Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.58 KB, 33 trang )

MỤC LỤC
Đề tài: Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong giáo dục
Mở đầu
1.
1.1.
1.2.

Các khái niệm cơ bản
Nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực
2.

2.1.
2.1.1.
2.1.2.
2.1.3.

Thực trạng nguồn nhân lực giáo dục ở Việt Nam .

Thực trạng về đổi ngũ giáo viên phổ thống ở nước Việt Nam
Về số lượng
Về cơ cấu
Về chất lượng
2.2. Thực trạng về đổi ngũ giáo viên đại hoc ở nước Việt Nam
2.2.1. Về số lượng
2.2.2. Về cơ cấu
2.2.3. Về chất lượng
2.2.4. Nhận xét chung
3. Thực trạng nguồn nhân lục giáo dục ở nước Lào

3.1.



Thực trạng về đổi ngũ giáo viên phổ thống ở nước Lào
3.1.1. Về số lượng
3.1.2. Về cơ cấu
3.1.3. Về chất lượng
3,2. Thực trạng về đổi ngũ giáo viên đại hoc ở nước Lào
3.2.1. Về số lượng
3.2.2. Về cơ cấu
3.2.3. Về chất lượng
3.2.4. Nhận xét chung

3.

Các giải pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực giáo dục ở Lào
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo.

Đề tài: Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong giáo dục

1
1


Mở đầu
Một trong những điều kiện để các quốc gia phát triển bền vững là cần có
các nguồn lực về vốn, khoa học & công nghệ, tài nguyên và đặc biệt là nguồn
nhân lực. Những nguồn lực này không chỉ phong phủ về số lượng mà còn cần có
chất lượng để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của quá trình phát triển.Trong thời
đại ngày nay, bất kỳ một quốc gia nào muốn tăng trưởng nhanh và bền vững cần
dựa vào ba yếu tố cơ bản là áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng

hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Việc gắn kết chính sách điều
hành vĩ mô với chiến lược phát triển nguồn nhân lực hợp lý, hiệu quả đã mang
thể nói, toàn bộ bí quyết thành công của một quốc gia xét cho cùng đều nằm
trong chiến lược đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là con người chất
lượng cao.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, quá trình toàn cầu hoá với tác động mạnh
mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ gắn chặt với nó là nền kính tế tri
thức. Bối cảnh đó đạt mọi quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, bên
cạnh những thời cơ và thuận lợi, phải đổi mặt với muôn vàn thách thức, khó
khăn trong cuộc tìm kiếm các giải pháp cho sự phát triển. Trong sự nghiệp phát
triển giáo dục – đào tạo là một trong những động lực quan trọng nhất thức đẩy
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điiều kiện để phát huy nguồn lực
con người là yếu tố cơ bản, gín vài trờ quết định sự phát triển kính tế - xã hội.
Dười đây xin trình bày một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực trong giáo
dục nhắm đáp ứng yếu cầu đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục theo hướng
chuẩn hoá, hiện đại hoá, dân chủ hoá, xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
1.

Các khái niệm cơ bản về nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực theo nghĩa rộng được hiểu như nguồn lực con người cùng

một quốc gia một vùng lãnh thổ, là một bộ phận của các nguồn lực có khả năng
huy động vào qúa trình phát triển kinh tế – xã hội như nguồn lực vật chất, nguồn
lực về tài chính. Nguồn nhân lực theo nghĩa hẹp là bao gồm nhóm nhân lực
2
2


trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Với cách hiểu này, nguồn nhân lực
tương đương với nguồn lao động. Nguồn nhân lực luôn là một trong những yếu

tố tạo nên sự phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực là một trong những
nguồn lực quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của sự nghiệp phát
triển đất nước. Tất cả các nước trên thế giới nếu phát triển bền vững đều quan
tâm đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là một bộ phận quan trọng
tạo ra giá trị vật chất và giá trị văn hóa cho tổ chức. Việc phát huy tối đa nguồn
nhân lực này, không ngừng mở rộng số lượng, nâng cao chất lượng để đem lại
sức mạnh cho quốc gia đó. Do vậy, chúng ta cần có biện pháp cụ thể sử dụng có
hiệu quả nguồn lực con người nhằm đạt được mục tiêu ở từng giai đoạn nhất định.
Trong quản lý nguồn nhân lực, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có vị trí quan
trọng. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nhằm mục đích phát huy được hết
khả năng tiềm ẩn trong mỗi con người, góp phần tăng cường sức mạnh và đóng
góp của cá nhân cho tổ chức, cho quốc gia. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
trong lĩnh vực giáo dục ở nước Lào hiện nay góp phần hình thành con người và
nguồn nhân lực với tư cách là chủ thể của xã hội, có trình độ học vấn mang đậm
tính nhân văn và các giá trị văn hoá tốt đẹp, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại,
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới đất nước.
1.1. Nguồn nhân lực trong giáo dục.
Hiện nay, Nguồn nhân lực trong giáo dục và đào tạo là toàn bộ những con
người như: các thầy cô giáo, giảng viên và cán bộ quản lý có vị trí vai trờ rất
quan trọng trong việc đạo tạo con người có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh
chính trị vững vàng, kiến thức khoa học, thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp và
tính tích cực chính trị - xã hội. Giảng viên là người có đạo dực, phẩm chất chính
trị tốt, có trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao, có vị trị vái trờ rất quan trọng
trong xã hội được học sinh, sinh viên kính trọng, phát triển đội ngũ GV là vấn đề
quan trọng trong mỗi nhà trường, họ không chỉ là nhân tố quyết định đến chất
lượng của quá trình đào tạo mà còn là người trực tiếp thực thí mọi chủ trương
của Đảng, chính sách nhà nước, pháp luật giáo dục trong sự nghiệp phát triển

