Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

QUẢN lý HOẠT ĐỘNG GIÁO dục NGOÀI GIỜ lên lớp ở các TRƯỜNG TIỂU học HUYỆN NINH GIANG – TỈNH hải DƯƠNG đáp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (858.18 KB, 124 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X, phần nói về giáo dục đã chỉ rõ “Phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao; đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo; chấn hưng
nền giáo dục Việt Nam làm cho giáo dục cùng với khoa học và công nghệ thực sự
là quốc sách hàng đầu”. [1]
Giáo dục tiểu học nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân là nền tảng đầu tiên rất
quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cho người học. Vì vậy,
chất lượng giảng dạy ở cấp tiểu học là nền tảng cho chất lượng giảng dạy ở bậc phổ
thông và đại học. Muốn đạt được những mục tiêu giáo dục đã đề ra trong văn kiện
Đại hội Đảng lần thứ X thì việc đảm bảo chất lượng giảng dạy ở cấp tiểu học là yếu tố
góp phần quan trọng. Chúng ta đã biết quá trình giáo dục hiểu theo nghĩa hẹp và quá
trình dạy học là những bộ phận của quá trình sư phạm tổng thể (giáo dục hiểu
theo nghĩa rộng). Trong quá trình dạy học, ngoài việc truyền thụ cho học sinh
những tri thức khoa học một cách có hệ thống, còn phải hướng tới việc giáo dục
toàn diện, góp phần hình thành nhân cách cho các em. Chính vì vậy, trong quá trình
giáo dục hiểu theo nghĩa rộng, ngoài hoạt động trí dục, học sinh còn được giáo dục
về tư tưởng chính trị, đạo đức, thể chất, lao động. Ngoài các giờ học chính khóa trên
lớp, học sinh còn được giáo dục thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
(HĐGDNGLL) nhằm góp phần hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho các em,
đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực vừa hồng, vừa chuyên để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh đó, giáo dục ngày càng có vai trò và
nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính vì vậy mà mục tiêu, nội dung,
1


phương pháp… của giáo dục Việt Nam cũng phải được xem xét lại một cách nghiêm
túc để đáp ứng các yêu cầu và nhiệm vụ mới.


Theo quan điểm đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay, hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp được chú trọng một cách đặc biệt nhằm phát huy tối đa năng lực
của người học. Không ai có thể phủ nhận vai trò quan trọng không thể thiếu
của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Thông qua hoạt động này, học sinh được
rèn luyện những kỹ năng, kỹ xảo, củng cố và tăng cường những kiến thức đã học
trên lớp. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt là đối với học sinh tiểu học vì
đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học là khả năng tập trung trong thời gian
dài kém, khả năng tư duy trừu tượng còn hạn chế, các em thích vận động, thích các
hoạt động vui chơi, giải trí. Do đó, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp dành cho
học sinh lứa tuổi tiểu học là rất cần thiết nhằm bổ trợ thêm cho các bài học trên lớp.
Tuy nhiên, hiện nay việc phân phối chương trình ở cấp tiểu học chưa bố trí tiết
dành riêng cho hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, nội dung hoạt động này chưa
được xây dựng chặt chẽ, giáo viên chưa được tập huấn, rèn luyện về kỹ năng,
phương pháp tổ chức hoạt động... gây nhiều khó khăn trong việc thực hiện của giáo
viên và công tác quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp đáp ứng yêu cầu
học 2 buổi/ngày.
Công tác quản lý có ý nghĩa quyết định, góp phần quan trọng vào chất lượng
mọi hoạt động của nhà trường trong đó có hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp. Do đó, để đạt được mục tiêu của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, cần
tập trung nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động này đáp ứng yêu cầu học 2
buổi/ngày. Tuy nhiên, thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp cấp tiểu học tại huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương hiện nay ra sao chưa
được nghiên cứu, điều đó đã thúc đẩy tôi nghiên cứu đề tài: “Quản lý hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các trường Tiểu học huyện Ninh Giang,
2


tỉnh Hải Dương đáp ứng yêu cầu học 2 buổi/ ngày”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp khả thi về quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên

lớp ở các trường tiểu học huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương đáp ứng yêu cầu học 2
buổi/ngày và góp phần nâng cao chất lượng dạy học của nhà trường.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu

Công tác quản lý dạy học và giáo dục tại trường tiểu học học 2 buổi/ngày.

3.2. Đối tượng nghiên cứu

Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp tại các trường tiểu

học huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
4. Giả thuyết khoa học
Việc quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cấp tiểu học tại các
trường tiểu học huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương có những thành tựu trên các
mặt như công tác xây dựng kế hoạch quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp; công tác tổ chức, phân công, phân nhiệm hợp lí. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại ở
các mặt như công tác chỉ đạo thực hiện chưa sâu sát, thường xuyên; thiếu sự kiểm
tra, đánh giá của ban giám hiệu. Nếu nghiên cứu đề xuất được các biện pháp quản lý
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp phù hợp và có tính khả thi phù hợp với yêu cầu
của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp thì sẽ góp phần nâng cao kết quả hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp trong các trường tiểu học của địa phương.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu lý luận về hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và quản lý hoạt
động này ở nhà trường tiểu học.

