Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu Luận Xây Dựng Chính Phủ Điện Tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.27 KB, 17 trang )

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH

TIỂU LUẬN
MÔN:
KHOA :
ĐỀ TÀI: “ XÂY

LÍ LUẬN HÀNH CHÍNH
HÀNH CHÍNH HỌC

DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ”

SINH VIÊN: NGUYỄN PHƯƠNG THẢO
LỚP : KH13A4
GVHD :


ĐỀ TÀI: “

XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ”

LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, vai trò của nhà nước ngày càng trở nên
quan trọng. Nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc hoạch định các chính
sách về kinh tế, văn hóa xã hội nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng,
văn minh và đưa nền kinh tế phát triển sánh ngang với các cường quốc kinh tế
trên thế giới. Nhưng làm như thế nào để các chủ trương chính sách đó đến được
với nhân dân mới là vấn đề nhà nước cần suy tính. Các nước phát triển trên thế
giới đã tìm ra lời giải cho bài toán, đó là phát triển chính phủ điện tử. Hầu hết
các nước đều nhận thức được rằng chính phủ điện tử mang lại nhiều lợi ích cho
đất nước. Trong tương lai, nước nào có nền chính phủ điện tử phát triển nước đó


sẽ có lợi thế hơn các nước khác. Không một nước nào muốn bị tụt sâu hơn so
với các nước khác, do đó phát triển chính phủ điện tử đã trở thành xu thế chung
của các quốc gia trên toàn thế giới. Thế nhưng điều kì lạ đi ngược lại với xu thế
của thế giới đó là ở nước ta khái niệm chính phủ điện tử là hoàn toàn mới mẻ và
hết sức lạ lẫm. Nhiều người không biết chính phủ điện tử là gì chứ chưa nói đến
việc phải thực hiện nó như thế nào và nó đem lại lợi ích gì cho đất nước. Vì thế
cho nên việc đem khái niệm chính phủ điện tử đến với mọi người là một việc
làm cấp thiết không chỉ của riêng ai. Biết được tầm quan trọng này em đã lựa
chọn đề tài “chính phủ điện tử” để thực hiện bài tiểu luận nhằm đưa đến cái nhìn
tổng quát và khách quan nhất về chính phủ điện tử, từ đó đưa ra các hướng giải
pháp để chính phủ điện tử đến được với mọi người nhiều hơn nữa.
Kết cấu bài tiểu luận:
A. Đặt vấn đề.
B. Nội dung.
I . Tổng quan về chính phủ điện tử.
II. Những nội dung chính về chính phủ điện tử.
III. Thực trạng và một số phương hướng phát triển chính phủ điện tử.
C. Kết luận.
D. Tài liệu tham khảo.
Mặc dù đã cố gắng tìm hiểu nhưng vì trước đó có rất ít tác giả nói về đề tài này
nên việc tìm tài liệu là khá khó khăn, do đó việc thiếu hay sai sót trong bài tiểu
luận là khó tránh khỏi. Em rất mong có được sự đóng góp của những ai quan
tâm đến đề tài này để bài làm của em được hoàn thiện hơn.


Em xin chân thành cảm ơn cô – giảng viên môn “Lý luận hành chính” khoa
hành chính học - học viện hành chính đã giúp em hoàn thành đề tài này!
Em cũng xin cảm ơn những ai quan tâm tới đề tài này!



Đề tài: “XÂY

DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ”.

A. Đặt vấn đề.
Công cuộc toàn cầu hóa đang kéo các quốc gia lại gần nhau hơn, nhưng
cùng với đó tính cạnh tranh cũng cao hơn. Trong bối cảnh quá trình toàn cầu hóa
diễn ra ngày càng mạnh mẽ, các chính phủ phải tìm cách giúp đỡ công dân cũng
như các doanh nghiệp cạnh tranh trong môi trường toàn cầu hóa. Chính phủ điện
tử ra đời có thể giải quyết được bài toán phức tạp trên bởi bằng cách áp dụng
những công nghệ hiện đại, rút ngắn khoảng cách thời gian, không gian và kiểm
soát các rủi ro toàn cầu. Qua đó các doanh nghiệp có thể giảm chi phí giá thành
và tăng chất lượng dịch vụ từ đó thu hút khách hàng nhiều hơn. Với chính phủ
thì cái được lớn nhất thông qua chính phủ điện tử chính là người dân ở mọi nơi
trên đất nước có thể tương tác với các nhà chính trị hoặc các công chức để bày
tỏ ý kiến của mình từ đó giúp các nhà chức trách nắm bắt rõ tình hình và quan
điểm của cộng đồng. Hay nói một cách khác, chính phủ điện tử tăng tính dân
chủ bằng cách đưa chính phủ tới gần dân và đưa dân tới gần chính phủ.

B. NỘI DUNG.
I. Tổng quan về “chính phủ điện tử”.
1. Sự ra đời của chính phủ điện tử.
Như ta đã biết công nghệ thông tin đang làm biến đổi sâu sắc đời sống,
kinh tế, văn hóa xã hội của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ trên toàn thế giới.
Phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin đang là cơ sở hạ tầng cho việc phát
triển nền kinh tế quốc dân, từ cơ sở này cùng với sự điều hành nhà nước, vì thế
chính phủ điện tử đã ra đời. Chính phủ điện tử là tên gọi của một chính phủ mà
mọi hoạt động của nhà nước được thay đổi theo một khái niệm hoàn toàn mới,
chính phủ đó gần và thuận lợi với công dân hơn, bằng các kỹ thuật và công nghệ
tiên tiến, hiện đại. Mọi quan hệ giữa chính phủ và công dân đảm bảo tính minh

bạch, công khai, thuận tiện, bảo đảm sự kiểm soát và giám sát lẫn nhau giữa
công dân với chính phủ, một chính phủ của dân, vì dân và vì sự phồn thịnh của
đất nước trong một môi trường toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

2. Khái niệm “ Chính phủ điện tử”.
Chính phủ điện tử (e-government) là tên gọi của một chính phủ mà mọi
hoạt động của nhà nước được “điện tử hóa”, “mạng hóa”. Tuy nhiên, chính phủ
điện tử không đơn thuần là máy tính, mạng Internet; mà là sự đổi mới toàn diện
các quan hệ (đặc biệt là quan hệ giữa chính quyền và công dân), các nguồn lực,
các quy trình, phương thức hoạt động và bản thân nội dung các hoạt động của
chính quyền trung ương và địa phương, và ngay cả các quan niệm về các hoạt
động đó.
Chính phủ điện tử là ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) để
các cơ quan của chính quyền từ trung ương đến địa phương đổi mới, làm việc có


hiệu lực, hiệu quả và minh bạch hơn; cung cấp thông tin, dịch vụ tốt hơn cho
người dân, doanh nghiệp và các tổ chức, và tạo điều kiện thuận lợi cho người
dân thực hiện quyền dân chủ và tham gia quản lý Nhà nước.

