Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

Sự hài lòng của các lớp sinh viên đại trà đối với chương trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ tại trường đại học tài chính - marketing

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.05 KB, 82 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING
KHOA THƯƠNG MẠI

Tiểu luận môn học Nghiên Cứu Thị Trường Quốc Tế
Đề tài: SỰ HÀI LÒNG CỦA SINH VIÊN CÁC LỚP ĐẠI TRÀ ĐỐI VỚI
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ TẠI TRƯỜNG ĐẠI
HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING

GVHD: ThS. HÀ ĐỨC SƠN

TP Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2015

1


MỤC LỤC HÌNH:

MỤC LỤC BẢNG:

2


MỤC LỤC

3


CHƯƠNG 1 : GIỚI THIỆU CHUNG
1.1
Lý do chọn đề tài nghiên cứu


Giáo dục luôn là mối quan tâm hàng đầu của xã hội, không chỉ trong nước mà
còn của quốc tế. Trong môi trường mở cửa, nước ta đã không ngừng phát triển đất
nước theo một chiều hướng tốt đẹp, thân thiện, văn minh hơn. Để làm được điều đó,
trước tiên phải đổi mới và phát triển nền giáo dục lâu đời và có phần lạc hậu.
Đào tạo cử nhân theo chương trình tín chỉ là một chính sách lớn của Bộ Giáo dục
và Đào tạo, học theo kinh nghiệm và thành tựu của các nước tiên tiến phương Tây.
Chứng tỏ Bộ Giáo Dục có các chính sách đổi mới giáo dục theo một chiều hướng hoàn
toàn mới, ngày càng tiên tiến, hội nhập và tiến gần xa hơn trong nền giáo dục thế giới.
Ngày 30 tháng 7 năm 2001, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Quyết định số
31/2001/QĐ-BGD&ĐT về việc thí điểm tổ chức đào tạo, kiểm tra, thi và công nhận
tốt nghiệp đại học, cao đẳng hệ chính quy theo học chế tín chỉ. 1 Tuy đã có mặt ở Việt
Nam hơn 20 năm nay, nhưng chương trình đào tạo hệ tín chỉ chưa tồn tại đúng với bản
chất nên không phát huy được thế mạnh vốn có của mình. Tính đến năm 2013 có đến
60% trường ĐH, 30% trường CĐ ở Việt Nam đào tạo theo hệ tín chỉ. Tuy nhiên các
trường đều thực hiện theo kiểu nửa vời. Thực tế cho thấy phần lớn các trường ĐH, CĐ
ở Việt Nam đều chưa đủ điều kiện để thực hiện chương trình đào tạo theo học chế tín
chỉ. Cơ sở vật chất, hạ tầng hiện nay như phòng thí nghiệm, thư viện,…để sinh viên tự
học chưa đầy đủ. Bởi thế cho nên cũng không có gì ngạc nhiên khi người dân và một
phần sinh viên đến thời điểm này vẫn còn bỡ ngỡ, chưa hiểu (thậm chí xa lạ) với hình
thức đào tạo mới này.
Cũng cần nói thêm về mục tiêu và phương thức đào tạo theo hệ tín chỉ, đó là việc
phát huy tính tích cực, chủ động cho cả hai phía – người dạy và người học, nhưng ưu
tiên cho người học - lấy người học làm trung tâm. Vì vậy, cấu trúc chương trình dành
1/3 thời lượng cho người học tự nghiên cứu. Những yêu cầu cao trong công tác tự rèn
luyện, học tập của sinh viên đi kèm với những điều kiện cần và đủ về thiết chế, công
cụ, phương pháp tư duy và nhiều yếu tố tác động khác nữa. Như vậy, học theo hệ tín
chỉ nếu thực hiện khoa học và triệt để sẽ làm cho người học phát triển và phát huy
năng lực chuyên môn một cách tối đa, biến họ thành chủ thể tri thức, chủ thể văn hóa
tốt nhất.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, giáo dục đại học đã và đang trở thành một ngành

dịch vụ, đáp ứng những đơn đặt hàng về nhân lực của xã hội. Nếu hệ thống giáo dục
đại học đào tạo những con người mới toàn diện và luôn sẵn sàng cung ứng những dịch
1 />
4


vụ đào tạo chất lượng cao, thì sẽ thu hút nhiều sinh viên thông minh và tài năng chọn
trường đó để gửi gắm tương lai; chất lượng và uy tín của trường nhờ đó ngày càng
tăng. Do đó, mỗi trường Đại học cần nắm rõ mức độ hài lòng của sinh viên về hoạt
động giáo dục, trong đó có hoạt động đào tạo, để không ngừng nỗ lực, cải thiện đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của người học. Mặc dù đánh giá mức độ hài lòng của
khách hàng về dịch vụ mà nhà cung cấp đưa ra là nội dung rất quan trọng trên thị
trường kinh doanh, nhưng đánh giá mức độ hài lòng của sinh viên về chất lượng giáo
dục của trường đại học nói chung và về hoạt động đào tạo của trường đó nói riêng vẫn
chưa được quan tâm thích đáng. Trường Đại Học Tài Chính- Marketing là một trong
những trường đại học mới chuyển đổi sang đào tạo theo phương thức tín chỉ trong 4
năm gần đây, việc đánh giá mức độ hài lòng của sinh viên đối với hoạt động đào tạo
của nhà trường là hết sức cần thiết và cấp bách.
Dưới góc độ là sinh viên của Đại Học Tài chính –Marketing, nhóm tác giả mạnh
dạn thực hiện đề tài nghiên cứu "Sự hài lòng của sinh viên các lớp đại trà đối với
chương trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ tại trường Đại Học Tài chính – Marketing”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Thứ nhất, đo lường mức độ hài lòng của sinh viên trường ĐH Tài chính –
Marketing đối với chất lượng đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
Thứ hai, xác định và đo lường các yếu tố ảnh hưởng tới mức độ hài lòng của
sinh viên đối với chất lượng đào tạo theo tín chỉ của trường ĐH Tài chính-Marketing.
Thứ ba, tìm ra sự khác biệt về mức độ hài lòng của từng nhóm sinh viên đối với
sự hài lòng về chất lượng đào tạo tín chỉ của trường ĐH Tài chính-Marketing.
Thứ tư, đề xuất phương pháp nâng cao chất lượng đào tạo tín chỉ của trường
nhằm thỏa mãn và phù hợp với sinh viên ở trường ĐH Tài chính- Marketing

1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu này tiến hành khảo sát các yếu tố quyết định đến mức độ hài lòng
của sinh viên trường đại học Tài chính - Marketing về chương trình đào tạo theo hệ
thống tín chỉ.
Để đảm bảo được tính đại diện của mẫu nghiên cứu trong quá trình thu thập dữ
liệu, đối tượng được chọn khảo sát là những sinh viên đang theo học các lớp đại trà tại
trường đại học Tài chính - Marketing khóa 14, khóa 13, khóa 12 hệ tín chỉ, thuộc 10
khoa đào tạo của nhà trường, bao gồm: Quản trị kinh doanh, Thương Mại, Marketing,
Du lịch, Thẩm định giá – Kinh doanh bất động sản, Tài chính – Ngân hàng, Kế toán –
Kiểm toán, Công nghệ thông tin, Ngoại ngữ, Thuế - Hải quan.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng chủ yếu các phương pháp:

• Phương pháp nghiên cứu định tính được thực hiện bằng kĩ thuật thảo luận
nhóm tập trung, với sự tham gia của nhóm sinh viên đang theo học các lớp đại
5


trà tại trường Đại học Tài chính – Marketing, nhằm khám phá và khẳng định
các yếu tố tác động đến sự hài lòng của sinh viên về chương trình đào tạo theo
hệ thống tín chỉ, cùng các biến quan sát đo lường những yếu tố này.
• Phương pháp nghiên cứu định lượng được thực hiện nhằm đánh giá độ tin cậy
(giá trị hội tụ và phân biệt) của các thang đo các yếu tố tác động đến mức độ
hài lòng của sinh viên trường đại học Tài chính – Marketing về chương trình
đào tạo theo hệ thống tín chỉ; kiểm định mô hình nghiên cứu và các giả thuyết
nghiên cứu, kiểm định có hay không có sự khác biệt về cường độ tác động của
các yếu tố nhân khẩu học đến sự đánh giá của sinh viên.
• Nghiên cứu định lượng được thực hiện qua các giai đoạn:
- Thu thập dữ liệu nghiên cứu bằng bảng câu hỏi sinh viên các lớp đại trà
đang theo học hệ tín chỉ tại trường đại học Tài Chính – Marketing. Kích

thước mẫu n = 300, được chọn theo phương pháp lấy mẫu thuận tiện là sinh
viên các lớp đại trà thuộc trường đại học Tài chính – Marketing.
- Đánh giá sơ bộ độ tin cậy và giá trị của thang đo bằng hệ số tin cậy
Cronbach Alpha và phân tích nhân tố khám phá EFA (Exploratory Factor
Analysis) thông qua phần mềm xử lý SPSS 16, nhằm đánh giá độ tin cậy
của các thang đo, qua đó loại bỏ các biến quan sát không đạt độ tin cậy; tái
sắp xếp các biến quan sát còn lại vào từng nhóm yếu tố mới (nếu có) một
cách phù hợp, tạo cơ sở cho việc điều chỉnh mô hình nghiên cứu và các giả
thuyết nghiên cứu.
- Phân tích hồi quy đa biến nhằm kiểm định mô hình nghiên cứu, các giả
thuyết nghiên cứu và đo lường cường độ tác động của các nhóm yếu tố.
- Kiểm định Explore nhằm kiểm định có hay không sự khác biệt về mức độ
hài lòng theo các đặc điểm nhân khẩu học của sinh viên.
- Ngoài ra, nghiên cứu còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp để
tổng kết các lý thuyết về nghiên cứu mức độ hài lòng của khách hàng; cuối
cùng là thảo luận kết quả nghiên cứu và đề xuất một số kiến nghị cho việc
hoạch định chính sách, chiến lược phát triển, phát huy lợi thế và hạn chế
những bất cập trong chương trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
1.5 Những đóng góp mới của nghiên cứu
Chương trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới, cụ
thể là các đại học danh tiếng ở các nước phương Tây. Hệ thống đào tạo này cũng
không phải quá xa lạ đối với Việt Nam: trước năm 1975, Viện Đại học Cần Thơ cũng
đã từng áp dụng hệ thống tín chỉ trong các Đại học Văn Khoa, Đại học Luật Khoa và
Đại học Khoa học. Tuy nhiên đến năm 2007, khi Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
“Quy chế Đào tạo đại học và cao đẳng theo hệ thống tín chỉ”, và năm 2011 là hạn cuối
cùng để các trường liên quan phải chuyển sang hệ thống đào tạo mới này thì chương
trình đào tạo này mới thực sự được triển khai phổ biến trên cả nước. Trong suốt gần 4
năm qua, có rất nhiều ý kiến nhận xét về việc thực hiện quy chế này và cũng chính vì
6



lẽ đó, không ít các bài nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu rõ hơn về chương
trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ và mức độ thỏa mãn của sinh viên đối với chương
trình này. Tiếp nối những bài nghiên cứu đi trước, nhóm tác giả thực hiện đề tài “Sự
hài lòng của sinh viên các lớp đại trà đối với chương trình đào tạo theo hệ thống tín
chỉ tại trường Đại học Tài chính – Marketing” với hi vọng có thể góp phần đưa ra
những ưu điểm của chương trình đào tạo này cũng như những phương án đề xuất khắc
phục những nhược điểm thông qua sự đo lường mức độ hài lòng của sinh viên tại
trường. Từ quan điểm của người trong cuộc, những sinh viên đang được theo học
chương trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ, chúng tôi mong muốn đưa vào đề tài những
quan điểm và những nhận xét chân thực hơn thông qua sự đánh giá mức độ hài lòng
của sinh viên; từ đó có thể góp phần cải thiện và phát triển chương trình này tại trường
Đại học Tài chính – Marketing nói riêng và các trường đại học khác trên cả nước nói
chung; đồng thời đề tài có thể là gợi ý cho các nghiên cứu khác tìm hiểu sâu và rộng
hơn về vấn đề này.
1.6 Kết cấu của nghiên cứu
Kết cấu nghiên cứu gồm 5 chương:
Chương 1: Giới thiệu chung
Ở chương này, nhóm tác giả đưa ra lí do chọn đề tài nghiên cứu; mục tiêu nghiên
cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu; các phương pháp nghiên cứu; kết cấu của
nghiên cứu. Bên cạnh đó, những đóng góp mới của nghiên cứu cũng được đề cập.
Chương 2: Cơ sở khoa học và mô hình nghiên cứu
Chương này làm sáng tỏ cơ sở khoa học và từ đó nhóm tác giả đề xuất mô hình
nghiên cứu. Đầu tiên, phần giới thiệu chung về chương trình đào tạo theo hệ thống tín
chỉ của các trường đại học bao gồm các khái niệm về “sự hài lòng”, “sinh viên”,
“chương trình đào tạo”, “tín chỉ”. Tiếp theo đó là những đặc điểm chung của chương
trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ, kèm theo cả ưu điểm và nhược điểm của chương
trình này. Đi từ khái quát, nhóm tác giả tiến đến cụ thể khi giới thiệu một số đặc điểm
của chương trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ tại trường Đại học Tài chính –
Marketing.

Phần quan trọng nhất của một bài nghiên cứu là cơ sở lý thuyết. Phần này bao
gồm: Cơ sở lý luận về chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng; Mô hình đo
lường chất lượng dịch vụ SERVQUAL; Ứng dụng của thang đo trong giáo dục đại
học.
Từ những cơ sở lý thuyết, nhóm tác giả đề xuất các giả thuyết nghiên cứu và mô
hình nghiên cứu phù hợp.
Chương 3: Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế của nghiên cứu bao gồm quy trình nghiên cứu; hai loại nghiên cứu là
nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng.
7


Chương 4: Phân tích dữ liệu nghiên cứu
Chương này tập trung phân tích dữ liệu nghiên cứu sau khi đã chạy phần mềm
SPSS, bao gồm: Thông tin về mẫu nghiên cứu; Đánh giá sơ bộ thang đo và Phân tích
hồi quy với các kiểm định cơ bản.
Chương 5: Thảo luận kết quả nghiên cứu và kết luận
Chương cuối cùng tổng hợp quá trình và kết quả nghiên cứu. Từ đó đưa ra một
số kiến nghị và giải pháp nâng cao chất lượng chương trình đào tạo theo hệ thống tín
chỉ tại trường Đại học Tài chính – Marketing. Bên cạnh đó đưa ra những hạn chế và
hướng nghiên cứu tiếp theo.

8


CHƯƠNG 2 : CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
2.1 Chương trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ tại các trường Đại học.
2.1.1 Các khái niệm
2.1.1.1 Khái niệm về sự hài lòng
Có nhiều quan điểm, khái niệm khác nhau về sự hài lòng:

Theo Bachelet (1995) cho rằng sự hài lòng của khách hàng như một phản ứng
mang tính cảm xúc của khách hàng qua sự trải nghiệm của họ về một sản phẩm hay
một dịch vụ. Vì nó đáp ứng những mong muốn của họ, bao gồm cả mức độ đáp ứng
trên mức mong muốn và dưới mức mong muốn.
Theo Oliver (1997): Sự hài lòng là sự phản ứng của người tiêu dùng đối với việc
được đáp ứng những mong muốn. Mức độ hài lòng của khách hàng được xem như sự
so sánh giữa mong đợi trước và sau khi sử dụng một sản phẩm hoặc dịch vụ.
Theo Kotler (2000), định nghĩa “Sự hài lòng như là một cảm giác hài lòng hoặc
thất vọng của một người bằng kết quả của việc so sánh thực tế nhận được của sản
phẩm (hay kết quả) trong mối liên hệ với những mong đợi của họ”.
Theo Hoyer và MacInnis (2001) cho rằng sự hài lòng có thể gắn liền với cảm
giác chấp nhận, hạnh phúc, giúp đỡ, phấn khích, vui sướng.
Theo Hansemark và Albinsson (2004), “Sự hài lòng của khách hàng là một thái
độ tổng thể của khách hàng đối với một nhà cung cấp dịch vụ, hoặc một cảm xúc phản
ứng với sự khác biệt giữa những gì khách hàng dự đoán trước và những gì họ tiếp
nhận, đối với sự đáp ứng một số nhu cầu, mục tiêu hay mong muốn”.
Sự hài lòng là việc người sử dụng căn cứ vào những hiểu biết của mình đối với
một sản phẩm hay dịch vụ mà hình thành nên những đánh giá hoặc phán đoán chủ
quan. Đó là một dạng cảm giác về tâm lý sau khi nhu cầu của họ được thỏa mãn. Sự
hài lòng của khách hàng được hình thành trên cơ sở những kinh nghiệm, đặc biệt được
tích lũy khi mua sắm và sử dụng sản phẩm hay dịch vụ. Sau khi mua và sử dụng sản
phẩm, dịch vụ khách hàng sẽ có sự so sánh giữa hiện thực và kỳ vọng, từ đó đánh giá
được hài lòng hay không hài lòng.
Như vậy, có thể hiểu được sự hài lòng là cảm giác dễ chịu hoặc có thể thất vọng
phát sinh từ việc người dùng so sánh giữa những lợi ích thực tế của sản phẩm, dịch vụ
và những kỳ vọng của họ. Nếu lợi ích thực tế không như kỳ vọng thì khách hàng sẽ
thất vọng. Còn nếu lợi ích thực tế đáp ứng với kỳ vọng đã đặt ra thì khách hàng sẽ hài
lòng. Nếu lợi ích thực tế cao hơn kỳ vọng của khách hàng thì sẽ tạo ra hiện tượng hài
lòng cao hơn hoặc là hài lòng vượt quá mong đợi.


9


2.1.1.2 Khái niệm về sinh viên
Thuật ngữ "sinh viên" có nguồn gốc từ tiếng La-tinh "Student" có nghĩa là người
làm việc, học tập nhiệt tình, người đi tìm kiếm, khai thác tri thức. Nó được dùng cùng
nghĩa tương đương với từ "Student" trong tiếng Anh, "Etudiant" trong tiếng Pháp và
"Cmgenm" trong tiếng Nga. "Sinh viên" là để chỉ những người theo học ở bậc đại học
và phân biệt với học sinh đang theo học ở bậc phổ thông.

-

-

-

-

2.1.1.3 Khái niệm về chương trình đào tạo
Khái niệm chương trình đào tạo được hiểu là : “Văn bản chính thức quy định
mục đích, mục tiêu, yêu cầu, nội dung kiến thức và kỹ năng, cấu trúc tổng thể các bộ
môn, kế hoạch lên lớp và thực tập theo từng năm học, tỷ lệ giữa các bộ môn, giữa lý
thuyết và thực hành, quy định phương thức, phương pháp, phương tiện, cơ sở vật chất,
chứng chỉ và văn bằng tốt nghiệp của cơ sở giáo dục và đào tạo.” 2
“Chương trình giáo dục thể hiện mục tiêu giáo dục, quy định chuẩn kiến thức, kỹ
năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt
động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp,
mỗi cấp học hay trình độ đào tạo.”3
Theo các bậc học loại hình giáo dục Luật giáo dục 2005 cũng quy định chương
trình giáo dục cụ thể như:

Chương trình giáo dục phổ thông thể hiện mục tiêu giáo dục phổ thông, quy định
chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục phổ thông, phương
pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục
đối với các môn học ở mỗi lớp, mỗi cấp học của giáo dục phổ thông.
Chương trình giáo dục nghề nghiệp thể hiện mục tiêu giáo dục nghề nghiệp, quy định
chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục nghề nghiệp, phương
pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối
với các môn học, ngành, nghề, trình độ đào tạo của giáo dục nghề nghiệp; bảo đảm
liên thông với các chương trình giáo dục khác .
“Chương trình khung về đào tạo trung cấp chuyên nghiệp bao gồm cơ cấu nội dung,
số môn học, thời lượng các môn học, tỷ lệ thời gian giữa lý thuyết và thực hành, thực
tập đối với từng ngành nghề đào tạo. Căn cứ vào chương trình khung, trường trung
cấp chuyên nghiệp xác định chương trình đào tạo của mình”4
“Chương trình giáo dục đại học thể hiện mục tiêu giáo dục đại học, quy định chuẩn
kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục đại học, phương pháp và
2 Nguyễn

Văn Giao , Nguyễn Hữu Quỳnh , Vũ Vǎn Tảo , Bùi Hiền - “Giáo dục học” NXB Từ điển bách khoa ,2001
3

Luật giáo dục năm 2005, “chương trình giáo dục” (điều 6 Chương I)

4 Luật Giáo dục 2005 (Điều 35)

10


hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các
môn học, ngành, nghề, trình độ đào tạo của giáo dục đại học; bảo đảm liên thông với
các chương trình giáo dục khác”.


- “Chương trình khung cho từng ngành đào tạo đối với trình độ cao đẳng, trình độ đại
học bao gồm cơ cấu nội dung các môn học, thời lượng đào tạo, tỷ lệ phân bổ thời gian
giữa các môn học, giữa lý thuyết và thực hành, thực tập. Căn cứ vào chương trình
khung, trường cao đẳng, trường đại học xác định chương trình đào tạo của trường
mình” 5
Như vậy, chương trình đào tạo thể hiện trình độ đào tạo; đối tượng đào tạo, điều
kiện nhập học và điều kiện tốt nghiệp; mục tiêu đào tạo, chuẩn kiến thức, kỹ năng của
người học khi tốt nghiệp; khối lượng kiến thức lý thuyết, thực hành, thực tập; kế
hoạch đào tạo theo thời gian thiết kế; phương pháp và hình thức đào tạo; cách thức
đánh giá kết quả học tập; các điều kiện thực hiện chương trình. Chương trình đào tạo
được cấu trúc từ các học phần thuộc hai khối kiến thức: giáo dục đại cương và giáo
dục chuyên nghiệp.
Đề cương chi tiết của từng học phần phải thể hiện rõ số lượng tín chỉ, điều kiện
tiên quyết (nếu có), học trước, học song hành, nội dung lý thuyết và thực hành, cách
thức đánh giá học phần, giáo trình, tài liệu tham khảo và điều kiện thí nghiệm, thực
hành, thực tập phục vụ học phần.
Thông tin về các học phần thuộc Chương trình đào tạo được thể hiện trong
website ở phần chương trình đào tạo cá nhân hoặc trường.
2.1.1.4 Khái niệm về tín chỉ:
Trong các từ điển bách khoa, các tài liệu về giáo dục đại học có nhiều định nghĩa
khác nhau về tín chỉ. Theo định nghĩa của James Quann (Đại học Quốc gia
Washington): Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một
người học bình thường để học một môn học cụ thể, bao gồm:

- Thời gian lên lớp.
- Thời gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc khác đã được
quy định ở thời khoá biểu.
- Thời gian dành cho đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn
bị bài.