3


5.2. Khảo sát thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp tại

các trường tiểu học huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương đáp ứng yêu cầu học 2
buổi/ngày.
5.3. Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các
trường tiểu học của địa phương đáp ứng yêu cầu học 2 buổi/ngày.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn nội dung

Nghiên cứu lý luận và thực trạng về hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp

và quản lý hoạt động này ở trường tiểu học học 2 buổi/ngày.
6.2. Giới hạn địa bàn

Các trường Tiểu học huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Bao gồm 9 trường

Tiểu học: Tiểu học thị trấn Ninh Giang, Tiểu học Đồng Tâm, Tiểu học Hồng Dụ,
Tiểu học Hưng Thái, Tiểu học Hồng Thái, Tiểu học Hồng Phong, Tiểu học Nghĩa
An, Tiểu học Hoàng Hanh và Tiểu học Kiến Quốc.
6.3. Giới hạn khách thể nghiên cứu

Các cán bộ quản lý, các Tổng phụ trách Đội và học sinh các trường Tiểu học

học 2 buổi/ngày.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết

- Nghiên cứu các văn bản, nghị quyết của Đảng, các văn bản của nhà nước,
các chỉ thị của Bộ giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Dương về
công tác quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
- Nghiên cứu lý luận về về hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và quản lý
hoạt động này ở trường tiểu học học 2 buổi/ngày.

- Các tài liệu có liên quan đến luận văn.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

- Phương pháp quan sát.

4


- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi tìm hiểu thực trạng hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp và quản lý hoạt động này ở trường tiểu học học 2 buổi/ngày.
7.3. Nhóm phương pháp bổ trợ

- Sử dụng toán thống kê để phân tích và xử lý các kết quả khảo sát, nghiên cứu.

8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở

trường Tiểu học đáp ứng yêu cầu học 2 buổi/ngày.
Chương 2. Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của ban

giám hiệu các trường Tiểu học huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Chương 3. Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt

động giáo dục ngoài giờ lên lớp tại các trường Tiểu học huyện Ninh Giang, tỉnh
Hải Dương đáp ứng yêu cầu học 2 buổi/ngày.

5



CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỌC 2 BUỔI/NGÀY
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài

Lịch sử phát triển của giáo dục có thể được chia ra những giai đoạn chủ
yếu như: giáo dục trong xã hội cộng sản nguyên thủy, giáo dục dưới chế độ chiếm
hữu nô lệ, giáo dục trong xã hội phong kiến và thời kì văn hóa phục hưng, giáo
dục thời kì tích lũy tư bản chủ nghĩa, giáo dục dưới thời tư bản chủ nghĩa, giáo dục
thời kì cận hiện đại và giáo dục hiện đại trong vài thập kỉ gần đây. Trong từng giai
đoạn đều xuất hiện những tư tưởng giáo dục tiêu biểu của các nhà giáo dục. Khái
niệm HĐGDNGLL chỉ xuất hiện rõ rệt nhất trong giáo dục hiện đại, tuy nhiên trong
những giai đoạn lịch sử trước đó, các nhà giáo dục vẫn có đề cập đến lĩnh vực này
trong tư tưởng giáo dục của mình.
Democrite (460 - 370 trước CN), một nhà giáo dục thời Hi Lạp cổ đại, rất coi
trọng việc giáo dục lao động, là người đầu tiên trong lịch sử đưa ra nguyên tắc
“kết hợp giáo dục với lao động và cuộc sống sinh hoạt của trẻ em.” [31]
Khổng Tử (551 - 479 trước CN), một nhà giáo dục phong kiến tiêu biểu của
Trung Hoa cổ đại, luôn dạy học trò mình một điều là ‘‘Học gì phải thực hành ngay
điều ấy, phải củng cố ngay tri thức đã học không chỉ bằng cách ôn luyện trong sách
vở mà phải bằng việc làm.” [31]
Pétxtalôdi (1746 - 1827), đã bỏ tiền túi để dựng ra một trang trại có tên là
“Trại Mới” nhằm thu hút trẻ em con nhà nghèo vào để giáo dục. Ở đây, giáo dục
được thực hiện theo phương thức vừa giáo dục, vừa lao động. Ông đánh giá rất cao
6



