo của các em. Khi kiểm tra đánh giá cần phải công bằng, minh
bạch có nhận xét ưu, nhược điểm rõ ràng, chi tiết. Luôn tạo hứng thú cho học
sinh, tổ chức để lớp học sôi nổi và thực hiện tốt chỉ đạo trường học thân thiện,
học sinh tích cực.
Đối với các cấp lãnh đạo cần tạo điều kiện và quan tâm với những sáng
kiến của giáo viên khi mới nghiên cứu và áp dụng ở cơ sở. Nếu các sáng kiến

này có hiệu quả ứng dụng cao, cần phổ biến để đồng nghiệp góp ý và hoàn
thiện hơn trước khi áp dụng rộng rãi./.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Nga Trường, ngày 13 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.

Phạm Thị Hoa

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Dạy tốt – học tốt các môn học bằng bản đồ tư duy, Trần Đình Châu
– Đặng Thị Thu Thủy, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011.
2. Bản đồ tư duy trong công việc, Tony Buzan, NXB Lao động- Xã hội.
3. Hướng dẫn thiết kế, sử dụng bản đồ tư duy đổi mới phương pháp dạy
học và hỗ trợ công tác quản lý nhà trường của Thạc sĩ Trần Đình Châu
4. (trang web chính thức của Tyno Buzan)
5. www.google.com.vn

21




×