Tải bản đầy đủ (.pdf) (149 trang)

Stress của giáo viên trường mầm non tư thục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.31 MB, 149 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_____________

***_____________

PHẠM THỊ PHƢƠNG

STRESS CỦA GIÁO VIÊN
TRƢỜNG MẦM NON TƢ THỤC

01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_____________

***_____________

PHẠM THỊ PHƢƠNG

STRESS CỦA GIÁO VIÊN
TRƢỜNG MẦM NON TƢ THỤC
Chuyên ngành : Tâm lý học
Mã số : 60.31.04.01
01 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. Nguyễn Thị Nhƣ Mai

Hà Nội - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn “Stress của giáo viên trường mầm non tư
thục” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, những số liệu và kết quả nghiên cứu đề
tài đưa ra đều dựa trên thực tế điều tra và chưa từng được ai công bố.
Nếu những thông tin tôi cung cấp không chính xác, tôi xin chịu hoàn toàn
trách nhiệm trước những cá nhân, tổ chức có thẩm quyền.
Hà Nội, Tháng 6/2016
Tác giả

Phạm Thị Phương


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Thị Như Mai đã tận
tình giúp đỡ và hỗ trợ em trong quá nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Tâm lý trường Đại
học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn đã tham gia giảng dạy và cho em những ý kiến
góp ý quý báu và tạo điều kiện giúp đỡ em để hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn các giáo viên mầm non tư thực, ban giám hiệu/ quản
lý trường ở 10 trường trên địa bàn Hà Nội và quý phụ huynh đã hợp tác, giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Tuy có nhiều cố gắng trong nghiên cứu, song luận văn không tránh khỏi

những sai sót, rất mong nhận được những sự nhận xét và góp ý của các thầy cô, bạn
bè đồng nghiệp để để tài được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, Tháng 6/2016
Tác giả

Phạm Thị Phương


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ STRESS, STRESS TRONG CÔNG VIỆC
CỦA GIÁO VIÊN TRƢỜNG MẦM NON TƢ THỤC ..........................................5
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu................................................................................... 5
1.1.1. Những nghiên cứu stress ở nước ngoài ..................................................5
1.1.2. Những nghiên cứu stress trong nước. ..................................................12
1.2. Lí luận về stress trong công việc của giáo viên trƣờng mầm non tƣ thục. .. 16
1.2.1. Khái niệm “Stress” .................................................................................16
1.2.2 Khái niệm “Giáo viên trường mầm non tư thục”..................................19
1.2.3 Stress trong công việc của giáo viên trường mầm non tư thục. ...........25
1.2.4. Mức độ và biểu hiện stress trong công việc của Giáo viên trường mầm
non tư thục .......................................................................................................26
1.2.5. Tác nhân stress trong công việc của Giáo viên trường mầm non tư
thục. ..................................................................................................................34

1.2.6. Cách ứng phó với stress trong công việc của Giáo viên trường mầm
non tư thục .......................................................................................................37
Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................................39
Chƣơng 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................41
2.1. Một vài nét về khách thể và địa bàn nghiên cứu................................................. 41
2.1.1. Một vài nét về khách thể nghiên cứu ....................................................41
2.1.2. Vài nét về địa bàn nghiên cứu ...............................................................46
2.2. Tiến trình thực hiện .................................................................................................. 47


2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................................ 48
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận. .........................................................48
2.3.2. Phương pháp quan sát ...........................................................................49
2.3.3 Phương pháp nghiên cứu trường hợp ...................................................49
2.3.4. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi ...................................................49
2.3.5 Phương pháp phỏng vấn.........................................................................51
2.3.6 Phương pháp trắc nghiệm ......................................................................52
2.3.7 Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học (SPSS 16.0) .........53
Kết luận chƣơng 2 ...................................................................................................54
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN ..........................................55
3.1 Thực trạng mức độ và biểu hiện stress trong công việc của Giáo viên trƣờng
mầm non tƣ thục. .............................................................................................................. 55
3.1.1 Mức độ stress trong công việc của Giáo viên trường mầm non tư
thục. ...................................................................................................... 55
3.1.2 Biểu hiện stress trong công việc của Giáo viên trường mầm non tư
thục. ..................................................................................................................56
3.2. Thực trạng mức độ và biểu hiện stress của giáo viên trƣờng mầm non tƣ
thục. ..................................................................................................................................... 66
3.2.1. Mức độ stress của giáo viên trường mầm non tư thục .........................66
3.2.2. Biểu hiện stress của Giáo viên trường mầm non tư thục. ...................67

3.3. Mối tƣơng quan giữa stress trong công việc và stress chung. .......................... 71
3.4 .Những tác nhân dẫn đến stress trong công việc của GV trƣờng MNTT ....... 77
3.5. Cách thức ứng phó với stress của GVMNTT ...................................................... 91
3.6. Biện pháp ứng phó stress trong công việc của giáo viên trƣờng MNTT. ...... 95
3.6.1. Ý kiến của giáo viên mầm non tư thục nhằm hạn chế stress trong công
việc. ...................................................................................................................95
3.6.2 Đề xuất biện pháp tăng khả năng ứng phó stress trong công việc của
GVMNTT ..........................................................................................................99
Kết luận chƣơng 3 .................................................................................................102


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..............................................................................104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................107
PHỤ LỤC ...............................................................................................................110


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Đặc điểm lớp học .....................................................................................42
Bảng 2.2: Mức lương và trình độ học vấn của GV Trường MNTT..........................43
Bảng 2.3: Tuổi đời và số năm kinh nghiệm làm việc của GVMNTT.......................45
Bảng 3.1: Đánh giá mối quan hệ cá nhân trong lao động .........................................57
Bảng 3.2: Đánh giá về sức khỏe trong nghề nghiệp .................................................59
Bảng 3.3: Đánh giá về hứng thú trong nghề nghiệp .................................................61
Bảng 3.4: Mức độ tương quan...................................................................................62
Bảng 3.5: Biểu hiện stress của GVMNTT ................................................................67
Bảng 3.6: Nhận thức của GV trường MNTT về tác nhân dẫn đến stress trong công
việc ............................................................................................................................78
Bảng 3.7: Cách ứng phó stress của GVMNTT .........................................................92
Bảng 3.8: Ý kiến của GV về các biện pháp giảm mức độ stress của GVMNTT .....96