vai trò của lao động trong việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Theo
Pétxtalôdi thì ‘‘Việc rèn luyện thân thể cho trẻ em được tiến hành thường xuyên
chẳng những làm phát triển thể chất cho trẻ mà còn phát triển nhân cách và là một
bước quan trọng để chuẩn bị cho trẻ vào cuộc sống lao động, hình thành kỹ năng lao
động cần thiết sau này”. Ông đánh giá cao ý nghĩa các bài tập quân sự, các trò chơi
trong việc giáo dục thể chất cho trẻ em. Theo ông, thể dục không được tách rời đức
dục và trí dục. Do ảnh hưởng quan điểm này của ông mà các trường học đương thời
ở Thụy Sĩ rất coi trọng việc rèn luyện quân sự phối hợp với các hoạt động thể dục,
thể thao và các chuyến hành quân du lịch, tham quan. [31]
Giáo dục tư bản thời kì đế quốc chủ nghĩa ở Âu - Mỹ đã xuất hiện “Nhà trường
mới”. Đây là loại trường ra đời vào cuối thế kỉ XIX ở Anh sau đó phát triển nhanh
sang các nước khác như: Mỹ, Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ… và trở thành một phong trào
rộng rãi trong cái gọi là “Hội liên hiệp quốc tế các nhà trường mới”. Đặc điểm nổi bật
của Nhà trường mới là trẻ em được tổ chức cho thực hành lao động ít nhất 1 giờ 30
phút mỗi ngày, coi trọng hoạt động thể dục thể thao, trẻ được bơi lội, chạy nhảy, đi xe
đạp, đi bộ, cắm trại… [31]
John Dewey (1859 - 1952) cho rằng ‘‘Cần phải cho trẻ lao động với các hình
thức đa dạng của cuộc sống và được tiến hành ở mọi nơi như ở vườn trường,
xưởng trường, dưới nhà bếp, ngoài công xưởng… qua đó trẻ phải học cách tự thiết
kế, học cách tính toán, tìm tỉ lệ, tính giá trị thành phẩm, vật liệu, sử dụng các ngôn từ
chuyên dùng, học cách trang trí nội thất.” Ý định của ông là xóa bỏ ranh giới giữa nhà
trường với đời sống. [31]
Quan điểm giáo dục của Mác và Ăngghen cũng đã vạch ra những nguyên
tắc cơ bản để đào tạo, giáo dục những con người phát triển toàn diện của xã hội
tương lai. Đó là sự kết hợp một cách hợp lí giữa giáo dục đạo đức, thể dục, trí dục
và lao động sản xuất, đó là việc kết hợp giữa lao động sản xuất và thực hiện giáo
7


dục bách khoa (giáo dục kỹ thuật tổng hợp) trong việc tổ chức cho trẻ em tham gia

các hoạt động thực tiễn, hoạt động xã hội. [31]
Lênin cũng cho rằng ‘‘Trong giáo dục con người, muốn trở thành người có tri
thức, có khả năng xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể tin vào việc dạy dỗ, giáo dục
và đào tạo nếu như chỉ đóng khung trong bốn bức tường của nhà trường, sự học tập
tách khỏi cuộc sống và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của dân tộc”. [31]
Theo A.S.Makarenkô (1888 - 1939) một nhà giáo dục Xô Viết lỗi lạc thì ‘‘Cái
logic của quá trình sư phạm còn là quá trình tổ chức hợp lí hoạt động của học sinh
tham gia vào cách mạng xã hội, lao động sản xuất, các hoạt động tập thể như vui
chơi, giải trí, thể dục thể thao, tham quan du lịch, văn hóa nghệ thuật”. [31]
1.1.2. Nghiên cứu ở trong nước

Ở trong nước, từ trước cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba (1979), hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp chưa được cụ thể và có tên gọi như ngày nay. Tuy nhiên,
trong thư gửi học sinh nhân dịp khai trường năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh có
viết: “ Nhưng các em cũng nên ngoài giờ học ở trường tham gia vào các hội cứu
quốc để tập luyện thêm cho quen với đời sống chiến sĩ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ
nhàng trong cuộc phòng thủ đất nước”. [21]
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất (1950) đã vạch rõ phương châm giáo dục là:
Học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. Về xây dựng chương trình
có đưa thêm một số môn học và một số hoạt động mới như: thời sự chính sách, giáo
dục công dân, tăng gia sản xuất ở tất cả các lớp (mỗi tuần 3 giờ). [13]
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai (1956) đã nêu rõ mục tiêu của cuộc cải cách giáo
dục là “Đào tạo, bồi dưỡng thế hệ thanh niên và thiếu nhi trở thành những người phát
triển về mọi mặt, những công dân tốt, trung thành với Tổ quốc, những người lao động tốt,
cán bộ tốt của nước nhà, có tài có đức để phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta…”. Phương châm của giáo dục là lý luận liên hệ với
8


thực tiễn, gắn chặt nhà trường với đời sống xã hội. Cuộc vận động xây dựng nhà trường