Đối với các môn học lý thuyết 1 tín chỉ là một giờ học trên lớp (với 2 giờ chuẩn
bị ở nhà) trong 1 tuần và kéo dài trong 1 học kỳ 15 tuần; đối với các môn học ở studio
hay phòng thí nghiệm - ít nhất là 2 giờ trong 1 tuần (với 1 giờ chuẩn bị ở nhà); đối với
việc tự nghiên cứu - ít nhất là 3 giờ làm việc trong 1 tuần.
5 Luật giáo dục 2005 (điều 41)

11


“Tín chỉ là đơn vị dùng để đo khối lượng kiến thức đồng thời là đơn vị để đánh giá
kết quả học tập của sinh viên dựa trên số lượng tín chỉ đã tích luỹ được. Mỗi tín chỉ
được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết. Để tiếp thu được 1 tiết học lý thuyết sinh
viên cần ít nhất 2 tiết chuẩn bị cá nhân. Cứ 30 tiết thảo luận trên lớp bài tập thí nghiệm
hoặc 45 - 60 tiết thực tập, kiến tập, làm tiểu luận, đồ án, khoá luận tốt nghiệp được
tính tương đương 1 tín chỉ.” 6
Hệ thống học chế tín chỉ sở dĩ được truyền bá nhanh và áp dụng rộng rãi ở các
trường đại học trên thế giới do có nhiều ưu điểm vượt trội hơn so với hệ thống đào tạo
theo niên chế học phần. Theo GS. Lê Thạc Cán, nếu kế hoạch đào tạo theo niên chế có
thể ví như một tuyến đường đã được vạch sẵn cho tất cả sinh viên (trong một khoá) đi
theo trong suốt một khóa đào tạo thì kế hoạch đào tạo theo học chế tín chỉ là một bản
đồ học tập của một hệ thống các tri thức lý luận và thực tiễn theo các ngành, chuyên
ngành trên đó sinh viên có thể chọn tuyến đi, cách đi, tốc độ đi tới mục đích của mình
căn cứ vào mục đích, sở thích, điểm mạnh, điểm yếu cụ thể. Lộ trình học tập này có
thể giúp sinh viên điều chỉnh tuyến đi lúc mục đích học tập của sinh viên thay đổi theo
nguyện vọng cá nhân, nhu cầu của thị trường nhân lực hoặc phát triển 20 của khoa học
và công nghệ. Học chế này cho phép sinh viên có cơ hội linh hoạt chuyển đổi ngành
học, tạo ra một "ngôn ngữ chung" giữa các trường Đại học, tạo điều kiện cho việc
chuyển đổi sinh viên giữa các trường trong nước và trên thế giới, rất thuận lợi trong
các chương trình đào tạo liên kết.
2.1.2 Đặc điểm chương trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ

2.1.2.1 Đặc điểm chung:
Hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ lần đầu tiên được áp dụng trên thế giới là
vào năm 1872 tại trường Đại học Harvard (Mỹ) sau đó lan rộng ra khắp nơi trên thế
giới. Ở Việt Nam đào tạo theo học chế tín chỉ lần đầu tiên được áp dụng tại trường Đại
học Bách Khoa TP Hồ Chí Minh từ năm 1993-1994 rồi đến các trường Đại học Đà
Lạt, Đại học Cần Thơ…

 Khối lượng đào tạo:
Mô hình kiểu Mỹ: Khoảng 120 - 140 tín chỉ (chương trình cử nhân đào tạo 4
năm, mỗi năm 2 học kỳ).
- Mô hình châu Âu: European Credit Transfer and Accumulation System (Hệ
thống chuyển đổi và tích lũy tín chỉ của Châu Âu- ECTS quy định 1 học kỳ có
30 tín chỉ. Một khóa học 4 năm có 240 tín chỉ (1 tín chỉ = 30 giờ học trên lớp
và thời gian tự học).
- Một số mô hình tại Châu Á:
-

6 Quyết định 31/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 30/7/2001 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc thí điểm tổ chức đào
tạo, kiểm tra, thi và công nhận tốt nghiệp đại học, cao đẳng hệ chính quy theo học chế tín chỉ

12


+ “Chương trình đào tạo đại học của Đại học Tokyo (Nhật Bản) có ít nhất 136
tín chỉ đối với các ngành khoa học nhân văn, hoặc 144 tín chỉ đối với các ngành
khoa học tự nhiên” 7
+ “Chương trình đào tạo đại học đối với đa số ngành của Đại học Quốc gia Đài
Loan là 128 tín chỉ (trừ ngành y - 290 tín chỉ, nha khoa - 255 tín chỉ, thú y - 170
tín chỉ với tổng số thời gian học dài hơn)” 8
Mô hình tại Việt Nam: “Một tiết học được tính bằng 50 phút. Một tín chỉ được

quy định bằng 15 tiết học lý thuyết; 30 - 45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo
luận; 45 - 90 giờ thực tập tại cơ sở; 45 - 60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc
đồ án, khoá luận tốt nghiệp”. 9
Phụ thuộc vào quy định của từng Trường Đại học ở Việt Nam, 1 tín chỉ tương
đương với 1,42 - 3 tín chỉ của hệ thống ECTS (European Credit Transfer and
Accumulation System). Tại Trường Đại học Ngoại thương hệ số này là 1,42 1,83; tại Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng và Học viện Ngân hàng là 1,42 2
- Học tín chỉ đòi hỏi sinh viên phải có sự chuẩn bị cá nhân, phải làm việc nhiều,
“Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu
được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân.”10
 Xây dựng lộ trình học
Người học có thể quyết định học theo lộ trình đào tạo chính quy (ngay sau khi
tốt nghiệp THPT) hay vào khoảng thời gian khác nếu điều kiện chưa cho phép.
Người học tự xây dựng lộ trình thời gian học cho mình, thời gian hoàn thành
chương trình học có thể ngắn hay dài hơn thời gian cơ sở đào tạo đưa ra, tuỳ
theo khả năng của bản thân chứ không dựa trên ý định chủ quan của cơ sở đào
tạo. Biện pháp này nhằm hướng đến đa dạng đối tượng muốn tiếp tục việc học
đại học, theo tinh thần học suốt đời. Vì thế, sự mềm dẻo này nhằm tạo điều kiên
cho những người bận chuyện mưu sinh không thể theo học với nhịp độ như
sinh viên bình thường. Biện pháp này cũng tránh tình trạng học sinh tốt nghiệp
THPT đổ xô vào các trường đại học. Đây là một nỗ lực nhằm hướng đến sự
bình đảng về cơ hội tiếp cận với giáo dục bậc đại học.
 Khung chương trình đào tạo
Học chế tín chỉ thể hiện bản chất thông qua việc xác định rõ từng khoảng thời
gian:
- Thời gian lên lớp.
- Thời gian tham gia lớp thực hành, thực tập, thí nghiệm,…
7 The University of Tokyo, Catalogue for 2000 – 2001
8 National Taiwan University, Bulletin 2004
9 Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT do Bộ Giáo dục và Đào tạo Ban hành Quy chế đào tạo đại học và cao
đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ

10 Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT

13


-

Thời gian chuẩn bị bài tại nhà, tự học, nghiên cứu, làm việc nhóm…

 Linh hoạt
Trong chọn môn học
+ Trong tín chỉ tích luỹ, sinh viên có thể đăng kí nhiều môn nếu muốn bổ sung
kiến thức hoặc cũng có thể tham gia dự thính những môn chuyên ngành khác
nếu thời gian phù hợp.
- Trong sắp xếp thời khoá biểu: Sinh viên đăng kí, sắp xếp môn học, thời gian
và địa điểm (tuỳ trường) thích hợp với năng lực và hoàn cảnh của họ, đồng
thời phù hợp với quy định chung của nhà trường.
 Đánh giá
“quy định 3 loại thang điểm là thang điểm 10, thang điểm chữ và thang điểm 4
(điểm trung bình chung tích luỹ) gồm 5 mức cơ bản” 11như sau:
-

Xếp loại

Thang
10

Giỏi

8,5 – 10


A

4

Đạt

Khá

7,0 - 8,4

B

3

Đạt

Trung bình

5,5 - 6,9

C

2

Đạt

Trung
yếu


4,0 - 5,4

D

1

Đạt

< 4,0

F

0

Không
đạt

Kém

bình

điểm Thang
chữ

điểm Thang điểm
Ghi chú
4

Thang điểm này có sự chênh lệch quá lớn giữa hai cách tính điểm: theo trung
bình cộng trên thang điểm 10 trước đây và theo thang điểm 4. Do khoảng cách giữa 2

mức điểm quá lớn, tính không liên tục của thang đo đã làm cho sai số của kết quả cuối
cùng tăng lên đáng kể. Năm học 2006-2007 có 1028/5073 sinh viên khoá 2006 - 2007
học theo hệ thống tín chỉ tại trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng có nguy cơ bị buộc
thôi học do kết quả học tập không đạt theo cách tính điểm này.
Do bất cập của thang điểm trên, nhiều trường đã khắc phục bằng cách quy định
thang điểm nhiều mức dựa trên 5 mức cơ bản của quyết định 43, để giảm khoảng cách
giữa hai mức điểm, giúp cho việc đánh giá, phân loại sinh viên được chính xác hơn.
11 Quyết định số: 43/2007/QĐ-BGD&ĐT

14


Thang
10

điểm Thang
chữ

điểm Thang điểm
Ghi chú
4

8,5 – 10

A

4

Đạt.


