Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS Nga Văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.85 KB, 17 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
- Lý do chọn đề tài
Giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng, chính là phương thức
chuyển hóa đạo đức của xã hội thành văn hóa đạo đức của cá nhân. Nói cách
khác, đó là phương thức và quá trình chuyển những nguyên tắc, những chuẩn
mực, những quan điểm và lý tưởng đạo đức của xã hội thành những phẩm chất
đạo đức cá nhân, thành nhu cầu và tình cảm đạo đức, thành niềm tin và trí thức,
thành trách nhiệm và nghĩa vụ, thành ý chí và động cơ cá nhân, thành năng lực
sáng tạo và đánh giá đạo đức của mỗi con người. Công việc này phải tiến hành
thường xuyên phải rèn luyện bền bỉ hàng ngày, phải coi đây là công việc của tất
cả mọi người và diễn ra mọi lúc mọi nơi. Đây cũng là một công việc hết sức
khó khăn, nó đòi hỏi sự nỗ lực, tính tự kiềm chế và cả tính kiên trì. Một con
người hôm nay là tốt nhưng chưa có gì có thể đảm bảo chắc chắn rằng, ngày
mai, ngày kia, anh ta cũng vấn là người tốt. Cho nên mỗi con gười, trong suốt
cuộc đời của mình, cần phải nỗ lực rèn luyện liên tục để khẳng định và vươn tới
cái thiện, chống lại cái ác trong cuộc sống và ngay cả trong chính bản thân
mình.
Công cuộc đổi mới ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có vấn
đề giáo dục đạo đức. Có thể nói, chưa bao giờ sự nghiệp giáo dục của nước ta
lại phải chịu nhiều tác động bởi cơ chế thị trường và quá trình toàn cầu hóa như
hiện nay. Khi đời sống Kinh tế - xã hội có sự thay đổi, với các chính sách mở
cửa, hội nhập với thế giới có những tác động tích cực và tiêu cực tới nhà trường
phổ thông. Với học sinh, các em có nhiều điều kiện tiếp xúc với nhiều luồng
thông tin và các luồng văn hóa khác nhau. Vì vậy, những quan điểm đạo đức
truyền thống cũng bị mai một phần nào. Một bộ phận học sinh đã quên đi
những thuần phong, mỹ tục, bản sắc văn hóa quý báu của dân tộc, thay vào đó
là lối sống thực dụng, đua đòi, ích kỷ...
Cho nên, việc tăng cường đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, đặc biệt là giáo
dục đạo đức vừa là yêu cầu của công cuộc đổi mới về kinh tế - xã hội, vừa là
đòi hỏi cấp thiết của sự nghiệp phát triển con người và xây dựng một môi
trường đạo đức lành mạnh của xã hội.


Đối với học sinh THCS Nga Văn, nơi tôi đang công tác, trong những
năm qua cũng không nằm ngoài tình trạng chung của xã hội. Một số học sinh
có lối sống đua đòi, ham chơi, lười biếng trong học tập và rèn luyện. Mặc dù
các thầy cô giáo đã làm nhiều, nói nhiều, công sức bỏ ra không ít nhưng kết quả
thu được vẫn còn hạn chế. Như vậy, vấn đề đặt ra là phải có biện pháp giáo dục
đạo đức hữu hiệu nhằm góp phần giáo dục nhân cách toàn diện cho học sinh.
Nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cho
học sinh trong nhà trường tôi quyết định chọn đề tài: “ Một số biện pháp chỉ
đạo công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS Nga Văn”.
- Mục đích nghiên cứu
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn ở trường THCS Nga Văn nơi bản thân tôi đang
công tác, đề xuất một số biện pháp thích hợp và khả thi về công tác chỉ đạo
giáo dục đạo đức nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh,
đáp ứng yêu cầu, mục tiêu giáo dục trong giai đoạn hiện nay.


- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu một số lý luận có liên quan đến công tác giáo dục đạo đức học
sinh.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng của việc giáo dục đạo đức học sinh của
trường THCS Nga Văn.
+ Đề xuất một số biện pháp chỉ đạo công tác giáo dục đạo đức học sinh của
trường THCS Nga Văn.
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Các biện pháp chỉ đạo công tác giáo dục đạo đức học sinh trong trường
THCS.
+ Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi của trường THCS Nga Văn năm học
2015-2016.
- Phương pháp nghiên cứu
+ Nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các văn kiện của Đại hội Đảng các cấp,

Luật giáo dục, tham khảo một số tài liệu có liên quan đến đề tài.
+ Nghiên cứu thực tiễn: Căn cứ vào tình hình nhà trường và thực tế kinh
nghiệm của bản thân trong công tác giáo dục đạo đức học sinh trong trường.
+ Các phương pháp hỗ trợ: Thống kê, lập biểu, phân tích.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Theo quan niệm Phương Đông, trong các học thuyết của Phật giáo, Nho
giáo đều lấy đức làm cơ sở trong đối nhân, xử thế và tự rèn luyện mình, khuyên
con người làm điều thiện, tránh điều ác. Đạo đức có nghĩa là đạo làm người,
bao gồm rất nhiều chuẩn mực về các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ,
anh em, làng xóm, bạn bè, tu thân, dưỡng tâm...theo những định hướng giá trị
nhất định.
Còn ở Phương Tây, người ta quan niệm: đạo đức là lĩnh vực của con
người mà hành vi, các mối quan tâm, những tình cảm được chia sẻ giữa người
này và người khác theo những mục tiêu và tiêu chí nhất định có liên quan tới tự
do và trật tự phức tạp của cộng đồng.
Trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Mác và Ăngghen
đã xây dựng một học thuyết có tính cách mạng, gắn đạo đức với các phương
thức sản xuất. Khi phương thức sản xuất thay đổi thì các quan niệm đạo đức dù
nhanh hay chậm cũng thay đổi theo. Vì thế, đạo đức trước hết là một hình thái ý
thức xã hội, phản ảnh các quan hệ lợi ích, thiện ác của xã hội. Trên cơ sở đó,
các nhà kinh điển sáng lập chủ nghĩa Mác quan niệm:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc và
chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp
với lợi ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa
con người với nhau và con người với tự nhiên. Với tư cách là một hình thái ý
thức xã hội, đạo đức cũng bị quy định bởi tồn tại xã hội và chịu ảnh hưởng của
các hình thái khác của ý thức xã hội, nhưng do tính độc lập tương đối của mình,
đạo đức có sự tác động trở lại tồn tại xã hội và các hình thái khác thông qua
hoạt động của con người.