xã hội chủ nghĩa năm 1958 có yếu tố đặc trưng là lao động sản xuất phải trở thành yếu tố
cơ bản trong mục đích, phương châm, phương pháp giáo dục của nhà trường.[13]
Trong dịp hè, các trường tổ chức cho học sinh tham gia lao động sản xuất, học sinh
sôi nổi tỏa về các nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã, đi về các bản làng, thôn xóm, tham
gia lao động trong các công trường, các công trình thủy lợi, cầu đường…
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba (1979) có nêu mục tiêu cơ bản của giáo dục là
thực hiện tốt hơn nữa nguyên lý giáo dục: Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với
lao động sản xuất, với đào tạo nghề và nghiên cứu, thực nghiệm khoa học. [13]
Sau cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba thì tên gọi hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp mới chính thức xuất hiện và có nhiều nghiên cứu về vấn đề này như:
Năm 1979, Viện Khoa học giáo dục thực hiện đề tài dài hạn nghiên cứu về “Các
hoạt động ngoài giờ học trên lớp và sự hình thành nhân cách của học sinh”. Sau năm
1979, các cán bộ nghiên cứu của Viện Khoa học giáo dục gồm Đặng Thúy Anh,
Nguyễn Dục Quang, Nguyễn Thị Kỉ, Nguyễn Thanh Bình đã nghiên cứu thực
nghiệm cải tiến nội dung, phương pháp tổ chức nhằm nâng cao chất lượng
GDNGLL. Sau đó, các tác giả như: Nguyễn Lê Đắc, Hoàng Mạnh Phú, Lê Trung
Trấn, Nguyễn Dục Quang, Hà Nhật Thăng,… đã thực hiện một số nghiên cứu
lý luận nhằm xây dựng cơ sở lý luận về HĐGDNGLL.
Ngoài ra, HĐGDNGLL còn được các tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu như:
Huỳnh Thị Thu Hằng với luận án tiến sỹ “Giáo dục môi trường cho học sinh
Tiểu học qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp” đã cho thấy giáo dục môi trường
qua các HĐGDNGLL có ý nghĩa quan trọng. Bởi việc tổ chức HĐGDNGLL có hiệu
quả sẽ phát huy vai trò chủ thể trong quá trình hình thành nhân cách của mỗi học
sinh, đáp ứng nhu cầu xã hội trong xu thế hội nhập, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện. Và việc tổ chức HĐGDNGLL để giáo dục môi trường là con
9


đường quan trọng để thực hiện giáo dục về môi trường, giáo dục trong môi trường và
giáo dục vì môi trường.

Hoàng Thị Minh Hương với nghiên cứu “Các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp của hiệu trưởng trường Tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng” đã
khẳng định HĐGDNGLL với nội dung, hình thức phong phú sẽ là phương thức để
thực hiện nguyên lý giáo dục “học đi đôi với hành”. Nghiên cứu đã chỉ ra một số biện
pháp như: thành lập ban chỉ đạo, kế hoạch hóa HĐGDNGLL, tăng cường kiểm tra
đánh giá … sẽ góp phần làm cho công tác quản lý chỉ đạo HĐGDNGLL của Hiệu
trưởng được hoàn thiện hơn.
Hiện nay, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp tại trường tiểu học đã được quy
định cụ thể tại Điều lệ trường tiểu học ban hành kèm theo Quyết định số 51/2007/QĐ BGDĐT ngày 31 tháng 8 năm 2007 của Bộ GD - ĐT. Điều 26 của Điều lệ trường tiểu
học đã chỉ rõ: “Hoạt động giáo dục bao gồm hoạt động trên lớp và hoạt động ngoài giờ
lên lớp nhằm rèn luyện đạo đức, phát triển năng lực, bồi dưỡng năng khiếu, giúp đỡ học
sinh yếu kém phù hợp đặc điểm tâm lý, sinh lý lứa tuổi học sinh tiểu học. Hoạt động giáo
dục trên lớp được tiến hành thông qua việc dạy học các môn học bắt buộc và tự chọn.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp bao gồm hoạt động ngoại khoá, hoạt
động vui chơi, thể dục thể thao, tham quan du lịch, giao lưu văn hoá; hoạt động bảo vệ
môi trường; lao động công ích và các hoạt động xã hội khác”.
Các công trình và luận văn trên chỉ nghiên cứu tập trung giải quyết những vấn
đề thực tiễn cụ thể ở một số địa bàn nghiên cứu khác nhau, đối tượng và khu vực cũng
khác nhau về HĐGDNGLL. Hiện nay, qua tìm hiểu, tôi nhận thấy chưa có tác giả nào
nghiên cứu về thực trạng quản lý, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn về hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp ở các trường tiểu học huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Chính vì vậy
việc lựa chọn đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các trường tiểu
học huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương đáp ứng yêu cầu học 2 buổi/ngày” là cần thiết
và phù hợp với công tác quản lý giáo dục trong tình hình thực tế hiện nay của huyện Ninh
Giang, tỉnh Hải Dương.

10


1.2. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1. Quản lý

Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng thì: ‘‘Quản lý là tổ chức, điều khiển hoạt
động của một đơn vị, cơ quan”. [35]
Tác giả H.Koontz, người sáng lập lý luận quản lý hiện đại, đã khẳng định:
“Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động cá
nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm (tổ chức). Mục tiêu của quản lý là hình
thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của
nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất”. [9]
Theo tác giả F.W.Taylor (1856-1915), người sáng lập thuyết quản lý theo
khoa học, thì: “Quản lý là biết chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó
thấy rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”. [9]
Tác giả Henry Fayol (1845-1925), cha đẻ của thuyết quản lý hành chính, đã viết:
“Quản lý hành chính là dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức điều khiển, phối hợp và kiểm tra”.
[9]
C.Mác đã từng khẳng định rằng: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao
động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một
sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng
chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động
của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển
lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”. [9]
Ngày nay thuật ngữ quản lý đã trở nên phổ biến nhưng chưa có một định nghĩa
thống nhất, có người cho quản lý là hoạt động nhằm đảm bảo sự hoàn thành công việc
thông qua sự nỗ lực của người khác, cũng có người cho quản lý là một hoạt động thiết
yếu nhằm đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân để đạt được mục đích của nhóm. Tuy
nhiên, nếu hiểu theo nghĩa rộng quản lý là hoạt động có mục đích của con người thì nhiều
người cho rằng: ‘‘Quản lý chính là các hoạt động do một hoặc nhiều người điều phối
11



hành động của những người khác nhằm thu được kết quả mong muốn”. [9]
Từ những ý chung của các định nghĩa và xét quản lý với tư cách là một hành
động, có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của
chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.
1.2.2. Quản lý giáo dục