8,0 - 8,4

B+

3,5

Đạt

7,0 - 7,9

B

3

Đạt

6,5 - 6,9

C+

2,5

Đạt

5,5 - 6,4

C

2


Đạt

5,0 - 5,4

D+

1,5

Đạt

4,0 - 4,9

D

1

Đạt

< 4,0

F

0

Không
đạt

Những trường đại học áp dụng: Trường Đại học Vinh vào năm 2011, Học viện
Tài chính và Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh vào
năm 2012, Trường Đại học Cần Thơ vào năm 2014...

Quy tắc quy đổi thang điểm 4 sang thang điểm 10:
Việc sử dụng cùng lúc hai loại thang điểm, thang điểm 4 theo phương pháp học
chế tín chỉ và thang điểm 10 theo phương pháp học phần niên chế ở nhiều trường Đại
học và Cao đẳng tại Việt Nam gây khó khăn cho các cơ quan tuyển dụng và các tổ
chức cấp học bổng trong việc so sánh, đối chiếu thành tích học tập của sinh viên. Vì
vậy người ta đề ra quy tắc quy đổi từ thang điểm 4 sang thang điểm 10. Tuy nhiên,
trong hệ thống quản lí nhà nước của Việt Nam vẫn chưa có một công thức quy đổi
nhất quán trong cả nước:
Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội:
-

Dải
điểm Dải điểm thang
thang 4
tương đương

15

10 Công thức quy đổi: Điểm thang 10 =
(Điểm thang 4 X a) + b


2,0 đến cận
5,5 đến cận 7,0
2,5

a= 3; b= -0,5

2,5 đến cận
7,0 đến cận 8,0

3,2

a= 1,42; b= 3,45

3,2 đến cận
8,0 đến cận 9,0
3,6

a= 2,5; b= 0

3,6 đến 4

a= 2,5; b= 0

9,0 đến 10

Ngoài ra, nhiều cơ quan của nhà nước áp dụng công thức quy đổi: "Điểm thang
10" = "Điểm thang 4" X 2,5 trong cả dải điểm từ 2-4 của thang điểm 4.
*Chương trình đào tạo tín chỉ nhìn chung gồm 11 đặc điểm:
1. Đòi hỏi sinh viên phải tích luỹ kiến thức theo từng học phần (Đơn vị: tín chỉ)
2. Kiến thức cấu trúc thành các học phần
3. Quy định khối lượng kiến thức phải tích luỹ cho từng văn bằng. Xếp năm học
của người học theo khối lượng tín chỉ tích luỹ.
4. Chương trình đào tạo mềm dẻo: cùng với các học phần bắt buộc còn có các
học phần tự chọn  cho phép sinh viên dễ dàng điều chỉnh ngành nghề đào tạo
5. Đánh giá thường xuyên, thang điểm chữ.
6. Dạy học lấy sinh viên làm trung tâm
7. Đơn vị học vụ là học kỳ. Mỗi năm có thể chia thành 2 học kỳ (15 tuần), 3 thọc
kỳ (15 tuần) hoặc 4 học kỳ (10 tuần)
8. Ghi danh học đầu mỗi học kỳ, lớp học tổ chức theo mỗi học phần

9. Có hệ thống cố vấn học tập
10. Có thể tuyển sinh theo học kỳ
11. Không thi tốt nghiệp, không tổ chức bảo vệ khóa luận tốt nghiệp đối với các
chương trình đại học và cao đẳng

2.1.2.2 Ưu điểm
Học chế tín chỉ được áp dụng rộng rãi và nhanh chóng nhờ có nhiều ưu điểm:

• Lợi thế chủ động về thời gian:
-

16

Sinh viên CHủ động thiết kế kế hoạch học tập cho bản thân, đăng kí, sắp xếp
môn học, thời gian và địa điểm (tuỳ trường) phù hợp với quy định chung của


-

-

-







nhà trường và lịch hoạt động của bản thân. Ngoài ra, sinh viên theo học có thể

tùy theo khả năng học tập và hoàn cảnh để quyết định số tín chỉ mà mình có
thể hoàn thành trong một học kỳ, bố trí việc hoàn thành chương trình theo
năng lực của mình.
Ngoài ra, sinh viên có thể kéo dài thời gian hoàn thành chương trình học của
mình (tuỳ theo quy định của nhà trường) trong những trường hợp bất khả
kháng (bệnh tật, ma chay…), buộc phải thôi học trong một thời gian, sau đó
có thể quay trở lại học bình thường mà không bị ảnh hưởng gì.
Nếu biết sắp xếp những tín chỉ giống nhau giữa hai ngành một cách hợp lý,
sinh viên có thể hoàn toàn tốt nghiệp được hai chương trình học trong một
thời gian giảm đáng kể so với hình thức đào tạo theo niên chế.
Việc giảm thời lượng trên lớp còn giúp khắc phục một phần tình trạng giảng
viên phải làm việc quá tải và tiết kiệm kinh phí cho nhà trường.
Có tính mềm dẻo: Sinh viên có thể huỷ môn học ngay cả khi đã học một thời
gian (tuỳ quy định của nhà trường) nếu cảm thấy chưa thích hợp hoặc chưa
hứng thú. Đào tạo tín chỉ cho phép sinh viên có sự lựa chọn chương trình học
theo sở thích của mình hay sinh viên còn có thể chuyển đổi chuyên ngành mình
đang theo học một cách khá dễ dàng mà không phải học lại từ đầu.
Đạt hiệu quả cao về mặt quản lý và giảm giá thành đào tạo: Với học chế tín chỉ,
kết quả học tập của sinh viên được tính theo từng học phần chứ không phải
theo năm học, do đó, việc hỏng một học phần nào đó không cản trở quá trình
học tiếp tục, sinh không bị buộc phải quay lại học từ đầu. Chính vì vậy, giá
thành đào tạo theo học chế tín chỉ thấp hơn so với đào tạo theo niên chế.
Phát triển kĩ năng mềm: Về phương pháp học tập và việc quy định số tiết học
giúp sinh viên có thể phát huy tối đa năng lực tự nghiên cứu, nâng cao ý thức
học tập và kỹ năng làm việc theo nhóm. Hơn nữa, ở hầu hết các môn học sinh
viên có thể thảo luận và làm việc theo nhóm với những đề tài khác nhau. Đặc
biệt, việc phải thuyết trình về đề tài của các nhóm giúp sinh viên tự tin hơn khi
làm việc trước đám đông. Như vậy tự học sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian cho
sinh viên có thể học được nhiều kiến thức hơn. Đây là điều cần thiết nhằm phát
huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Ngoài ra, học theo tín chỉ giúp gia

tăng điều kiện tiếp xúc với người khác, tăng các mối quan hệ xã hội.