3
3



kính tế - xã hội của đất nước. Giáo dục với chủ thể là đội ngũ nhà giáo là con
đường ngắn nhất và khoa học nhất để truyền thụ tri thức cho học sinh một cách cơ
bản có hệ thống và hiệu quả. Hệ thống giáo dục nước ta hiện nay có nhiều cấp
học, ngành học được xây dựng chặt chẽ và mang tính phát triển; đội ngũ nhà giáo
là lực lượng nòng cốt thực hiện mục tiêu giáo dục - đào tạo, là người xây dựng
cho học sinh thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ, trang bị tri thức và phương
pháp tư duy khoa học, khả năng làm việc độc lập, sáng tạo. Vì vậy, vai trò của đội
ngũ nhà giáo rất quan trọng, công việc của họ sẽ để lại dấu ấn trong tương lai. Khi
nói về vai trò của đội ngũ nhà giáo, tại Hội nghị giáo dục ở nước Lào, các đại biểu
đã đưa ra nhận định: người giáo viên sẽ là người có trách nhiệm làm thay đổi thế
giới. Đảng Nhân Dân Cách Mạng Lào cũng xác định “Giáo viên là nhân tố quyết
định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh”
Nhưng hiện nay, đội ngũ nhà giáo vừa thiếu lại vừa thừa, một bộ phận
nhỏ nhà giáo chưa đạt chuẩn đào tạo, một số thiếu năng lực giảng dạy và tinh
thần trách nhiệm. Điều đó làm hạn chế việc thực hiện vai trò đào tạo nguồn nhân
lực của đội ngũ nhà giáo, là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới thực
trạng chất lượng đào tạo chưa thực sự đáp ứng được mục tiêu đặt ra. Để nâng
cao vai trò đội ngũ nhà giáo góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần tập trung vào các vấn đề chủ yếu
sau:
1. Nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của đội ngũ nhà giáo, tạo môi
trường xã hội thuận lợi, động lực tinh thần to lớn để phát huy mọi tiềm năng của
xã hội đối với việc nâng cao vai trò nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân
lực. Khắc phục những hạn chế trong nhận thức của các cơ quan quản lý giáo
dục, các cấp ủy đảng và chính quyền về vai trò của đội ngũ nhà giáo. Cần thống
nhất và quán triệt sâu sắc hơn nữa vai trò của đội ngũ nhà giáo đối với chất
lượng giáo dục, đào tạo toàn diện nguồn nhân lực. Phải coi đầu tư cho đội ngũ
nhà giáo là đầu tư cho cả một thế hệ, cho một lực lượng lao động, có ý nghĩa lớn

đối với sự thành bại của nền giáo dục và của việc phát triển nguồn nhân lực

4
4


trong giai đoạn mới chứ không thể coi là một thứ phúc lợi đơn thuần, đầu tư đến
đâu hay đến đó.
2. Đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo theo hướng
chuẩn hóa Điều đó cho thấy, điều kiện quan trọng nhất để nâng cao chất lượng
giáo dục là phải có được một đội ngũ nhà giáo đủ về số lượng và có chất lượng.
Để làm được điều này, cần đổi mới công tác đào tạo nhà giáo ở cả 3 giai đoạn:
giai đoạn hướng nghiệp sư phạm trước đào tạo, giai đoạn đào tạo cơ bản trong
trường sư phạm, giai đoạn bồi dưỡng, hoàn thiện trình độ nghề nghiệp sau đào
tạo. Đối với giai đoạn hướng nghiệp là hướng dẫn con người chọn được một
nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở thích của mình ngay từ khi người đó
còn đang là SV. Giai đoạn đào tạo cơ bản trong trường sư phạm là nền móng
vững chắc để sau khi tốt nghiệp những nhà giáo trẻ có thể tự tin bước vào nghề
và thực hiện vai trò của mình. Vì thế, đào tạo cơ bản trong các trường sư phạm
được coi là khâu then chốt, quyết định chất lượng của đội ngũ nhà giáo sau này.
Những năm được đào tạo ở trường đại học sư phạm thực sự rất quan trọng
nhưng cũng chỉ có thể cung cấp cho nhà giáo vốn chuyên môn nghiệp vụ rất cơ
bản để họ có thể tự vận động, tiến bộ trong nghề nghiệp sau này. Bồi dưỡng sau
đào tạo cần được thực hiện theo tinh thần giáo dục thường xuyên, giáo dục suốt
đời dưới nhiều hình thức như học tập trung, học tại chức, học từ xa, dự các kỳ
thi, kiểm tra do ngành tổ chức.
3. Đổi mới công tác bố trí, sử dụng đội ngũ nhà giáo. Việc bố trí, sử dụng
đội ngũ nhà giáo có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến việc phát huy vai trò của đội
ngũ nhà giáo. Nếu bố trí, sử dụng hợp lý, đúng khả năng chuyên môn là điều
kiện thuận lợi để đội ngũ nhà giáo đạt hiệu quả lao động cao và phát huy được

tính tích cực, sáng tạo trong quá trình thực hiện vai trò của mình. Hiện nay, nhà
giáo ở các bậc học còn rất thiếu, nhưng để bảo đảm chất lượng giáo dục - đào
tạo và vì lợi ích lâu dài của sự nghiệp trồng người, Đảng chung ta kiên quyết
yêu cầu: “Không bố trí người kém phẩm chất làm giáo viên, kể cả giáo viên hợp
đồng”. Đây là quan điểm rất quan trọng khi tuyển chọn và bố trí cán bộ, trong
đó có nhà giáo. Trong bố trí, sử dụng đội ngũ nhà giáo cần coi trọng năng lực
5
5


sáng tạo thật sự về chuyên môn nghiệp vụ, đúng người, đúng việc, cần phê phán
quan điểm cho rằng cứ có bằng cấp cao thì làm việc gì cũng được. Tuyệt đối
không điều động những nhà giáo thuộc môn học này sang dạy môn học khác.
4. Tạo lập hệ thống động lực cho việc nâng cao vai trò của đội ngũ nhà
giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường trung học phổ thông.
Những giá trị động lực ấy được hình thành từ xã hội và trực tiếp gắn với con
người. Đó là tổng hợp những nhu cầu, lợi ích, khát vọng chính đáng của con
người. Hệ thống động lực để nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo bao gồm
nhiều yếu tố, trong đó chủ yếu là động lực lý tưởng - tình cảm, động lực trí tuệ tinh thần và động lực kinh tế - vật chất. Động lực lý tưởng - tình cảm của đội
ngũ nhà giáo thể hiện ở những giá trị: tình yêu quê hương, ý thức và trách nhiệm
công dân, tinh thần vì mọi người, lòng tự trọng và danh dự... những giá trị này
được kết lại trong khái niệm “nhà giáo”, “thầy giáo”, “nhà sư phạm”, “kỹ sư tâm
hồn”. Động lực trí tuệ - tinh thần của đội ngũ nhà giáo là những giá trị: nhu cầu
nhận thức để khám phá các tri thức mới, mong muốn hoàn thiện trí tuệ, năng
lực, khát vọng tự do sáng tạo và có nhu cầu được mọi người đánh giá đúng về
mình; những giá trị đó được thể hiện trong khái niệm “nhà khoa học”.
1.2.