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang thì: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là
hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào
tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội”. [23]
Theo tác giả Trần Kiểm thì: “Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những
tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống) của chủ thể quản
lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các
lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu
quả mục tiêu giáo dục của nhà trường”. [19]
Quản lý giáo dục là việc đảm bảo sự hoạt động của tổ chức trong điều kiện
có sự biến đổi liên tục của hệ thống giáo dục và môi trường, là chuyển hệ thống đến
trạng thái mới thích ứng với hoàn cảnh mới. [11]
Quản lý giáo dục là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ
thể quản lý (người quản lý hay tổ chức quản lý) lên đối tượng giáo dục và khách thể
quản lý giáo dục về các mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế,…bằng một hệ
thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp, các biện pháp
cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng. [12]
Quản lý giáo dục bao giờ cũng phải được định hướng tới những mục đích,
mục tiêu nhất định. Người quản lý phải trả lời được câu hỏi: Quản lý để làm gì? Quản
lý để đạt đến đích nào? Đích đến của từng chặng đường là mục tiêu. Đích ở xa hoặc
cuối cùng gọi là mục đích. Mục đích tổng quát của sự nghiệp giáo dục chính là mục
đích tổng quát nhất của quản lý giáo dục. Quản lý giáo dục trong xã hội ta hiện nay
12



là hướng tới việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài. Ở cấp độ nhân cách, quản lý giáo dục là quản lý sự hình thành và phát triển
nhân cách. [12]
Tóm lại, quản lý giáo dục có thể hiểu là sự tác động có ý thức
của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm đưa
hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt được kết quả mong
muốn (mục tiêu) một cách có hiệu quả nhất.
1.2.3. Quản lý nhà trường

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang thì ‘‘Quản lý nhà trường là tập hợp những
tác động tối ưu của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và cán bộ khác,
nhằm tận dụng các nguồn dự trữ do Nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp và
lao động xây dựng vốn tự có. Hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà
trường, mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ thực hiện có chất lượng mục
tiêu và kế hoạch đào tạo đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới”. [23]
Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường
lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình đưa nhà trường vận
hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối
với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh”. [11]
Quản lý nhà trường là những tác động quản lý của các cơ quan quản lý giáo dục cấp
trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt động giảng dạy, học tập của nhà trường. [28]
Quản lý nhà trường là một hoạt động được thực hiện trên cơ sở những quy luật
chung của quản lý, đồng thời cũng có những nét đặc thù riêng. Quản lý nhà trường
khác với các loại quản lý xã hội được quy định bởi bản chất hoạt động sư phạm
của người giáo viên, bản chất của quá trình dạy học, giáo dục trong đó mọi thành
viên của nhà trường vừa là đối tượng quản lý vừa là chủ thể hoạt động của bản thân
mình. Sản phẩm tạo ra của nhà trường là nhân cách của người học được hình thành
13



trong quá trình học tập, tu dưỡng và rèn luyện theo yêu cầu của xã hội và được xã
hội thừa nhận. [28]
Từ các định nghĩa trên, ta có thể hiểu: Quản lý, lãnh đạo nhà trường là
quản lý, lãnh đạo hoạt động của giáo viên, cán bộ, nhân viên và
học sinh trong trường nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đã đề ra.
Từ quan điểm của các nhà nghiên cứu hoạt động QLGD cho thấy, QL nhà
trường là HĐ của các cơ quan QL nhằm tập hợp và tổ chức các HĐ của GV, HS và
các LLGD khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực GD để nâng cao chất
lượng GD và đào tạo trong nhà trường.
Có nhiều cấp QL trường học, cấp cao nhất là Bộ GD&ĐT (QL nhà trường ở
tầm vĩ mô) và 2 cấp trung gian QL trường học là Sở GD&ĐT (trụ sở tại các tỉnh) và
phòng Giáo dục (trụ sở tại các huyện), cấp quản lý quan trọng, trực tiếp của hoạt
động QLGD là cơ quan QL trong các nhà trường.
Lãnh đạo Bộ GD&ĐT
(Nơi QL nhà trường bằng các biện pháp vĩ mô)
Lãnh đạo Sở và Phòng GD&ĐT
(QL nhà trường cấp địa phương)
Hiệu trưởng
(QL cấp cơ sở)

Việc QLGD trên cơ sở QL nhà trường là một hướng cải tiến QLGD theo
nguyên tắc tăng cường phân cấp QL nhà trường nhằm phát huy tối đa năng lực, trách
nhiệm và quyền hạn của các chủ thể QL trực tiếp thực hiện mục tiêu GD&ĐT mà
XH đang yêu cầu. Muốn đạt được hiệu quả công tác GD, người QL phải xem xét đến
những điều kiện đặc thù của nhà trường, chú trọng đến cải tiến công tác QLGD.

