Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Bài Tập Lớn Tổ Chức Và Quản Lý Công Ty Cổ Phần Theo Pháp Luật Việt Nam Hiện Hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.71 KB, 25 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Công ty cổ phần là một mô hình doanh ngiệp điển hình trong nền kinh tế thị
trường. Với khả năng huy động vốn lớn, nhanh chóng thuận tiện; khả năng chuyển
nhượng vốn linh hoạt; tạo điều kiện cho một khối lượng lớn nhà đầu tư thu lợi
nhuận từ hoạt động kinh doanh mà không cần phải có kiến thức kinh doanh, cũng
không cần trực tiếp tham gia kinh doanh và thớc hợp với mô hình sản xuất kinh
doanh lớn đa nghành nghề, công ty cổ phần đang là loại công ty rất phát triển. Ở
những khía cạnh nhất định, so với các loại hình doanh nghiệp khác như DNTN,
HTX, CTTNHH… thì Công ty cổ phần có những nét riêng biệt trong quản trị.
Ở Việt Nam, do những điều kiện lịch sử xã hội nhất định nên những quy
định của pháp luật về công ty nói chung và Công ty cổ phần nói riêng mới xuất
hiện ( từ Luật công ty 1990). Mặc dù hiện tại chúng ta chưa thu hút sự chú ý của
các nhà đầu tư nhưng Công ty cổ phần dự báo khả năng phát triển trong một tương
lai không xa bởi những ưu thế đặc trưng của loại hình doanh nghiệp này.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế to lớn đú, thỡ Công ty cổ phần cũng cũn
cú những hạn chế nhất định. Để khắc phục những hạn chế đó, và góp phần vào sự
phát triển của công ty thì một vấn để rất quan trọng được pháp luật rất quan tâm đó
là vấn đề tổ chức và quản lý công ty cổ phần. Trong phạm vi bài tập lớn của mình,
em xin đề cập đến “tổ chức và quản lý công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam
hiện hànhơpukih”. Trong phạm vi kiến thức của bản thân, bài tập của em sẽ không
tránh khỏi những hạn chế thiếu sót nhất định, em kính mong các thầy cô đóng góp
ý kiến để bài viết của em thêm hoàn thiện.

1


I. Khái quát chung về công ty cổ phần, tổ chức quản lí công ty
cổ phần
1, Khái niệm công ty cổ phần.
1.1 Định nghĩa:
Công ty Cổ phần (CTCP) ra đời vào khoảng thế kỉ XVII cùng với sự phát


triển mở đầu nền đại công nghiệp cơ khí của các nước có nền khinh tế thị trường
pháp triển. CTCP phát triển mạnh mẽ nhất trong thế kỉ XIX, khi nền kinh tế tư bản
phát triển như vũ bão và nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đòi hỏi phải có nhiều
vốn đầu tư mới có thể hoạt động có hiệu quả. Ở Việt Nam cùng với quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường, CTCP đã từng bước hình thành và phát triển. Nó được
ghi nhận trong Luật công ty 1990, Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp
2005 (Luật DN 2005).
Điều 77 Luật DN 2005 quy định về CTCP, theo đó “CTCP là một loại hình
đặc trưng của loại hình công ty đối vốn, vốn của công ty được chia thành nhiều
phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông, chỉ chịu
trách nhiệm về các khoản nợ của Công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà công ty
sở hữu”.
1.2 Đặc điểm:
Trong Luật DN 2005 đã đưa ra các đặc điểm của CTCP như là dấu hiệu để
phân biệt nhận biết loại hình CTCP với các loại hình Doanh nghiệp (DN) khác như
Công ty trách nhiệm hữu hạn (CTTNHH) và Công ty hợp danh (CTHD). Chúng ta
có thể khái quát về CTCP với bốn đặc điểm cơ bản sau:
- Một là: CTCP là một pháp nhân, CTCP tồn tại độc lập với các chủ thể khác
thể hiện cả về tư cách chủ thể cũng như về tài sản. Tài sản của công ty được thành
từ nhiều nguồn khác nhau trong đó quan trọng nhất là vốn cổ phần và tách bạch rõ
rang với tài sản Cổ đông. Cổ đông có quyền sở hữu một phần hình công ty tương
2


ứng với giá trị cổ phần nắm giữ, nhưng không có quyền sở hữu tài sản công ty,
việc thay đổi cơ cấu cổ đông ảnh hưởng đến sự tồn tại của công ty. Công ty nhân
danh chính mình khi tham gia các quan hệ pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước
các nghĩa vụ phát sinh đến hết giá trị tài sản của công ty.
- Hai là: CTCP có cấu trúc vốn mềm dẻo, linh hoạt, có khả năng xã hội hóa
cao – cấu túc vốn “mở”, vốn điều lệ của công ty được chia thành các cổ phần, các

cổ phần được tự do chuyển nhượng trong công ty cũng như ngoài công ty (trừ
trường hợp điều lệ công ty hoặc pháp luật có quy định khác). Công ty có khả năng
huy động nguồn vốn lớn chặt chẽ, dễ dàng thông qua phát hành chứng khoán theo
quy định của pháp luật .
- Ba là: CTCP có tính chất đối vốn điểm hình. Những vấn đề và quản lí nội
bộ và quyền lợi của cổ đông được giải quyết cơ bản dựa trên nguyên tắc đối vốn.
Các cổ đông tham gia vào công ty không quan tâm đến nhân thân của nhau mà chỉ
trên cơ sở cổ phần. Đặc điểm này cùng với khả năng dễ dàng chuyển nhượng cổ
phần làm cho CTCP thường có số lượng cổ đông lớn. Pháp luật các nước chỉ
khống chế số lượng tối thiểu mà không số lượng tối đa các cổ đông của đông ty.
- Bốn là: Với cấu trúc vốn và tính chất thành viên riêng của mình, CTCP
đòi hỏi một cơ cấu tổ chức chặt chẽ để bào vẹ quyền lợi của các cổ đông cũng như
các chủ thể có quan hệ với công ty. Pháp luật hầu hết các nước đều quy định rừ cỏc
quy chế quản lí, điều hành và kiểm sát.
Trên đây là những đặc điểm cơ bản nhất của CTCP, ngoài ra Điều 77 Luật
DN 2005 còn chỉ ra những đặc điểm khác để nhận diện CTCP như: cổng đông có
thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiều là ba và không hạn chế số lượng
tối đa.
2, Khái niệm tổ chức, quản lí CTCP.
2.1 Khái niệm:
3


- Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), quản lí công ty là một
hệ thống các cơ chế, các hành vi quản lí mà theo đú cỏc công ty được điều hành
theo một ý chí thống nhất, quản lí công ty cho phép tạo ra một cơ chế mà các mục
tiêu của công ty được xác lập, tạo ra các phương tiện để đạt được các mục đích đã
đề ra và giám sát việc thực hiện.
- Theo ngân hàng thế giới (WB) quản lí công ty được coi là một hệ thống kết
hợp các yếu tố luật pháp, thể chế và các thông lệ quản lý của các công ty. Nó cho

phép các công ty có thể thu hút được các nguồn tài chính và nhân lùc, hoạt động
một cách hiệu quả, tạo ra các giá trị kinh tế lâu dai cho các thành viên trong khi
vẫn tôn trọng các quyền lợi của những người có quyền, lơi ích liên 2quan và của xã
hội.
- Theo ngân hàng phát triển châu Á (ADB), quản lý công ty bao gồm một hệ
thống các quy chế xác định rõ mối quan hệ giữa các cổ đông, các chức danh quản
lý, các chủ nợ, Chính phủ và những người có quyÒn, lợi ích liên quan khác và một
hệ thống các cơ chế để đảm bảo cho các quy chế nói trên được thực hiện một cách
trực tiếphay gián tiếp.
Như vậy, quản lý công ty là hệ thống các cơ chế mà theo đó công ty được
quản lý, thông qua việc tổ chức điều hành nội bộ công tyvà các quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể quản lý như các cổ đông, hội đồng quản trị (HĐQT), Giám đốc,
người lao động và những người có lợi ích lien quan được phân công rõ ràng.
Từ việc phõn tích khái niệm quản lý công ty ở trên, ta có thể suy ra kết luận:
Quản lý CTCP là hệ thống các cơ chế mà các chủ thể quản lí đặt ra để quản lí hoạt
động của CTCP bao gồm các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
từng bộ phận trong bộ máy quản lí, nguyên tắc và thư tục thông qua các quyết
định. Pháp luật về quản lý CTCP bao gồm các nội dung cơ bản về cơ cấu bộ máy
quản lí CTCP; chức năng nhiệm vụ quyền hạn và thể thức hoạt động của các cơ
4


quan trông bộ máy quản lí (Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ), Hội đồng quản trị
(HĐQT), Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Ban kiểm soát (BKS)), Quyền hạn và
trách nhiệm của người quản lí công ty, kiểm soát các giao dịch tư lợi
2.2 Các yếu tố ảnh hưởng dến quản lí CTCP.
- Ảnh hưởng của cấu trúc vốn đối với việc quản lí CTCP .
CTCP đặc trưng của loại hình công ty đối vốn – loại hình công ty mà các cổ
cụng đụng không quan tâm đến nhân thân của nhau mà chỉ quan tâm đến phần vốn
góp, thỡ cỏc quy định về vốn là chế định tài chính có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Vốn của CTCP là vấn đề phức tạp, không chỉ liên quan đến bản chất kinh tế, khả
năng tài chính, mà còn là yếu tố xác định vị thế, năng lực cạnh tranh của CTCP
trên thị trường liờn quan đến hàng loạt các vấn đề như quyền sở hữu, chuyền
nhượng, thế chấp. một cấu trúc vốn mền dẻo, linh hoạt không những đáp ứng được
nhu cầu của công ty mà còn đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư khi mua cổ
phần, cổ phiếu của CTCP. Dưới góc độ pháp lí cấu trúc vốn của CTCP bao gồm
hai bộ phận vốn điều lệ và vốn vay.
Trong cơ cấu tổ chức quản lí trong công ty có sự phân chia quyền lực rõ
ràng giữa các bộ phận, sự phân chia quyền lực này phụ thuộc vào tỉ lệ vốn góp của
các cổ đông nhằm đảm bảo một cơ cấu tổ chức quả lí chặt chẽ, bảo vệ đến mức tối
đa quyền lợi của cổ đông. Điểm khác biệt về cơ cấu tổ chức quản lí, đồng thời là
đặc trưng của công ty cổ phần so với các loại hình doanh nghiệp khác đó là cơ cấu
tổ chức quản lí của CTCP chịu sự chi phối của cấu trúc vốn. Cấu trúc vốn không
những đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh mà cũn cú vai trò quan
trọng trong việc chi phối cơ cấu tổ chức quản lí của CTCP. Trong CTCP việc hình
thành bộ máy tổ chức quản lí và việc phân chia quyền lực giữa các bộ phận cấu
thành đó, cấu trúc vốn có ảnh hưởng quyết định và chi phối.

5


Sự chi phối của cấu trúc vốn với tổ chức bộ máy của CTCP thể hiện rõ nét
nhất tại ĐHĐCĐ. Điều này được thể hiện qua các quy định về quyền lợi nghĩa vụ
của ĐHĐCĐ. Cơ chế quyết định các vấn đề của ĐHĐCĐ cũng bị chi phối bởi cấu
trúc vốn hay nói cách khác bởi yếu tố vốn: Cổ đông nào tham gia biểu quyết, tỉ lệ
cổ phần của cổ đông tham gia biểu quyết chiếm bao nhiêu trong vốn điều lệ. CTCP
với đặc trưng của nó bị chi phối bởi cấu trúc vốn, vì vậy HĐQT cũng sẽ bị chi phối
bởi cấu trúc vốn. Sự chi phối của cấu trúc vốn đối với HĐQT được thể hiện rõ
ngay từ việc hình thành HĐQT. Ngoài ra sự chi phối đú cũn thể hiện ở cơ chế thực
thi quyền lực của HĐQT. Sự chi phối của yếu tố này đối với tổ chức bộ máy của

CTCP còn thể hiện ở việc hình thành cũng như cơ chế hoạt động của BKS. Không
phải CTCP nào trong cơ cấu tổ chức bộ máy cũng buộc phải có BKS (xem Điều 95
Luật DN 2005). Cũng giống như HĐQT, quyền đề cử và bầu thành viên BKS của
các cổ đông tại ĐHĐCĐ phụ thuộc vào loại cổ phiếu cũng như tỉ lệ vốn góp của họ
trong công ty.
- Ảnh hưởng của cơ cấu thành viên đối với việc quản lí CTCP.
Khác với các loại hình DN khác, điểm nổi bật và thể hiện rõ nhất nét đặc
trưng của CTCP là có sự tham gia của cụ đụng vào việc hình thành cơ cấu tổ chức
quản lí. CTCP có số lượng thành viên rất đông, công ty có thể có tới hàng vạn cổ
đông ở hầu khắp trên thế giới. Điều này xuất phát từ đặc trưng của CTCP là có cấu
trúc vốn linh hoạt, vốn được chuyển nhượng dễ dàng. Với số lượng thành viên lớn,
việc quản lí điều hành công ty do bộ máy quản lí thực hiện đặt dưới sụ giám sát
của cổ đông, thành viên HĐQT do ĐHĐCĐ bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm khi thực
hiện chức năng nhiệm vụ của mình HĐQT tuân thủ đỳng cỏc quy định của pháp
luật, điều lệ công ty và quyết định của ĐHĐCĐ. Chính đặc trưng này đã khiến cho
việc thành lập và điều hành CTCP phức tạp hơn nhiều so với các loại hình công ty
khác như công ty TNHH, CTHD…Trong CTCP vấn đề nhân thân không được đề
6