3. Mục tiêu của chính phủ điện tử.
Dù định nghiã theo cách nào thì mục tiêu và lợi ích của chính phủ điện tử
cũng là: tăng cường năng lực điều hành nhà nước của chính phủ, mang lại thuận
lợi cho dân chúng, tăng cường sự minh bạch, giảm tham nhũng, giảm chi phí
chính phủ và tăng thu nhập quốc dân.
Các tiêu chí khi nói đến chính phủ điện tử là:
- Định hướng công dân và dễ sử dụng.
- Có tinh thần trách nhiệm, một cửa và định hướng kết quả.
- Nhiều khả năng truy nhập: người dân có thể truy nhập vào mạng dịch vụ chính
phủ bằng nhiều cách.

- Tính cộng tác: chính phủ điện tử phải được thiết kế, xây dựng và triển khai trên
cơ sở hợp tác giữa chính phủ và cá nhân công nhân.
- Tính đổi mới: không chỉ thuần túy là ứng dụng công nghệ mới, là website hay
chuyển giao dịch vụ trên mạng, mà còn tính đến việc cải tiến quy trình công tác
và tổ chức bộ máy
- Chi phí hợp lý: giảm được chi phí cho bộ máy chính phủ.
- An toàn và tôn trọng riêng tư.

II. Những nội dung chính về: “ chính phủ điện tử”.
1. Các nhóm vấn đề về chính phủ điện tử
a. Các dịch vụ chính phủ trực tuyến.
Trước đây các cơ quan chính phủ cung cấp dịch vụ cho dân chúng tại trụ
sở của mình, thì nay nhờ vào công nghệ thông tin và viễn thông, các trung tâm
dịch vụ trực tuyến được thiết lập hoặc là ngay trong trụ sở cơ quan chính phủ
hoặc gần với dân. Qua các cổng thông tin cho công dân người dân nhận được
thông tin, có thể hỏi đáp pháp luật, được phục vụ (giải quyết) các việc trong đời
sống hàng ngày như: công chứng, đăng ký lập doanh nghiệp, đăng ký nhân
khẩu, sang tên trước bạ... mà không phải trầu chực tại trụ sở các cơ quan như
trước đây.
b. Vấn đề tác nghiệp chính phủ trực tuyến.
Là việc số hóa hay điện tử hóa bản thân các hoạt động trong chính phủ, giữa các
cơ quan chính phủ khác cấp hoặc cùng cấp. Ở đây người ta nói đến cơ cấu tổ
chức, trình độ quản lý của bộ máy cũng như nhân viên chính phủ, việc quản lý
lưu trữ công văn tài liệu trên nền công nghệ web, các biểu báo thống kê điện tử,
sử dụng mạng máy tính và Internet để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và
các tác nghiệp của bản thân bộ máy chính phủ.
c. Dân chủ số và sự giúp đỡ của chính phủ điện tử.
Dân chủ số dựa trên năm phân loại chung là:
- Việc tiến hành bầu cử công bằng và tự do.
- Các quyền tự do của công dân.



- Sự hoạt động của chính quyền.
- Việc tham gia chính trị.
- Văn hóa chính trị.
Thể hiện một cách rõ ràng nhất vai trò của chính phủ điện tử chính là việc
bầu cử dưới hình thức bầu cử điện tử. Mọi người dân đều có thể tự tay bỏ những
lá phiếu của mình cho dù họ đang ở đâu, làm gì. Hơn nữa, nó còn đảm bảo được
quyền riêng tư và tính cá nhân trong lá phiếu của mình. Đảm bảo an ninh do
không mất quá trình vận chuyển hòm phiếu từ nhiều địa điểm khác nhau mà nó
đã lưu trữ ngay lập tức vào hệ thống cơ sở dữ liệu. Thông qua hệ thống Internet
và các thiết bị thông minh, chính phủ có thể dễ dàng kết nối quá trình trước,
trong và sau bầu cử nhanh, gọn, nhẹ, thu hút được đông đảo cử tri và không
phân biệt đối tượng, vị trí địa lý. Với chính phủ điện tử, dân chủ sẽ được thực
hiện theo một cách đúng nghĩa nhất để thực hiện quyền dân chủ, đáp ứng một
chính phủ thực sự là chính phủ của dân, vì dân.

2. Các yếu tố để triển khai thành công chính phủ điện tử.
a. Cải cách hành chính.
Chính phủ điện tử không có nghĩa là đưa công nghệ thông tin vào viễn
thông vào để tự động hóa quy trình công tác đã có sẵn nhất là những quy định
không có hiệu quả. Các yêu cầu khi cải cách hành chính:
+ Định hướng ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông.
+ Tính toán kỹ lưỡng quy trình công tác và vận hành thử theo cách truyền thống
trước khi đưa nó thành trực tuyến
+ Đáp ứng yêu cầu thực tế của từng địa phương, tận dụng ý tưởng của người
dùng hệ thống này.
+ Định hướng phục vụ người dân.
b. Vai trò của người lãnh đạo.
Lãnh đạo vững chắc về mặt chính trị là một yếu tố quan trọng trong thành

công của chính phủ điện tử vì nó đảm bảo những cam kết lâu dài về các nguồn
tài chính, nhân sự và chuyên gia kỹ thuật trong việc thiết kế, phát triển và triển
khai các dự án chính phủ điện tử. Lãnh đạo vững chắc cũng có nghĩa là duy trì
hỗ trợ cho các dự án ở tất cả các cấp của chính phủ bao gồm cả cộng đồng dân
cư và đáp ứng các nhu cầu cũng như mong đợi của họ. Nó hoạt động như một
chất xúc tác cho sự phối hợp liên chính quyền, sẵn sàng chia sẻ quyền lực và tín
dụng, tổ chức và phối hợp thời gian họp và luôn nhấn mạnh tính khẩn chương,
cấp bách trong việc hoàn tất các dự án chính phủ điện tử.
Dự án chỉ thành công khi người lãnh đạo cao nhất của tổ chức thực sự muốn
và đủ mạnh.
Người lãnh đạo cao nhất kể cả tầm chính phủ trung ương ( tổng thống hay thủ
tướng) cần phải ủng hộ và làm cho lãnh đạo các cấp phải ủng hộ chương trình
chính phủ điện tử.
Phải có một tổ chức và chỉ thị một chuyên viên cao cấp làm đầu mối để triển
khai chính phủ điện tử.
c. Chiến lược đầu tư.
Chính phủ phải có lựa chọn các chương trình ưu tiên.