Chính vì thế, giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích, có kế
hoạch đến học sinh nhằm giúp cho nhân cách mỗi học sinh được phát triển
đúng đắn, giúp học sinh có những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối
quan hệ của cá nhân với xã hội, của cá nhân với lao động, của các nhân với mọi
người xung quanh và của cá nhân với chính mình.
Giáo dục đạo đức giữ vai trò hết sức quan trọng. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu: dạy cũng như học, phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo
đức cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng, nếu không có đạo đức cách mạng
thì có tài cũng vô dụng.
Giáo dục đạo đức còn có ý nghĩa lâu dài, được thực hiện thường xuyên
và trong mọi tình huống. Trong nhà trường, nếu công tác giáo dục đạo đức
được coi trọng thì chất lượng giáo dục toàn diện sẽ được nâng lên vì ý thức đạo
đức có liên hệ mật thiết với các mặt giáo dục khác.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trong những năm gần đây, tình trạng vi phạm đạo đức trong thanh thiếu
niên và học sinh ngày càng có xu hướng gia tăng, các hành vi vi phạm đạo đức
của học sinh diễn ra ở nhiều góc độ như: vi phạm pháp luật, đánh nhau, uống
rượu bia, cờ bạc, trộm cắp... Một số hành vi lệch chuẩn về mặt đạo đức như
không vâng lời cha mẹ, vô lễ với thầy cô giáo, thiếu kính trên nhường dưới,
sống hưởng thụ, lười học tập và lao động, thiếu ý thức rèn luyện...những vấn đề
trên đặt ra cho gia đình, nhà trường và xã hội nhiều vấn đề cấp bách về giáo dục
đạo đức, lối sống cho học sinh.
Nguyên nhân xuất hiện những vi phạm đạo đức, lối sống ở thanh thiếu
niên và học sinh xuất phát từ nhiều phía gia đình, nhà trường và xã hội. Về phía
gia đình một bộ phận học sinh thiếu sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục đầy đủ
của cha mẹ, gia đình. Các bậc phụ huynh thiếu kiến thức, không chú ý đến sự
phát triển tâm , sinh lý của con cái, nuông chiều thái quá, không nghiêm khắc,
mải lo kiếm tiền, một số em phải thiếu trong cảnh thiếu vắng bố mẹ, cha mẹ bất

hòa, ly thân, ly hôn, ít có thời gian gần gũi, chi sẻ, thậm chí thiếu gương mẫu.
Sự thiếu hụt về tình cảm, sự phát triển lệch lạc, một số trẻ em đua đòi bị lôi kéo
sa vào tệ nạn xã hội.
Bên cạnh đó, về phía nhà trường như chưa làm thật tốt chức năng dạy
người, hoặc chưa quản lý tốt học sinh, chưa chủ động trong việc phối hợp với
gia đình và xã hội trong giáo dục học sinh, nội quy, quy định thực hiện chưa
nghiêm, nội dung chương trình nặng về lý thuyết, chưa quan tâm tổ chức các
hoạt động để học sinh thể hiện kỹ năng ứng xử, chưa chăm lo đến sự phát triển
toàn diện cho các em học sinh, một bộ phận nhỏ nhà giáo nhận thức còn hạn
chế, thiếu gương mẫu.
Về phía xã hội, toàn cầu hóa mang nhiều cơ hội cũng như nhiều thách
thức cho giáo dục đạo đức học sinh. Hiện nay với sự phát triển mạnh về thông
tin, các dịch vụ giải trí phim ảnh, Internet luôn tồn tại những mặt trái. Nếu
không có quản lý, giám sát tốt các nội dung đồi trụy, bạo lực sẽ gây những tác
động không nhỏ tới các em ở lứa tuổi tâm sinh lý chưa ổn định, chưa làm chủ
được bản thân. Trong khi cha mẹ thầy cô, người lớn chưa quan tâm, chưa hiểu


hết được tâm lý, tình cảm của trẻ, thiếu tư vấn định hướng. Có thầy cô cho rằng
đó là việc của giáo viên chủ nhiệm, của giáo viên dạy giáo dục công dân , của
cán bộ quản lý giáo dục. Trong gia đình cũng còn khá phổ biến quan điểm cực
đoan như tuyệt đối hóa quyền lực giáo dục của cha mẹ hay thiên về phương
pháp giáo dục nghiêm khắc, áp đặt, dùng vũ lực hoặc phó mặc trách nhiệm giáo
dục con em mình cho nhà trường. Bởi thế khi gặp khó khăn trong cuộc sống
các em không biết cách xử lý, đối mặt với thực tại. Như vậy có thể thấy các lực
lượng xã hội tham gia giáo dục học sinh chưa có phương pháp giáo dục phù
hợp.
Trường THCS Nga Văn được công nhận đạt chuẩn Quốc gia năm 2011,
cho đến nay nhà trường luôn phát huy tốt yêu cầu và các tiêu chí thi đua của
trường chuẩn. Chất lượng giáo dục luôn đứng tốp đầu của huyện, trường liên

tục đạt danh hiệu trường tiên tiến được UBND huyện, UBND tỉnh tặng Bằng
khen. Trường luôn được sự quan tâm, tạo điều kiện của Đảng ủy, UBND xã
Nga Văn, sự chỉ đạo sát sao của Phòng GD&ĐT Nga Sơn. Đội ngũ CBGV nhà
trường đạt chuẩn và trên chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, năng động, tâm
huyết với nghề. Cơ cấu trường lớp tương đối ổn định. Năm học 2015-2016
trường có 8 lớp với 196 học sinh; có 25 CBGV trong đó có 20 giáo viên văn
hóa, trường lớp khang trang sạch, đẹp, thân thiện.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi đó, công tác giáo dục đạo đức học
sinh trong trường THCS Nga Văn còn gặp nhiều khó khăn: đó là, trường chỉ có
1 giáo viên kiêm dạy mộn GDCD nên khó khăn trong công tác học tập, đúc rút
kinh nghiệm tại đơn vị. Là địa bàn gần trung tâm huyện, bên cạnh sự phát triển
của xã hội thì kéo theo các tệ nạn cũng phát triển, học sinh dễ bị lôi kéo bởi các
trò chơi điện tử, đua đòi, ... Một bộ phận học sinh có hoàn cảnh gia đình khó
khăn: bố mẹ ly tán, thiếu sự quan tâm dạy dỗ, mồ côi... ảnh hưởng không nhỏ
tới sự hình thành và phát triển nhân cách của các em.
Trên cơ sở những thuận lợi và khó khăn đó, trong những năm qua nhà
trường đã luôn chú trọng công tác giáo dục đạo đức học sinh, thường xuyên tổ
chức các hoạt động nhằm cuốn hút và tác động đến nhận thức trong sáng, lành
mạnh, giáo dục niềm tin, tinh thần đoàn kết ở học sinh.
Cụ thể: Tổ chức các Hội thi hái hoa dân chủ về chủ đề An toàn giao
thông, giáo dục giới tính, Kể chuyện Bác Hồ...Tổ chức các buổi sinh hoạt dưới
cờ đầu tuần tuyên truyền về luật phòng chống ma túy và các tệ nạn xã hội; phát
động các phong trào thi đua gương người tốt, việc tốt... Tổ chức sinh hoạt Đội
vào thứ 7 hàng tuần nhằm giáo dục các em trở thành con ngoan trò giỏi, cháu
ngoan Bác Hồ, trở thành đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Tổ chức
dạy học lồng ghép giáo dục đạo đức học sinh trong các môn học khác. Phát huy
tốt đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp. Phối kết hợp với các đoàn thể địa phương,
gắn hoạt động nhà trường với thực tế để các em có cơ hội được tham gia, được
phát huy năng lực và nhận thức của bản thân.
Nhìn chung các hoạt động ngoại khóa của nhà trường đã thu hút được