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Mức độ stress nghề nghiệp của GVMNTT ..........................................56
Biểu đồ 3.2: Dự định chuyển công việc ....................................................................62
Biểu đồ 3.3: Mức độ stress của giáo viên trường mầm non tư thục .........................66


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ đầy đủ

GV

Giáo viên

GVMN

Giáo viên mầm non

MNTT

Mầm non tư thục

MNCL

Mầm non công lập

BGD

Bộ giáo dục


ĐTB

Điểm trung bình

SD

Độ lệch chuẩn

SL

Số lượng

%

Tỉ lệ phần trăm


MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
Cuộc sống hiện đại ngày nay với một loạt các vấn đề về môi trường, khí hậu,
sức khỏe, thực phẩm,…và đặc biệt là áp lực công việc, dẫn đến con người dễ bị lo
âu, căng thẳng. Stress được xem là một hội chứng của thế giới hiện đại. Theo thống
kê năm 2011 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cho biết: khoảng 20% dân số thế
giới bị căng thẳng quá mức trong công việc. Còn tại Việt Nam, theo nghiên cứu, tỷ
lệ bình quân người bị stress trên cả nước là hơn 52%. Đặc biệt tại các khu công
nghiệp, 71% công nhân có biểu hiện stress.
Stress là một trạng thái tâm sinh lý được nảy sinh khi các kích thích tác động
quá mức (vượt ngưỡng giới hạn cho phép) chịu đựng của cá nhân dẫn đến thay đổi
về nhận thức, thái độ, hành vi. Mỗi ngành nghề đều có những đặc thù riêng, và tiềm

ẩn những nguy cơ stress trong công việc. Nhưng có những ngành nghề có nhiều áp
lực dễ làm cho người lao động stress, một trong những nghành nghề đó là công việc
của giáo viên mầm non.
Nghề giáo viên mầm non là một lĩnh vực hoạt động lao động trong hệ thống
giáo dục quốc dân. Sau khi được đào tạo ở các trường, khoa sư phạm, sinh viên có
được những tri thức và kỹ năng nhất định để có thể trở thành giáo viên và có thể tham
gia vào giáo dục trẻ em ở độ tuổi mầm non (từ 0- 6 tuổi). Ngoài việc giáo dục học sinh
những kỹ năng cần thiết, những kiến thức nền tảng cho việc học ở các cấp bậc học tiếp
theo, giáo viên mầm non còn thực hiện các hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục
như ăn, ngủ, vệ sinh,… phải xử lý những tình huống bất ngờ như trẻ khóc, trẻ nôn ọe,
trẻ đánh bạn, trẻ nuốt những vật lạ,… Nhưng không phải một cô phụ trách một trẻ, mà
một cô sẽ phải chăm sóc dạy dỗ cho nhiều trẻ trong lớp học. Khối lượng công việc
nhiều và liên tục, cộng với những yếu tố về điều kiện làm việc, lương thấp, áp lực từ
phía nhà trường, và phụ huynh dẫn đến nguy cơ stress trong công việc của giáo viên
mầm non. Đặc biệt là với các giáo viên trường mầm non tư thục thì mức thu nhập của
giáo viên không ổn định, tùy thuộc vào chất lượng của nhà trường và chất lượng làm
việc của giáo viên, họ ít được hưởng những chính sách, chế độ ưu đãi của nhà nước,

1


nhiều cô giáo phải làm công việc chăm sóc cho trẻ dưới 3 tuổi như bảo mẫu thì áp lực
càng nhiều hơn. Thời gian gần đây, dư luận xã hội đang nói đến nhiều về phẩm chất,
đạo đức nghề nghiệp của giáo viên mầm non, khi hàng loạt những vụ việc giáo viên
mần non, bảo mẫu đánh đập bạo hành học sinh, để lại những hậu quả đáng tiếc cho các
em và gia đình các em. Và hàng loạt những sai phạm trong việc quản lý và giáo dục ở
nhiều cơ sở mầm non đã được phát hiện. Những vụ việc đó đã được pháp luật xử lý
nhưng dường như dư luận xã hội vẫn luôn quan tâm và đặt nhiều câu hỏi về phẩm chất
của giáo viên mầm non hiện nay. Nghề giáo viên luôn được xã hội coi trọng “Nghề cao
quý trong những nghề cao quý”, nhưng nghề giáo viên mầm non chưa thực sự được coi

trọng và đánh giá đúng vai trò. Đó là những tác nhân cơ bản trong nhiều tác nhân dẫn
đến tình trạng stress trong công việc của giáo viên mầm non. Vậy thực sự mức độ, tác
nhân gây ra stress trong công việc hiện nay của giáo viên mầm non là những tác nhân
nào? Xuất phát từ những lí do trên, đề tài “Stress của giáo viên trường mầm non tư
thục” được lựa chọn nghiên cứu, từ đó đề xuất một số biện pháp tăng khả năng ứng
phó stress và một số kiến nghị nhằm nhằm hạn chế những nguy cơ dẫn đến stress, nâng
cao đời sống tinh thần cho các giáo viên ở trường mầm non tư thục hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá mức độ stress, stress trong công việc và tác nhân dẫn đến stress trong
công việc của giáo viên ở một số trường mầm non tư thục trên địa bàn Hà Nội. Trên cơ
sở đó đề xuất một số biện pháp tăng khả năng ứng phó và kiến nghị nhằm hạn chế
những nguy cơ dẫn đến stress, nâng cao đời sống tinh thần cho các giáo viên ở trường
mầm non tư thục.
3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài đi sâu nghiên cứu stress trong công việc của
giáo viên mầm non tư thục, đánh giá mức độ stress và chỉ ra tác nhân gây ra stress
trong công việc.
- Khách thể nghiên cứu: 140 giáo viên mầm non của 10 trường mầm non tư
thục.
- Địa bàn nghiên cứu: địa bàn thành phố Hà Nội.