Chính phủ các nước đang phát triển càng cần phải rất cẩn thận khi xét duyệt
các dự án để có thể tối ưu việc đầu tư và việc sử dụng các nguồn lực.
Các vấn đề cần lưu ý tới là:
- Xác định rõ mục tiêu của dự án.
- Rà xoát lại khả năng từ vốn đến nguồn lực.
- Xây dựng kế hoạch ngắn hạn, dài hạn và phải luôn lưu tâm tới cân bằng thu chi
và thời hạn hoàn thành.
- Cử cá nhân hay tổ chức giám sát việc thực hiện kế hoạch và ngân sách.
- Phải tính toán sử dụng đa công nghệ vì nhiều nơi dùng Internet không thích
hợp nhưng đài và ti vi thì lại rất thuận lợi.
- Nên lấy ý kiến đóng góp của nhân dân địa phương để lực chọn công nghệ cho

thích hợp.
d. Cộng tác.
Cơ quan chính phủ phải hợp tác với nhau và có quan hệ tốt với tư nhân và
các tổ chức phi chính phủ để có thể đẩy nhanh quá trình cải cách hành chính và
thực thi chính phủ điện tử. Các chuyên gia trong giới tư nhân hiểu biết rất rõ về
thương mai điện tử, về công nghệ thông tin và truyền thông và xúc tiến thị
trường, ngược lại giới tư nhân cũng có nhiều thuận lợi qua sự hỗ trợ của cơ quan
nhà nước nếu hai bên có quan hệ tốt.
Một số cách làm trong lĩnh vực này là:
- Ngay từ giai đoạn lập kế hoạch đã xây dựng quy trình tư vấn để có thể nghe ý
kiến của người dân, của giới doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ.
- Tiếp thu ý kiến của giới tư nhân vào quá trình thiết kế hệ thống.
- Động viên các tư nhân tham gia vào cải cách.
- Khuyến khích sự phối hợp của các bộ phận ngành.
- Để tăng lòng tin của các cộng đồng địa phương nên huy động lãnh đạo địa
phương tham gia dự án và dạy công nghệ thông tin cho họ để họ có thể thuyết
phục được thành viên của các cộng đồng.
- Tạo ra cơ quan xúc tiến triển khai chính phủ điện tử tại địa phương với sự tham
gia của lãnh đạo địa phương.
e. Sự tham gia của nhân dân.
Sự tham gia của người dân là yếu tố quan trọng để chính phủ điện tử thành
công.
Các lĩnh vực người dân có thể tham gia tư vấn như:
- Tư vấn thiết kế hệ thống.
- Thiết kế các ứng dụng cụ thể định hướng phục vụ công dân.
- Có ý kiến về các vấn đề liên quan tới pháp luật quy định trong quy trình cải
cách luật.
- Cảnh báo các vấn đề liên quan tới văn hóa và truyền thống mỗi địa phương.
- Kiến nghị các hình thức tham gia phù hợp.


3. Các dạng giao dịch của chính phủ điện tử.
a. Chính phủ với chính phủ.


Đây là mô hình có các dịch vụ liên quan trong chính phủ và các dịch vụ
nội bộ từng cơ quan trong chính phủ, được gọi chung là tác nghiệp chính phủ, có
thể kể đến việc quản lý, lưu trữ, khai thác, xử lý công văn tài liệu, các biểu báo,
các chuẩn, thống kê, hệ thống thông tin pháp luật trực tuyến, hội họp trực tuyến,
các hoạt động của chính phủ được cập nhật qua hệ thống trang tin điện tử
(website) giữa trung ương, bộ, ngành và địa phương...
Cấp độ tương tác này giúp cho các cơ quan hành chính chia sẻ dữ liệu, trao đổi
công việc thuận tiện hơn, giảm thiểu chi phí và thời gian hội họp không cần
thiết. Hệ thống chính quyền phải là những người nắm được những tri thức về
công nghệ mới nhất, nhất là cộng nghệ thông tin, công nghệ truyền thông, sử
dụng được các thiết bị kỹ thuật thông tin, kỹ thuật Internet và các công nghệ kỹ
thuật khác cho các công việc hàng ngày.
b. Chính phủ với doanh nghiệp.
Đây là mô hình có nhiều hoạt động trực tuyến được kết nối giữa cộng
đồng doanh nghiệp và chính phủ từ mức độ chuyên nghiệp như là mua sắm hàng
hóa, đấu thầu các dự án chi tiêu công cho đến những ứng dụng đơn giản như
đăng kí kinh doanh, cấp phép đầu tư, hỏi đáp pháp luật,...
c. Chính phủ với công dân.
Chính phủ sẽ cung cấp những thông tin trực tuyến chính xác, toàn diện về
các luật lệ, quy chế chính sách và các dịch vụ công trực tuyến như làm hoặc cấp
mới các giấy tờ cá nhân, các chứng chỉ, đóng và hoàn thuế thu nhập, nhận trợ
cấp, cấp mới, cấp đổi các loại giấy phép lái xe, đăng ký lập doanh nghiệp, đăng
ký nhân khẩu...