Phát triển nguồn nhân lục trong giáo dục
Phát triển nguồn nhân lực là qúa trình tạo ra sự biến đổi số lượng và chất


lượng nguồn nhân lực về các mặt cơ cấu, thể lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần
cần thiết cho hoạt động lao động và đời sống xã hội, nhờ vậy mà phát triển được
năng lực, ổn định được công việc, làm nâng cao địa vị kinh tế, xã hội của các
tầng lớp dân cư và cuối cùng là đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Phát
triển nguồn nhân lực ở tầm vĩ mô là các hoạt động nhằm tạo ra nguồn nhân lực
có số lượng và chất lượng mà cơ cấu đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội
trong từng giai đoạn phát triển. Phát triển dân số là cơ sở để hình thành tăng
trưởng và phát triển nguồn nhân lực. Để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế –xã hội thì nhất thiết phải hoạch định một
chương trình đào tạo có chất lượng. Trong thời đại ngày nay, con người được
coi là một '' Tài nguyên đặc biệt '', một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi
6
6


vậy việc phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm
vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con
người là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi
quốc gia. Đầu tư cho con người là đầu tư có tinh chiến lược, là cơ sở chắc chắn
nhất cho sự phát triển bền vững. Cho đến nay, do xuất phát từ các cách tiếp cận
khác nhau, nên vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau khi bàn về phát triển nguồn
nhân lực. Theo quan niệm của Liên hiệp quốc, phát triển nguồn nhân lực bao
gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội.. Phát triển nguồn nhân lực: là gia tăng giá trị cho con người, cả
giá trị vật chất và tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng nghề
nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những năng lực và phẩm
chất mới, cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của sự
phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển là quá trình nâng cao năng lực của con
người về mọi mặt: Thể lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân bổ, sử dụng, khai

thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân lực thông qua hệ thống phân công
lao động và giải quyết việc làm để phát triển kinh tế- xã hội. Từ những luận
điểm trình bày trên, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia: chính là sự biến
đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ
năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về
cơ cấu nguồn nhân lực . Nói một cách khái quát nhất, phát triển nguồn nhân lực
chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện con người vì sự tiến bộ
kinh tế- xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người. Như vậy, phát triển
nguồn nhân lực với nội hàm trên đây thực chất là đề cập đến vấn đề chất lượng
nguồn nhân lực Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con
người, một người lao động cụ thể có trình độ lành nghề ứng với một ngành
nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
Nói đến chất lượng NNL là muốn nói đến tổng thể NNL của một quốc gia, trong
đó NNL là bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh tuý nhất, có chất
lượng nhất. Bởi vậy, khi bàn về NNL không thể không đặt nó trong tổng thể
7
7


vấn đề chất lượng nguồn nhân lực nói chung của một đất nước. Nguồn nhân lực
chất lượng cao là NNL phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường, đó là: có kiến
thức: chuyên môn, kinh tế, tin học; có kỹ năng: kỹ thuật, tìm và tự tạo việc làm,
làm việc an toàn, làm việc hợp tác; có thái độ, tác phong làm việc tốt, trách
nhiệm với công việc.
2. Thực trạng nguồn nhân lực giáo dục ở nước CHXHCN Việt Nam
2.1. Thực trạng về đội ngũ giáo viên phổ thống ở Việt Nam
2.1.1. Về số lượng
+ Tổng số giáo viên : 345 535
Trong đó: số giáo viên nữ:


261 662

chiếm 75,7%

Số giáo viên người dân tộc :

37 015

chiếm 10,7%

Số giáo viên nữ người dân tộc :

23 274

chiếm 6,7 %

Số giáo viên trong biên chế:

328 902 chiếm 95,2%

+ Số giáo viên chia theo trình độ đào tạo
Giáo viên có trình độ trên Đại học:

181

chiếm 0,052%

2.1.2. Về cơ cấu:
+ Số giáo viên dạy môn chuyên


- Số giáo viên thể dục : 11 519

số giáo viên Âm nhạc : 14 362

- Số giáo viên Mĩ thuật :13 602

số giáo viên Tin học: 3 933:

- Số giáo viên tiếng Anh: 12 265

số giáo viên tiếng dân tộc : 823

- Số giáo viên ngoại ngữ khác : 272, số giáo viến THPT đội : 10 121
2.1.3.

Về chất lượng đổi ngũ giáo viên

8
8


Hầu hết giáo viên có phẩm chất đạo đức tốt, có trách nhiệm, yêu nghề, yêu
trẻ, tận tâm, tận lực với trẻ, với nghề. Nghiêm chỉnh chấp hành chính sách của
Đảng và Nhà nước và quy định chuyên môn của ngành. Mặc dù đời sống còn
gặp nhiều khó khăn, lưomg thấp chưa đủ trang trải cho cuộc sổng gia đình

9
9



nhưng đại đa sổ giáo viên vẫn gắn bó vởi nghề. Số đông giáo viên có ý thức
vươn lên về chuyên môn, tỉ lệ giáo viên cổ trình độ đào tạo trên chuẩn tãng
nhanh trong những năm qua, hầu như các lớp tập huấn nâng cao năng lực
chuyên môn được giáo viên tham gia đầy đủ, nhiều lớp còn đi quá số lượng
quy định của lớp tập huấn. Giáo viên tiểu học là những người cỏ công lớn vào
sự thành công của công tác phổ cập giáo dục tiểu học và phổ cập giáo dục
trung học cơ sộ; Giáo viên ở vùng sâu, vùng xa tuy đời sống còn nhiều thiếu
thốn, đi lại khó khăn, dân trí còn thấp nhưng nhiều giáo viên vẫn kiên trì bám
lớp, bám dân huy động trẻ em đi học, đảm bảo sĩ số. Nhiều giáo viên đã bỏ
tiền lương mua quần áo, sách vở, thức ăn hỗ trợ học sinh nghèo; đưa đón,
động viên học sinh đến trường, tình nguyện dạy thêm giờ, thêm buổi giúp đỡ
học sinh học sinh yếu, giúp học sinh dân tộc thiểu số học tốt tiếng Việt để xoá
bỏ rào cản về ngôn ngữ giúp các em hoàn thành chương trình tiểu học. Giáo
viên các thành phố cũng chịu nhiều áp lực, thường phải dạy các lớp có số học
sinh vượt quá quy định, nhiều lớp có trên 40, 50 học sinh/lớp, vừa dạy học
vừa đáp ứng nhu cầu trong nom con cái, học thêm của phụ huynh học sinh,
luôn phải tìm hiểu cập nhật thông tin chính trị, xã hội, chuyên môn đáp ứng
yêu cầu phát triển ngày càng cao của học sinh thành phố. Với đòng lương
khiêm tốn và thu nhập có hạn, giá cả luôn tăng việc đảm bảo đời sống của
giáo viên thành phố, đô thị là vấn đề cấp thiết không dễ giải quyết, ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng giáo dục. Bên cạnh đó vẫn còn giáo viên miền núi,
vùng khó khăn một số chưa yên tâm phục vụ lâu dài, một số bằng lòng với
với vị trí, năng lực của bản thân, chưa tích cực học hỏi nâng cao trình độ
chuyên môn trong khi năng lực chuyên môn lại rất yếu, còn có một số cán bộ
quản lí chưa chủ động trong công việc, còn trông chờ ở cấp trên, chưa tích
cực tham mưu cho ƯBND xã quan tâm đầu tư cho giáo dục ở địa phương.
Giáo viên ở thành phố, đô thị một số chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa
nhu cầu của phụ huynh học sinh với điều kiện cơ sờ vật chất của nhà trường.
Do thiếu phòng học, sân chơi nhiều trường tiểu học chưa tổ chức học 2