2


4. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Mức độ và tác nhân gây stress trong công việc của giáo viên trường mầm
non tư thục.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Giáo viên ở một số trường mầm non tư thục trên địa bàn Hà Nội.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Nghiên cứu lí luận.
- Tổng quan tài liệu về vấn đề stress trong công việc của giáo viên mầm non.
- Làm rõ những khái niệm cơ bản: stress, stress trong công việc, giáo viên
mầm non tư thục, stress trong công việc của giáo viên trường mần non tư thục.
5.2 Nghiên cứu thực tiễn
- Đánh giá mức độ stress trong công việc của giáo viên mầm non ở một số
trường mầm non tư thục trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Phân tích tác nhân dẫn đến stress trong công việc của giáo viên ở một số
trường mầm non tư thục trên địa bàn thành phố Hà Nội
- Đề xuất một số giải pháp tăng khả năng ứng phó stress và một số kiến nghị
nhằm hạn chế những nguy cơ dẫn đến stress, nâng cao đời sống tinh thần cho các giáo
viên ở trường mầm non tư thục.
6. Giả thuyết nghiên cứu
- Stress trong công việc của giáo viên trường mầm non tư thục chủ yếu ở mức
độ trung bình và do nhiều tác nhân gây ra: khối lượng công việc nhiều, thời gian
dài, áp lực từ nhà trường và phụ huynh,… Tác nhân chính là do áp lực từ phía phụ
huynh.
- Giáo viên có thể sử dụng một số biện pháp như: Giữ thái độ tích cực trong
công việc, xây dựng mối quan hệ tốt với trẻ, với đồng nghiệp, với lãnh đạo và phụ
huynh, xây dựng kế hoạch làm việc hiệu quả, cân bằng và thư giãn, để tăng khả
năng ứng phó với stress.

3


7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
7.1 Phương pháp nghiên cứu lí luận
7.2 Phương pháp quan sát

7.3 Phương pháp mô tả chân dung tâm lý
7.4 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
7.5 Phương pháp phỏng vấn
7.6 Phương pháp trắc nghiệm
7.7 Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học: SPSS 16.0

4


Chƣơng 1.
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ STRESS, STRESS TRONG CÔNG VIỆC CỦA
GIÁO VIÊN TRƢỜNG MẦM NON TƢ THỤC
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
1.1.1. Những nghiên cứu stress ở nước ngoài
Nghiên cứu dƣới góc độ y sinh học
Hướng nghiên cứu này thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu thuộc lĩnh vực sinh lý
học và y học. Trong lĩnh vực y học hiện đại đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về
mối liên quan giữa stress và bệnh tật con người.
Tác giả Claude Bernard (1850) đã cho rằng “Những thay đổi của môi trường
bên ngoài sẽ không ảnh hưởng đến cơ thể, nếu cơ thể bù trừ và làm cân bằng những
thay đổi đó”. Theo ông, chính hệ thần kinh đảm bảo chức năng điều tiết bằng cách sắp
đặt và làm hài hòa hoạt động các yếu tố của cơ thể và chỉ có con người mới có hệ thần
kinh đủ khả năng điều tiết làm cho cơ thể lấy lại cân bằng. Phát hiện của Claude
Bernard khai phá lịch sử nghiên cứu hiện đại về khả năng tự điều chỉnh để thích nghi
của cơ thể con người. Walter Cannon nhà sinh lý học người Mỹ lần đầu tiên đã mô tả
một cách khoa học về phản ứng của con người và con vật trước các tình huống nguy
hiểm trong tác phẩm nổi tiếng “Sự khôn ngoan của cơ thể” (Xuất bản tại New York
năm 1933) ông gọi đáp ứng này của cơ thể với stress là đáp ứng kép “chống trả hoặc
bỏ chạy” (fight or flight), ông đề xuất thuật ngữ “Homeostasie” nghĩa là “Cân bằng nội
môi” để mô tả những trạng thái phức hợp cân bằng sinh lý mà ông nhận thấy chủ yếu

khi thay đổi nồng độ các chất có trong máu như: nước, natri, đường, đạm, mỡ,…Trên
cơ sở sự điều tiết của hệ thần kinh thực vật và lõi thượng thận (catecholamine gồm hai
chất adrenalin do lõi thượng thận và noadrenalin do thần kinh thực vật tiết ra), phản
ứng này là phản ứng cấp thời. I.P.Plavov (1932) cũng đã nêu ra đặc tính chung của khái
niệm này: “… Cơ thể là một hệ thống tự điều chỉnh, là một hệ thống tự điều chỉnh bản
thân ở mức cao nhất, hệ thống ấy tự duy trì bản thân, tự hiểu chỉnh bản thân, tự cân
bằng bản thân và thậm chí tự hoàn thiện bản thân. Năm 1935 ông đi sâu nghiên cứu sự
cân bằng nội môi ở những động vật có vú khi chúng lâm vào các tình huống khó khăn,
5


như khi gặp phải sự thay đổi về nhiệt độ. Ông cũng mô tả các nhân tố cảm xúc trong
quá trình phát sinh, phát triển một số bệnh và xác định vai trò của hệ thần kinh khi cơ
thể đối phó với các tình huống khẩn cấp.
Năm 1936 một nhà khoa học khác đã đi tiên phong trong việc nghiên cứu stress
dựa trên những phát hiện của W.B Cannon và kế thừa những nhiên cứu của Claude
Bernard, đó là Hans Selye tiến sỹ y khoa người Canada gốc Áo. Ông mô tả stress theo
thuật ngữ “Hội chứng thích nghi chung”, ông nhận thấy bên cạnh những phản ứng đặc
trưng do các yếu tố bất lợi khác nhau gây ra, cơ thể luôn có những phản ứng chung
nhất. Phản ứng chung, không đặc hiệu của cơ thể được gọi bằng thuật ngữ “stress”).
Thuật ngữ này lúc đầu thiên về bệnh học, nên dùng là “hội chứng”, sau đó nó được
hiệu là “Hội chứng thích nghi chung” (General adaptation syndrome) và thường được
viết tắc là G.A.S, hiểu là phản ứng nhằm giúp cho cơ thể thích nghi với môi trường
luôn thay đổi. Đâu là quá trình diễn ra qua ba giai đoạn kế tiếp nhau: Báo động, thích
nghi, và suy kiệt.
Năm 1956 thuật ngữ “Stress” được biết đến một cách rộng rãi khi ông cho xuất
bản cuốn sách “The stress of life”. Hans Selye đã đóng góp ba thuật ngữ quan trọng đó
là stress tích cực, trung tính và có hại. Ông cho rằng không phải tất cả các stress đều có
hại.
Năm 1972, Viện sỹ V. V Parin đã đưa nhận xét “Khái niệm stress của H. Selye