4. Triển khai chính phủ điện tử.
a. Ba giai đoạn phát triển của chính phủ điện tử.

**) Giai đoạn 1: Cung cấp thông tin.
+ Sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông để mở rộng truy cập tới thông tin
chính phủ
+ Chính phủ sử dụng các phương tiện truyền thông thích hợp nhất là Internet để
cung cấp nhanh và trực tiếp thông tin đến công dân.
+ Bắt đầu bằng các thông tin về: Pháp luật, quy định các thông báo, các biểu
mẫu tạo điều kiện để công dân giới kinh doanh có thể truy cập tiếp cận mà
không phải đi tới trụ sở cơ quan nhà nước, không phải xếp hàng chờ đợi hay
phải chi phụ phí.
+ Làm tốt mức này cũng là một cuộc cách mạng đánh động tới nạn quan liêu
tham nhũng.
Yêu cầu đối với giai đoạn này:
+ Phải có chiến lược để có thể thông tin trực tuyến và thông tin phải phù hợp.
+ Cung cấp thông tin thực sự có ích cho cuộc sống hàng ngày của công dân bằng
ngôn ngữ bản địa.
+ Có quy trình để mỗi công chức có trách nhiệm cung cấp thông tin trực tuyến
của lĩnh vực mình chịu trách nhiệm.
+ Thiết kế các trang web dễ sử dụng, đảm bảo thông tin được cập nhật thường
xuyên.


+ Nội dung của thông tin phải nhằm hỗ trợ nhiều lĩnh vực như: phát triển kinh tế
xã hội, chống tham nhũng, thúc đẩy đầu tư nước ngoài…
**) Giai đoạn 2: Tương tác.
Mở rộng việc tham gia của nhân dân các hoạt động của chính phủ.
Chính phủ điện tử còn có khả năng huy động công dân tham gia vào quá trình
quản lý nhà nước qua việc trao đổi đối thoại với các nhà lập pháp ở mọi cấp
chính quyền. Đẩy mạnh việc đối thoại giúp xây dựng lòng tin của cộng đồng vào
chính phủ.
Nghĩa là tương tác trong chính phủ điện tử có thể có 2 cách bắt đầu các chức

năng cơ bản sau:
- Thư điện tử qua lại công chức để lấy thông tin
- Thông qua các phiếu phản hồi để công dân gửi ý kiến đóng góp cho các dự án
luật hoặc dự án xây dựng cuộc sống.
Ở giai đoạn này cũng có thể tạo ra các diễn đàn trực tuyến Công dân-Chính
phủ để mọi người có thể trao đổi ý kiến, nâng cao nhận thức tạo cơ hội tham gia
cho nhiều người mà không bị phụ thuộc vào khoảng cách.
Yêu cầu khi xây dựng website tương tác:
+ Nêu ra các vấn đề công dân có thể tham gia bản thảo và cũng thông báo lại
cho họ biết kết quả tiếp thu các ý kiến trực tuyến của họ.
+ Phân đoạn các chính sách tổng thể thành từng modul dễ hiểu để người dân
tham gia đóng góp ý kiến.
+ Tích cực kêu gọi họ tham gia.
+ Sử dụng các phương tiện truyền thông để công bố các ý kiến đóng góp.
+ Huy động công dân cộng tác từ giai đoạn đang thiết kế chính sách.
**) Giai đoạn 3: Giao dịch xây dựng chính phủ trực tuyến.
Xây dựng các website giao dịch để người dân có thể liên hệ trực tiếp với
các dịch vụ chính phủ vào bất cứ khi nào.
Các dịch vụ thường là: cấp số đo, xin cấp thẻ căn cước...
Yêu cầu với các dự án giao dịch:
+ Nhằm vào các đối tượng sử dụng ngay dịch vụ trực tuyến
+ Tranh thủ sự ủng hộ của những người sử dụng trang web này giải quyết nỗi lo
lắng của công chức do vai trò và ảnh hưởng của họ bị thay đổi
+ Chính phủ điện tử phải thích hợp với các cải cách hành chính và hoàn thiện nó
trước khi đưa lên trực tuyến
+ Phải luôn quán triệt, đầu tư ban đầu cho hệ làm giao dịch sẽ được thu hồi qua
việc tiết kiệm, giảm chi phí và tăng năng suất lao động
+ Xây dựng cổng giao dịch cho dịch vụ của chính phủ.
Các giai đoạn trên tồn tại độc lập với nhau. Nên chúng ta có thể thực hiện
đồng thời các giai đoạn không nhất thiết phải làm xong giai đoạn này mới làm

đến giai đoạn khác.

5. Những thách thức của chính phủ điện tử.
a. Làm thế nào để ngày càng có nhiều sử dụng dịch vụ của chính phủ điện tử.


Bất cứ một chính sách chính phủ điện tử nào cũng phải xem xét phương
pháp tiếp cận theo hướng tập chung vào người dân. Điều đó có nghĩa là chính
phủ điện tử phải là một dịch vụ dành cho người sử dụng cuối cùng và phát triển
theo hướng phục vụ nhu cầu. Tuy nhiên nhiều người dân có thể không sử dụng
chính phủ điện tử vì một vài nguyên nhân, trong đó, có những nguyên nhân
chính như không sử dụng quen ITC, thiếu truy cập, thiếu đào tạo cũng như lo
lắng về sự riêng tư và tính bảo mật của thông tin. Trong khi chính phủ điện tử có
thể giúp cho việc cung cấp các dịch vụ công được thuận tiện, dễ dàng, cũng như
làm cho dịch vụ của chính phủ ngày càng được cải tiến, không một lý do nào
trong số những lý do trên có thể làm cho người dân sử dụng ngay chính phủ điện
tử trừ khi những mối quan tâm lo lắng trên của họ được giải quyết.
b. Vấn đề bảo mật thông tin.
An ninh nhìn chung liên quan đến vấn đề bảo vệ các tài sản của hệ thống
thông tin và kiểm soát việc truy cập thông tin. Các chính sách và chiến lược về
an ninh thường được xây dựng cụ thể tùy thuộc vào bối cảnh và thông tin. Sự
riêng tư ở đây muốn nói về quyền đối với những thông tin liên quan đến cá nhân
và sẽ được xử lý với mức độ phù hợp. Luật bảo vệ các thông tin mang tính riêng
tư thường được đặt ra để quy định về vấn đề trên. Việc bảo vệ riêng tư của công
dân và đảm bảo rằng các thông tin cá nhân của họ sẽ không bị làm hại là một
vấn đề hết sức quan trọng trong chính phủ điện tử bởi vậy đây là điều chính yếu
trong việc lấy được niềm tin của dân chúng. Nếu không có được sự bảo đảm
này, không một người nào ngay lập tức sử dụng các dịch vụ của chính phủ điện
tử.
c. Làm thế nào để xây dựng một cơ sở hạ tầng chính phủ điện tử phù hợp.