10


buổi/ngày hợp lí nặng về học, ít các hoạt động giáo dục; một số giáo viên còn
tổ chức dạy thêm, thu thêm, vẫn còn tình trạng “ép” học sinh học thêm gây
bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh huởng đến uy tín của ngành.
Các giáo viên tiẻu học có trinh độ đại học chính quy, dạy học trong
những điều kiện đảm bảo tiêu chuẩn. Ở nước ta còn nhiều bất cập về điều kiện
đảm bảo chất lượng, đó là thiếu thốn về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học và
đội ngũ giáo viên. Mặc đù đã được đào tạo để nâng cao trỉnh dộ nhưng do xuất
phát điểm về trinh độ đào tạo của giáo viên tiểu học thấp, nên mặc đù đã có
bằng cấp cao hơn nhưng đa số qua các khoá đào tạo theo hình thức tại chức,
chuyên tu, từ xa, vừa dạy vừa học nên trình độ giáo viên chưa được như mong
muốn, đa số giáo viên vẫn chưa đáp úmg được yêu cầu đổi mới phương pháp
dạy học nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục .
Chất lượng chuyên môn của giáo viên đã có tiến bộ qua từng năm, đã vượt
qua được trình độ trung học sư phạm. Trình độ chuyên môn, nhiệp vụ của giáo
viên đã tiến bộ rõ rệt, tinh trạng “cơm chấm cơm”, thói quen cầm tay chỉ việc
từng bước đã được giải quyết. Yêu cầu dạy học theo chương trình mới là động
lực thúc đẩy việc nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ gỉáo viên. Giáo
viên đã quen dạy chương trình mởi, tiếp cận với đổi mới phương pháp dạy học ở
tiểu học. Việc ban hành chuẩn nghề nghiệp giáo viên, các cuộc thi giáo viên dạy
giỏi là nhân tổ tích cực nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Những giáo viên
giòi có nhiều thành công trong công tác chủ nhiệm, nhiều sáng tạo trong các bài
giảng. Những giáo viên giỏi của ta không thua kém giáo viên giỏi của các nước
trong khu vực, tuy nhiên số giáo viên giỏi của ta chưa có nhiều. Do phài dạy học
trong điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học thiếu thốn, học sinh quá
đông, chất ỉượng không đồng đều đã là yếu tố khách quan ảnh hưởng đến chất
lượng giáo dục tiểu học. Mặc dù đã cố nhiều cố gắng học tập, bồi dưỡng nâng
cao chuyên môn, nhưng chất lượng đội ngũ giáo viên vẫn còn thấp và có nhiều

bất cập. Kiến thức cơ sở về tâm lí học, giáo dục học, phương pháp giáo dục,
phương pháp dạy học được trang bị trong quá trình đào tạo ở trường sư phạm

11


quá ít (khoảng 10% - 12%) chưa đủ thấm để giáo viên chủ động vận dụng trong
tổ chức các hoạt động giáo dục, dạy học ờ tiểu học. Kiến thức cơ bản các môn
học ở tiểu học chưa vững nên giáo viên chưa hiểu hết ý đồ của SGK và không
thể chuyển tải đầy đủ đến học sinh. Giáo viên đứng lớp hầu hết chưa tiếp xúc,
nghiên cứu chương trình giáo dục tiểu học. Do chỉ làm quen với SGK nên giáo
viên chưa hiều đầy đủ mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học và cách đánh
giá học sinh tiểu học, dẫn tới tình trạng quá tải hoặc đạy dưới chuẩn kiến thức,
kĩ năng vì chưa hiểu hết yêu cầu về nội dung, chuẩn kiến thức, kĩ năng quy định
trong chương trình. Điểm yếu nhất của giáo viên tiểu học là phương pháp giáo
dục, phương pháp dạy học. Tình trạng phổ biến là giáo viên còn lệ thuộc nhiều
vào phân phối chương trinh, SGK, SGV, máy móc trong hoạt động dạy học.
Việc tổ chức các hoạt động giáo dục còn hình thức, kém hiệu quả, không thiết
thực; phương pháp giáo dục còn áp đặt chưa phù hợp với tâm sinh lí học sinh
tiểu học chinh vì thế nhiều hoạt động của nhà trường hình thức, nặng nề không
hấp dẫn học sinh. Việc đổi mới phương pháp dạy học chưa có tác dụng tích cực
số đông giáo viên cỏ trinh độ thấp. Do chưa hiểu hết mục tiêu dạy chữ để dạy
người và dạy học ở tiểu học chủ yếu là hình thành, phát triển các kĩ năng cơ bản
cho học sinh nên nhiều giáOếVÌên quá thiên về truyền thụ kiến thức chưa chú
trọng giáo dục đạo đức và rèn íưỳện, phát triển kĩ năng cho học sinh, dẫn tới tình
trạng giờ học thì nặng nề nhưng hiệu quả giáo dục thấp. Giáo viên không chủ
động trong việc lựa chọn nội đung, yêu cầu, mức độ dạy học cho phù hợp với
đổi tượng, còn lúng túng trong việc tích họp các nội dung giáo dục vào các môn
học làm cho các bài học kém hấp dẫn, xa lạ với học sinh. Mặc dù Bộ GD&ĐT
đã trao quyền tự chủ cho các địa phương nhưng đội ngũ cán bộ quản lí cấp

phòng giáo đục và đào tạo, cấp trường chưa mạnh dạn, còn thực hiện các quy
chế chuyên môn máy móc, chưa khuyến khích giáo viên sáng tạo. Thói quen
quản lí hành chính máy móc cản trở đến việc đổi mới phương pháp dạy học, kìm
hãm khả năng sang tạo của giáo viên. Giáo viên do năng lực chuyên môn có hạn
nên phương pháp dạy học thiên về nhồi nhét, áp đặt. Có nhiều tiết dạy chỉ là
thông báo kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa, giáo viên nói nhiều, làm thay

12


nhiều, học sinh thụ động nghe giảng, làm theo sự chi dẫn của giáo viên. Chỉ có
một số giáo viên biết tổ chức hoạt động học cho học sinh, hướng học sinh tự tìm
tòi, phát hiện kiến thưc, gắn bài học với thực tế cuộc sống, học sinh hào hứng
tích cực tham giã học tập hiệu quả.
2.2. Thực trạng về đội ngũ giáo viên đại học ở Việt Nam
Trong những năm qua, mặc dù còn nhiều khó khăn, hệ thống GD đã đóng
góp tích cực vào sự tăng trưởng của nền kinh tế, cung cấp hàng triệu lao động
có trình độ khác nhau với số lượng ngày càng tăng, chất lượng dần được nâng
cao.Theo số liệu thống kê của Bộ GD&ĐT tính đến tháng 31/12/2013 đã có:
2.2.1. về số lượng
Trên cả nước có 426 trường ĐH, CĐ (tính cả các trường đại học thành
viên của các Đại học Quốc gia, Đại học vùng), trong đó có 212 trường đại học
(56 tư thục) và 214 trường cao đẳng (28 tư thục); có 21 trường đại học do ủy ban
nhân dân cấp tỉnh quản lý. So với năm 2012, tăng 06 trường đại học, giảm 01
trường cao đẳng (do nâng cấp lên thành trường đại học). Theo báo cáo thực
trạng các trường SP và định hướng phát triển đến năm 2020, hiện nay ở các
trường ĐHSP có 3827 giảng viên, trong đó tỷ lệ giảng viên có chức danh GS,
PGS là 5,2% (tỷ lệ bình quân chung các trường ĐH là 17,6%); Tỷ lệ giảng viên
có trình độ TS, TSKH là 15,5% (tỷ lệ bình quân chung các trường ĐH là
26,6%); tỷ lệ giảng viên có trình độ ThS là 37,6% (tỷ lệ bình quân chung các