đã thay đổi phần lớn quy tắc chữa trị và phòng ngừa hàng loạt bệnh. Quan điểm của
ông lúc đầu gặp không ít sự phản đối bấy giờ đã nhận được sự phổ biến rộng khắp.
Nói một cách tổng quát, học thuyết của nhà bác học Canada nổi tiếng H. Selye có thể
coi là hệ thống luận điểm cơ bản, nền móng cho sự phát triển của khoa học, y học hiện
đại” [14; tr.9].
Học thuyết của H. Selye đã thu hút nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác
nhau vào nghiên cứu stress. Các biểu hiện tâm lý của “hội chứng” mà H. Selye mô tả
được đặt tên là “stress cảm xúc”. Thuật ngữ được làm sáng rõ, nên dẫn đến hai hướng
nghiên cứu cơ bản kết hợp: Một là, nghiên cứu stress dưới góc độ y sinh học. Hai là,
nghiên cứu dưới góc độ tâm lý học.

6


Sự điều tiết phó giao cảm vượt trội làm giảm sút khả năng thích nghi. V.I.
Rôgiơđêxtơvenxcaia (1980) với cộng sự qua thực nghiệm đã nhận xét rằng: khả năng
làm việc giảm sút khi có stress do mệt mỏi nảy sinh ở những người có hệ thần kinh yếu
sớm hơn những người có hệ thần kinh mạnh. Nhưng tác giả cũng cho rằng, khả năng
làm việc khi có stress không phụ thuộc một cách tuyệt đối vào độ mạnh của hệ thần
kinh. Những người có hệ thần kinh mạnh có thể bị stress mạnh hơn, trong những
trường hợp tác nhân gây stress là những tín hiệu đơn điệu và kéo dài. Nhưng ở những
người hệ thần kinh yếu bị stress do các tác động đơn điệu kéo dài lại có xác suất nhỏ
hơn. V.X.Meclin (1918) đã nhận xét rằng những người có hệ thần kinh yếu có độ nhạy
cảm tri giác lớn hơn những người có hệ thần kinh mạnh. Điều đó cho phép ông chỉ ra
những khác biệt của stress ở từng cá nhân không chỉ phụ thuộc vào độ mạnh, yếu của
các quá trình thần kinh, mà còn phụ thuộc vào một loạt thuộc tính khác của hệ thần
kinh và của các quá trình tâm lý.
Các tác giả E. Johnson, S. Smith, T. J. Myers cùng nhiều tác giác khác đi tìm
sự liên quan giữa điện não đồ với stress và đã phát hiện có nhiều cơ chế thay đổi
hoạt tính điện nhịp của não ở những giai đoạn khác nhau của stress, cũng như có sự

thay đổi khác nhau của điện não đồ của từng cá nhân trong những điều kiện gây
stress. Tác giả I.A.Raykôvski (1979) cùng một loạt các tác giả khác đã chỉ ra mối
tương quan giữa các thông số sinh lý (điện não đồ, điện tâm đồ, phản ứng điện da,
hàm lượng catecholamine, coricosteroit trong máu và trong nước tiểu), các thông số
biểu thị các quá trình tâm lý và các phản ứng cảm xúc. Trên cơ sở các mối tương
quan ấy người ta đưa ra các thông số tổng hợp biểu thị những đặc điểm và độ sâu
của trạng thái stress của con người. S.P.Kôrôlenkô (1978) cho rằng nghiên cứu
stresss lâu dài cho thấy chủ yếu không phải là mức độ thích nghi sinh lý, mà là mức
độ thích nghi tâm lý mới là thông số nhạy nhất, biểu thị trạng thái thể chất và trạng
thái tinh thần của con người. Chúng tôi cho rằng đây là nhận định rất quan trọng nói
lên vai trò của yếu tố tâm lý trong các tình huống xuất hiện nhân tố gây stress.
Những công trình rộng lớn nghiên cứu các thông số sinh hóa của stress được
tiến hành trong phòng thực nghiệm của M. Phrankenhoide đã đi đến kết luận rằng:
Hiệu quả của các yếu tố tâm lý xã hội gây ra ở hệ thống giao cảm là do sự đánh giá
7


của con người về sự cân đối giữa một bên là độ gay gắt của tình huống stress và bên
kia là khả năng của từng người đối phó với các nhân tố gây stress. Tác giả M.Ferreri
trưởng khoa Tâm thần và Tâm lý y học thuộc viên Saint – Antoine, (Pari, Pháp), với
tác phẩm “Stress từ bệnh và biểu hiện lâm sàng của các rối loạn do stress” là rất đa
dạng và phức tạp. Tác phẩm đã trình bày một cách nhanh gọn và rõ ràng các phản
ứng thích nghi bình thường, phản ứng thích nghi bệnh lý, sự tham gia của nhân
cách, môi trường và nghề nghiệp vào phản ứng stress. Các phản ứng thần kinh thể
dịch và các biểu hiện rối loạn do stress.
Những nghiên cứu trên chứng tỏ rằng những biểu hiện tâm lý của stress được
phản ánh trong những thay đổi của các chức năng sinh lý là tất yếu, vì các chức
năng sinh lý là cơ sở của các chức năng tâm lý. Sự tồn tại của mối tương quan đó
cho phép sử dụng các thông số của sự thay đổi (có tính chất stress) của các chức
năng sinh lý làm thông số cho stress tâm lý. Đồng thời mối tương quan này hoàn

toàn không phải là trọn vẹn và không phải với tất cả mọi biểu hiện tâm lý của stress
đều có thể tìm thấy những thay đổi sinh lý liên quan với chúng.
Nghiên cứu stress trên góc độ tâm lý học
Những tài liệu nghiên cứu về stress được công bố trước đây phần lớn thuộc
lĩnh vực sinh lý học và y học. Mặc dù vấn đề tâm lý có được đề cập trong quá trình
nghiên cứu về stress, tuy nhiên mãi đến giữa thế kỉ XX, những tư tưởng này mới
được phát triển mạnh mẽ.
R.Yerkes và J.Dodson là hai nhà khoa học Mỹ, năm 1908 qua thực nghiệm
đã chỉ ra rằng sự tăng cường độ làm việc của hệ thần kinh đến mức độ nhất định thì
hiệu quả hoạt động tăng lên. Song nếu hệ thần kinh tiếp tục hoạt động tăng lên thì
các thông số của hoạt động lao động hạ thấp, nhất là đối với hoạt động phức tạp.
Đây là một kết luận quan trọng gúp cho các nhà quản lý có biện pháp tác động đúng
mức nhằm tăng năng suất lao động cho công nhân và lập kế hoạch hoạt động của họ
cho phù hợp.
Nhà phân tâm học S.Freud cho rằng các rối loạn cơ thể chỉ là sự thể hiện
biểu trưng (symbol) của những xung đột nội tâm bị đè nén, ức chế. Mặc dù S.Freud