2.1.2.3 Nhược điểm

 Đối với người học
Đa số sinh viên Việt Nam đã quen với việc học niên chế qua 12 năm, từ tiểu
học đến phổ thông. Việc thay đổi một thói quen từ nhỏ là điều không dễ dàng.
- Thời lượng lên lớp tương đối ngắn so với học niên chế: đa số các trường đại
học ở Việt Nam quy định một học phần vào khoảng 2-4 tín chỉ, thời lượng
tương đối nhỏ, sẽ không đủ thời gian để trình bày kiến thức thực sự có đầu,
đuôi theo một trình tự diễn biến liên tục, gây cảm giác kiến thức bị cắt vụn.
17


-

-

-

-

-

Điều này đòi hỏi sinh viên phải có sự chuẩn bị bài kĩ càng nếu muốn theo kịp
bài học trên lớp. Thói quen học vẹt, và chỉ học theo giáo trình hoặc bài vở của
thầy cô đã hình thành từ khi còn học phổ thông đã khiến không ít sinh viên
gặp nhiều khó khăn, hoặc cảm thấy mất phương hướng do không còn sự kiểm
soát chặt chẽ của người dạy như thời học phổ thông.
Học tín chỉ đòi hỏi sự chủ động từ sinh viên, giảng viên chỉ là người hướng

dẫn và truyền đạt những ý chính, những kiến thức chung chứ không nói “tất
tần tật” như giáo viên tiểu học hay trung học. Nếu sinh viên không theo kịp
cách học này thì họ có thể bị “đuối”, không hiểu bài giảng trên lớp dẫn đến
hoang mang và chán nản.
Việc đăng ký, lựa chọn các tín chỉ phù hợp đối với sinh viên không phải là dễ
dàng. Sinh viên phải có khả năng tự chủ cao trong việc nắm thông tin về
chương trình học tập cũng như việc sắp xếp lộ trình học tập của mình cho hợp
lý theo đúng quy trình đào tạo. Việc chuyển học niên chế sang tín chỉ là tạo
sự chủ động cho sinh viên trong việc lựa chọn chương trình học, môn học, lựa
chọn giáo viên,… nhưng trên thực tế thì sinh viên có rất ít sự lựa chọn. Ngoài
ra thái độ và thói quen học tập của các em chưa phù hợp với việc đào tạo theo
học chế tín chỉ vì đa số các em vẫn nghĩ học đối phó, học vì điểm chứ không
phải lấy kiến thức cho mình.
Học chế TC “khuyến khích chủ nghĩa cá nhân, không coi trọng tính cộng
đồng” là điều mà nhiều người vẫn nghĩ. Vì các lớp học phần không ổn định
nên khó xây dựng các tập thể gắn kết chặt chẽ như các lớp theo niên chế, việc
tổ chức sinh hoạt đoàn thể của SV cũng khó khăn. Tổ chức đoàn thể, tổ chức
lớp học có thể bị phá vỡ khi sinh viên được tổ chức học thành các “nhóm” và
hoàn toàn chủ động trong cách học cũng như thời gian học.
Nâng cao năng lực tự học, tự nghiên cứu nhiều hơn ở sinh viên đòi hỏi Nhà
trường cần phải đáp ứng nguồn giáo trình và tài liệu học tập, tham khảo một
cách đầy đủ, phong phú và đa dạng cho người học.
Sinh viên còn xa lạ với việc tự hoạch định nội dung học tập và quản lý quá
trình tự học của mình. Nhiều sinh viên sử dụng không đúng mục đích thời
gian tự học đã được thiết kế trong chương trình. Các đơn vị đào tạo các cấp
chưa có biện pháp để kiểm tra đánh giá việc tự học và tự nghiên cứu, nên thời
lượng dành cho tự học và tự nghiên cứu của sinh viên vô hình trung trở thành
giờ làm việc riêng tư như đi làm thêm hoặc học thêm bằng 2, thậm chí không
loại trừ những trường hợp xấu khác…


 Về đội ngũ giáo viên
-

18

Đội ngũ giảng viên chưa được nghiên cứu và huấn luyện đầy đủ về phương
pháp dạy học tích cực. Vì hiểu một cách cứng ngắt về phương pháp dạy học
tích cực nên có hiện tượng đi từ thái cực này sang thái cực khác về phương


-

-

pháp dạy học : có không ít giảng viên đi từ chỗ chỉ thiên về phương pháp đọc
– chép hoặc diễn giảng đến chỗ phủ định sạch trơn các phương pháp và thủ
thuật đứng lớp truyền thống. Một số giảng viên gắn bó lâu năm với sự nghiệp
trồng người mà phương pháp giảng dạy theo niên chế đã “ăn sâu, bám rễ”
trong họ thì việc giảng dạy theo phương pháp mới - theo tín chỉ - dường như
vẫn chưa hoàn toàn thuyết phục được họ, việc đổi mới chỉ mới dừng ở hình
thức.
Giảm số lượng giờ dạy nhưng không cắt xén chương trình, đó là phương châm
của những nhà thiết kế chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ. Nhiệm vụ
này không dễ thực hiện, nhất là khi giảng viên phải tự mò mẫm để thích nghi
với hệ thống đào tạo mới. Vì thế, không ít giảng viên chọn cách làm dễ nhất là
dạy đến hết giờ trên lớp, phần chương trình còn lại giao cho sinh viên tự học.
Vì thế, việc tinh giản chương trình đào tạo chỉ còn mang ý nghĩa thuần tuý là
cắt giảm giờ dạy một cách máy móc.
Việc kiểm soát tự học và tự nghiên cứu của sinh viên cũng chưa được tiến
hành có quy củ và đều đặn, khiến xảy ra nguy cơ “khoán trắng” việc tự học

cho tinh thần tự giác của sinh viên.

 Về hệ thống quản lý giáo dục
Đánh giá về hệ thống quản lý giáo dục Việt Nam, các nhà nghiên cứu đều thống
nhất nhận định rằng đó là:
- Chủ trương áp dụng hệ thống tín chỉ trong đào tạo đại học và cao đẳng ở nước
ta chưa nhắm vào mục đích đại chúng hoá giáo dục đại học vì hiện nay các
trường đại học Việt Nam chỉ nhằm đào tạo mới nhân lực theo cơ chế chọn lọc
tinh hoa (élitisme) chứ chưa chú trọng đến đại chúng hoá (nâng cao mặt bằng
dân trí và tạo ra sự năng động xã hội). Theo Martin Trow, khi nền giáo dục đại
học chỉ đáp ứng cho ít hơn 15 % số người trong lứa tuổi thì nền giáo dục đó
vẫn còn là nền giáo dục tinh hoa (dẫn theo Romainville M., 2003, 6). Hình
thức thi tuyển đầu vào như hiện nay là biểu hiện của nền giáo dục tinh hoa.
- Công tác tín chỉ hoá các chương trình đào tạo được bắt đầu bằng việc chuyển
đổi cơ học từ số lượng đơn vị học trình sang số lượng tín chỉ, trong khi đội
ngũ gỉảng viên chưa được đào tạo và bồi dưỡng một cách có hệ thống và hiệu
quả về triết lý giáo dục và các phương pháp dạy học mới phù hợp với phương
châm giáo dục “lấy người học làm trung tâm”.
- Phương pháp quản lý cứng ngắt thể hiện qua việc đánh đồng tất cả các ngành
nghề đào tạo theo một khuôn mẫu duy nhất, không chú trọng đến đặc thù của
từng ngành nghề (trước đây, tất cả các ngành đào tạo đều là 138 tín chỉ, và bây
giờ là 120 tín chỉ). Việc chuyển đổi sang hệ thống tín chỉ rất luộm thuộm, thể
hiện qua việc thực hiện các biện pháp chấp vá do thiếu tầm nhìn và thay đổi
liên tục, tạo ra tâm lý bất an trong đội ngũ giảng viên.