trường ĐH là 33,7%).Ở các trường CĐSP có 5.496 giảng viên, trong đó tỷ lệ
giảng viên có chức danh GS, PGS là 0,07% (tỷ lệ bình quân chung các trường
CĐ là 0,27%); Tỷ lệ giảng viên có trình độ TS, TSKH là 1,02% (tỷ lệ bình quân
chung các trường CĐ là 1,8%); tỷ lệ giảng viên có trình độ Th.S là 25% (tỷ lệ
bình quân chung các trường CĐ là 22,5%); Đội ngũ GS, PGS, TS và TSKH
trong hệ thống CSĐTGV của nước ta hiện nay chiếm tỷ lệ rất thấp so với các
trường ĐH của các nước phát triển. Đội ngũ giảng viên các trường SP cũng trong
tình trạng thừa thiếu cục bộ: thiếu giảng viên đầu ngành, trình độ cao, ở một số
ngành đặc thù, ở các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, miền núi cao, hải

13


đảo… nhất là đối với những ngành đào tạo mới, môn học mới. Đội ngũ giảng
viên đầu đàn hẫng hụt, số cán bộ trẻ có trình độ, có năng lực chưa được quy
hoạch hợp lý và bổ sung kịp thời; khả năng cập nhật thông tin và kiến thức mới
nhờ quá trình sử dụng ngoại ngữ và công nghệ thông tin chưa nhanh; quy mô và
chất lượng NCKH phục vụ cho giảng dạy và thực tiễn giáo dục còn hạn chế.
Tỷ lệ giữa giảng viên và sinh viên trong toàn bộ hệ thống các trường CĐ,
ĐH là: 28,55SV/1 GV. Kết quả khảo sát tại 66 trường SP cho thấy:
- Tỷ lệ chung của 66 trường SP: SV/GV là: 37/1
- Tỷ lệ các trường ĐHSP là: 55/1
- Tỷ lệ các trường CĐSPTƯ là: 57/1
- Tỷ lệ các trường CĐSP địa phương là: 20/1
Từ các số liệu trên cho thấy giảng viên các trường ĐHSP và CĐSPTW
đang quá tải trầm trọng, còn các trường CĐSP địa phương có hiện tượng dư
thừa GV.
2.2.2. về cơ cấu
Tổng số giảng viên là 87.160 người (giảng viên đại học 61.286, giảng viên
cao đẳng 25.874); trong đó giảng viên các trường ngoài công lập là 16.066,

chiếm 18%. Tỷ lệ sinh viên/giảng viên ở các trường đại học là 23, cao đẳng là
27. Trình độ giảng viên: ở đại học, tỷ lệ giảng viên có trình độ từ thạc sĩ trở lên
gần 63% (tăng 5,2%), trong đó giảng viên trình độ tiến sĩ là 15% (tăng 1,5%); số
giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư là 5,2%. Ở cao đẳng, giảng viên
trình độ thạc sĩ, tiến sĩ tăng từ 34,2% lên 40%, trong đó số tiến sĩ chiếm tỷ lệ
2,62%. số giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư chiếm tỷ lệ 0,5%. Đội
ngũ giảng viên đại học trong những năm qua đã được bổ sung nhiều giảng viên
trẻ có trình độ Tiến sĩ và được đào tạo có chất lượng ở nhiều trường đại học ỉớn
trên thế giới, có nhiều công trình nghiên cứu và công bố quốc tế.
Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng về cơ bản nguồn nhân lực ở các trình độ
đào tạo đã đáp ứng được những yêu cầu thiết yếu của nền kinh tế và thị trường
lao động. Nhiều chương trình đào tạo mới đã được mở và đưa vào áp dụng,
đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nguồn nhân lực như: Khoa học máy tính,
Công nghệ thông tin, Tự động hoá, Cơ điện tử, Công nghệ cơ khí, Công nghệ

14


năng lượng, Công nghệ sinh học, Công nghệ sau thu hoạch, Nuôi trong thuỷ
sản, Tàí chính, Ngân hàng và sau đó là các ngành về Du lịch và dịch vụ,... Cho
đến nay, số chương trình đào tạo (ngành đào tạo) đang được áp dụng trong các
cơ sở đào tạo ở các trình độ: đại học là 264, cao đẳng 126.
2.2.3. về chất lượng ( Chưa làm)

2.2.4. Nhận xét chung
Một số mô hình phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cấp Quốc gia
cũng đang được nghiên cứu áp dụng và nhân rộng. Hiện nay, cả nước có 142
chương trình đào tạo chất lượng cao với các tên gọi khác nhau như: 47 chương
trình chất lượng cao, 14 chương trình kỹ sư, cử nhân chất lượng cao; 20
chương trình cử nhân, kỹ sư tài năng, đặc biệt là Bộ GD&ĐT đang triển khai

35 chương trình tiên tiến, 12 chương trình đào tạo đạt chuẩn quốc tế và 14
chương trình đào tạo chất lượng cao khác. Phần lớn các chương trình chất
lượng cao được sự đầu tự, quan tâm của Nhà nước và của các trường, được xây
dựng dựa trên các tiêu chí cao hơn, khác biệt so với chương trình đại trà nhằm
mục tiêu xây dựng thương hiệu, uy tín của các trường và nhằm chuẩn bị nguồn
nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, tiếp cận với
chương trình và công nghệ đào tạo tiên tiến trên thế giới, nhân rộng trên phạm
vi toàn quốc làm thay đổi cơ bản và toàn diện chất lượng GDĐH nói riêng và
chất lượng giáo dục nghề nghiệp nói chung.
3. Thực trạng nguồn nhân lực giáo dục ở nước CHDCND Lào.
3.1. Thực trạng về đội ngũ giáo viên phổ thống ở tỉnh Champampasack
Lào
3.1.1. Về số lượng
+ Tổng số giáo viên : 5.553
Trong đó: số giáo viên nữ: 3.037

chiếm 54,69 %

Số giáo viên giảng dạy : 4.676

chiếm 48,20 %

15


Số giảng viên nữ :

2.862

chiếm 51,53 %


+ Số giáo viên chia theo trình độ đào tạo

3.1.2. Về cơ cấu
+ Số giáo viên dạy môn chuyên

- Số giáo viên tin học : …..

số giáo viên : ……

- Số giáo viên :……

số giáo viên : ………:

- Số giáo viên tiếng Anh: …. .

số giáo viên ngữ văn…..