Cơ sở hạ tầng thông tin chính phủ là một mạng lưới kết nối tất cả các cơ
quan chính phủ, phải được đảm bảo rằng mọi người dân đều có thể hưởng lợi
đầy đủ từ chính phủ điện tử. Xây dựng hạ tầng thông tin chính phủ là một việc
hết sức tốn kém đòi hỏi phải lập kế hoạch liên ngành và liên chính quyền. Cần
phải xem xét những vấn đề sau khi xây dựng một mạng đường chính phủ điện tử
như vậy.
Nghiên cứu khả thi về mặt tài chính là điều cần thiết trong việc triển khai
chính phủ điện tử. Cần phân tích về lợi ích, chi phí có thể giúp cho chính phủ
quyết định hoặc mở một phần mạng đường trục của chính phủ và thu tiền phí kết
nối đối với các nhà khai thác viễn thông để duy trì việc khai thác hoặc cùng sử
dụng mạng tư nhân trong trường hợp có những hạn chế về mặt chi phí.
Vấn đề cơ sở hạ tầng bao gồm cơ sở hiện nay của đất nước, tình hình phát
triển Internet, mật độ điện thoại, tốc độ thay đổi công nghệ, sự cho phép hội tụ
và đầu tư về băng rộng.
Các lợi ích và rủi ro. Có một mạng đường trục của riêng mình đảm bảo việc
truyền thông của chính phủ được mở rộng và đảm bảo an ninh 24 tiếng một
ngày, 7 ngày trong tuần, 365 ngày trong năm. Điều nay cũng đồng nghĩa với
việc phải có vốn cho việc nâng cấp và bảo dưỡng mạng lưới và chi phí cho việc
thuê một đội ngũ cán bộ kỹ thuật hỗ trợ mạng cả ngày.
Một số chính phủ có thể quyết định việc xây dựng mạng đường trục của riêng
mình là quá tốn kém về mặt chi phí và thời gian. Việc xây dựng một mạng


đường trục bộ có thể mất vài năm và hàng tỉ đô la để hoàn thành và nếu chính
phủ muốn ngay lập tức triển khai chính phủ điện tử, họ có thể không đủ thời
gian tiền bạc để làm việc đó.
Một phương pháp khác là sử dụng các mạng đường trục hiện có của tư nhân
thường do một tập đoàn viễn thông lớn khai thác. Điều này có nghĩa là chính
phủ phải ủy thác vấn đề an ninh của mạng cho nhà khai thác – người sử dụng
phải chịu những khoản chi phí đối với các công việc thường xuyên như bảo

dưỡng mạng và hỗ trợ về mặt kỹ thuật cũng như phải chịu các rủi ro đối với
những phá hoại ngầm có thể xảy ra.
Để giảm thiểu đe dọa đối với an ninh của mạng, các chính phủ sử dụng mạng
đường trục cá nhân phải triển khai các biện pháp an ninh sau: các bức tường lửa,
phần mềm phát hiện xâm nhập, mã hóa các mạng an ninh như ( mạng cá nhân
ảo, WAN hoặc LAN) đối với cơ quan chính phủ cần phải có mức độ an ninh cao
như quân đội.

III. Thực trạng và một số phương hướng phát triển chính
phủ điện tử.
1. Đánh giá các tiền đề cho việc xây dựng chính phủ điện tử ở Việt
Nam.
a. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông.
Thực trạng sử dụng Internet và viễn thông tại Việt Nam.
Theo báo cáo của Netcitizens Việt Nam tình hình sử dụng và phát triển
Internet tại Việt Nam tháng 3/2010.
Vào thời điểm cuối năm 2009 khoảng 1,7 triệu người đã sử dụng Internet
trên thế giới, chiếm tỉ lệ 26% dân số toàn cầu. Số người sử dụng Internet đã tăng
lên 5 lần trong những năm trở lại đây. Tỉ lệ sử dụng Internet cao nhất là ở Bắc
Mỹ (74%), Úc (60%) và châu đại dương (52%). Tại châu Á tỉ lệ sử dụng là 19%
và là châu lục thấp thứ 2 bên cạnh châu Phi.
Tuy nhiên nếu nhìn con số tuyệt đối, số lượng người sử dụng Internet tại
châu Á lại cao hơn bất kì nơi nào trên thế giới, có khoảng 43% số lượng người
sử dụng Internet trên toàn thế giới là của châu Á. Điều này chủ yếu do lượng
dân số lớn ở Trung Quốc.
Trong số các quốc gia trọng điểm ở châu Á, có hai mô hình khác nhau về tỉ lệ
sử dụng Internet. Tại các nước phát triển ( Hàn quốc, Nhật bản. Singapore, Hồng
kong, Đài loan và Malaysia) tỉ lệ sử dụng Internet ở mức 60-80%, với tốc độ
tăng trưởng nhẹ qua mỗi năm. Còn ở các thị trường mới nổi như ( Trung quốc,
Việt nam, Philipine và Indonesia), tỉ lệ sử dụng Internet chỉ khoảng 20-30%, tuy

nhiên tốc độ tăng trưởng mỗi năm lại cao hơn nhiều.
Hơn 50% người sử dụng Internet là người Trung Quốc. số lượng người sử
dụng Internet tại Trung Quốc ước đạt 360 triệu người, chiếm khoảng 20% dân
số thế giới. các quốc gia châu Á khác có số lượng lớn người sử dụng Internet đó
là Nhật Bản 96 triệu, và Hàn Quốc là 37 triệu.
Tại Việt Nam hiện có 23 triệu
người sử dụng Internet, con số này hơi thấp so với Philipine và Indonesia.