8


(1910) đã cự tuyệt việc tuyệt đối hóa vai trò ưu thế của tâm lý đối với cơ thể song
điều này đã không ngăn cản được nhiều tác giả khác lí giải bệnh cơ thể theo Phân
tâm. Họ cho rằng cũng như rối loạn tâm căn, tất cả các triệu chứng cơ thể chỉ là
phương thức dung hòa để giải tỏa năng lượng Libido. Các dạng co giật của vận
động cơ thể chỉ là sự né tránh căng thẳng của tính dục; các bệnh đường hô hấp là sự
thể hiện quay trở lại thời kì nằm trong bụng mẹ, khi mà hệ hô hấp chưa hoạt động…
Trên cơ sở lý thuyết phân tâm, Alexander (1950) cho rằng các yếu tố tâm lý
và cụ thể là sự xung đột tâm lý đóng vai trò quan trọng trong 7 bệnh thực thể: loét
dạ dày – tá tràng; viêm đại tràng; viêm ruột non cục bộ; cao huyết áp vô căn; viên
khớp dạng thấp và hen phế quản. Luận điểm về cơ chế bệnh tâm – thể của

Alexander được nhiều người chú ý. Dunbar (1954) cho rằng: những người cùng bị
một loại bệnh thường có cùng một kiểu (profile) nhân cách. Theo bà, có 8 loại bệnh
phụ thuộc nhiều vào yếu tố nhân cách hơn so với các bệnh khác, ví dụ như viêm
khớp dạng thấp, tiểu đường, huyết áp cao, loạn nhịp tim… Cho đến nay vẫn có
nhiều nghiên cứu sử dụng tư tưởng của Dunbar về kiểu nhân cách làm cơ sở. Quan
niệm hiện hành về kiểu nhân cách A và B là một ví dụ.
Engel (1954) đã phát hiện chi tiết khái niệm căn nguyên đa yếu tố. Đến năm
1977 ông thiết lập mô hình tâm – sinh – xã hội (biopsychosocial) của bệnh. Theo
quan điểm này, việc tìm kiếm và giải thích nguyên nhân của bệnh không nên thuần
túy theo một yếu tố nào mà là sự kết hợp của các yếu tố về cơ thể, tâm lý và xã hội.
[24, tr.379].
Tác giả P.V.Ximonov (1964, 1970, 1972, 1975) với học thuyết “Phản ánh”
đã kết luận rằng “Cảm xúc là do sự tác động qua lại giữa nhu cầu và khả năng đạt
mục tiêu”. Theo ông, một cảm xúc tiêu cực nảy sinh như là kết quả của sự thiếu hụt
thông tin thực tiễn cho hành động thích nghi và hàng động thỏa mãn. Như vậy việc
giải quyết stress cảm xúc qua thuật ngữ của ông là kết quả của thông tin đáng tin
cậy về hành động dựa trên thông tin đó. [3, tr.64]. Đây là lý thuyết thông tin về cảm
xúc, chỉ ra nguyên nhân quan trọng gây ra stress là sự thiếu hụt thông tin, vì thế có
thể làm giảm stress cho con người nói chung.

9


Nhiều tác giả trong đó có H.L.Winlensky và B.Gardell (1979) đã phát hiện ra
rằng dystress nảy sinh trong thời gian làm việc có ảnh hưởng lan sang thời gian
ngoài giờ làm việc và khó bù đắp trong những giờ nghỉ ngơi. Vì vậy các nhà nghiên
cứu cho rằng ngăn ngừa sự nảy sinh dystress trong thời gian làm việc thì hiệu quả
hơn là tìm cách tháo gỡ nó trong thời gian nghỉ ngơi. Nhiều công trình nghiên cứu
sự khác nhau về stress của từng cá nhân, do nhu cầu liệu pháp tâm lý tinh thần. Kết
quả nghiên cứu cho thấy có người dễ bị dystress, còn một số người khác thì khó

mắc phải hơn. Có người xu hướng ứng xử chủ động, có người có xu hướng ứng xử
thụ động khi stress. Các nghiên cứu này cho thấy trong cùng một yếu tố gây stress
có thể có những phản ứng tâm thể khác nhau tùy từng cá nhân. H.Selye cho rằng, đó
là sự khác nhau ở mỗi người về sinh sản hormone khi có stress. Đây mới chỉ là nhận
định đứng trên góc độ của những nghiên cứu về nội tiết học. Đồng thời bốn kiểu
thần kinh của I.P.Pavlov cũng có ý nghĩa rất cơ bản trong vấn đề xem xét đặc điểm
cá nhân vừa do di truyền vừa do tập nhiễm và giáo dục, cho nên các biện pháp giải
quyết phải bao gồm cả công tác tuyển chọn, cả đào tạo và sử dụng con người.
Thập kỷ 70 của thế kỷ XX, trong tác phẩm nổi tiếng “Cú sốc tương lai” nhà
tương lai học Hoa Kỳ Alvin Tofler đã khẳng định: Trong xã hội hiện đại tác động
của sự thay đổi dẫn đến cá nhân bị kích thích quá độ, giác quan bị tấn công do
lượng kích thích quá tải dẫn đến stress là cú sốc tương lai – chiều tâm lý. Đây chính
là lời cảnh báo của tác giả với loài người về mặt trái của xã hội văn minh. Đặc biệt
là nền văn minh hiện nay, mà Alvin Tofler gọi là làn sóng thứ 3 – văn minh sinh
học và tin học, kế thừa văn minh công nghiệp. Tác giả cũng có nhiều tiên đoán khác
về tương lai – việc thích ứng với những phát kiến nhảy vọt của khoa học kỹ thuật
công nghệ của con người gặp nhiều khó khăn. Với tác phẩm “Quẳng gánh lo đi mà
vui sống” tác giả Dale Carnegie đã nêu lên 30 phương pháp quan trọng để đương
đầu với stress – hiện tượng phổ biến trong xã hội văn minh. Đây là một tác phẩm có
ý nghĩa thực tiễn, giúp cho con người hiện đại học cách sống chung với stress.
Cuộc sống hiện đại, sự phát triển của nền kinh tế - thị trường với nhiều áp
lực từ công việc hàng ngày. Nhiều nhà nghiên cứu đã nghiên cứu stress trong nghề