3.1.3. Về chất lượng
Các giáo viên có phẩm chất đạo đức tốt, có trách nhiệm, yêu nghề, yêu trẻ,
tận tâm, tận lực với trẻ, với nghề. Nghiêm chỉnh chấp hành chính sách của Đảng
và Nhà nước và quy định chuyên môn của ngành. Mặc dù đời sống còn gặp
nhiều khó khăn, lưomg thấp chưa đủ trang trải cho cuộc sổng gia đình

16


nhưng đại đa sổ giáo viên vẫn gắn bó vởi nghề. Số đông giáo viên có ý thức
vươn lên về chuyên môn, tỉ lệ giáo viên cổ trình độ đào tạo trên chuẩn tãng
nhanh trong những năm qua. Giáo viên tiểu học là những người cỏ công lớn

vào sự thành công của công tác phổ cập giáo dục tiểu học và phổ cập giáo
dục trung học cơ sộ; Giáo viên ở vùng sâu, vùng xa tuy đời sống còn nhiều
thiếu thốn, đi lại khó khăn. Các giáo viên có trinh độ đại học dạy học trong
những điều kiện đảm bảo tiêu chuẩn. Ở nước Lào còn nhiều bất cập về điều
kiện đảm bảo chất lượng, đó là thiếu thốn về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy
học.
3.2. Thực trạng về đội ngũ giáo viên đại học ở nước Lào
Trong điều kiện khó khăn và những hạn chế về nguồn lực, Đảng và Nhà
nước Lào đã quyết tâm thực hiện công tác phô cập giáo dục trong phạm vì cả
nước. Đội ngũ giáo viên đang thực hiện trên tình thần Nghị quyết Đại hội lần
thứ IX cùa Đàng NDCM Lào đã tiếp tục nhân mạnh trên cơ sở nhắm vững hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng phát triển và bảo vệ tổ quốc, trong thời gian từ
nay đến năm 2020 đưa nước Lào ra khỏi tình trạng nghèo nàn, nâng cao rõ rệt
đời sổng vật chất và tinh thần cùa nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 Lào
cơ bàn trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Con dường CNHHĐH của Lào cỏ thề rút ngẳn thòi gian so với các nước di truớc, vừa cỏ những
bước tuần tụ, vừa cỏ những bước nhảy vọt. Phát triển NNL là nhiệm vụ hàng
dầu và là khâu đột phả trong chiến lược phát triền kinh té - xã hội và chiến lược
phát triền GD&ĐT ở nước CHDCND Lào trong thời kỳ CNH- HĐH đất nước.
3.2.1.

về số lượng

Nước Lào có 4 trường ĐH và 149 trường CĐ, tổng số SV là 101,987,
41,907 nũ, tăng 23,7% năm học 2012- 2013, đến năm 2015 các trường đại học
thuộc về Bộ giáo dục sẽ đào tạo nguồn nhân lực đạt được 6000 người, trình độ

17

17


8


thạc sĩ 2500 người và trình độ tiến sĩ 500 người trong và ngoài nước, trình độ
của đội ngũ giáo viên các trường đại học có trình độ cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ
theo chuẩn 1: 3: 6, nâng cao trình độ giáo viên hợp lý với công việc, bổi dưỡng
chuyên môn nghề nghiệp cho giáo viên trong thời gian ngăn hạn và dài hạn
Bảng 1: Số liệu về đội ngũ giảng viên các trường đại học nước CHDCND
Lào
Trường và qui
mô đào tạo

Tổng số GV
Nam
Nữ

GS.TS

ĐH Quốc gia
30.439 SV
ĐH Champasak
3473 SV
ĐH
Savannakhet
ĐHSP Pakse
2.546 SV

577

7


50

108

283

CN & trình
độ khác
109

0

0

04

53

226

0

0

04

23

189


0

0

0

20

137

3.2.2.

Trình độ
PGS.TS TS
Ths

262
283
92
216
100
157
41

Về cơ cấu:

Kết quả số liệu bảng 1 cho thấy, mặc dù đội ngũ giảng viên các trường đại
học của Lào đã có những phát triển đáng kể, tuy nhiên, xét theo qui chuẩn về
đội ngũ giảng viên của một số nước, chẳng hạn như Việt Nam, có thể nhận thấy

những bất cập của đội ngũ giảng viên các trường đại học Lào như sau:
- Số lượng giảng viên chưa đáp ứng với qui mô đào tạo. Xét tỷ lệ sinh
viên trên giảng viên của mỗi trường đều cao hơn tỷ lệ qui chuẩn của Việt
Nam;
- Về trình độ học vấn, ngoài Đại học Quốc gia Lào, các trường đại học
khác không có giảng viên có chức danh GS, PGS; tỷ lệ giảng viên có trình
độ tiến sĩ còn thấp; một số trường đại học vẫn phải sử dụng giảng viên có
trình độ cao đẳng.
Thực trạng đánh giá giảng viên ở nước CHDCND Lào
Vấn đề đánh giá GVĐH là một trong những thách thức lớn nhất hiện nay
của các trường đại học Lào nhằm trực tiếp trả lời câu hỏi “làm thể nào để quản
lý chất lượng đào tạo của các trường?”. Mặt khác, đây cũng là một vấn đề nổi

18

18

8


cộm với nhiều tranh luận trong toàn hệ thống giáo dục Lào. Giáo dục đại học
nước Lào trong giải đoạn đổi mới đã đạt được những thành tựu nhất định về số
lượng và chất lượng nhiều các công trình nghiên cứu về các vấn đề đánh giá GV
mới được đưa vào các trường đại học. Tuy nhiền chất lượng giáo dục đại học
nói chung, hiện nay còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kính tế - xã
hội của đất nước . “Trình độ kiến thức kỹ năng thực hành phương pháp tư duy
khoa học...... của đa số sinh viên còn yếu, số đống sinh viên tốt nghiệp chưa có
khả năng thích ứng đối với những biền đổi nhanh chóng trong ngành nghề”
(Trích Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung Ương Đảng khóa
VIII). Thể kỷ 21 là thể kỷ của trí tuệ, vai trò của GDĐH là vô cùng to lớn. Nền

GDĐH nước Lào cần học tập những kính nghiệm của thể giới một cách có chọn
lọc để phát triển giáo dục đại học nhằm có những đóng góp quý báu cho việc
xây dựng phát triển kính tế xã hội đất nước. Trong các kinh nghiệm đó, có kinh
nghiệm về đánh giá giảng viên. Kinh nghiệm này khi áp dụng trong điều kiện
nước Lào cần từng bước có sự cải tiến cho phú hợp với điều kiện đánh giá và
kiểm định chất lượng của các trường đại học của nước Lào, đồng thời phù hợp
với xu thế chung của các nước trong khu vực và thể giới.
Trong giai đoạn vừa qua, Nhóm nghiên cứu chiến lược giáo dục đại học
tiến hành nghiên cứu đánh giá giảng viên, cán bộ quản lý và cán bộ chuyên
môn. Trong công trinh này các tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp đánh giá
như: phương pháp điều tra, phương pháp khảo sát, phỏng vấn sâu chuyên gia,
phương pháp điều tra bằng hỏi, phương pháp nghiên cứu lí luận, các văn bản,
nghị quyết của Đảng, nhà nước về đánh giá. Kết quả đánh giá của công trình
trên đã đước sử dụng trong công trình “Nghiên cứu chiến lược phát triển giáo
dục đại học và trung học chuyên nghiệp” các công trình đã giải quyết nhiều vấn
đề cơ bản, đặt nền tảng cơ sở phương pháp luận cho việc triển khai đánh giá
giảng viên một cách đại trà trong các trường đại học.
3.2.3. Về chất lượng:

19

19

8


Tổng số giảng viên là 1,252 người. Tỷ lệ sinh viên/giảng viên ở các trường
đại học là 23, cao đẳng là 27. Trình độ giảng viên: ở đại học, giảng viên có
trình độ GS. TS 07 người, PGS. TS. 50 người thạc sĩ 379 người và trình độ
khác 861 người. Đội ngũ giảng viên đại học trong những năm qua đã được bổ

sung nhiều giảng viên trẻ có trình độ Tiến sĩ và được đào tạo có chất lượng ở
nhiều trường đại học lớn trên thế giới, có nhiều công trình nghiên cứu và công
bố quốc tế. Số liệu thống kê của bảng 1 dưới đây phản ánh thực trạng đội ngũ giảng
viên của các trường đại học ở nước CHDNND Lào
Chất lượng chuyên môn của giáo viên đã có tiến bộ qua từng năm,.Trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ của giáo viên đã tiến bộ, tinh trạng “cơm chấm cơm”, thói quen cầm
tay chỉ việc từng bước đã được giải quyết. Yêu cầu dạy học theo chương trình mới là
động lực thúc đẩy việc nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ gỉáo viên. Giáo
viên đã quen dạy chương trình mởi, tiếp cận với đổi mới phương pháp dạy học ở ĐH.
3.2.4. Nhận xét chung.
Kết quả số liệu bảng 1 cho thấy, mặc dù đội ngũ giảng viên các trường đại
học của Lào đã có những phát triển đáng kể, tuy nhiên, xét theo qui chuẩn về
đội ngũ giảng viên của một số nước, chẳng hạn như Việt Nam, có thể nhận thấy
những bất cập của đội ngũ giảng viên các trường đại học Lào như sau
- Số lượng giảng viên chưa đáp ứng với qui mô đào tạo. Xét tỷ lệ sinh viên trên
giảng viên của mỗi trường đều cao hơn tỷ lệ qui chuẩn của Việt Nam;
- Về trình độ học vấn, ngoài Đại học Quốc gia Lào, các trường đại học khác
không có giảng viên có chức danh GS, PGS; tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ
còn thấp; một số trường đại học vẫn phải sử dụng giảng viên có trình độ cao đ
Nâng cao chất lượng GD – ĐTđể nâng cao dân trí và trình độ nghề nghiệp tích
hợp với yêu cầu của sự phát triển đất nước. Đổi mới cơ bản và toàn diện nền
giáo dục nước Lào theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. đổi

20

20

8



mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục, đào tạo pr tất cả các cấp,
bậc học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, tăng cương
tính thức tiễn, kỹ năng thực hành, năng lực tự học và công nghề hiện đại phủ
hợp với khả năng tiếp thu của học sinh, sinh viên và tiếp cận trình độ giáo dục ở
các nước trong khu vực và thế giới.
4.Các giải pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học
nước CHDCND Lào.
Theo tình thần nghị quyết của Trung Ương Đảng lần thứ IX về định hướng
phát triển KT- XH từ năm 2010 đến năm 2020, đã khẳng định mục tiêu đưa đất
nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Sự nghiệp phát
triển đất nước công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước đang đặt ra những yêu
cầu cấp bách đổi với mọi ngành. Quán triệt tinh thần đó, đặc biệt là những
NQTW3 khóa VII và NQTW5 khóa VIII cán bộ đảng viên chúng ta cần phải có
quyết tâm cao, suy nghĩ lớn, sâu sắc về một chiến lược phát triển GD –ĐT đến
năm 2020.
Với nên kính tế của nước Lào còn nhiều khó khăn, ngân sách nhà nước dánh
cho ngành GD còn ít nói chung và nói riêng dánh cho các trường ĐH còn thấp,
bản thân các trường đại học cũng chưa tạo ra được nguồn tài chính thông qua
nghiên cứu khoa học mà nước Lào mới định hướng nghiên cứu, chưa thể đòi
hỏi cao như các trường đại học ở nước CHXHCN Việt Nam. Đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực là một trong những hoạt đồng đào tạo nghề nghiệp giử vai
trở quan trọng trong sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực có hiệu quả về tri thức
lý thuyết trong việc các kỷ năng dạy học vào giáo dục thực tiến là không thể
thiếu được. Nguồn nhân lực của nước Lào vấn trong tình trạng vừa thừa vừa
thiếu. Làm thể nào để cải thiện được tình trạng này? Chính phủ đã ký chiến lược
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của nước Lào thời kỳ 2011- 2020. Bộ giáo
dục và thể thao chỉ đạo quy hoạch phát triển nhân lực theo từng giải đoạn để

21


21

8


đáp ừng như cầu sự phát triển kính tế -xã hội và hội nhập vào các nước trong
khu vực. Bên cảnh đó, trong giáo dục và đào tạo để đáp ứng như cầu nguồn
nhân lực chất lượng cao cho các trường ĐH trong công tác nghiên cứu khoa học
có vài trờ rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác
đào tạo các trường ĐH nước CHDCND Lào.
+ Có thể điểm các nét lớn về các giải pháp như sau:
-

Đổi mới công tác đào tạo giáo viên.

-

Đổi mới công tác bồi dưỡng đổi ngũ giáo viên

-

Đổi mới quy trình tuyển chọn giáo viên, giảng viên

-

Đổi mới chính sách đổi với giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý GD
Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng

giáo dục. Đủ về số lượng, hợp lý cơ cấu, đảm bảo về trình độ đào tạo và có

phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
Trước hết chúng ta phải khẳng định giáo viên là yếu tố hàng đầu quyết định chất
lượng giáo dục. Luật giáo dục nêu rõ "Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong
việc đảm bảo chất lượng giáo dục. Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn
luyện, nêu gương tốt cho người học. Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà
giáo, có chính sách bảo đảm các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để
nhà giáo thực hiện nhiệm vụ của mình…". Với nhận thức hoạt động trung tâm
của nhà trường là dạy học và giáo dục. Để phát triển toàn diện học sinh, thầy cô
giáo là lực lượng trực tiếp thực hiện chương trình giáo dục của cấp học. Chất
lượng giáo dục của nhà trường phần lớn do đội ngũ giáo viên quyết định. Do đó
việc bồi dưỡng, phát triển đội ngũ nhà giáo vừa là mục tiêu, vừa là động lực
phát triển nhà trường. Tăng cường xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục một cách toàn diện theo hướng chuẩn hóa là nhiệm vụ vừa đáp ứng
yêu cầu trước mắt, vừa mang tính chiến lược lâu dài nhằm thực hiện thành công