cao, chính vì vậy CTCP không đòi hỏi mọi thành viên HĐQT phải là cổ đông công
ty. CTCP có thể thuê người làm giám đốc hoặc tổng giám đốc. Cũng như vậy,
trong CTCP thành viên BKS không nhất thiết phải là cổ đông hoặc người lao động
của công ty.
Sự chi phối của cơ cấu thành viên tới tổ chức bộ máy quản lí CTCP còn thể
hiện ở chỗ số lượng cổ đông chi phối tới tổ chức quản lí nội bộ CTCP. Cơ cấu tổ
chức quản lí nội bộ CTCP tùy thuộc vào số lượng cổ đông. Đối với CTCP cú trờn
11 cổ đông là cá nhân buộc phải thành lập BKS (Điều 95 Luật DN 2005). Đối với
CTCP có từ 11 thành viên trở xuống thỡ khụng nhất thiết phải thành lập BKS.
2.3 Các yêu cầu đối với việc tổ chức quản lí CTCP:

Việc tổ chức bộ máy quản lí cho DN nói chung và cho CTCP nói riêng phải
đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Thứ nhất: Bộ máy quản lí CTCP phải gọn nhẹ, linh hoạt để giảm chi phí.
Chúng ta thấy rằng một bộ máy quản lớ cú gọn nhẹ, linh hoạt thì mới có thể thực
hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình đồng thời còn giảm được chi phí quản lí.
Quản lí nội bộ trong công ty giải quyết vấn đề này bằng việc quy định rõ ràng
quyền lợi và nghĩa vụ của bộ máy quản lí trong công ty, bằng việc tăng cường hoạt
động kiểm tra quản lí và bằng những yếu tố động viên để gắn lợi ích của người
quản lí với lợi ích của cổ đông và của công ty. Điều này đã được Luật DN 2005
giải quyết khá thành công.
- Thứ hai: Việc tổ chức quản lí CTCP phải bảo đảm sự phân công rành mạch
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các bộ phận trong bộ máy quản lí và còn
phải có cơ chế phối hợp, kiểm soát, giám sát hữu hiệu giữa các bộ phận đó. Theo
quy định của Luật DN 2005,nhiệm vụ, quyền hạn, thể thức hoạt động của
ĐHĐCĐ, HĐQT, Giám đốc (tổng giám đốc), BKS được qua định khá rõ ràng, cụ

7


thể. Các cơ quan này có sự độc lập tương đối trong hoạt động va có sự chi phối lẫn
nhau.
- Thứ ba: Tổ chức quản lí CTCP đảm bảo khả năng tham gia quản lí của các
cổ đông nhằm bảo vệ một cách tốt nhất quyền lợi của các cổ đông. Trước hết
nguyên tắc này được thể hiện ở việc quy định, ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của
cổ đông trong Luật DN 2005 (Điều 79, 80, 81, 82, 83, 84). Ngoài ra, cùng với việc
quy định về quyền của các cổ đông, Luật DN 2005 còn quy định các biện pháp
nhằm khắc phục tình trạng các cổ đông đa số là thành viên trong HĐQT, Giám đốc
(tổng giám đốc) và các cán bộ quản lớ khỏc lạm dụng vị thế quyền hạn của mình
để thu vén cho cá nhân, gia đình, làm phương hại đến lợi ích của công ty nói chung
và của các cổ đông thiểu số nói riêng.

- Thứ tư: Tổ chức quản lí CTCP phải đảm bảo sự tách bạch giữa quyền sở
hữu của cổ đông và quyền quản lí, điều hành công ty. CTCP là một pháp nhân và
với tư cách của nó, CTCP có cơ cấu tổ chức độc lập, thống nhất, có bộ máy quản lí
trung gian. Mọi hoạt động cua CTCP được tiến hành bởi bộ máy quản lí trung gian
đó. Quyền quản lí công ty được giao cho HĐQT. Luật DN 2005 quy định nghĩa vụ
của người quản lí công ty (Điều 119) nhằm bảo vệ quyền lợi của các cổ đông –
chủ sở hữu công ty.
- Thứ năm: Tổ chức quản lí CTCP đảm bảo thực hiện chế độ một thủ trưởng
với vai trò trung tâm của giám đốc điều hành. CTCP là một chủ thể kinh doanh,
mục tiêu thành lập cảu nó là tiến hành các hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi
nhuận. Để đạt được hiệu quả cần nắm bắt cơ hội kinh doanh. Nên áp dụng chế độ
một thủ trưởng. Luật DN 2005 đã giải quyết vấn đề này bằng việc quy định Giám
đốc (tổng giám đốc) là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty. Quyền
hạn và nhiệm vụ của Giám đốc (tổng giám đốc) được quy định rõ ràng cụ thể tại
Điều 116 Luật DN 2005.
8


II.Tổ chức và quản lí CTCP theo pháp luật hiện hành.
1. Cơ cấu bộ máy quản lý CTCP.
CTCP là một loại hình DN có tư cách pháp nhân. Vì vậy, công ty phải có
một cơ cấu tổ chứ thống nhất, có người đại diện để công ty hoạt động với tư cách
là một chủ thể pháp lý độc lập. CTCP với những đặc điểm về cấu trúc vốn và cơ
cấu cổ đông có đặc điểm khác biệt so với các loại hình công ty khỏc nờn cơ chế tổ
chức quản lý thường được quy định chặt chẽ hơn.
Trong các hệ thống pháp luật của một số nước trên thế giới, cơ cấu tổ chức
quản lý của CTCP được quy định có những điểm khác nhau. Chằng hạn, Luật
CTCP của CHLB Đức quy định CTCP bắt buộc phải có 3 cơ quan đó là: Đại hội
cổ đông, Hội đồng quản trị, Hội đồng giám sát. Trong đó Hội đồng giám sát phải
có một nửa số thành viên là đại diện của người lao động. Theo Luật DN 2005 quy

định thì CTCP phải có ĐHĐCĐ, HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, đối với
CTCP cú trờn 11 cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là pháp nhân sở hữu trên
50% tổng số cổ phần của công ty thì phải có Ban kiểm soát. Điều này được biểu
diễn như sau:

MÔ HÌNH
2. Tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lí CTCP.
2.1. Đại hội đồng cổ đông.
- Về nguyên tắc, CTCP được tổ chức quản lí tập trung thông qua cơ chế hội
đồng. Theo đó, ĐHĐCĐ là cuộc họp của tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là
cơ quan quyết định cao nhất của CTCP. ĐHĐCĐ quyết định các vấn đề quan trọng
nhất liên quan đến sự tồn tại và phát triển của CTCP.
ĐHĐCĐ không làm việc thường xuyên mà chỉ tồn tạ trong thời gian họp và
ra quyết định trên cơ sở biểu quyết tại cuộc hoặc lấy ý kiến của các cổ đông có
quyền biểu quyết bằng văn bản.
9


Luật DN 2005 trên cơ sở kế thừa và khắc phục nhưng thiếu sót của Luật DN
1999, quy định về ĐHĐCĐ một cách cụ thể và phù hợp hơn.Vỡ là cơ quan có
quyền quyết định cao nhất nên ĐHĐCĐ có quyền quyết định các vấn đề quan
trọng nhất liên quan đế sự tồn tại và hoạt động của công ty. Điều này được cụ thể
trong Khoản 2 Điều 96 Luật DN2005.
Là cơ quan tập thể, ĐHĐCĐ thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình chủ
yếu thông qua kì họp của ĐHĐCĐ, do đú,ĐHĐCĐ phải họp một năm ít nhất một
lần. Luật DN2005 quy định ĐHĐCĐ phải họp thường niên trong thời hạn 4 tháng,
kể từ ngày kết thúc năm tài chính. Theo đề nghị của HĐQT, cơ quan dăng kí kinh
doanh có thể gia hạn, nhưng không quá 6 tháng, kể thừ ngàykết thúc năm tài chính.
Đây là quy định mới của Luật DN2005 so với quy định tại Luật DN1999.Luật
DN2005 quy định mộy cách chi tiết cụ thể các trường hợp mà ĐHĐCĐ còn có thể

họp bõt thường tại Khoản 3 Điều 97. Thẩm quyền triệu tập ĐHĐCĐ trước hết
thuộc về HĐQT công ty. Khi nhận được yêu cầu triệu tập họp ĐHĐCĐ, HĐQT
phải tiệu tập trong thời hạn 30 ngay, kể từ ngày được yêu cầu. Nếu HĐQT không
triệu tập thì BKS thay thế HĐQT triệu tập. Nếu BKS không triệu tập thì cổ đông
hoặc nhóm cổ đông yêu cầu có quyền triệu tập ĐHĐCĐ. Người triệu tập phải lập
danh sách cổ đông có quyền dự họp, lập chương trình và nội dung cuộc họp, gửi
giấy mời họp dến từng cổ đông có quyền dự họp chậm nhất là 7 ngày, trước ngày
khai mạc.
- Về điều kiện tiến hành họp ĐHĐCĐ được quy định tại Điều 102 Luật
DN2005. Cuộc họp ĐHĐCĐ được tiến hành khi có số cổ đông dự họpđại diện ít
nhất 65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết. Tỉ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy
định (Điều 76 Luật DN1999 quy định là 51%).Trường hợp cuộc họp lần thứ nhất
không đủ điều kiện tiến hành thì phải hoãn ngày và triệu tập họp lần thứ hai trong
thời hạn 30 ngày, kể từ ngày dự định họp lần thứ nhất, Cuộc họp của ĐHĐCĐ triệu
10


tập lần thứ hai được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện cho ít nhất 51%
tổng số cổ phần có quyền biểu quyết (Luật DN1999 là 30%). Nếu lần thứ hai cũng
không thành công thì phải triệu tập họp lần thứ ba trong thời hạn 20 ngày, kể từ
ngày dự định họp lần hai. Trong trường hợp này, cuộc họp ĐHĐCĐ được tiến
hành không phụ thuộc vào số cổ đông dự họp và tỉ lệ số cổ phần có quyền biểu
quyết của các cổ đông dự họp.
- Về việc thông qua quyết định của ĐHĐCĐ, các quyết định của ĐHĐCĐ
được thông qua bằng hình thức biểu quyết tại cuộc họp hoặc lấy ý kiến bằng văn
bản.Cỏc nội dung được thông qua bằng hình thức biểu quyết hay lấy ý kiến bằng
văn bản được quy định cụ thể tại Điều 104 Luật DN2005. Khoản 3 Điều 104 Luật
DN 2005 quy định, quyết định của ĐHĐCĐ được thông qua tại cuộc họp khi được
số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp
chấp thuận; tỉ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định trong khi đó Điểm a Khoản 2

Điều 77 Luật DN1999 quy định tỉ lệ này là 51%.
Đối với quyết định liên qua đến loại cổ phần và số lượng cổ phần được
quyền chào bán của từng loại, bổ sung, sửa đổi Điều lệ công ty, tổ chúc lại, giải thể
công ty, bán hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất
của công ty nếu Điều lệ công ty không có quy định khác thì phải được số cổ đong
đại diện ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết chấp thuận, tỉ lệ cụ thể do điều lệ
công ty quy định. Ngoài việc quy định các diều kiện thông qua các quyết định của
ĐHĐCĐ, Luật DN 2005 quy định yêu cầu hủy bỏ quyết định của ĐHĐCĐ. Theo
quy định này thì BKS có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ
quyết định của ĐHĐCĐ.
Với các quy định như trên, đã thể hiện sự khác biệt đáng kể của CTCP so
với một số loại hình doanh nghiệp khác. Đó là sự biểu hiện rõ nét tính dân chủ
trong hoạt động kinh doanh cũng như trong tổ chức quản lí. Tuy nhiên, đây là nền
11


dân chủ cổ phần, tức là nền dân chủ dựa vào sức mạnh đóng góp của cổ đông. Nền
dân chủ cổ phần hầu như không mang sắc thái chính tri, mà chủ yếu mang sắc thái
kinh tế. Cơ chế quản lí và đời sống của CTCP nói chung chứa đựng nhiều yếu tố
dân chủ hơn so với các loại hình DN một chủ khác như DNTN, DNNN và các loại
hình DN khác. Trong các loại hình DN đó không thể tồn tại cơ chế bỏ phiếu theo
nguyên tắc “một cổ phần một lá phiếu”. Chủ sở hữu có toàn quyền quyết định việc
thành lập, hoạt động kinh doanh của DN. Ngược lại, hoạt động của CTCP không
thể do một chủ sở hữu hay một nhóm chủ sở hữu nào đó quyết định, mà là do tất cả
các chủ sở hữu quyết định. Tại ĐHĐCĐ, các cổ đông bàn bạc, thảo luận những vấn
đề có liên quan đến hoạt động của CTCP và quyết định bằng việc bỏ phiếu.
So với các Luật khác trước đây (Luật Công ty 1990, Luật DN 1999) có quy
định về CTCP thì Luật DN2005 quy định khá chi tiết và đầy đủ chức năng nhiệm
vụ quyền hạn cũng như điều kiên thể thức tiến hành cuộc họp và thông qua quyết
định của ĐHĐCĐ. Sự thay đổi này là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu chung của