10


nghiệp, nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý. Tác giả
G.Morgan trong tác phẩm “Cách nhìn nhận tổ chức từ nhiều góc độ” đã chỉ rõ
nguyên nhân cơ bản và ảnh hưởng của stress ở giảng viên đối với sức khỏe của họ.
Ông khẳng định: “Các bệnh động mạch vành thường gọi là các bệnh khai tử các

nhà quản lý trong xã hội hiện đại”. John Locket với tác phẩm “Bí quyết thành công
trong quản lý” đã nêu lên sáu nguyên nhân căng thẳng cho giảng viên là: lao động,
quan hệ với người khác, thời gian, môi trường, các vấn đề gia đình và tính cách cá
nhân. Đồng thời tác giả cũng đã đưa ra những gợi ý về cách loại bỏ dystress.
Dưới góc độ Tâm lý học, stress là một trạng thái đặc biệt của cảm xúc. Trong
trường hợp stress kéo dài, cường độ thấp, nó có thể được xem như là một trong
những biểu hiện của tâm trạng. Ngược lại, nếu stress diễn ra đột ngột, trong một
khoảng thời gian ngắn thì nó lại là sự thể hiện của xúc động.
Kết quả nghiên cứu về stress ở giáo viên nói chung và stress ở giáo viên mầm
non nói riêng của các tác giả nước ngoài cho thấy, stress xuất hiện hầu hết ở giáo
viên, cứ bốn giáo viên thì có một giáo viên khá thường xuyên bị stress (Hayes,
2006; Kyriacou, 2000). Các nghiên cứu về stress ở giáo viên mầm non của các tác
giả như Kelly và Berthelsen (1995,1997), Tsai, Fung, Chơ (2006), Zinsser, Bailey,
Curby, Denham và Bassett (2013) cho thấy, mức độ stress ở giáo viên mầm non
hiện nay diễn ra phổ biến ở mức độ rất cao. Có rất nhiều tác nhân gây stress ở giáo
viên mầm non như: áp lực thời gian, đáp ứng nhu cầu của trẻ, đối phó với nhiệm vụ
không liên quan đến giảng dạy, duy trì hoạt động giảng dạy thực hành, đáp ứng nhu
cầu cá nhân, vấn đề liên quan đến phụ huynh của trẻ, mối quan hệ với đồng nghiệp,
những vấn đề về các chương trình ở trường mầm non, và những áp lực công việc,
sự chuyên nghiệp trong công việc, kỷ luật và động lực. Stress ở giáo viên mầm non
dẫn đến những biến đổi, trải nghiệm với các mức độ khác nhau về cảm xúc, sự mệt
mỏi, vấn đề tim mạch, vấn đề ăn uống, hành vi, và những hệ quả có liên quan khác
như: không đáp ứng được nhiệm vụ, nhu cầu nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ,
ảnh hưởng đến mối quan hệ với đồng nghiệp, tổ chức nhà trường. Để đối phó với sự
thay đổi, giáo viên cần có những phản ứng tích cực với những thay đổi và áp lực,
11


phải quyết đoán hơn trong công việc, kiểm soát cảm xúc cá nhân. Giáo viên cũng
cần hỗ trợ cho các đồng nghiệp, giúp đồng nghiệp tự tin hơn trong công việc. Đối

với nhà trường và xã hội cần có một mạng lưới giám sát, hỗ trợ giáo viên mầm non
thực hiện các công việc hàng ngày.
Những kết quả nghiên cứu trên cho thấy stress là một hiện tượng phổ biến trong
cuộc sống của con người. Là đề tài nghiên cứu của rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế
giới, mỗi nghiên cứu đã cố gắng làm sáng tỏ bản chất, cơ chế hoạt động và đồng
thời đưa ra những giải pháp giúp con người kiểm soát stress. Stress của giáo viên
mầm non ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của giáo viên, và đến quá trình chăm
sóc – giáo dục trẻ. Chính vì vậy, những nghiên cứu về stress của giáo viên mầm non
có ý nghĩa thực tiễn quan trọng nhằm nâng cao chất lượng đời sống của giáo viên và
chất lượng giáo dục mầm non.
1.1.2. Những nghiên cứu stress trong nước.
Ở Việt Nam, Danh y Tuệ Tĩnh thế kỷ XIII – XIV trong tác phẩm bất hủ “Nam
dược thần hiệu” đã khẳng định. Thất tình là nguyên nhân bên trong của mọi bệnh,
những cảm xúc quá mức của nội tâm đã làm loạn huyết rối khí tạo điều kiện để 6
tác nhân bên ngoài đột nhập vào cơ thể gây bệnh. Ông còn nói thêm chỉ riêng “thất
tình” cũng đủ gây nhiều bệnh và những bệnh bày khi chữa không cần bắt mạch, bốc
thuốc mà chỉ cần ám thị bằng cảm xúc đối lập với những cảm xúc gây bệnh. Ví dụ
như quá vui do may mắn nào đó mà phát cuồng thì thầy thuốc đột ngột dựng nên
một tin buồn như nói dối về sự ra đi bất ngờ của người thân.
Ở Việt Nam từ thời xa xưa nhiều nhà Y học đã nhấn mạnh tầm quan trọng của
yếu tố tâm lý đối với sức khỏe con người. Tâm thần bất an là nguyên nhân gây ra
nhiều bệnh khác nhau. Chính vì thế có nhiều bài thuốc và bài tập luyện để con
người giữ gìn sức khỏe, tinh thần lạc quan vui vẻ tránh u sầu, căng thẳng mệt mỏi.
Đặc biệt vào những năm 60 của thế kỷ XX một số nhà khoa học thuộc lĩnh vực y
học, quân sự, sinh lý học cũng quan tâm đến stress. Tác giả Tô Như Khuê và cộng sự,
từ năm 1967 đến năm 1975, đã tiến hành các công trình nghiên cứu về căng thẳng cảm
xúc của các chiến sỹ thuộc binh chủng đặc công trong quân đội. Sau năm 1975 ông tiếp
12