Tốc độ tăng trưởng Internet rất khác nhau ở mỗi quốc gia, ở các quốc gia có tỉ
lệ người sử dụng Internet cao, tốc độ tăng trưởng lại thấp hơn so với các quốc
gia có tỉ lệ người sử dụng thấp. Trong vòng 10 năm trở lại đây, việc sử dụng
Internet đã tăng từ 100-200% tại các nước phát triển ở châu Á ( Hàn quốc, Nhật
bản, Singapore và Hồng kong), vào khoảng 500-1500% ở các thị trường mới nổi
ở châu Á.
Việt Nam có một vị trí đặc biệt ở phương diện này. Việt Nam là quốc gia có tỉ
lệ tăng trưởng Internet nhanh nhất trong khu vực và nằm trong số các quốc gia
có tỉ lệ tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Từ năm 2000 số lượng người sử dụng
Internet đã nhân lên khoảng 100 lần. Cách đây 10 năm, tỉ lệ sử dụng Internet của
Việt Nam nằm cách xa hầu hết các nước châu Á khác. Hiện tại Việt Nam đã bắt
kịp tốc độ sử dụng Internet vào thời điểm cuối năm 2009, đại diện cho 26% dân
số. Trong khoảng thời gian 2003 đến năm 2009, số lượng người sử dụng Internet
tăng lên 1,3 triệu người. Tỉ lệ tăng trưởng rất cao giai đoạn 2003-2006 sau đó
chậm lại. Năm 2009 là năm đầu tiên có tỉ lệ tăng trưởng dưới 10%, tuy nhiên số
lượng người sử dụng vẫn tăng 2 triệu người trong năm này.
Trong các thành phố thực hiện nghiên cứu của Netcitizens, tỉ lệ sử dụng
Internet cao nhất là tại Hà Nội nơi có hơn 60% dân số truy cập Internet. Tại
thành phố Hồ Chí Minh tỉ lệ này là 50% còn các thành phố khác như: Đà Nẵng,
Nha Trang, Cần Thơ, Hải Phòng tỉ lệ sử dụng Internet khoảng 40% mỗi thành
phố.

Như vậy nhìn chung tại các khu vực thành thị của Việt Nam khoảng 50% đã
từng truy cập Internet.
Ở lĩnh vực viễn thông, tính đến tháng 12 năm 2009, mật độ điện thoại đã đạt
133,5 máy/100 dân với 115,7 triệu thuê bao ( đến tháng 7/2010, mật độ điện
thoại đạt 176 máy/100 dân với 154,3 triệu thuê bao. Mạng viễn thông nông thôn
cũng phát triển mạnh: 100% số xã đã có điện thoại, 8025 xã có điểm bưu điện
văn hóa cung cấp dịch vụ điên thoại bưu chính và Internet.
b. Nguồn nhân lực cho việc triển khai chính phủ điện tử.
Để triển khai chính phủ điện tử, việc cần thiết nhất là phải có nguồn nhân
lực dồi dào. Nguồn nhân lực ở đây được hiểu là đội ngũ cán bộ công chức làm
việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông, đội ngũ cán bộ quản lí có
nhận thức đầy đủ về công nghệ thông tin cũng như chính phủ điện tử. Nguồn
nhân lực mạnh mẽ là yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự thành công của việc xây
dựng chính phủ điện tử.
Nguồn nhân lực mạnh mẽ là yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự thành công của
chiến lược xây dựng chính phủ điện tử.
Cả nước hiện nay có 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, 1.131 giáo sư, 5.253
phó giáo sư, 16 nghìn người có trình độ thác sĩ, 30 nghìn cán bộ hoạt động khoa
học công nghệ. Số lao đông là việc trong ngành công nghệ thông tin hiện nay là
hơn 200 nghìn người. Theo thống kê, tổng số các trường, ngành liên quan công
nghệ thông tin cả nước là 235 trường/tổng số 390 trường trong cả nước, tuy
nhiên chất lượng còn chưa cao. Chỉ tiêu tuyển sinh vào ĐH-CĐ chuyên ngành
công nghệ thông tin năm 2009 là 56.406 sinh viên.


Theo dự báo, nhu cầu nhân lực công nghiệp công nghệ thông tin đến năm
2009 sẽ tiếp tục tăng qua từng năm và nếu không có biện pháp điều chỉnh mạnh
thì sự thiếu hụt nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin là hơn 600 nghìn người
nhưng khả năng đáp ứng chỉ đạt hơn 400 nghìn người.
c. Nhận thức của người dân và khả năng tiếp cận các dịch vụ điện tử của chính

phủ.
Nhận thức của người dân về chính phủ điện tử rất thấp, hầu hết mọi người
chưa biết tới chính phủ điện tử là gì và lợi ích của chính phủ điện tử đem lại ra
sao. Có sự chênh lệch lớn trong quá trình nhận thức giữa người dân thành thị và
nông thôn, khu vực miền núi và đồng bằng.
Do vậy khả năng tiếp cận tới các dịch vụ công của chính phủ cần thiết trước
mắt là nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của công nghệ thông tin
trong cuộc sống. Tổ chức đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ khả năng sử dụng
công nghệ thông tin và truyền thông cho đội ngũ cán bộ công chức.
d. Cơ sở pháp lý.
Nắm bắt được vai trò quan trọng của công nghệ thông tin đối với việc xây
dựng và phát triển đất nước, ngày 17/10/2000 Bộ chính trị đã ban hành chỉ thị số
58-CT/TW về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chủ trương này nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội
Đảng thứ IX. Để triển khai chỉ thị quan trọng của Đảng, ngày 24/5/2001, thủ
tướng chính phủ đã ký Quyết định số 81/2001/QĐ-TTg về việc duyệt chương
trình hành động triển khai chỉ thị số 58-CT/TW của Bộ chính trị và ngày
25/7/2001 thủ tướng chính phủ đã ký quyết định số 112/2001/QĐ-TTg phê
duyệt đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2005. Về
công nghệ thông tin và viễn thông, ngày 23/8/2001, chính phủ ban hành nghị
định số 55/2001/NĐ-CP về quản lý và cung cấp dịch vụ Internet. Sự chỉ đạo của
Đảng và nhà nước trong các văn bản đã nêu, tạo điều kiện cho việc phát triển
nhanh ngành công nghệ thông tin của nước ta và là bước khởi đầu quan trọng để
tiến tới xây dựng một mô hình chính phủ điện tử.
Luật công nghệ thông tin số 67/2006/QH ngày 29/6/2006.
Nghị định số 71/2007/NĐ-CP ngày 3/5/2007 về việc quy định chi tiết hướng
dẫn việc thực hiện một số luật về công nghệ thong tin về công nghiệp công nghệ
thông tin.
Nghị định 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 về ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động của cơ quan nhà nước.