22

22

8


chiến lược phát triển giáo dục và chấn hưng đất nước. Chất lượng đội ngũ trong
mỗi nhà trường thể hiện ở nhiều mặt: Đủ về số lượng, hợp lý cơ cấu, đảm bảo
về trình độ đào tạo và có phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Thầy giáo, cô giáo phải là người hiểu sâu về kiến
thức chuyên ngành, biết rộng về các bộ môn khoa học liên quan và có vốn văn
hóa nói chung.Bước sang thế kỷ XXI nền giáo dục hiện đại có những xu hướng
đổi mới sâu sắc từ quan niệm về vị trí ,vai trò, chức năng của giáo dục đến nội
dung và phương pháp giáo dục...Sự đổi mới này tất yếu đặt ra những yêu cầu

xây dựng, xây dựng lại đội ngũ giáo viên nhằm đáp ứng sự đổi mới đó. Sự phát
triển của khoa học- công nghệ đòi hỏi mỗi thầy cô giáo phải luôn bồi dưỡng,
cập nhật thông tin, tri thức mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ .
Để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên , một trong những giải pháp quan
trọng đó là phải quan tâm đến vấn đề bồi dưỡng GV. Theo tôi, để công tác bồi
dưỡng đội ngũ GV trong những năm sắp tới đạt được những kết quả và đáp ứng
yêu câu chuẩn nghề nghiệp của giáo viên: Đối mới theo hướng hội nhập hệ
thống chương trình đào tạo phù hợp với chương trình đào tạo hiện đại trên thế
giới. Tăng cường đầu tư cho công tác xây dựng chương trình đào tạo phát triển
nhân lực có chất lượng cao hướng tới mục tiêu đạt tiêu chuẩn của các nước
trong khu vực. Tiếp cận các chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế bằng
việc cải cách các chương trình sẵn có sao cho phù hợp với đặc thù của nước
Lào. Qua đó, mở rộng các hình thức liên kết đào tạo quốc tế tại Lào, để vừa
giảm gánh nặng kinh phí, vừa đạt hiệu quả trong điều kiện thực tế. Đồng thời, tổ
chức các lớp chuyên đề, mời các chuyên gia nước ngoài tới giảng bài cho các
nhà khoa học của nước Lào.
Mục tiêu đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vự GD đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới là đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong GD
có trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị và bản lĩnh khoa học đáp ứng được
nhu cầu của thực tiễn đổi mới với tiêu chuẩn quốc tế.

23

23

8


Muốn đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có hiệu quả, bài toán đầu tiên
đặt ra là chất lượng. Đào tạo và phát triển nhân lực trong lĩnh vực GD có vai trò

quyết định đến trình độ chuyên môn, năng lực khoa học , yếu tố quan trọng nhất
tạo nên chất lượng nhân lực. Tuy nhiên việc đào tạo và phát triển nhân lực phải
theo một quy trình nhất định thì các giải pháp mới mang tính đồng bộ. Nếu chúng
ta yếu ở khâu nào thì tập trung giải pháp ngay ở khâu đó tạo nên sự thống nhất và
toàn diện trong đào tạo nhân lực. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là quá
trình diễn ra thường xuyên. Đánh giá hiệu quả của quá trình đào tạo là khâu cuối
cùng của quy trình nhưng lại là cơ sở để xác định nhu cầu đào tạo cho giai đoạn
tiếp theo.Trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phải có dự báo về kế hoạch
chiến lược phát triển KT-XH cũng như dự báo về đào tạo phát triển nhân lực có
đủ khả năng trình độ chuyên môn và nghề nghiệp.Dự báo trong phương hướng
đào tạo nhân lực từ nay đến năm 2015 và 2020
Một trong những nội dung quan trọng trong văn kiện đại hội Đảng NDCM
Lào lần thứ IX là tập trung nhấn mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Dự báo đến năm 2015 tổng
số qua đào tạo nước Lào là 54,676 người,nũ 19,809 người vào năm 2010. Giai
đoạn 2015- 2020 tổng số qua đào tạo là 96,6658 người,nũ 40,826 người( tăng
23,7%) .Vấn đề này đòi hỏi sự liên kết chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo và doanh
nghiệp, cơ quan sử dụng nhân lực cho sự phát triển kinh tế- xã hội cuả nước Lào
trong giai đoạn này. Để góp phần đào tạo nhân lực cho các ngành nghề đáp ứng
nhu cầu xã hội hiện nay 04 trường đại học, cao đẳng Lào đã chuyển đổi, đa
dạng hóa loại hình đào tạo như đại học Quốc Gia, đại học vùng, nhiều trường
ĐHchuyển sang đào tạo đa ngành,đa lĩnh vực: ĐHSouphanouvong, ĐHQG,
ĐHSavannakhet ,ĐH Champassack các CĐSP các tỉnh/ thành phố đủ điều kiện
được nâng cấp thành trường ĐH và có nhiệm vụ đào tạo nhân lực cho tỉnh, cho
vùng miền.

24

24


8


KẾT LUẬN
Nguồn nhân lực của nước Lào vẫn trong tình trạng vừa thừa vừa thiếu.
Làm thế nào để cải thiện được tình trạng nyà? Theo chúng tôi đã đến lúc phải
nhìn vào thực tế công tác tuyển sinh và đào tạo trong những năm qua. Rất mừng
vì Thủ tướng Chính phủ đã ký Chiến lược phát triển nguồn nhân lực với nước
CHXHCN Việt Nam thời kỳ 2011-2020, Ban chỉ đạo quốc gia về đào tạo theo
nhu cầu xã hội đang tập trung hoàn thiện để trình thủ tướng ký Chỉ thị về đẩy
mạnh đào tạo theo nhu cầu xã hội và Chính phủ đang khẩn trương hoàn thiện để
trình Thủ tướng ký Quy hoạch phát triển nhân lực trong giải đoạn 2011-2020.
1. Các nghiên cứu về những vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong
quản lý giáo dục phải tiếp cận theo xu hướng phát triển GD ở nước ngoài và
định hướng phát triển giáo dục xã hội chủ nghĩa để nằm nâng cao chất lượng
giáo dục của nước Lào vào hệ thống tiêu chuẩn chất lượng, có thể hội nhập vào
tiêu chuẩn trong khu vực và thể giới.
2. Đào tạo nguồn nhân lực của đất nước là trờ thành người tốt, có chất lượng,
có khả năng kiến thức, có nghề nghiệp,có chuẩn mực đào đức, thu chi đương
nhiên, sức khỏe tốt, sinh sống dễ dạng – trong suốt, biết bảo vệ văn hóa tốt
đẹp,có tư tưởng – chính trị và tình thần yêu nước.
3. Đề tai luận án là tiếp cận với các kết quả công trình nghiên cứu, nghiên cứu
các tài liệu, các văn bản nghị quyết của Đảng, nhà nước và Bộ giáo dục và thể
thao nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào.

25

25

8



×