tục nghiên cứu về stress trên nhiều lĩnh vực để đóng góp cho công cuộc xây dựng đất
nước và con người, các nghiên cứu đã được công bố trong các đề tài khoa học cấp nhà
nước như 480 702 -03 (1983 -1986), đề tài KX.07 06, KX.07 07 (1991 – 1995).
Các tác giả Phạm Ngọc Rao, Nguyễn Hữu Nghiêm với tác phẩm “Stress trong
thời đại văn minh” NXB Đà Nẵng – 1986 [29] đã cảnh báo về nguy cơ stress và
những hậu quả khó lường của nó trong cuộc sống hiện đại. Con người có thể ứng
phó hiệu quả với stress bằng cách điều chỉnh lối sống và tập luyện các phương pháp
giải tỏa stress.
Đặc biệt trong lĩnh vực y học, hai bác sỹ Nguyễn Khắc Viện và Đặng Phương
Kiệt đã dành rất nhiều tâm huyết cho các công trình nghiên cứu về stress ở trẻ em.
Các nghiên cứu của hai ông đã đóng góp thêm nhiều tri thức lý luận khoa học về
stress. Tác giả Đặng Phương Kiệt với tác phẩm “Stress và đời sống”, “Stress và miễn
dịch” đã đưa đến cái nhìn đầy đủ hơn về stress trong cuộc sống. Tháng 11 năm 1997,
Viện Sức khỏe tâm thần bệnh viện Bạch Mai đã tổ chức thành công “Hội nghị khoa
học về những rối loạn có liên quan đến stress ở trẻ em và thanh thiếu niên”. Hội nghị
đã thu hút sự tham gia của nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau. Các nhà
tâm lý học cũng đóng góp với nhiều bài báo cáo khoa học. Ngô Công Hoàn với bài
“Tâm lý học stress – một vài đặc trưng tâm lý trong trạng thái stress ở trẻ em, thiếu
niên” [9] , Mạc Văn Trang với bài “Về sự căng thẳng của sinh viên trong học tập, đời
sống và giải pháp cải thiện tình hình” [35] , Nguyễn Kim Qúy với bài “Stres đối với
trẻ em 6 tuổi vào lớp 1” [28]. Tác giả, Nguyễn Văn Nhậm, Nguyễn Bá Dương và
Nguyễn Sinh Phúc trong “Tâm lý học y học” [24], cũng đã chỉ rõ tác hại của distress
đối với sức khỏe của con người và cách phòng chống distress.
Stress cũng được nghiên cứu trong công việc. Stress trong việc làm là vấn đề
mà hầu hết mọi người đều gặp phải. Chưa có những số liệu thống kê chính thức
được công bố về tình hình stress ở Việt Nam. Tuy nhiên, một cuộc khảo sát do công
ty Hoffmann – La Roche tiến hành nhằm đánh giá tình trạng stress ở Việt Nam vào
năm 2002 cho thấy, tỷ lệ bình quân người bị stress trong cả nước là 52%. Riêng ở
Hà Nội và TP.HCM, tỷ lệ người bị stress lần lượt là 55% và 52%. Chính vì thế đã
có rất nhiều công trình nghiên cứu về stress nghề nghiệp trong thời gian gần đây.

13


Luận án tiến sỹ tâm lý học của tác giả Nguyễn Thành Khải (2001) nghiên cứu
về “Stress ở cán bộ quản lý”. Kết quả cho thấy stress ở cán bộ quản lý có nhiều biểu
hiện với nhiều mức độ khác nhau. Phần lớn (99,41%) cán bộ quản lý bị stress, trong
đó 15,94% ở mức độ năng (căng thẳng) 83,47% ở mức độ vừa [14]. Kết quả cũng
chỉ ra nguyên nhân bị stress và đề xuất một số biện pháp phòng ngừa và giảm stress
tiêu cực nâng cao đời sống tinh thần và hiệu quả lao động cho cán bộ quản lý.
Tác giả Lã Thị Bưởi và cộng sự với đề tài “Sức khỏe tâm thần và các stress ở
công nhân ngành may mặc” (2002) [2]
Tác giả Phạm Thị Thanh Hương với đề tài “Stress trong học tập của sinh viên
Đại học Sư phạm Hà Nội”- Luận văn thạc sĩ Tâm lý học năm 2003.
Tác giả Đặng Việt Đức luận văn thạc sỹ ý tế công cộng với đề tài “Một số dấu
hiệu stress nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ công nhân xí nghiệp thương mại
mặt đất Nội Bài năm 2007”
Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Anh với đề tài “Biểu hiện stress của sinh viên Đại học
Đà Nẵng” – Luận văn thạc sĩ Tâm lý học năm 2009.
Tác giả Bùi Thị Bích Phương với đề tài “Ứng phó với stress trong học tập của sinh
viên trường Đại học Sư Phạm Hà Nội” – Luận văn thạc sĩ Tâm lý học năm 2011.
Đề tài khoa học của Đại học quốc gia Hà Nội về “Đánh giá mức độ căng thẳng
tâm lý (stress) của giảng viên Đại học quốc gia, nguyên nhân và biện pháp phòng
ngừa” năm 2011 Do T.S. Phạm Mạnh Hà chủ trì đề tài. Kết quả cho thấy đa số
giảng viên bị stresss ở mức độ nhẹ (89,5%), có một số ít (chiếm 2,7%) mắc stress ở
mức độ nặng. [7]. Đề tài cũng chỉ ra cách ứng phó với stress, nguyên nhân cũng như
kiến nghị đối với giảng viên để phòng tránh các tác nhân gây ra stress.
Năm 2013, đề tài “Stress trong công việc của giáo viên mầm non hiện nay” luận
văn thạc sĩ Tâm lý học, của tác giả Lê Thị Hương .Kết quả nghiên cứu cho thấy đa
phần giáo viên có những biểu hiện ban đầu của stress nghề nghiệp như đau đầu, căng
thẳng, mất tập trung, mệt mỏi không muốn làm việc, đôi khi có những hành vi gây