14


1.2.4. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp


Tài liệu đào tạo thuộc Dự án Phát triển giáo viên tiểu học nêu rõ:
"HĐGDNGLL là hoạt động được tổ chức ngoài giờ học các môn học.
HĐGDNGLL là hoạt động nối tiếp và thống nhất hữu cơ với hoạt động giáo dục
trong giờ học trên lớp. Nó là cầu nối giữa công tác giảng dạy trên lớp với công tác
giáo dục học sinh ngoài lớp”. [7]
Tài liệu Bồi dưỡng giáo viên cốt cán trường trung học phổ thông xác định:
‘‘HĐGDNGLL là những hoạt động có mục đích giáo dục, tổ chức có kế hoạch, có
chương trình, nội dung, phương pháp và phương tiện phù hợp, được thực hiện với vai
trò chủ đạo của giáo viên. Đó là sự tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp, là con đường
gắn lý luận với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức với hành động, góp
phần hình thành tình cảm, niềm tin đúng đắn ở học sinh. HĐGDNGLL là con đường
phát triển toàn diện nhân cách, là điều kiện tốt nhất để học sinh phát huy vai trò chủ thể,
tính tích cực, chủ động trong quá trình học tập, rèn luyện. Nó vừa củng cố, bổ sung,
mở rộng kiến thức đã học, vừa phát triển các kỹ năng cơ bản, phù hợp với yêu cầu, mục
tiêu giáo dục của nhà trường như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thích ứng, kỹ năng sống
chung, kỹ năng tổ chức cuộc sống và các kỹ năng khác…”.[24]
Tác giả T.A.Ilina cho rằng: “Công tác giáo dục học sinh ngoài giờ học thường
được gọi là công tác giáo dục ngoại khóa. Công tác này bổ sung và làm sâu hơn công
tác giáo dục nội khóa, trước tiên là phương tiện để phát hiện đầy đủ tài năng và năng
lực của trẻ em, làm thức tỉnh hứng thú và thiên hướng của học sinh đối với một hoạt
động nào đó, đó là một hình thức tổ chức giải trí của học sinh và là cơ sở để tổ chức
việc thực tập về hành vi đạo đức để xây dựng kinh nghiệm của hành vi này”. [18]
Tác giả Đặng Vũ Hoạt viết: “HĐGDNGLL là việc tổ chức giáo dục thông
qua hoạt động thực tiễn của học sinh về khoa học-kỹ thuật, lao động công ích, hoạt
động xã hội, hoạt động nhân đạo, văn hóa, văn nghệ, thẩm mỹ, thể dục thể thao, vui
15


chơi, giải trí… để giúp các em hình thành và phát triển nhân cách (đạo đức, năng

lực, sở trường,…). [14]
Từ các định nghĩa nêu trên có thể đưa ra một điểm chung:
HĐGDNGLL là hoạt động giáo dục được tổ chức ngoài thời gian học trên lớp.
Đây là một trong hai hoạt động giáo dục cơ bản được thực hiện một cách có tổ chức
có mục đích theo kế hoạch của nhà trường, hoạt động tiếp nối và thống nhất hữu cơ với
hoạt động học tập trên lớp, nhằm góp phần hình thành và phát triển nhân cách học sinh
theo mục tiêu đào tạo, đáp ứng những yêu cầu đa dạng của xã hội đối với thế hệ trẻ.
HĐGDNGLL do nhà trường tổ chức và quản lý với sự tham gia của các lực
lượng xã hội. HĐGDNGLL được tiến hành tiếp nối hoặc xen kẽ hoạt động dạy - học
trong phạm vi nhà trường hoặc trong cộng đồng. Hoạt động này diễn ra trong suốt
năm học và cả thời gian nghỉ hè để khép kín quá trình giáo dục, làm cho quá trình
giáo dục được thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc.
1.2.5. Quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp

Quản lý HĐGDNGLL bao gồm các công việc: lập kế hoạch chi tiết cho hoạt
động, chuẩn bị cho hoạt động của giáo viên và học sinh; tổ chức hoạt động theo kế
hoạch đã vạch ra; tổ chức rút kinh nghiệm, đánh giá quá trình và kết quả hoạt động.
Như vậy, quản lý HĐGDNGLL là tiến trình hoạch định kế hoạch,
tổ chức, điều khiển và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch HĐGDNGLL
nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Theo quan điểm của tôi, quản lý HĐGDNGLL là hoạt động mà nhà quản lý
vừa phải kiểm soát được mục tiêu, vừa có các biện pháp quản lý kế hoạch tổ chức các
hoạt động, vừa nắm chắc các điều kiện cần thiết trong quá trình tổ chức, lại vừa
hướng dẫn cán bộ, giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục thực hiện sao cho có
hiệu quả hoạt động này.