các em học sinh, có tác dụng tích cực hình thành những phẩm chất đạo đức tốt,
xây dựng lối sống tập thể, tinh thần hợp tác, tương trợ và ý thức chấp hành nội
quy trường, lớp và pháp luật nhà nước.


Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những biểu hiện vi phạm đạo đức đó là: một
số học sinh không chấp hành nội quy nhà trường, không tham gia tốt các hoạt
động của trường, lớp của đoàn, đội đề ra. Còn có hiện tượng nói tục, gây gỗ với
bạn bè trong và ngoài nhà trường. Ở một số đối tượng học sinh đôi lúc chưa
trung thực, chưa có ý thức bảo vệ cơ sở vật chất của tập thể.
Nguyên nhân của tồn tại trên là do học sinh thiếu hiểu biết về các chuẩn
mực đạo đức cần thiết dẫn đến những hành vi vi phạm. Một số gia đình chức có
biện pháp giáo dục con em đúng đắn, họ còn trông chờ vào nhà trường và xã
hội, chính quyền địa phương và các lực lượng xã hội chưa thấy hết vai trò trách
nhiệm của mình trong việc giáo dục thế hệ trẻ, chưa có sự phối kêt hợp chặt chẽ
và hiệu quả giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Một số giáo viên còn non về
nghiệp vụ giáo dục đạo đức học sinh nên chất lượng giáo dục chưa cao.
Cụ thể: Năm học 2014-2015 chất lượng xếp loại đạo đức học sinh là:
Tổng số
học sinh

216

Loại tốt
SL
190

%
87,9


Loại Khá
SL
22

%
10,1

Loại TB
SL
3

%
1,3

Loại Yếu
SL
1

%
0,7

Từ những thực trạng trên, làm thế nào để giải quyết vấn đề giáo dục đạo
đức cho học sinh, tôi luôn suy nghĩ để tìm ra hướng đi phù hợp với điều kiện
nhà trường, thực tế của địa phương nhằm nâng cao chát lượng giáo dục đạo đức
cho học sinh ngày một có hiệu quả hơn. Và năm học vừa qua tôi đã thực hiện
một số biện pháp chỉ đạo, tạo sự chuyển biến tốt về chất lượng đạo đức học
sinh góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
2.3. Những biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho
học sinh ở trường THCS Nga Văn
2.3.1. Xây dựng trong nhà trường môi trường giáo dục thân thiện, tích cực

Giáo dục nhà trường giữ vai trò chủ đạo vì nó định hướng cho toàn bộ
quá trình giáo dục, hình thành nhân cách cho học sinh, khai thác có chọn lọc
những tác động tích cực, ngăn chặn những tác động tiêu cực từ gia đình và xã
hội, là nơi đào tạo cho con người có trình độ, năng lực, có phẩm chất đạo đức,
có bản lĩnh chính trị vững vàng, nhằm phát triển toàn diện con người. Giáo dục
nhà trường là giáo dục có bài bản, có hệ thống và kết hợp với nhiều loại hình
giáo dục khác
Chính vì thế, việc xây dựng môi trường giáo dục là yêu cầu hết sức quan
trọng, có một môi trường tốt thì mới ươm được những “mầm non” tốt.
Môi trường nào cũng bao gồm khung cảnh, con người và mối quan hệ
qua lại giữa chúng. Trong đó, con người là yếu tố trung tâm. Xây dựng môi
trường sư phạm trước hết là xây dựng đội ngũ cán bộ giáo viên, khung cảnh
nhà trường và nề nếp học tập, sinh hoạt.
Mỗi thầy cô giáo không chỉ dạy học sinh bằng những hiểu biết của mình
mà còn dạy học sinh bằng cuộc đời của mình. Vì thế hiệu trưởng phải phối hợp
với Công đoàn xây dựng tập thể giáo viên, cán bộ thành tấm gương sáng cho
học sinh noi theo. Được học tập trong một nhà trường mà đội ngũ giáo viên,
cán bộ đều giỏi chuyên môn, sống mẫu mực và hết lòng thương yêu học sinh


các em sẽ phấn khởi, tin tưởng và quyết tâm phấn đấu. Các em sẽ yêu mến và
tự hào về nhà trường mình hơn vì tập thể ấy, mối quan hệ ấy đã gây ấn tượng
giáo dục sâu đậm trong tâm hồn các em.
Khung cảnh nhà trường khang trang sạch đẹp chẳng những tác động đến
giáo dục thẩm mĩ, đến sức khỏe của học sinh mà còn góp phần không nhỏ tạo
nên môi trường thuận lợi trong công tác đức dục ở nhà trường.
Hiệu trưởng cần chăm lo đến quang cảnh chung của nhà trường nhằm tạo
ra môi trường thuận lợi, ảnh hưởng tích cực đến giáo dục tình cảm đạo đức của
học sinh.
Nề nếp công tác, sinh hoạt phản ánh mối quan hệ giữa con người với con