19


-


-

-

-

-

20

Việc rút ngắn thời gian học tập cho sinh viên giỏi ở một số ngành đào tạo như
dự tính trên lý thuyết là không khả thi, chẳng hạn như sinh viên sư phạm
không thể học xong chương trình sớm hơn 4 năm, do phần thực tập sư phạm
chỉ tổ chức vào học kỳ 2.
Việc đăng ký môn học vào đầu mỗi học kỳ còn nhiêu khê và kéo dài: đợi đến
hết đợt đăng ký thứ ba thì sỉ số lớp học phần mới ổn định, nghĩa là phải mất 4
tuần giảng viên mới có được danh sách sinh viên của lớp học phần, khiến
công tác quản lý lớp học và đánh giá thường xuyên gặp nhiều khó khăn. Tình
trạng đó ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập, nhất là đối với những sinh
viên vào muộn.
Việc duyệt kế hoạch học tập của cố vấn học tập mang tính chất rất hình thức,
đặc biệt là những lớp có sỉ số đông: không hiếm những trường hợp khi đến
đợt xét tốt nghiệp thì sinh vien mới biết mình đã “quên” đăng ký một vài học
phần, thậm chí có trường hợp quên đăng ký 10 tín chỉ thay thế luận văn tốt
nghiệp.
Việc giảm giờ dạy trên lớp được tiến hành một cách máy móc, theo một tỷ lệ
chung cho mọi ngành đào tạo (66 %) là không khoa học, vì không dựa trên
mục tiêu của các môn học. Ngành ngoại ngữ có rất ít học phần lý thuyết thuần
tuý đa số là lồng ghép lý thuyết và thực hành, qua thực hành để chuyển tải lý
thuyết. Ấy thế mà vẫn phải giảm số giờ lên lớp cùng tỷ lệ với những học phần

lý thuyết là không phù hợp.
Số lượng tín chỉ tự chọn mà sinh viên có thể tiếp cận được là một trong những
thước đo quyền dân chủ mà sinh viên được hưởng. Thế mà việc thiết kế và
biên soạn các học phần tự chọn được diễn ra quá vội vã và không được tăng
cường thường xuyên. Các học phần tự chọn còn quá ít, nên ý nghĩa của việc tự
chọn để tự cơ cấu các học phần theo sở thích của người học chưa lớn. Đặc biệt
là đối với các ngành đào tạo có ít sinh viên, thì các học phần tự chọn chỉ tồn
tại trên danh nghĩa, vì nếu để cho sinh viên tự chọn thì lớp sẽ không đủ sỉ số
tối thiểu để mở lớp. Vì thế, đầu học kỳ nào cũng có tình trạng lớp ảo, và việc
tái cơ cấu các lớp - học phần mất khá nhiều thời gian. Những nguyên nhân ấy
đã khiến việc thiết kế các môn tự chọn trong một số ngành chưa đi vào thực
chất, ít nhiều mang tính hình thức.


2.1.3 Tình hình chương trình đào tạo theo hệ tín chỉ tại trường Đại học Tài chính
– Marketing. 12
Trường Đại học Tài chính – Marketing đã chuyển đổi phương thức đào tạo từ
niên chế sang học chế tín chỉ đối với các ngành đào tạo trình độ đại học hệ chính quy
từ khóa tuyển sinh năm 2012 về sau.
Chương trình được trường xây dựng trên cơ sở chương trình khung do Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành và được Hiệu trưởng trường phê duyệt thực hiện.
Chương trình được cấu trúc từ các học phần thuộc 2 khối kiến thức: Giáo dục đại
cương và giáo dục chuyên nghiệp. Tổng số tín chỉ (không tính học phần Giáo dục thể
chất và Giáo dục quốc phòng – An ninh) quy định cho chương trình giáo dục đại học
từ 120 – 140 tín chỉ.
2.1.3.1 Học phần và tín chỉ
Học phần là khối lượng kiến thức tương đối trọn vẹn, thuận tiện cho sinh viên
tích lũy trong quá trình học tập. Học phần thực hành có khối lượng từ 02 đến 03 tín
chỉ, học phần lý thuyết có khối lượng từ 02 đến 05 tín chỉ, học phần kết hợp lý thuyết
với thực hành có khối lượng từ 02 đến 04 tín chỉ, nội dung được bố trí giảng dạy trọn

vẹn và phân bố hợp lý trong một học kỳ.
Các loại học phần:
Theo tính chất của học phần:

• Học phần lý thuyết
• Học phần thực hành
• Học phần kết hợp lý thuyết với thực hành
Theo yêu cầu tích lũy kiến thức:












Học phần bắt buộc
Học phần tự chọn bắt buộc
Học phần tự chọn tùy ý
Học phần tiên quyết
Học phần học trước
Học phần song hành
Học phần tích lũy
Học phần tương đương và học phần thay thế
Học phần tương đương
Học phần thay thế


12 Quyết đinh 1194/QĐ/ĐHTCM – QLĐT ngày 19/07/2012 của Hiệu trưởng trường Đại học Tài chính –
Marketing

21


Tín chỉ là đơn vị quy chuẩn dùng để lượng hoá khối lượng kiến thức và khối
lượng học tập của sinh viên. Tiến độ học tập của sinh viên được đo lường bằng số
lượng tín chỉ đã tích lũy được.

- Một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết; 30 - 45 tiết thực hành,
-

thí nghiệm hoặc thảo luận; 45 - 90 giờ thực tập tại cơ sở; 45 - 60 giờ làm tiểu
luận, bài tập lớn hoặc khóa luận tốt nghiệp.
Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu
được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân.
Hiệu trưởng sẽ quy định cụ thể số tiết, số giờ đối với từng học phần cho phù
hợp với đặc điểm của trường và được thể hiện trong chương trình giáo dục, đề
cương chi tiết học phần.
Đối với những chương trình, khối lượng của từng học phần đã được tính theo
đơn vị học trình, thì 1.5 đơn vị học trình được quy đổi thành 1 tín chỉ.
Một tiết học được tính bằng 50 phút.

2.1.3.2 Đăng ký khối lượng học tập

- Trước khi bắt đầu mỗi học kỳ, tùy theo khả năng và điều kiện học tập của bản
thân, căn cứ vào chương trình giáo dục và thông báo đăng ký học phần được
thông báo trong sổ tay sinh viên hoặc trên website của trường, sinh viên gặp

giáo viên cố vấn học tập để được tư vấn và đăng ký học các học phần dự định
sẽ học trong học kỳ đó với Phòng Quản lý đào tạo. Đối với những sinh viên có
học phần phải học lại, tổng số tín chỉ của học kỳ bao gồm số tín chỉ của các
học phần học lại và các học phần mới.
Quy trình đăng ký học một học phần:
Bước 1: 2 tháng trước thời điểm bắt đầu học kỳ mới, Phòng Quản lý đào tạo
công bố thời khóa biểu cho từng học phần dự kiến sẽ tổ chức đào tạo trong học
kỳ. Trong thời hạn quy định được thông báo trong sổ tay sinh viên hoặc trên
website của trường, căn cứ vào thời khoá biểu và số học phần dự kiến này, kết
hợp với chương trình đào tạo đã đăng ký học, sinh viên đăng ký học các học
phần của một học kỳ mới trên “Phiếu đăng ký học phần” hoặc đăng ký trực
tuyến trên website. Phiếu đăng ký học phần của sinh viên sẽ do Phòng Quản lý
đào tạo của trường lưu giữ.
Bước 2: Phòng Quản lý đào tạo xử lý và công bố kết quả đăng ký học cho sinh
viên kiểm tra, bổ sung hoặc thay đổi học phần, lớp-học phần nhằm hoàn chỉnh
thời khóa biểu cá nhân. Việc đăng ký học thêm hoặc đăng ký đổi sang học phần
khác khi không có lớp được thực hiện ngay khi có thời khóa biểu cá nhân và kết
thúc trong 2 tuần đầu của học kỳ chính hoặc trong tuần đầu của học kỳ phụ.
Bước 3: sinh viên in “Phiếu kết quả đăng ký học phần” của học kỳ để đóng học
phí. Trên phiếu kết quả đăng ký học phần của mỗi sinh viên có ghi rõ mã số học
22


phần, tên học phần, số tín chỉ, tên lớp-học phần, tên lớp-khóa học, tiết học, số
tiền học phí phải nộp.