Nghị định số 63/2007/NĐ-CP về xư phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
công nghệ thông tin.
Chỉ thị số 34/2008/CT-T Tg ngày 03/12/2008 của thủ tướng chính phủ về việc
tăng cường sử dụng hệ thống thư điện tử trong hoạt động cơ quan nhà nước.
Quyết định số 19/2008/QĐ-BTTTT 9/4/2008 ban hành quy định tiêu chuẩn
ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước.
Quyết định số 20/2008/QĐ-BTTTT 9/4/2008 ban hành danh mục tiêu chuẩn
về ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước.


Quyết định số 50/2009/QĐ-TTg ngày 03/4/2009 ban hành quy chế quản lý
chương trình phát triển công nghệ phần mềm và chương trình phát triển công
nghiệp nội dung số Việt Nam.

2. Thực trạng việc triển khai chính phủ điện tử ở Việt Nam.
Quá trình triển khai chính phủ điện tử ở Việt Nam từ trung ương tới địa
phương và tới người dân thời gian qua vẫn còn trì trệ. Mặc dù trong thời gian
qua Việt Nam đã tiến hành nhiều hoạt động liên quan tới chính phủ điện tử như:
xin cấp giấy phép kinh doanh, làm thủ tục hải quan... được triển khai. Nhưng
thông tin trên các website còn nghèo nàn các dịch vụ mới chỉ đạt được ở bước
đầu, và thực hiện còn độc lập, sơ sài, khả năng sẵn sàng cho chính phủ còn thấp.
Theo báo cáo của Liên hợp quốc, năm 2010 Việt Nam đứng thứ 90 trong tổng
số 192 nước điều tra về ứng dụng công nghệ thông tin trong khu vực công, tăng
1 bậc so với năm 2008.
Thực tế cho thấy trong bảng xếp hạng về chỉ số sẵn sàng của chính phủ điện
tử ( do Liên hợp quốc cung cấp) Việt Nam xếp thứ 97/173 nước, với điểm số EGov Index là 0,375 ( điểm tối đa là 1, quốc gia điểm cao nhất là 0,927 quốc gia
có điểm thấp nhất là 0,009). Trong khu vực ASEAN, VIệt Nam chỉ hơn Lào,
Campuchia và Myanmar.
Trong khi hiện nay Singapore đã đưa được gần 2000 dịch vụ hành chính lên
mạng, trong đó có việc giải quyết hồ sơ hoàn thuế, xin cấp hộ chiếu, đăng ký

tham gia các trung tâm thể thao. Khoảng 75% dân Singapore đã sử dụng các
công cụ điện tử trong giao dịch với chính quyền thì Việt Nam mới có 6,67 người
sử dụng internet/100 dân.

3. Một số kiến nghị nhằm phát triển chính phủ điện tử.
a. Xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Hạ tầng viễn thông: các thiết bị viễn thông và máy tính phải được đề cập tới
trong bất kỳ kế hoạch nào của chính phủ điện tử. Mức độ phát triển hạ tần viễn
thông phụ thuộc vào đề án chính phủ điện tử.
- Kết nối sử dụng công nghệ thông tin viễn thông của chính phủ.
Tình hình sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông của chính phủ cho thấy
mức độ sẵn sàng quản lý thông tin và thực hiện đề án chính phủ điện tử. Do vậy
cần phải xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông đạt tiêu chuẩn
quốc tế.
- Đội ngũ cán bộ trong chính phủ: đây là nhân tố quan trọng nhất trong chiến
lược phát triển chính phủ điện tử ở bất cứ quốc gia nào. Đội ngũ cán bộ nhà
nước phải hiểu rõ tầm quan trọng của chính phủ điện tử. Và phải được trang bị
những kiến thức cần thiết nhằm thực hiện tốt chiến lược phát triển chính phủ
điện tử.
- Khả năng tài chính đang và sẽ có: chính phủ nên dành riêng một phần ngân
sách để đảm bảo khả năng tài chính phục vụ cho quá trình xây dựng và phát
triển chính phủ điện tử.
- Môi trường kinh doanh điện tử như khung pháp lý, an toàn thông tin…
Ngoài những hỗ trợ về tài chính nhà nước cần xây dựng một khung pháp lý
chính thức và hoàn chỉnh, tạo điều kiện cho việc thực thi chính phủ điện tử.


b. Xây dựng và quản lý đề án chính phủ điện tử.
- Thiết lập cơ quan chuyên trách về chính phủ điện tử trong chính phủ:
Thực tế cho thấy rằng khó có thể thực thi được đề án chính phủ điện tử mà

không có một đội ngũ quản lý từ khi bắt đầu đến khi kết thúc.
Những cơ quan như vậy cần được hỗ trợ về tài chính, nhân lực và quản lý để
thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Đảm bảo trao đủ quyền lực cho cơ quan quản lý đề án: sẽ rất khó khăn cho cơ
quan quản lý đề án nếu bất cứ quyết định nào cũng phải chờ cấp trên thông qua
rồi mới được thực hiện. Điều này sẽ làm chậm tiến độ thực hiện đề án.
Do vậy, cơ quan quản lý đề án cần được trao đủ quyền lực để có thể tự quyết
định những vấn đề nằm trong phạm vi quyền lực để rút ngắn thời gian và chi phí
không cần thiết.
- Xây dựng một kế hoạch làm việc để thực hiện đề án chính phủ điện tử: kế
hoạch làm việc nên tập trung vào các thành phần chính sau:
+ Phát triển nội dung: bao gồm phát triển ứng dụng,, mở rộng tiêu chuẩn, xây
dựng các giao diện ngôn ngữ địa phương, hướng dẫn sử dụng và đào tạo điện tử.
+ Nguồn nhân lực và đào tạo ở tất cả các cấp.
+ Kết nối mạng nội bộ và mạng internet.
+ Khung pháp lý.
+ Các giao diện tương tác với công dân đảm bảo dễ dàng truy cập và phù hợp
với tất cả các đối tượng.
+ Nguồn vốn: kế hoạch phải xác minh được nguồn doanh thu như phí sử dụng
hay ngân sách để có thể đảm bảo cần bằng về tài chính.
c. Nâng cao nhận thức về chính phủ điện tử.
Việc này quốc gia nào cũng làm, song ở nước ta lại càng cần. Ngoài các lý
do giống các quốc gia khác còn lý do là một số phạm trù có liên quan tới chính
phủ điện tử hoặc chưa tồn tại hoặc chưa rõ nét ở nước ta như: cung cấp dịch vụ
chính phủ, nền dân chủ điện tử, kỹ thuật và công nghệ điều hành nhà nước.
d. Nâng cao trình độ của công chức chính phủ.
Trong điều hành tác nghiệp hành chính để thực thi nhiêm vụ của mình.
Nhất là xác định được chỗ đứng của mình trong quan hệ với người dân, khắc
phục tình trạng xin-cho trong quan hệ giữa cơ quan chính phủ với người dân
nhất là ở các cấp hành chính thấp.