người và mối quan hệ giữa con người với công việc. Những mối quan hệ ấy
càng mẫu mực nề nếp nhà trường càng tốt, và ngược lại nề nếp tốt sẽ củng cố
các mối quan hệ đó. Người hiệu trưởng cần thấy rõ mối quan hệ này và coi
công việc xây dựng nề nếp công tác sinh hoạt trong trường là một trong những
công việc quan trọng. Để xây dựng nề nếp trước hết cần phải có quy chế, tổ
chức thực hiện quy chế, thực hiện như một thói quen. Lúc ấy mới có thể coi là
nhà trường đã có những nề nếp về công tác sinh hoạt.
Công tác giáo dục đạo đức là một trong những hoạt động giáo dục quan
trọng bậc nhất trong nhà trường. Vì thế, đòi hỏi người hiệu trưởng phải thực sự
quan tâm, trực tiếp chỉ đạo thực hiện đầy đủ những biện pháp quản lý để đảm
bảo hiệu quả giáo dục cao.
2.3.2. Điều tra cơ bản tình hình học sinh và phân loại điều kiện giáo dục
Tính cách học sinh rất da dạng và việc hình thành tính cách chịu tác
động của nhiều yếu tố nên công tác điều tra cơ bản có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng.
* Nội dung điều tra càn tập trung những điểm chủ yếu sau
- Tình hình tư tưởng, phẩm chất đạo đức học sinh.
- Hoàn cảnh và môi trường giáo dục, hoàn cảnh gia đình, điều kiện dạy dỗ
con cái, quan hệ của học sinh đối với cha mẹ, bạn bè, thầy cô
* Hình thức và phương pháp điều tra
- Cho học sinh tự kê khai, gặp gỡ học sinh trao đổi, thăm hỏi gia đình học
sinh, qua học bạ và các hồ sơ của học sinh.
- Khái quát đặc điểm của từng học sinh và so sánh, phân tính, tổng hợp sau đó
đi đến kết luận và có phương pháp giáo dục phù hợp.
Công tác điều tra thực chất là thu thập thông tin và phần lớn được phản
ánh thông qua chủ quan của người điều tra. Vì thế người hiệu trưởng cần dựa
vào kinh nghiệm và kinh nghiệm giáo dục của mình để kiểm tra, đánh giá đọ tin
cậy của những thông tin đó trước khi sử dụng vào việc phân tích.
Công tác điều tra không bao giờ tách rời công tác giáo dục và công tác
tuyên truyền sư phạm. Trên thực tế quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục

bao giờ cũng là dịp tốt để giáo viên hiểu thêm về đối tượng học sinh và thu thập
được những tư liệu có giá trị phục vụ công tác giáo dục.
2.3.3. Xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường


- Trên cơ sở đặc điểm tình hình nhà trường, địa phương, nhiệm vụ năm học
và thông tin thu nhập được từ đội ngũ, học sinh nhà trường hiệu trưởng chỉ đạo
giáo viên xây dựng Kế hoạch giáo dục đạo đức học sinh trong năm học và cụ
thể hóa đến từng tuần, từng tháng.
- Từ kế hoach của giáo viên hiệu trưởng tổng hợp xây dựng kế hoạch giáo
dục đạo đức học sinh toàn trường và triển khai thực hiện, có kiểm tra, đánh giá,
coi đây là tiêu chí đánh giá xếp loại giáo viên, học sinh. Kế hoạch được thực
hiện trong cả năm học, có cụ thể hóa cho từng giai đoạn, từng khối lớp, từng
đối tượng học sinh.
- Phát động phong trào thi đua theo từng chủ điểm: phong trào “uống nước
nhớ nguồn” vào 20/11; phong trào “người tốt, việc tốt”; phong trào học sinh
làm theo lời Bác vào 19/5
2.3.4. Tăng cường chỉ đạo phối hợp giữa các lực lượng giáo dục trong và
ngoài nhà trường
Nhà trường có nhiệm vụ giáo dục toàn diện, nhưng nhà trường không thể
là nơi duy nhất đảm bảo hoàn toàn đầy đủ quá trình giáo dục toàn diện. Ngoài
tác dụng giáo dục của nhà trường, trẻ em còn chịu sự tác động giáo dục của gia
đình và xã hội. Vì vậy, việc thống nhất các lực lượng giáo dục và ảnh hưởng
của gia đình - xã hội đã trở thành một vấn đề quan tâm ngày càng nhiều đến sự
nghiệp giáo dục thế hệ trẻ.
Công tác phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để
tạo môi trường thuận lợi giáo dục học sinh là một phương pháp giáo dục tổng
quát được xây dựng trong tất cả các hoạt động giáo dục của nhà trường. Nhà
trường phải giữ vai trò chủ đạo trong việc xay dựng, tổ chức các lực lượng giáo
dục, tạo môi trường thuận lợi để giáo dục toàn diện cho học sinh.

* Lực lượng giáo dục trong nhà trường
Tập thể giáo viên chủ nhiệm: là những người có trách nhiệm chính giáo
dục học sinh một cách toàn diện nên có trách nhiệm chính trong việc tổ chức và
điều hành mọi hoạt động của học sinh. Nhiệm vụ cụ thể:
- Dựa vào Kế hoạch của nhà trường, xây dựng Kế hoạch lớp.
- Phối hợp với Đoàn- Đội, các tiểu ban ( văn nghệ, thể dục, lao động...)
để tổ chức các hoạt động.
- Xây dựng, tổ chức bồi dưỡng nòng cốt của lớp.
- Phối hợp với địa phương để tổ chức các hoạt động xã hội.
- Đề ra quy ước về nề nếp của lớp phù hợp với nội quy của trường, đôn
đốc thực hiện tốt nội quy.
Giáo viên chủ nhiệm giữ vai trò chủ đạo, đồng thời phát huy tính tích cực
chủ động, ý thức tự giác, tinh thần tự quản của học sinh trong mọi hoạt động.
Ban chấp hành Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, đoàn viên, Bí
thư đoàn và Tổng phụ trách Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh là tổ chức
phụ trách trực tiếp đoàn thể của học sinh. Hình thức giáo dục chủ yếu của Đoàn
– Đội là thông qua các hoạt động cụ thể. Do đó, Đoàn - Đội cần xây dựng Kế
hoạch thống nhất với Kế hoạch của nhà trường trong từng giai đoạn theo các
chủ điểm nhất định.