hấn với trẻ. Nguyên nhân dẫn đến stress là do đời sống của GV chưa thực sự được
quan tâm đúng mức về lương và giờ làm ở bậc học này còn rất nhiều điều bất cập
chưa giải quyết triệt để. Dẫm tới áp lực nghề nghiệp ở GVMN là khác cao và chưa có
14


giải pháp dẫn tới GVMN đa phần muốn chuyển công tác để tìm một công việc đỡ áp
lực hơn. [12, tr. 91-92]
Năm 2013, tác giả Nguyễn Thị Thoa với đề tài “Biện pháp hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực do stress của giáo viên mầm non tới hoạt động chăm sóc – giáo dục trẻ” –
Luận văn thạc sĩ Khoa học giáo dục. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ giáo viên có
mức độ stress trung bình và cao chiếm khá lớn. Stress của giáo viên mầm non ảnh
hưởng tới sức khỏe về thể chất và tinh thần của giáo viên. Khi bị stress giáo viên có
những biểu hiện tiêu cựu về sinh lý và tâm lý. Những thay đổi không tốt về sinh lý và
tâm lý của giáo viên mầm non ảnh hưởng trực tiếp tới trẻ, làm giảm chất lượng chăm
sóc – giáo dục trẻ. Stress của giáo viên mầm non có nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân khách quan xuất phát từ môi trường làm việc
đặc trưng của giáo viên mầm non, chủ yếu do sự quá tải về số lượng trẻ trên số lượng
giáo viên, về thời gian lao động, chế độ chính sách chưa thỏa đáng. Nguyên nhân chủ
quan xuất phát từ bản thân người giáo viên chủ yếu là do thiếu và yếu các kỹ năng
nghề nghiệp, kỹ năng trong các mối quan hệ, do bản thân giáo viên chưa tìm được
cách làm cụ thể để phòng ngừa và hạn chế stress. [33, tr.133-134].
Một số nghiên cứu trong nước về stress trong công việc ở giáo viên mầm non
cho thấy thực trạng stress có ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của giáo viên và
chất lượng giáo dục trẻ. Thêm nữa, trong thời gian gần đây, một số hành vi tiêu cực
của giáo viên đối với trẻ, được truyền thông đại chúng, xã hội và phụ huynh của trẻ
phán ảnh, lên án, dẫn đến xã hội, phụ huynh có cái nhìn chưa đầy đủ, đúng đắn về
giáo viên và tỏ ra đề phòng, soi mói, coi thường giáo viên, khiến hoạt động nghề
nghiệp của giáo viên mầm non trở nên căng thẳng. Tuy nhiên, những nghiên cứu về
stress của giáo viên mầm non trường tư thục nói riêng ở Việt Nam chưa nhiều và

còn nhiều khía cạnh các tác giả chưa làm rõ về mức độ, tác nhân gây stress,… Chúng
tôi tiếp tục nghiên cứu đề tài “Stress của giáo viên trường mầm non tư thục” để góp
phần bổ sung những lí luận khoa học, những kết quả nghiên cứu thực tiễn cho vấn đề
nghiên cứu về stress nói chung và về stress trong công việc của giáo viên trường mầm
non tư thục nói riêng. Qua đó có những biện pháp tăng khả năng ứng phó stress của

15


giáo viên và đưa ra một số kiến nghị ý nghĩa nhằm nâng cao chất lượng đời sống tâm lý
cho các giáo viên mầm non, đặc biệt là giáo viên trường mầm non tư thục.
1.2. Lí luận về stress trong công việc của giáo viên trƣờng mầm non tƣ thục.
1.2.1. Khái niệm “Stress”
Từ stress có nguồn gốc từ Latinh là “strictia”, có nghĩa là kéo căng, đè nén. Nó
được dùng rộng rãi từ thế kỷ 17 để mô tả tình trạng căng thẳng gay go, tai họa hoặc đau
buồn mà con người phải vượt qua. [34, tr.7]
Theo từ điển Tiếng Việt: Stress là tổng thể nói chung những rối loạn tâm lý xảy
ra đột ngột do nhiều nguyên nhân khác nhau (sốc, xúc động mạnh, lao động quá
sức,…) [36, tr. 841]
Từ điển Tâm lý học (tiếng Nga) của V.P.Dintrenko và B.G. Mesiriakova, NXB
giáo dục, 1996 đã đưa ra một định nghĩa khá hoàn chỉnh về stress: “stress – trạng thái
căng thẳng về tâm lý xuất hiện ở người trong quá trình hoạt động ở những điều kiện
phức tạp, khó khăn của đời sống thường ngày, cũng như những điều kiện đặc biệt”
[14]. Đây là định nghĩa chỉ rõ bản chất của stress dưới góc độ Tâm lý học, đó là sự
căng thẳng về tâm lý và nguyên nhân gây ra stress là những điều kiện phức tạp và khó
khăn trong cuộc sống thường ngày, cũng như trong điều kiện đặc biệt.
Trong tài liệu khoa học đương thời, stress có ít nhất ba định nghĩa khác nhau
[17, tr. 66-67]
- Thứ nhất, Stress có thể chỉ bất cứ sự kiện nào hoặc bất cứ kích thích nào từ môi
trường khả dĩ khiến con người cảm thấy căng thẳng hoặc bị thức tỉnh (kích thích).

Theo nghĩa này, stress ở bên ngoài con người.
- Thứ hai, stress có thể chỉ đáp ứng chủ quan. Theo nghĩa này, stress là trạng thái căng
thẳng hoặc kích thích tâm lý bên trong. Nó là các quá trình lý giải, gây cảm xúc,
mang tính phòng vệ và ứng phó diễn ra bên trong một con người. Các quá trình như
vậy có thể thúc đẩy sự lớn lên và sự trưởng thành (sự thành thục). Nó lại cũng có thể
gây ra căng thẳng tâm trí. Hậu quả ra sao tùy thuộc các yếu tố sẽ được lí giải sau này
trong mô hình nhận thức của stress.
- Thứ ba, stress có thể là phản ứng thực hiện của cơ thể trước những đòi hỏi hoặc

16


×