- Sinh viên không đăng ký học cho học kỳ kế tiếp phải nộp đơn xin dừng học
theo điều 15 của qui định này.
- Khối lượng học tập tối thiểu mà mỗi sinh viên phải đăng ký trong mỗi học kỳ
được quy định như sau:

• 14 tín chỉ cho mỗi học kỳ chính, trừ học kỳ cuối khóa học, đối với những
sinh viên được xếp hạng học lực bình thường
• 10 tín chỉ cho mỗi học kỳ chính, trừ học kỳ cuối khóa học, đối với những
sinh viên đang trong thời gian bị xếp hạng học lực yếu
• Trong học kỳ phụ, sinh viên đăng ký học phần theo khả năng của mình và
điều kiện mở lớp của nhà trường, nhà trường không quy định khối lượng
học tập tối thiểu
• Sinh viên đang trong thời gian bị xếp hạng học lực yếu chỉ được đăng ký
khối lượng học tập không quá 14 tín chỉ cho mỗi học kỳ chính và không
quá 06 tín chỉ cho học kỳ phụ. Không hạn chế khối lượng đăng ký học tập
của những sinh viên xếp hạng học lực bình thường. Trường hợp hạng học
lực của sinh viên được xác định vào thời điểm sau khi sinh viên đã đăng ký
học phần, sinh viên phải xin rút bớt học phần trong giới hạn khối lượng quy
định.
• Việc đăng ký các học phần sẽ học cho từng học kỳ phải bảo đảm điều kiện
tiên quyết của từng học phần và tuân theo trình tự học tập của mỗi chương
trình cụ thể.
• Sinh viên mới trúng tuyển nhập học không phải đăng ký khối lượng học tập
cho học kỳ đầu tiên, mà học theo thời khóa biểu do trường xếp cho từng
lớp-khóa học.
2.1.3.3 Đánh giá học phần
Đối với các học phần chỉ có lý thuyết hoặc kết hợp lý thuyết với thực hành: Tùy
theo tính chất của học phần, điểm tổng hợp đánh giá học phần (sau đây gọi tắt là điểm
học phần) được tính căn cứ vào một phần hoặc tất cả các điểm đánh giá bộ phận, bao
gồm: điểm kiểm tra thường xuyên trong quá trình học tập; điểm đánh giá nhận thức và
thái độ tham gia thảo luận; điểm đánh giá phần thực hành; điểm chuyên cần; điểm thi
giữa học phần; điểm tiểu luận và điểm thi kết thúc học phần, trong đó điểm thi kết
thúc học phần là bắt buộc cho mọi trường hợp và có trọng số 70% đối với các học
phần chỉ có lý thuyết, 60% đối với các học phần kết hợp lý thuyết với thực hành.
Trường hợp đặc biệt do Hiệu trưởng quyết định.

Đối với các học phần thực hành: Sinh viên phải tham dự đầy đủ các bài thực
hành. Điểm trung bình cộng có trọng số của điểm các bài thực hành trong học kỳ được

23


làm tròn đến một chữ số thập phân là điểm của học phần thực hành; được qui định
trong đề cương chi tiết học phần.
Giảng viên phụ trách học phần trực tiếp ra đề thi, đề kiểm tra và cho điểm đánh
giá quá trình. Việc ra đề thi kết thúc học phần do giảng viên phụ trách học phần thực
hiện hoặc được lấy từ ngân hàng đề thi hoặc theo sự phân công của Khoa/Bộ môn.
2.1.3.4 Tổ chức kỳ thi kết thúc học phần

- Cuối mỗi học kỳ, trường tổ chức một kỳ thi để thi kết thúc học phần. Sinh
viên có kết quả học phần không đạt phải đăng ký học lại ở các học kỳ tiếp sau.
- Thời gian dành cho ôn thi mỗi học phần tỷ lệ thuận với số tín chỉ của học phần
đó và bằng ít nhất là 2/3 ngày cho một tín chỉ.
- Lịch thi sẽ được công bố tại bảng thông báo của khoa và trên website trường ít
nhất 04 tuần trước khi thi đối với học kỳ chính, 3 tuần đối với học kỳ phụ.
Phòng Khảo thí – Quản lý chất lượng chịu trách nhiệm lập lịch thi cho tất cả
các môn thi có trong học kỳ.
2.2 Cơ sở lí thuyết
2.2.1

Cơ sở lí luận về chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng.

2.2.1.1 Chất lượng dịch vụ
Chất lượng hàng hóa là hữu hình và có thể đo lường bởi các tiêu chí khách quan
như: tính năng, đặc tính và độ bền. Tuy nhiên, chất lượng dịch vụ là vô hình. Khách
hàng nhận được dịch vụ thông qua các hoạt động giao tiếp, nhận thông tin và cảm

nhận. Đặc điểm nổi bật của khách hàng chỉ có thể đánh giá được toàn bộ chất lượng
dịch vụ khi đã “mua” và “sử dụng” chúng. Do đó, chất lượng dịch vụ chưa được xác
định một cách chính xác.
“Chất lượng dịch vụ là sự đánh giá của khách hàng về tính siêu việt và sự tuyệt
vời nói chung của một thực thể. Nó là một dạng của thái độ và các hệ quả từ một sự so
sánh giữa những gì được mong đợi và nhận thức về những thứ ta nhận được.” 13
“Dịch vụ là một sự đo lường mức độ dịch vụ được đưa đến khách hàng tương
xứng với mong đợi của khách hàng tốt đến đâu. Việc tạo ra một dịch vụ chất lượng
nghĩa là đáp ứng mong đợi của khách hàng một cách đồng nhất.”14
“Chất lượng dịch vụ được xem như khoảng cách giữa mong đợi về dịch vụ và
nhận thức của khách hàng khi sử dụng dịch vụ.”15
13 Zeithaml (1987)
14 Lewis và Booms (1983)
15 Parasuraman, Zeithaml, Berey (1985)

24


Trong nhiều phân tích về chất lượng dịch vụ thì chúng ta thấy rõ gợi ý ở dưới
đây về chất lượng dịch vụ:
(1). Chất lượng dịch vụ khó đánh giá hơn chất lượng sản phẩm hữu hình.
(2). Nhận thức về chất lượng dịch vụ là kết quả của quá trình so sánh giữa mong
đợi của khách hàng với những hoạt động cụ thể của đơn vị cung cấp dịch vụ nhằm đáp
ứng mong đợi đó.
(3). Những đánh giá của chất lượng không chỉ được tạo ra từ dịch vụ nó còn bao
gồm những đánh giá về quá trình thực thi dịch vụ.
Nhận định này chứng tỏ rằng chất lượng dịch vụ liên quan đến những mong đợi
của khách hàng và nhận thức của họ về dịch vụ. Parasuraman (1991) giải thích rằng để
biết được sự dự đoán của khách hàng thì tốt nhất là nhận dạng và thấu hiểu những
mong đợi của họ. Việc phát triển một hệ thống xác định được những mong đợi của

khách hàng là cần thiết. Và ngay sau đó ta mới có một chiến lược chất lượng cho dịch
vụ có hiệu quả.
2.2.1.2 Sự hài lòng của khách hàng
“Sự hài lòng là phản ứng của người tiêu dùng đối với việc được đáp ứng
những mong muốn. Định nghĩa này có hàm ý rằng sự thỏa mãn chính là sự hài
lòng của người tiêu dùng trong việc tiêu dùng sản phẩm hoặc dịch vụ dó nó
đáp ứng những mong muốn của họ, bao gồm cả mức độ đáp ứng trên mức
mong muốn và dưới mức mong muốn.”16
“Sự hài lòng là sự phản ứng của người tiêu dùng đối với việc ước lượng sự khác
nhau giữa mong muốn trước đó và sự thể hiện thực sự của sản phẩm như là sự chấp
nhận sau khi dùng nó.”17
“Sự hài lòng là mức độ của trạng thái cảm giác của một người bắt nguồn từ việc
so sánh kết quả thu được từ sản phẩm/dịch vụ với những kỳ vọng của người đó. Kỳ
vọng ở đây được xem là ước mong hay mong đợi của con người. Nó bắt nguồn từ nhu
cầu cá nhân, kinh nghiệm trước đó và thông tin bên ngoài như quảng cáo, thông tin
truyền miệng của bạn bè, gia đình...”18
Như vậy, mức độ thỏa mãn là hàm của sự khác biệt giữa kết quả nhận được và
kỳ vọng. Khách hàng có thể có cảm nhận một trong ba mức độ thỏa mãn sau: Nếu kết
quả thực hiện kém hơn so với kỳ vọng thì khách hàng sẽ không hài lòng. Nếu kết quả
16 Oliver (1999)
17 Tse và Wilton (1988)
18 Kotler (2001)

25


×