Ban chỉ huy Liên đội là tổ chức đại diện cho học sinh. Dưới sự hướng
dẫn của nhà trường mà trực tiếp là Tổng phụ trách Đội, các em điều hành các
hoạt động ngoài giờ lên lớp. Hiệu trưởng cần có kế hoạch thường xuyên gặp
gỡ, giao ban với Ban chỉ huy để giúp các em trở thành nòng cốt của trường,
giúp các em làm tốt các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Toàn thể học sinh, Đội viên Đội hiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh trong
trường là đối tượng giáo dục. Nhà trường cần đặc biệt quan tâm giáo dục các
em có tinh thần tự giác, ý thức tự quản, ý thức tôn trọng kỷ luật tổ chức và tinh
thần làm chủ tập thể cao, để từ đó xây dựng được tập thể lớp tốt, có dư luận

lành mạnh, có tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình, giúp đỡ nhau không
ngừng tiến bộ.
* Lực lượng giáo dục ngoài nhà trường.
** Đối với Hội cha mẹ học sinh.
Đây là lực lượng quan trọng quyết định hiệu quả của giáo dục đạo đức
học sinh, đóng vai trò giúp nhà trường và gia đình có được thông tin hai chiều,
tạo điều kiện phát hiện kịp thời những sai phạm và phối hợp giáo dục uốn nắn
kịp thời.
Hiệu trưởng cần có kế hoạch chỉ đạo giáo viên kịp thời thông tin những
vấn đề có liên quan đến quá trình rèn luyện, tu dưỡng của học sinh thường
xuyên và định kỳ: Qua cuộc họp phụ huynh học sinh, gặp gỡ trao đổi khi cần,
thông qua sổ liên lạc, thông qua chi hội trưởng phụ huynh của lớp.
Hiệu trưởng cần tuyên truyền để phụ huynh hiểu rõ nghĩa vụ, trách
nhiệm của mình trong công tác phối hợp với nhà trường giáo dục đạo đức học
sinh. Bởi gia đình là nơi con người sinh ra và lớn lên, là môi trường đầu tiên và
cũng là tiểu môi trường trọn đời của mỗi người. Gia đình là trường học đầu tiên
trước khi con người đến với môi trường đời. Nếu tình cảm nhân hậu không
được giáo dục từ thời ấu thơ thì bạn sẽ không bao giờ giáo dục được nữa, bởi vì
chất người chân chính đó chỉ được định hình trong tâm hồn con người đồng
thời với việc nhận thức được chân lý đầu tiên và quan trọng nhất. Trong điều
kiện hiện nay, nền kinh tế thị trường cùng với quá trình toàn cầu hóa đã ảnh
hưởng mạnh mẽ đến sự ổn định và bền vững của gia đình. Để tồn tại và phát
triển đòi hỏi mỗi gia đình phải tìm cách thích ứng, điều chỉnh mối quan hệ giữa
các thành viên trong gia đình và ngoài xã hội. Làm được như vậy gia đình trở
thành nơi có đủ sức mạnh để kháng, chống lại mọi sự ô nhiễm từ bên ngoài,
ngăn chặn mọi tiêu cực từ phía xã hội, giúp con người có khả năng phát triển
tốt hơn
Để làm tốt công tác tuyên truyền này, trong năm qua trường đã tổ chức
hội thảo với chuyên đề: “ Vai trò của gia đình trong giáo dục đạo đức học
sinh”, đối tượng tham gia là các thầy giáo, cô giáo, các bậc phụ huynh nhà

trường. Để chuẩn bị cho hội thảo, giáo viên chủ nhiệm đã khảo sát, điều tra về
hoàn cảnh của 25 học sinh hay vi phạm chuẩn đạo đức để tìm hiểu nguyên nhân
và đưa ra giải pháp giáo dục hợp lý. Nhà trường đã phân 25 học sinh nói trên
thành ba nhóm cơ bản như sau:
Nhóm 1: Thuộc các hộ nông dân, các gia đình buôn bán nhỏ, cha mẹ lo
làm ăn bươn chải để mưu sinh, nên buông lỏng sự quản lý con cái. Từ đó phát


sinh tâm lý đua đòi, ham chơi, sa đà vào các trò chơi điện tử, bi a, biết hút
thuốc, tụ tập, hay gây gỗ với bạn bè...
Nhóm 2: Thuộc diện con em gia đình có điều kiện kinh tế khá, nuông
chiều con cái, thiếu sự thống nhất, liên hệ với thường xuyên với nhà trường.
Nhóm 3: Là con mồ côi, bố mẹ ly thân, ly hôn hoặc không hạnh phúc.
Các em thường không có người quản lý đến nơi đến chốn, không có người
tâm sự, sẻ chia nên thường mặc cảm, tự ty hoặc tự do thái quá, tự làm theo ý
mình.
Qua hội thảo, các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh đã đưa ra được nhiều ý
kiến, biện pháp và thống nhất cơ bản được là: Để nâng cao chất lượng giáo dục
đạo đức học sinh thì cần phải nâng cao nhận thức của các bậc phụ huynh. Để
làm tốt được điều đó, nhà trường và phụ huynh đã thống nhất một số giải pháp
sau:
- Hiệu trưởng nhà trường cần tuyên truyền tốt về công tác giáo dục đạo đức
học sinh qua đài truyền thanh xã, qua hội nghị hội cha mẹ học sinh, qua các
cuộc họp ở địa phương.
- Ban đại diện cha mẹ học sinh dự sinh hoạt lớp 1 lần/tháng để nắm bắt tình
hình của con em mình, kịp thời phối hợp uốn nắn, giáo dục.
- Có phần thưởng cho những học sinh tiến bộ hàng tháng, cuối kỳ và cuối
năm để khích lệ tinh thần phấn đấu của các em.
- Gửi kết quả học tập, rèn luyện của học sinh về từng đơn vị xóm 2 lần/ học
kỳ để cùng phối hợp trong công tác giáo dục học sinh.

- Có sự hỗ trợ động viên đối với những học sinh có hoàn cảnh neo đơn, con
mồ côi để các em tránh được những sai lầm trong suy nghĩ và hành động.
* *Đối với cấp ủy đảng, chính quyền và các đoàn thể địa phương
- Đối với Đảng, chính quyền địa phương: Hiệu trưởng cần tham mưu tích cực
những vấn đề có liên quan tới hoạt động giáo dục nhà trường, tranh thue sự hỗ
trợ cao nhất của địa phương, cùng với địa phương xây dựng tốt phong trào nếp
sống ở khu dân cư tạo điều kiện thuận lợi cho giáo dục.
- Phối hợp đồng bộ giữa nhà trường và các đoàn thể địa phương làm tốt công
tác xã hội giáo dục, thường xuyên cung cấp thông tin của học sinh với các tổ
chức: Đoàn thanh niên, Hội khuyến học, Xóm bằng văn bản 2 lần/học kỳ, hoặc
những thông tin cần thiết qua các buổi giao ban, qua điện thoại để các lực
lượng cùng tham gia giáo dục đạo đức học sinh.
2.3.5. Quản lý việc nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức qua giảng dạy
các môn học và qua các hoạt động khác
Quá trình dạy học không những giúp cho người học nắm vững được hệ
thống những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, phát triển được năng lực hoạt động, trí
tuệ mà còn được hình thành và phát triển thế giới quan khoa học, nhân cách,
năng lực của người công dân. Nói cách khác, nhờ quá trình giáo dục học sinh
hình thành được động cơ, thái độ học tập cũng như những phẩm chất đạo đức
trong sáng, đúng đắn. Vì vậy, hiệu trưởng cần quan tâm chỉ đạo tốt:
- Tích hợp giáo dục đạo đức trong các giờ dạy, nội dung tích hợp cần được
thể hiện trong giáo án, trong kế hoạch cá nhân, đây là tiêu chí đánh giá, xếp loại
giờ dạy giáo viên.


- Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc dạy học môn Giáo dục công dân, chú ý phân
công giáo viên dạy đúng chuyên môn, có năng lực, có uy tín, thường xuyên dự
giờ, rút kinh nghiệm.
- Những nội dung mà giáo viên có thể lồng ghép để giáo dục đạo đức học
sinh đó là:

* Giáo dục ý thức “ Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật”.
Học sinh cần được cung cấp, cập nhật kiến thức về hiến pháp và pháp
luật, hiểu rõ bản chất của chế độ XHCN qua môn học Giáo dục công dân và
qua một số môn Địa lý, Lịch sử, Văn học.
Trên cơ sở đó giúp các em xác định được bản thân cần phải làm gì để
thực hiện đầy đủ hiến pháp và pháp luật và gần nhất là các em thực hiện tốt nội
quy của trường, lớp, quyền hạn và nhiệm vụ của người học sinh.
* Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, bồi dưỡng kỹ năng sống
Môi trường có ảnh hưởng rất lớn đến đạo đức học sinh mà nhất là đối với
lứa tuổi học sinh THCS. Ở lứa tuổi này các em rất hiếu động, thích khám phá,
nếu các em được sống và học tập trong môi trường lành mạnh chắc chắn các
em sẽ có những biểu hiện về hành vi đạo đức tốt.
Trước hết, các em chính là người góp phần xây dựng nên môi trường
trong sáng, lành mạnh đó. Giáo viên là người định hướng cho các em thực hiện
tốt được nghĩa vụ của người công dân đối với việc bảo vệ môi trường tự nhiên
cũng như môi trường xã hộị.
Kỹ năng giao tiếp, ứng xử và các kỹ năng trong quá trình học tập, rèn
luyện của học sinh cần được bồi dưỡng, tích lũy hàng ngày qua các môn học,
qua các phương tiện thông tin, qua bố mẹ, thầy cô, bạn bè... Và thầy cô giáo
cần tạo cho các em cơ hội để các em được thể hiện bản thân, phát huy tốt kỹ
năng sống của mình, nuôi dưỡng cho tâm hồn các em trở thành người có suy
nghĩ và hành động đúng đắn.
* Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu thương, sự sẻ chia và tinh thần đoàn
kết
Đây là những tuyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, thông qua các
giờ dạy các hoạt động ngoài giờ giáo viên cần cho các em hiểu được truyền
thống quý báu này và giáo dục các em biết phát huy để gìn giữ truyên thống
của dân tộc từ những biểu hiện nhỏ nhất: giúp đỡ bạn bè, người khó khăn, ý
thức trách nhiệm với bản thân với tập thể...
2.3.6. Chỉ đạo tốt việc đánh giá, xếp loại hạnh kiểm học sinh

Biện pháp này có ý nghĩa đặc biệt, để thực hiện tốt cần xác định rõ nội
dung và tiêu chí đánh giá. Cần căn cứ vào Thông tư số: 58/2011/TT-BGDĐT
ngày 12 tháng 12 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; căn cứ vào
nội quy của nhà trường và qui định của lớp; căn cứ vào qui chế phối hợp của
nhà trường, gia đình và các đoàn thể để đánh giá, xếp loại hạnh kiểm học sinh.
Qua kiểm tra đánh giá giúp nhà trường theo dõi được tình hình học tập,
rèn luyện của học sinh, qua đó đánh giá được chất lượng dạy học của giáo viên.
Bên cạnh đó còn giúp phụ huynh nắm bắt được tình hình của con em mình, nhờ
đó tăng cường mối liên hệ giữa nhà trường và gia đình chặt chẽ hơn. Công tác


này cũng giúp người hiệu trưởng nắm chính xác chất lượng của học sinh để từ
đó điều chỉnh, bổ sung kế hoạch phù hợp.
* Nội dung và tiêu chuẩn đánh giá
Đối tượng để đánh giá ở đây là cả tập thể (trường, lớp), và cá nhân ( từng
học sinh), vì thế phải đánh giá cả phong trào, tư tưởng, tình cảm và hành vi của
mỗi học sinh. Nhưng trọng tâm và cái đích cuối cùng chính là phẩm chất đạo
đức của mỗi học sinh.
Nội dung cần được đánh giá và những tiêu chuẩn đánh giá là những
phẩm chất đã được qui định trong mục tiêu đào tạo và cụ thể hóa trong yêu cầu
giáo dục của nhà trường. Tuy nhiên việc vận dụng những tiêu chuẩn đó thế nào,
phần lớn phụ thuộc vào nhận thức chủ quan của giáo viên chủ nhiệm. Hiệu
trưởng cần quán triệt cho đội ngũ giáo viên về cách xếp loại, kịp thời uốn nắn
những lệch lạc trong việc xếp loại đánh giá hạnh kiểm học sinh tạo sự cân bằng
trong lớp, trong trường.
* Phương pháp và tổ chức theo dõi, đánh giá
Để đảm bảo độ chính xác cao trong việc đánh giá. Hiệu trưởng cần chỉ
đạo các giáo viên chủ nhiệm không được đánh giá theo chủ quan của mình mà
phải dựa vào ý kiến của tập thể lớp, của cha mẹ học sinh, của giáo viên bộ
môn, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường, ở địa bàn dân cư. Việc đánh giá