e. Triển khai ngay và từng bước sử dụng internet.
Là phương tiện điện tử để giải quyết nhóm việc trong khi triển khai, tức là
tác động tới mối quan hệ trong nội tại các cơ quan chính phủ. Thời gian qua nhà
nước đã có nhiều đề án tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong chính
phủ. Chúng ta đã có mạng diện rộng nối văn phòng chính phủ với các bộ ngành
địa phương. Đây cũng là nền tảng để triển khai nhóm công việc này, song điều
quan trọng là quy trình thể chế công tác nhằm đảm bảo cho mạng có thông tin
để nó thực sự tác động và nâng cao hiệu quả điều hành công việc của chính phủ
ở các cấp.
Gần đây chính phủ có chỉ thị số 58 về việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin trong các cơ quan chính phủ điện tử một chỗ dựa tốt để triển khai
chính phủ điện tử một cách bài bản ở các cấp.


f. Về việc cung cấp dịch vụ chính phủ trực tuyến.
Việc này khó hơn, một mặt cần đầu tư hạ tầng, nâng cao trình độ công
nghệ thông tin cho công chức chính phủ. Một mặt cần phải khắc phục tình trạng
người dân chưa có khả năng truy cập vào internet để hưởng thụ các dịch vụ trực
tuyến của chính phủ.
Tuy nhiên một mảng việc có thể làm ngay là cung cấp dịch vụ trực tuyến cho
giới doanh nghiệp tác động tới mối quan hệ chính phủ với doanh nghiệp, vì giới
doanh nghiệp hầu hết có khả năng truy nhập internet hay mạng chính phủ. Mảng
việc này dễ triển khai hơn và hiệu quả lại có thể thu về ngay. Nhưng nên bắt đầu
bằng những dự án nhỏ và khả thi trước.
Một số hoạt động có thể thực hiện trong mảng này:
- Cung cấp thông tin pháp quy, chủ trương chính sách liên quan tới kinh doanh,
xuất nhập khẩu, thuế…
- Cung cấp thông tin thị trường.
- Dịch vụ đăng ký cấp phép xuất nhập khẩu trực tuyến.
- Dịch vụ đăng ký nộp thuế trực tuyến.

- Dịch vụ xin thành lập doanh nghiệp trực tuyến.

C. KẾT LUẬN
Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ cũng như công
nghệ thông tin thì một sự thật không thể phủ nhận là chính phủ điện tử là một
điều cần thiết và cấp bách của tất cả các quốc gia nói chung và Việt Nam nói
riêng. Hay nói một cách khác cụ thể và hiện thực hơn thì chính phủ điện tử
chính là ước mơ của tất cả các quốc gia không chỉ các quốc gia đã phát triển mà
còn là ước mơ của những quốc gia đang phát triển.
Vì các nước khác nhau nên tình hình kinh tế-xã hội của các nước cũng
không giống nhau bởi vậy các nước đều phải nghiên cứu thật kỹ các dự án trước
khi đưa vào thực tiễn. Phải dựa vào thực tiễn tình hình kinh tế xã hội của mình
để đưa ra được những chính sách phù hợp vừa có thể thực hiện được lại vừa có
hiệu quả.
Các nước làm khá tốt dự án chính phủ điện tử như Mỹ, Australia hay
Singapore cũng bởi họ có tiềm lực kinh tế xã hội khá mạnh và đồng thời họ có
những chính sách phù hợp nên họ có được những thành công nhất định. Nếu các
nước khác cứ làm giống y hệt hoặc dập khuôn như vậy thì không những không
mang lại hiệu quả mà còn có tác dụng ngược lại đặc biệt là đối với các nước
nghèo hoặc đang phát triển như nước ta.
Nói như thế không có nghĩa là nước ta không học tập gì ở họ mà sự học tập,
tiếp thu của ta phải có chọn lọc, cải biến sao cho phù hợp với tình hình đất nước
nhất. Muốn làm được điều đó thì chúng ta phải có một hệ thống cũng như một
kế hoạch hoặc một dự án cụ thể không những tiếp thu những kinh nghiệm của


các nước đi trước mà còn rút ngắn thời gian thực hiện bởi qua các nước đã thực
hiện ta thấy một điều rằng để chính phủ điện tử có thể triển khai thì tốn khá
nhiều thời gian.
Muốn vậy thì Việt Nam phải tự tìm ra hướng đi thích hợp trong ứng dụng

công nghệ thông tin và truyền thông vào việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của
chính quyền các cấp, đồng thời từng bước cung cấp dịch vụ công cho người dân
qua internet nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp cũng như tiết kiện thời gian và sức lực của người
dân trong quan hệ với chính phủ.
Chính phủ điện tử ở Việt Nam mới ở giai đoạn đầu, tức là ứng dụng công
nghệ thông tin sao cho chính phủ hoạt động có hiệu quả hơn, cung cấp các thông
tin chính phủ phục vụ đời sống xã hội, tin học hóa hoạt động quản lý nhà
nước…
Để thực hiện được thì nước ta phải xây dựng và củng cố cơ sở hạ tầng công
nghệ thông tin và viễn thông, xây dựng và có kế hoạch hợp lý chặt chẽ đề án
chính phủ điện tử, loại bỏ trở ngại tâm lý và tích cực tuyên truyền để đưa chính
phủ điện tử tới gần người dân hơn. Với lợi ích mà chính phủ điện tử mang lại thì
là người dân của đất Việt không ai không mong muốn được hưởng những lợi ích
đó vì thế hi vọng rằng dự án này sẽ sớm thành công.

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Báo cáo của Netcitizens Việt Nam, tình hình sử dụng và tốc độ phát triển
internet tại Việt Nam tháng 3/2010.
2. Công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam.
3. Chính phủ điện tử - giáo trình học viện hành chính.
4. Chính phủ điện tử - Nhóm công tác ASEAN-APDIP



×