tình hinh quản lớ cỏc CTCP hiện nay.
2.2. Hội đồng quản trị.
HĐQT là cơ quan quản lí công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết
định và thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của công ty, trừ những vấn đề
thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ. HĐQT là cơ quan thực thi các quyết định của
ĐHĐCĐ và là cơ quan quyền lực cao nhất của CTCP giữa hai kì họp ĐHĐCĐ.
Chớnh vỡ võy, HĐQT đóng một vai trò trung tâm trong hoạt động quản lí nội bộ
CTCP. Chất lượng và hiệu quả của việc quản lí tùy thuộc vào việc thực thi quyền
hạn, trách nhiệm của HĐQT.
Quyền hạn và nhiệm vụ của HĐQT được quy định tại Khoản 2 Điều 108
Luật DN2005. So với Luật DN1999 thì cá quy định này đã cụ thể hơn rất nhiều và
phần nào tương xứng với vị trí của HĐQT. Tuy nhiên trên thực tế còn phát sinh rất
12


nhiều vấn đề, đặc biệt là việc thực hiện chức năng quyết định chiến lược phat triển
của công ty, quản lí giám sát công ty…Thực tế, HĐQT thường chỉ chịu trách
nhiệm trước những người đã cử ra họ chứ không phải trước công ty và tất cả các cổ
đông. Điều 109, 110 Luật DN2005 quy định về nhiờm kỡ, số lượng, tiêu chuẩn và
điều kiện làm thành viên HĐQT tuy nhiên cần lưu ý làthành viên HĐQT không
nhất thiết phải là cổ đông nhưng nếu là cổ đông thì phải sở hữu ít nhất 5% tổng số
cổ phần phổ thông. Đây là các quy định mới của Luật DN2005 so với Luật
DN1999. Quy định nằm nhằm đảm bảo cho HĐQT làm việc một cách có hiệu quả
với mục đích tối cao là vì lợi ích của tất cả các cổ đông công ty.
HĐQT làm việc theo chế độ tập thể. Đứng đầu là Chủ tịch HĐQT
(CTHĐQT) do ĐHĐCĐ hoặc HĐQT bầu. Nếu do HĐQT bầu thì CTHĐQT phải là
thành viên của HĐQT. Mọi vấn đề liên quan đến quyền hạn và nhiệm vụ của
HĐQT được xem xét và quyết định tại các phiên họp của HĐQT bằng hình thức
biểu quyết tại cuộc họp hoặc lấy ý kiến bằng văn bản. Mỗi thành viên HĐQT có
một lá phiếu biểu quyết. Không có thành viên nào của HĐQT có quyền quyết định

các vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng, kể cả của CTHĐQT. Khi thực hiện
chức năng của nhiệm vụ của mình, HĐQT phải tuân thủ đúng quy định của pháp
luật, Điều lệ công ty và nghị quyết của ĐHĐCĐ. Nếu quyết định sai mà gây thiệt
hại cho công ty thỡ cỏc thành viên chấp thuận thông qua các quyết định đó phải
cùng liên đới chịu trách nhiệm cá nhân và phải đền bù thiệt hại cho công ty. Quy
định này vừa làm tăng sự kiểm soát giám sát lẫn nhau giữa các bộ phận quản lý của
CTCP vừa làm tăng trách nhiệm của HĐQT đối với các quyết định của mình cũng
như trách nhiệm đối với công ty.
Thực tế trong quá trình thi hành Luật DN cho thấy, đội ngũ lãnh đạo, quản lí
DN chưa thực sự hùng hậu và đáp ứng được yêu cầu kinh doanh hiện đại trong bối
cảnh toàn cầu húa hiện nay, hạn chế về trình độ quản lý, về ngoại ngữ nhất là các
13


CTCP được hình thành từ việc cổ phần hóa DNNN (vì có tình trạng Bộ chủ quản
không chỉ quy định số lượng thành viên HĐQT mà còn chỉ định luôn đại diện sở
hữu cổ phần nhà nước trong công ty là CTHĐQT dù tỉ lệ cổ phần nhiều hay ít).
Điều này đã ảnh hưởng đến khả năng khai thác thông tin, hạn chế trong đàm phá
với các đối tác khi mở rộng thị trường, bỏ mất nhiều cơ hội phát triển của DN.
2.3. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty.
Công ty cần phải có người điều hành công việc hành ngày. Vì vậy nếu
CTHĐQT khụng kiờm làm Giám đốc công ty thì HĐQT bổ nhiệm một người trong
số họ làm Giám đốc hoặc thuê người khác làm. Như vậy Giám đốc có thể là thành
viên HĐQT, có thể không là thành viên HĐQT, có thể là cổ đông công ty, có thể
không phải là cổ đông công ty.
Điều 116 Luật DN2005 quy định về Giám đốc (Tổng giám đốc) công ty.
Theo đó, Giám đốc là người điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công
ty, chịu sự giám sát của HĐQT và chịu trách nhiệm trước HĐQT và trước pháp
luật về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao. Giám đốc phải điều hành
hoạt động kinh doanh của công ty theo đúng quy định của pháp luật, Điều lệ công

ty, hợp đồng lao động ký với công ty và quyết định của HĐQT. Nếu trái với quy
định, gây thiệt hại cho công ty thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi
thường cho công ty.
Nếu Điều lệ công ty không quy định CTHĐQT là đại diện theo pháp luật của
công ty thì Giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty. Tuy nhiên trên
thực tế cho thấy, ở nhiều CTCP vai trò của Giám đốc điều hành bị coi nhẹ. Quyết
định của Giám đốc nhiều khi bị mất đi tính độc lập quyết đoán.
2.4. Ban kiểm soát.
Theo Điều 95 Luật DN 2005, không phải mọi CTCP đều phải có BKS mà
chỉ có các CTCP cú trờn 11 cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu
14