16


1.2.6. Học 2 buổi/ngày ở trường tiểu học


1.2.6.1. Khái niệm:
Dạy học 2 buổi/ngày là dạy học 10 buổi/tuần (mỗi ngày dạy hai buổi: sángchiều) từ thứ hai đến thứ sáu hằng tuần, cũng có thể dạy học 9 buổi/tuần (một buổi
dành cho sinh hoạt chuyên môn và các hoạt động khác), nội dung dạy học gồm toàn
bộ nội dung của dạy học 1 buổi/ngày và thêm một số nội dung: thực hành kiến thức
đã học; phụ đạo học sinh yếu, bồi dưỡng học sinh năng khiếu; dạy học các môn tự
chọn; tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp;…
1.2.6.2. Mục tiêu:
Việc dạy học 2 buổi/ngày ở trường tiểu học nhằm thực hiện mục tiêu giáo
dục toàn diện, đảm bảo chất lượng giáo dục Tiểu học, đáp ứng nhu cầu chăm sóc
giáo dục trẻ của gia đình và xã hội, góp phần giải quyết vấn đề quá tải về nội dung
chương trình và việc dạy thêm, học thêm tràn lan ở tiểu học hiện nay.
Việc tổ chức dạy học 2 buổi/ngày nhằm hiện thực hoá Kế hoạch Giáo dục
cho mọi người đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, theo đó đến năm 2015,
học sinh tiểu học được học cả ngày đạt tỉ lệ 100%.
1.2.6.3. Yêu cầu:
Việc dạy học 2 buổi/ngày được tổ chức ở những nơi có đủ các điều kiện sau:
1) Học sinh có nhu cầu và có sự tự nguyện của cha mẹ học sinh, được sự đồng ý của
các cấp quản lí có thẩm quyền (UBND xã, phường, thị trấn và Phòng GD&ĐT).
2) Đảm bảo đủ phòng học (tỉ lệ tối thiểu 0,9 phòng/lớp), có sân chơi, bãi tập,
các công trình vệ sinh, đảm bảo môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn, hấp dẫn học
sinh học tập ở trường cả ngày.
3) Có đội ngũ giáo viên đủ về số lượng và đồng bộ về cơ cấu. Nơi nào
không có giáo viên dạy các môn Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể dục và các môn tự
chọn, có thể hợp đồng giáo viên.
17


Các trường tham gia Chương trình Đảm bảo chất lượng giáo dục trường học
(SEQAP) và các trường tham gia Dự án Mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN)

tiếp tục thực hiện việc dạy - học cả ngày theo hướng dẫn của Chương trình và Dự án.
Các trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia Mức độ 1, Mức độ 2 và các trường đạt
chuẩn Phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi Mức độ 2 phải đảm bảo có số học
sinh được học 2 buổi/ngày tối thiểu theo quy định.
1.2.6.3. Kế hoạch dạy học:
Kế hoạch dạy học cả ngày mỗi tuần quy định cho từng vùng như sau:
1 Đối với trường tiểu học ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi:
Số tiết dạy

Số tiết

học 5b/tuần

tăng

T.Việ

(QĐ 16)
Lớp 1

thêm

t

13

(22 tiết)
Lớp 2
(23 tiết)
Lớp 3

(23 tiết)
Lớp 4
(25 tiết)
Lớp 5
(25 tiết)

Phân bổ các tiết tăng thêm
T.Anh

3

3

2

0

2

3

12

3

2

2

0


2

3

12

1

1

4

2

2

2

10

1

1

4

2

1


1

10

1

1

4

2

1

1

18

Tin học N.khiếu

GDNGL

Toán

L


2) Đối với trường tiểu học ở vùng khó khăn (học sinh yếu về tiếng Việt):
Số tiết dạy


Số tiết

học 5b/tuần

tăng

T.Việ

(QĐ 16)
Lớp 1

thêm

t

13

(22 tiết)
Lớp 2
(23 tiết)
Lớp 3
(23 tiết)
Lớp 4
(25 tiết)
Lớp 5
(25 tiết)

Phân bổ các tiết tăng thêm
Tin học N.khiếu


GDNGL

Toán

T.Anh

6

4

0

0

2

2

12

5

4

0

0

2


2

12

3

3

4

0

1

1

10

2

2

4

0

1

1


10

2

2

4

0

1

1

L

1.3. Trường tiểu học trong hệ thống giáo dục quốc dân
1.3.1. Cấp tiểu học trong hệ thống giáo dục quốc dân

Trường tiểu học do nhà nước đặt ra và xây dựng nhằm thực hiện mục tiêu

giáo dục tiểu học. Do đó, trường tiểu học có vị trí, chức năng và nhiệm vụ đặc biệt
quan trọng trong sự nghiệp "trồng người".
Trong Điều 2 của Điều lệ trường tiểu học xác định rõ: "Trường tiểu học là cơ sở
giáo dục của bậc tiểu học, bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Trường
tiểu học có tư cách pháp nhân và con dấu riêng".
Trong cuốn chuyên khảo "Công tác quản lí hành chính và sư phạm của
trường tiểu học" Jean Valerien có ghi ý kiến của UNESCO như sau: "Tiểu học
không cần phải bàn cãi gì nữa, là cấp đào tạo chính để cung cấp nền giáo dục cơ

bản mà mọi trẻ em có quyền được hưởng".
Giáo sư Phạm Tất Dong đã từng khẳng định: "Giáo dục tiểu học là một bộ
phận nền tảng để trên đó chúng ta xây dựng toà nhà học vấn cho toàn dân".
19