phải được tiến hành thường xuyên từng tháng, từng kỳ và đánh giá cuối năm.
Cách tốt nhất để đảm bảo độ chính xác cao trong việc đánh giá là phải
dựa vào ý kiến của tập thể học sinh, của cha mẹ các em và của giáo viên bộ
môn, cán bộ đoàn thể và ngay cả của bản thân học sinh nữa. Vì một trong
những mục đích đánh giá là để học sinh thấy rõ hơn về mình, từ đó mà phấn
đấu tốt hơn. Do đó phải làm cho các em tự giác chấp nhận những nhận xét xếp
loại của giáo viên chủ nhiệm. Để công việc tiến hành được chu đáo nhưng nhẹ
nhàng, giáo viên chủ nhiệm dự thảo nhận xét, xếp loại từng học sinh rồi trao
đổi với giáo viên bộ môn, cán bộ đoàn thể, tập thể lớp và cha mẹ học sinh. Sau
đó giáo viên chủ nhiệm chính thức đánh giá, xếp loại học sinh và báo cáo với
hiệu trưởng, ghi vào học bạ của học sinh.
2.3.7. Làm tốt công tác thi đua khen thưởng, nêu gương người tốt, việc tốt
Thi đua – khen thưởng là tác động vào lý trí, tình cảm của học sinh để
xây dựng những niềm tin đạo đức. Đây là biện pháp quan trọng, biện pháp này
nhằm động viên, khen thưởng kịp thời các nhân tố có thành tích cao trong công
tác giáo dục, xây dựng tập thể lớp tiên tiến vững mạnh.
Nêu gương người tốt, việc tốt bằng nhiều hình thức như: nói chuyện, kể
chuyện, đọc sách báo, mời những người có gương phấn đấu tốt đến nói chuyện,
nêu gương tốt của giáo viên và học sinh trong trường.
Trò chuyện với học sinh hoặc nhóm học sinh để khích lệ, động viên
những cử chỉ, hành vi tốt, khuyên bảo, uốn nắn những hành vi, thái độ chưa tốt.
Đối với những học sinh tái phạm những hành vi sai phạm về đạo đức cần chú ý
những hình thức giáo dục chuyên biệt, phân công giáo viên phụ trách cụ thể,
theo dõi và khen ngợi kịp thời nếu các em có sự tiến bộ kể cả những tiến bộ
nhỏ.


Khen thưởng là coi trọng khích lệ những cố gắng của học sinh làm cho
học sinh đó vươn lên hơn nữa và động viên khuyến khích các em khác noi theo.
Làm tốt công tác thi đua, khen thưởng, nêu gương kịp thời hành tuần,

hàng tháng, học kỳ những cá nhân và tập thể tiến bộ hoặc có thành tích tốt tạo
nên bầu không khí thi đua sôi nổi thúc đẩy quá trình giáo dục toàn diện.
Công tác giáo dục đạo đức học sinh là nhiệm vụ hết sức quan trọng, có ý
nghĩa then chốt trong quá trình hình thành nhân cách học sinh. Nhiệm vụ giáo
dục đạo đức phải thường xuyên được quan tâm, đầu tư nhiên công sức, trí tuệ,
với tất cả những phương pháp tối ưu nhất. Là người quản lý giáo dục, chúng ta
cần nghiên cứu kỹ những nội dung, những yêu cầu cơ bản của nhiệm vụ quan
trọng này, đồng thời phải tìm ra những biện pháp giáo dục phù hợp đối với từng
đối tượng học sinh nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong công tác giáo dục đạo đức.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
Qua một năm áp dụng đề tài chất lượng giáo dục đạo đức học sinh trong
nhà trường đã có sự chuyển biến rõ rệt, hiện tượng học sinh vi phạm hoặc có
biểu hiện lệch lạc về đạo đức giảm rõ rệt. Và đặc biệt đã tạo được sự chuyển
biến về nhận thức, về trách nhiệm giáo dục đạo đức học sinh trong giáo viên,
phụ huynh và các tổ chức đoàn thể.
Đội ngũ giáo viên chủ nhiệm đã thấy rõ trách nhiệm của mình, phối kết
hợp với các đoàn thể, giáo viên bộ môn và gia đình kịp thời uốn nắn những
sai phạm của học sinh, phân lại được đối tượng học sinh, gần gũi và quan tâm
đến các em nhiều hơn. Giáo viên bộ môn, đặc biệt là giáo viên dạy học môn
Giáo dục công dân đã nghiêm túc thực hiện chương trình, lồng ghép giáo dục
đạo đức học sinh thông qua các bài học, tiết học dưới sự giám sát của tổ
chuyên môn, của Ban giám hiệu.
Tổ chức Đoàn, Đội hoạt động có hiệu quả, tổ chức được nhiều sân chơi
bổ ích, qua đó giáo dục được nhận thức đạo đức học sinh.
Cụ thể: Tổ chức Hội thi “ Chúng em kể chuyện Bác Hồ”; tổ chức văn
nghệ, báo tường, hái hoa kiến thức; tổ chức buổi nói chuyện về anh bộ đội cụ
Hồ ( Mời đại diện Hội cựu chiến binh huyện về nói chuyện vào 22/12”; tổ
chức hội thi Chỉ huy Liên dội giỏi, hội thi vẽ tranh chủ đề Phòng chống ma
túy, cuộc thi An toàn với xe đạp điện....
Phụ huynh học sinh đã thấy rõ trách nhiệm của mình, có sự quan tâm hơn

đến việc học tập và rèn luyện của con em mình: đại diện phụ huynh thường
xuyên dự sinh hoạt với lớp ( 1 lần/tháng), phối hợp với nhà trường trong công
tác thăm hỏi động viên học sinh có hoàn cảnh khó khăn, neo đơn; cùng với
các tổ chức trong nhà trường thăm góc học tập tại nhà của học sinh được 95
học sinh ở các khối lớp; chủ động tham mưu với nhà trường để làm tốt vai trò
của hội cha mẹ học sinh góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà
trường.
Chính vì có sự phối hợp trong công tác giáo dục đạo đức học sinh giữa
nhà trường và các tổ chức đoàn thể nên kết quả giáo dục đã được nâng lên.
Cụ thể chất lượng giáo dục đạo đức học sinh năm học 2015-2016 như
sau:


Tổng số
học sinh

196

Loại tốt
SL
190

%
96,9

Loại Khá
SL
6

%

3,1

Loại TB
SL
0

%
0

Loại Yếu
SL
0

%
0

Qua kết quả đạt được trên đây, tôi nhận thấy kết quả xếp loại đạo đức
học sinh tiến bộ rõ rệt, đặc biệt không còn học sinh xếp loại hạnh kiểm Trung
bình và yếu không có học sinh cá biệt, bỏ học, không có hiện tượng học sinh
đánh nhau, gây gỗ với bạn. Học sinh phấn khởi, tôn trọng bạn bè, kính trọng
thầy cô. Nhà trường đạt xuất sắc trong phong trào thi đua “ Xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực”. Và hơn hết là các lực lượng trong và ngoài
nhà trường đã thấy rõ được trách nhiệm của mình và đã phối hợp để cùng
thực hiện nhiệm vụ giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức học sinh nói riêng,
và việc thực hiện này đã đi vào nề nếp, duy trì đều đặn trong từng giai đoạn
và trong năm học.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- Kết luận
Như vậy, để làm tốt việc giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh, để
các em trở thành những con ngoan, trò giỏi, các cấp ủy chính quyền, nhà

trường cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục các chủ trương, chính
sách, pháp luật của nhà nước. Các cơ quan chức năng, các đoàn thể xã hội
cần phối hợp tốt với nhà trường đẩy mạnh công tác giáo dục ý thức chấp
hành pháp luật, đạo đức cho học sinh. Nhà trường học chủ động phối hợp
với gia đình - nhà trường - xã hội trong việc giáo dục học sinh. Quản lý chặt
chẽ học sinh trong giờ chính khóa cũng như học thêm, ngoại khóa, thường
xuyên liên hệ chặt chẽ với gia đình để quản lý học sinh và thông báo kịp
thời kết quả học tập, rèn luyện tu dưỡng đạo đức cũng như các biểu hiện
lệch lạc trong suy nghĩ, hành vi lối sống của học sinh để phối hợp giáo dục.
Nếu chúng ta lơ là hoặc buông lỏng sự phối hợp giáo dục trên thì chắc chắn
sữ dẫn đến sự thiếu hụt những giá trị nhân văn, sự trống rỗng, thậm chí
xuống cấp về đạo đức của học sinh.
Ai cũng biết thế hệ trẻ chuẩn bị hành trang vào đời cần tích lũy các kiến
thức khoa học, công nghệ, ngoại ngữ, tin học... nhưng nếu chỉ chừng đó thôi
mà không lưu tâm hoặc bỏ qua việc trau dồi đạo đức, lối sống, văn hóa ứng
xử, văn hóa giao tiếp, ý thức pháp luật thì rất dễ dẫn đến sự phát triển lệch
lạc, phiến diện. Đã đến lúc chúng ta cần ý thức được rằng, giáo dục đạo đức,
thực chất là giáo dục nhân cách, hình thành và phát triển hài hòa, toàn diện
nhân cách của con người nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Muốn có quốc gia giàu mạnh, chúng ta cấn có nhiều nhân cách phát triển
trong một môi trường tự do, trong nội tâm lẫn từ ngoại cảnh. Một xã hội “
sản xuất hàng loạt những cá nhân được tiêu chuẩn hóa không có sắc thái và
mục tiêu riêng lẻ sẽ là một xã hội nghèo nàn mất khả năng phát triển”. Vì
thế, chúng ta cần quan tâm giáo dục cho học sinh có tinh thần tự quyết, chứ
không phải thích ứng, chạy theo, không nhắm lợi ích trước mắt mà phải
được đánh thức các tiềm năng tinh thần to lớn bên trong. Giáo dục đạo đức


cho học sinh là giáo dục để các em trở thành người đích thực, đương đầu
trước những cám dỗ tầm thường hóa của tính thực dụng, hưởng thụ, phúc

lợi, sung sướng về vật chất. Chúng ta cần dạy cho học sinh biết ước mơ,
khao khát khám phá chân lý, giàu tình yêu thương, chia sẻ, biết làm việc có
trách nhiệm với tập thể và với bản thân.
Trong giai đoạn hiện nay, công tác giáo dục đạo đức học sinh càng đặt ra
yêu cầu nhiệm vụ cao hơn, cần thiết hơn khi toàn Đảng, toàn dân ta đang
tích cực tham gia cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”. Nó sẽ là nguồn lực tinh thần to lớn thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện dại hóa đất nước.Giáo dục đạo đức học sinh
là trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó giáo dục ở nhà trường có vai trò
định hướng. Đó là sứ mệnh lịch sử - vinh dự và trách nhiệm mà xã hội giao
cho nhà trường và mỗi chúng ta nói riêng, ngành Giáo dục và Đào tạo nói
chung.
Chính vì thế, trong năm học vừa qua tôi đã mạnh dạn xây dựng và áp
dụng đề tài Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục đạo đức học sinh nhằm mục
đích nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường. Qua một năm
thực hiện, hiệu quả giáo dục đã có những tiến bộ rõ rệt, góp phần quan trọng
vào quá trình thực hiện và hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học, duy trì và phát
huy tốt trường chuẩn Quốc gia. Xây dựng nhà trường trở thành địa chỉ tin
cậy của học sinh, nhân dân và các cấp lãnh đạo.
- Kiến nghị
- Các cơ quan chức năng cần có sự quản lý, giám sát đối với các cơ sở
kinh doanh các dịch vụ giải trí để tránh được việc học sinh đua đòi, tham gia
vào các trò chơi thiếu lành mạnh ảnh hưởng tới việc hình thành và phát triển
nhân cách.
- Gia đình, nhà trường và toàn xã hội cần tăng cường công tác tuyên
truyền giáo dục pháp luật cho thế hệ trẻ, phối hợp chặt chẽ trong công tác
giáo dục đạo đức, lối sống và kiến thức cho các em, đảm bảo tương lai cho
các em góp phần xây dựng tương lai đất nước.
- Mỗi cán bộ giáo viên không ngừng học tập, rèn luyện, tu dưỡng để
nâng cao năng lực, phẩm chất chính trị, luôn là tấm gương sáng cho học sinh

noi theo, thu hút được học sinh vào các hoạt động giáo dục góp phần tích
cực vào việc nâng cao hiệu quả giáo dục.
Trên đây là những biện pháp tôi đã thực hiện trong quá trình chỉ đạo
công tác giáo dục đạo đức học sinh trường THCS Nga Văn và đạt được
những kết quả nhất tốt. Chất lượng giáo dục đạo đức tiến bộ rõ rệt là tiền đề
để thúc đẩy chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường. Rất mong nhận
được sự góp ý của các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp để đề tài được
hoàn thiện hơn.


XÁC NHẬN CỦA BAN GIÁM HIỆU

Nga Sơn, ngày 12 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác
Người viết sáng kiến

Nguyễn Thị Hường


MỤC LỤC

NỘI DUNG
1. MỞ ĐẦU
-. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
- MỤC ĐÍCH, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2. NỘI DUNG VIẾT SKKN
2.1.CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ

2.3. NHỮNG BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH Ở
TRƯỜNG THCS NGA VĂN
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SKKN

TRANG

1
1-2
2
3-4
5-10
12

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
- KẾT LUẬN

13

- KIẾN NGHỊ

14




×