trên 50% tổng số cổ phần của công ty mới bắt buộc phải có BKS. BKS là cơ quan
kiểm tra của công ty gồm từ 3 đến 5 thành viên do ĐHĐCĐ bầu ra. Điều 121, 122
và Điều 127 Luật DN 2005 là những quy định mới về cơ cấu tổ chức của BKS; tiêu
chuẩn và điều kiện làm thành viên BKS; miễn nhiệm bãi nhiệm thành viên BKS.
Quyền hạn và nhiệm vụ của BKS được quy định tại các Điều 123, 124 Luật DN
2005. Theo đó quyền và nhiệm vụ của BKS được quy định cụ thể hơn như quyền
thẩm định báo cáo tài chính hằng năm của công ty và báo cáo đánh giá công tác
quản lí của HĐQT, trình báo cáo thẩm định tài chính, báo cáo tình hình kinh doanh
hang năm của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lí của HĐQT nên ĐHĐCĐ
tại cuộc họp thường niên; quyền xem xét sổ kế toán và các tài liệu khác của công
ty, các công việc quản lí, điều hành hoạt động của công ty bắt cứ khi nào, nếu xét
thấy cần thiết hoặc theo quyết định của ĐHĐCĐ hoặc theo yêu cầu của cổ đông
hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên
tục ít nhất 6 tháng hoặc một tỉ lệ khác nhỏ hơn theo quy định tại Điều lệ công ty;
có quyền sử dụng tư vấn độc lập để thực hiện các nhiệm vụ được giao. Như vậy,
các quy định này đã làm tăng khả năng kiểm soát các hoạt động của công ty, của
BKS trong quá trình quản lí công ty. Nó tránh được sự lạm quyền và tư lợi của bộ

máy quản lí CTCP.
3. Quyền hạn và trách nhiệm của người quản lý công ty.
Người quản lý công ty giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả
quản lý của CPCT. Nghĩa vụ của người quản lý công ty là nội dung quan trọng
trong tổ chức, quản lý CTCP, là cơ sở đánh giá và điều chỉnh hành vi ứng xử của
công ty.
Điều 119 Luật DN 2005 quy định nghĩa vụ của người quản lý công ty, theo
đó thành viên HĐQT, Giám đốc (Tổng giám đốc) và người quản lý khỏc cú cỏc
nghĩa vụ sau:
15


- Thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao theo đúng quy định của Luật
này, pháp luật cú liờn quan, Điều lệ công ty, quyết định của ĐHĐCĐ.
- Thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao một cách trung thực, cẩn
trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa của công ty và cổ đông của
công ty;
- Trung thành với lợi ích của công ty và cổ đông của công ty; không sử dụng
thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của công ty, lạm dụng địa vị, chức vụ và tài
sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;
- Thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho công ty về các DN mà họ và
người có liên quan của họ làm chủ hoặc có phần vốn góp, cổ phần chi phối; thông
báo này được niêm yết tại trụ sở chính và chi nhánh của công ty.
Ngoài ra, HĐQT và Giám đốc (tổng giám đốc không được tăng lương, trả
thưởng khi công ty không thanh toán đủ các khoản nợ đến hạn. Các nghĩa vụ khác
theo quy định của Luật doanh nghiệp và Điều lệ công ty.
Quy định này có ý nghĩa làm cho các cá nhân quản lý công ty thực hiện tốt
trách nhiệm quả lý của mình theo quy định của luật cũng như Điều lệ công ty.
4. Kiểm soát các giao dịch của công ty.
Luật DN 2005 quy định cụ thể chi tiết hơn Luật DN 1999 các trường hợp

hợp đồng, giao dịch dân sự phải được ĐHĐCĐ hoặc HĐQT chấp thuận.
Theo Điều 120 Luật DN 2005 thì:
- Đối với cổ đông, người đại diện theo ủy quyền của cổ đông sở hữu trên
35% tổng số cổ phần phổ thông của công ty và những người có liên quan của họ,
thỡ cỏc hợp đồng giao dịch của họ với công ty phải được ĐHĐCĐ hoặc HĐQT
chấp thuận.

16


- HĐQT chấp thuận các hợp đồng và giao dịch có giá trị nhỏ hơn 50% tổng
giá trị tài sản DN ghi trong báo cáo tài chính gần nhất hoặc một tỉ lệ khác nhỏ hơn
quy định tại Điều lệ công ty.
- ĐHĐCĐ chấp thuận các hợp đồng và giao dịch khác, trừ trường hợp thuộc
thẩm quyền của HĐQT.

III. Thực trạng và hướng hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả
của pháp luật về tổ chức, quản lý CTCP.
1. Thực trạng áp dụng
Chúng ta biết rằng, Điều lệ DN được coi như là bản “hiến phỏp” của DN.
Khi đăng ký kinh doanh thì điều lệ dự thảo của DN bắt buộc phải có trong hồ sơ
của DN. Theo Luật DN 2005: Điều lệ của pháp nhân phải được sáng lập viên hoặc
đại hội thành viên thông qua, Điều lệ của pháp nhân phải được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền công nhận trong trường hợp pháp luật quy định. CTCP cũng như
các loại hình DN khác, khi thành lập bắt buộc phải có điều lệ công ty quy định các
quyền và nghĩa vụ của cổ đông, của những bộ phận hợp thành công ty, điều chỉnh
mối quan hệ giữa bộ phận cũng như những thủ tục hoạt động trong quá trình quản
lý điều hành công ty. Những quy định của pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn và thể
thức hoạt động của các cơ quan trong bộ máy tổ chức quản lý công ty là những nội
dung mang tính thường lệ, tạo cơ sở pháp lý cho sáng lập viên công ty cổ phần xây

dựng pháp luật cũng đã được quy định chi tiết trong Luật DN 2005.
Ta thấy, Điều lệ công ty và pháp luật DN trong việc điều chỉnh quan hệ nội
bộ công ty có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Điều lệ công ty như một văn bản chi
tiết giải thích, cụ thể hóa những quy định của pháp luật. Như vậy, pháp luật là tiền
đề xương sống cho Điều lệ công ty phát triển, Điều lệ công ty không thể trái với
quy định của pháp luật hiện hành. Tuy nhiờn, một thực trạng hiện nay là: Điều lệ
công ty, một công cụ quan trọng trong quản lý DN nhưng lại được DN xây dựng
17


một cách hình thức. Trường hợp CTHĐQT và Giám đốc công ty đều là người đại
diện theo pháp luật của công ty cùng tham gia ký kết hợp đồng mà giám đốc là
người đại diện theo pháp luật theo quy định của Điều lệ công ty nhưng lại không
được giữ con dấu, còn CTHĐQT ký và nắm giữ con dấu thì hợp đồng nào sẽ có giá
trị? Trên thực tế đã từng có những trường hợp như vậy nhưng thực tế xung đột nội
bộ này không thể giải quyết được. Trong trường hợp mâu thuẫn này, đã được mang
đến Tòa án. Tuy nhiên các phán quyết của Tòa án hầu như không được thi hành do
không giải quyết một cách thỏa đáng các mâu thuẫn trong nội bộ và không tạo
được sự công bằng lợi ích của các thành phần khác trong công ty.
2. Vấn đề xây dựng bộ máy quản lí CTCP .
Thứ nhất về phân cấp quản lý: Trên thế giới mô hình công ty hiện đại bao
gồm ba cấp độ quản lý. Khi người chủ sở hữu điều hành trực tiếp công ty của
mình, lợi nhuận và giá trị công ty có xu hướng tối đa hóa, bởi chỳng luụn gắn liền
với lợi ích riêng của chủ sở hữu công ty. Tuy nhiên, khi sở hữu bị tách biệt ra khỏi
hoạt động kiểm soát công ty, người điều hành trực tiếp công ty có thể vì lợi ích
riêng của mình sự dụng không đúng mục đích tài sản của công ty. Ví dụ như theo
đuổi các dự án quá rủi ro hoặc không cẩn trọng. Các nhà cung cấp nguồn tài chính
cho công ty (có thể là cá nhân; quỹ đầu tư; ngân hàng, tổ chức tài chính, các chính
phủ) muốn có biện pháp bảo đảm rằng các khoản đầu tư của họ sẽ được bảo vệ
khỏi sự biển thủ và sử dụng có mục đích phục vụ mục tiêu chung của công ty.

Quản lý công ty phải đảm bảo được điều này.
Trong một công ty hiện đại, có 3 cấp độ kiểm soát: các cổ đông, HĐQT, ban
điều hành.
Cấp cao nhất là các cổ đông – chủ sở hữu của tài sản và các khoản nợ của
công ty. Các cổ đông, những người là sáng lập viên hoặc người quản lý trực tiếp
công ty, cũn cú cỏc đối tượng là người mua cổ phần công ty thông qua thị trường
18


có tổ chức, như một khoản đầu tư tài chính với mong đợi nhận được cổ tức được
chia từ lợi nhuận của công ty hoặc được hưởng từ việc giá trị cổ phiếu tăng lên khi
công việc kinh doanh của công ty phát triển. Với tư cách là chủ sở hữu, các cổ
đông cần có một hệ thống cho phép họ được đóng góp vào việc xây dựng chiến
lược phát triển chung, định hướng kinh doanh cho công ty mà họ đầu tư. Quyền
lực của cổ đông lại được thực hiện bởi nghi thức của ĐHĐCĐ, sức mạnh của
ĐHĐCĐ trong luật công ty và Điều lệ công ty.
Tuy nhiên, cổ đông không thể gặp nhau thường xuyên, chính vì thế họ bầu
ra một cấp độ kiểm soát thứ hai để giám sát các cán bộ quản lý điều hành trực tiếp
công việc hàng ngày của công ty. Cấp độ thứ hai này chính là HĐQT – thành viên
HĐQT là những người được cổ đông bầu chọn nhằm bảo vệ quyền lợi của họ.
Quyền và trách nhiệm của HĐQT được nêu trong Luật DN và trong điều lệ công
ty. Các thành viên HĐQT luôn phải hành động vì quyền lợi của tất cả các cổ đông,
chứ không của riêng một cổ đông nào chịu sự ảnh hưởn ngoài công ty. Chính vì
thế, vai trò chớnh của HĐQT là đảm bảo rằng công ty thực hiện đầy đủ các nghĩa
vụ đối với cổ đông, nhà nước, đối với công ty, cỏc bờn cho vay, nhà cung cấp,
khách hàng và cả xã hội. Ở các nước có hệ thống quản trị công ty phát triển, ngoài
HĐQT, các công ty một cách bắt buộc hoặc tự nguyện, thiết lập ra các ủy ban
thuộc HĐQT như ủy ban quản trị công ty, ủy ban thù lao và ủy ban kiểm toán.
HĐQT và ủy ban thuộc HĐQT gặp nhau một số lần trong năm, đưa ra hướng dẫn
và giám sát đối với các cán bộ điều hành công ty, chịu trách nhiệm lựa chọn, đánh

giá và trả thù lao cho ban điều hành.
Cấp độ thứ 3 đó là những người điều hành công việc hàng ngày của công ty–
ban giám đốc điều hành. Các cán bộ điều hành trong đó có chức danh chính là
Tổng giám đốc được cổ đông và HĐQT trao quyền, với các tự do cần thiết để vận
hành công việc hàng ngày của công ty. Sự tự do này rất quan trọng bởi vì nó cho
19


phép cán bộ điều hành đưa ra các lệnh cần thiết cho công ty. Cán bộ điều hành phải
có trách nhiệm giải trình về kết quả hoạt động của công ty. Trách nhiệm chính của
cán bộ điều hành dự cú là cổ đông hay không, là quản lý công ty vì quyền lợi tối
cao của cổ đông. Nếu họ thành công, họ sẽ được hưởng lợi. Nếu họ thất bại, họ
phải có trách nhiệm giải trình với cổ đông.
Mặc dù CTCP theo Luật DN 2005 quy định cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý
CTCP gồm ĐHĐCĐ, HĐQT và BKS nhưng trong thời gian tới nên tham khảo theo
các cấp độ quản lý nêu trên để tránh cồng kềnh, hoạt đồng kém hiệu quả.
Thứ hai: Khắc phục những hạn chế từ đặc điểm của công ty.Trong công ty
có sự phân chia quyền sở hữu và kiểm soát. Khi chủ sở hữu không điều hành trực
tiếp mà giao cho cán bộ điều hành DN, lúc đó sẽ nảy sinh vấn đề phân chia quyền
sở hữu và quyền kiểm soát công ty. Ban giám đốc điều hành do chủ sở hữu bổ
nhiệm có quyền kiểm soát các hoạt động hàng ngày đối với tài sản và nguồn lực
của công ty. Tuy nhiên, họ lại không phải là người chịu rủi ro cuối cùng trong
trường hợp công ty thua lỗ và cũng không phải là người hưởng lợi cuối cùng trong
trường hợp công ty có lãi, bởi vì người hưởng lợi cuối cùng đều thuộc về các cổ
đông – những người đầu tư vào công ty. Lúc này, xuất hiện nguy cơ ban điều hành
có thể làm việc vì quyền lợi riêng của họ hơn là quyền lợi của cổ đông. Quản lý
công ty phải giải quyết vấn đề này bằng cách làm cho các ủy viên HĐQT và ban
điều hành có trách nhiệm giải trình với cổ đông, đồng thời đảm bảo và tăng quyền
tham gia của cổ đông vào hoạt động quản lý công ty.
Trong quản lý công ty có việc không cân xứng về thông tin. Ban giám đốc là

những người điều hành công việc hàng ngày của công ty nờn cú những thông tin
đầy đủ hơn các cổ đông về tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
do sự không cân xứng về thông tin đã tạo điều kiện cho ban giám đốc có thể đánh
lạc hướng cổ đông và điều hành công ty vì quyền lợi riêng của mình. Ngay cả khi
20


vì lợi ích của cổ đông họ vẫn có thể đưa ra quyết định thiếu đúng đắn nếu không có
sự kiểm tra và đối trọng thường xuyên của cổ đông. Quản lý công ty cần phải giải
quyết vấn đề này bằng các quy định cụ thể, rõ ràng hơn.
Sự tự do làm theo ý mình của ban điều hành. Trong CTCP, chủ sở hữu
không thể thiết lập trực tiếp hợp đồng một cách hoàn hảo với ban điều hành trong
đó miêu tả chính xác và chi tiết những gì ban điều hành cần làm trong mọi trường
hợp. Điều này đồng nghĩa với việc ban điều hành có thể tự do ra quyết định làm
theo ý mình. Các quy định của Luật DN cần phải phân định rõ ràng quyền và
nhiệm vụ của các bộ phận cấu thành của công ty (ĐHĐCĐ; BKS và BGDĐH) một
cách cụ thể đồng thời công ty cũng cần xây dựng một Điều lệ hợp lý để nâng cao
chất lượng của quản lí.
3. Một số kiến nghị cụ thể.
Phải thừa nhận rằng hệ thống pháp luật kinh tế của nước ta đã phản ứng khá
nhanh trước đòi hỏi của việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, song bên cạnh đó vẫn cần phải có sự quan tâm sửa đổi.
Thứ nhất: cần phải có quy định cụ thể khoảng thời gian để CTCP kết nạp
thêm cổ đông đến mức công ty cú trờn mời một cổ đông là cá nhân hay cổ đông là
tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty, phải thành lập BKS. Việc
thành lập BKS cần phải có một khoảng thời gian nhất định. Vấn đề này còn tồn tại
từ Luật DN 1999, nay cần phải có thể chế và văn bản hướng dẫn.
Thứ hai: cần nêu rõ trách nhiệm trả lời chất vấn của lãnh đạo công ty trước
ĐHĐCĐ. Vấn đề này phải được quy định để đảm bảo các chất vấn của cổ đông
được trả lời một cách nhanh chóng, cũng như trường hợp lãnh đạo công ty có

quyền từ chối trả lời chất vấn.

21


Thứ ba: với việc quy định thời hạn tối thiểu là 7 ngày cho việc gửi giấy triệu
tập họp đến cho cổ đông, thời hạn này cần tăng thêm để đảm bảo các cổ đông đủ
thời gian xử lý các thông tin để có lá phiếu biểu quyết phù hợp trong ĐHĐCĐ.
Thứ tư: bên cạnh hoàn thiện pháp luật thì vấn đề nâng cao hiệu quả áp dụng
quy định của pháp luật trong DN cũng là vấn đề đáng quan tâm. Với thực trạng
hiện nay ở Việt Nam, theo điều tra thỡ trờn 85 DN lớn ở Việt Nam của IFC –
MPDF thực hiện chỉ có 23% được hỏi rằng các doanh nhân Việt Nam đã hiểu khái
niệm và nguyên tắc cơ bản của quản lý DN. Vì vậy cần nhanh chóng đưa chương
trình đào tạo dành cho thành viên HĐQT và các cán bộ quản lý công ty. Cần nỗ lực
lớn để thành lập Học viện đào tào thành viện HĐQT và các cán bộ quản lý công ty
và việc hoàn thành khóa học sẽ là yêu cầu bắt buộc đối với thành viên HĐQT và
các cán bộ quản lý.

KẾT LUẬN
Hiện nay, với yêu cầu của quá trình hội nhập, toàn cầu hóa các doanh nghiệp
Việt Nam đang đứng trước những thách thức to lớn. CTCP với ưu thế nhất định
của nó đã từng bước phát triển và hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên để đạt được
những lợi ích kinh tế tối đa và thu hút được sự quan tâm đầu tư của các nhà đầu tư
trong cũng như ngoài nước thì đòi hỏi chúng ta phải có một hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh, đồng bộ và thống nhất. Bên cạnh đó, Việt Nam cần phải đào tạo một
đội ngũ doanh nhân giỏi về chuyên môn, năng động sáng tạo trong công việc. Điều
này góp phần to lớn vào việc nâng cao hiệu quả của quản lý doanh nghiệp, nâng
cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng.
22



Hy vọng, trong thời gian tới cùng với sự hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh
tế cũng như sự đầu tư quan tâm của nhà nước, cỏc cỏ nhõn… Loại hình CTCP ở
Việt Nam sẽ không ngừng phát triển và mang lại hiệu quả kinh tế cao./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật DN 2005, Luật DN 1999.
2. Giáo trình Luật Thương mại tập 1 – Trường ĐH Luật Hà Nội, nxb Công an
nhân dân, Hà Nội 2006.
3. Giáo trình Luật kinh tế - trường ĐH Luật Hà Nội, nxb Công an nhân dân, Hà
Nội 2006.
4. Giáo trình Luật kinh tế tập 1 – Khoa luật ĐHQG Hà Nội.
5. So sánh Luật DN 1999 và Luật DN 2005 – Th.s Luật sư Phạm Thông Anh (chủ
biên), NXB Tư pháp.
6. Tạp chí luật học, tạp chí kinh tế thế giới và một số tạp chí khác.
23


7. Pháp luật về tổ chức các hình thức kinh doanh – Th.s Nguyễn Thị Khế, NXB
Tư pháp.
8. Một số nghị định và văn bản có liên quan.
9. Một số website liên quan.

MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu

1

I. Khái quát chung về công ty cổ phần (CTCP),tổ chức quản lí CTCP.


1

1. Khái niệm CTCP

2

1.1 Định nghĩa

3

1.2 Đặc điểm

3

2. Khái niệm tổ chức, quản lí CTCP

3

2.1 Khái niệm

3

2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức quản lí CTCP

5

2.3 Các yêu cầu đối với việc tổ chức quản lí CTCP

5


II. Tổ chức và quản lí CTCP theo pháp luật hiện hành

8

1.Cơ cấu bộ máy quản lí CTCP

8

MÔ HÌNH
2. Tổ chức và hoạt động của bộ máy CTCP

9

2.1 Đại hội cổ đông

9

2.2 Hội đồng quản trị

14

2.3 Giám đốc hoặc tổng giám đốc công ty

14

2.4 Ban kiểm soát

14


3. Quyền hạn và trách nhiệm của người quản lí công ty

15

4. Kiểm soát các giao dịch của công ty

16
24


III. Thực trạng và hướng hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật
Về tổ chức, quản lí CTCP.

17

1. Thực trạng áp dông

17

2. Vấn đề xây dựng bộ máy CTCP

18

3. Một số kiến nghị cụ thể

21

Kết luận.
Tài liệu tham khảo


25


×