Đây là bậc học bắt buộc đối với mọi trẻ em từ 6 đến 14 tuổi, thực hiện trong 5
năm học từ lớp 1 đến lớp 5. Bậc học này nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở
ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và
các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở.
Đối với mỗi con người trong quá trình trưởng thành, trường tiểu học là nơi con
người chính thức được tổ chức học tập, rèn luyện một cách "chính quy" nghiêm túc
nhất. Trường tiểu học lần đầu tiên tác động đến trẻ em bằng phương pháp nhà trường
(bao gồm cả nội dung, phương pháp và tổ chức giáo dục) nơi đầu tiên tổ chức một
cách tự giác hoạt động học tập với tư cách là một hoạt động chủ đạo cho trẻ em, nơi
diễn ra cuộc sống thực của trẻ em và là nơi tạo cho trẻ em có hạnh phúc đi học.
Như vậy, với tư cách là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân,
giáo dục tiểu học có vững chắc thì mới đảm bảo được nhiệm vụ xây dựng toàn bộ
nền móng không những chỉ đạo cho giáo dục phổ thông mà còn cho cả sự hình
thành và phát triển nhân cách con người.
Điều 3 - Luật phổ cập giáo dục tiểu học quy định mục tiêu của giáo dục tiểu
học là: "Giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh nắm vững các kĩ năng nói,
đọc, viết, tính toán, có những hiểu biết cần thiết về thiên nhiên, xã hội, con người,
có lòng nhân ái, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, yêu quí anh chị em, kính trọng thầy
cô giáo, lễ phép với người lớn tuổi, giúp đỡ bạn bè, em nhỏ; yêu lao động, có kỉ
luật, có nếp sống văn hoá; cú thói quen rèn luyện thân thể và giữ vệ sinh; yêu quê
hương đất nước, yêu hoà bình".
Trong Điều 27 Khoản (2) của Luật giáo dục 2005, cũng đã ghi rõ: "Giáo dục
tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng
đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học

sinh tiếp tục học Trung học Cơ sở".

20


1.3.2. Mục tiêu của giáo dục tiểu học

Mục tiêu chung của giáo dục tiểu học trong giai đoạn mới là: "Xây dựng cấp
tiểu học lành mạnh, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển bền vững và về cơ bản đạt
trình độ tiên tiến".
Như vậy, mục tiêu của giáo dục tiểu học đã khẳng định rằng:
+ Phát triển toàn diện con người là mục tiêu chung và lâu dài của giáo dục
phát triển. Giáo dục tiểu học chỉ hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển đó.
+ Con người phát triển toàn diện phải có đầy đủ các phẩm chất và năng lực về
đạo đức trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và phải có những khái niệm cơ bản để tiếp tục
học lên, sẵn sàng tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
+ Học xong bậc tiểu học, học sinh phải tiếp tục học Trung học cơ sở.
1.3.3. Nội dung giáo dục tiểu học

Từ mục tiêu của giáo dục tiểu học như trên mà trong chương III của Điều lệ

trường Tiểu học (TT41/2010/TTBGD&ĐT Ban hành ngày 30/12/2010) về chương
trình và hoạt động giáo dục trong trường tiểu học như sau:
+ Hoạt động giáo dục bao gồm hoạt động trên lớp và hoạt động ngoài giờ lên
lớp nhằm rèn luyện đạo đức, phát triển năng lực, bồi dưỡng năng khiếu, giúp đỡ
học sinh yếu kém phù hợp đặc điểm tâm lý, sinh lý lứa tuổi học sinh tiểu học.
+ Hoạt động giáo dục trên lớp được tiến hành thông qua việc dạy học các môn
học bắt buộc và tự chọn.
+ Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp bao gồm hoạt động ngoại khoá, hoạt
động vui chơi, thể dục thể thao, tham quan du lịch, giao lưu văn hoá; hoạt động bảo vệ

môi trường; lao động công ích và các hoạt động xã hội khác. (Điều 29 - Trang 15)
Như vậy, hoạt động giáo dục trong trường tiểu học bao gồm các nội dung giáo
dục cụ thể như: trí dục, đức dục, thể dục, giáo dục thẩm mĩ, giáo dục giá trị, giáo
dục môi trường và nhiều nội dung giáo dục khác, nhằm hình thành và phát triển
toàn diện nhân cách ban đầu cho học sinh trong trường tiểu học.
21


1.3.4. Những quy định chung về trường tiểu học

Trường tiểu học là cơ sở giáo dục của bậc tiểu học, bậc học nền tảng của hệ
thống giáo dục quốc dân, có tư cách pháp nhân và con dấu riêng. Trường tiểu học
có nhiệm vụ tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo
chương trình giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo; huy động hết trẻ em vào lớp
một và vận động học sinh bỏ học đến trường; thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục
tiểu học và tham gia xóa mù chữ trong cộng đồng.
1.3.5. Tổ chức và quản lý trường tiểu học

Trường tiểu học được xác định trong mạng lưới trường học và đáp ứng yêu

cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Ủy ban nhân dân cấp phường/xã
lập hồ sơ theo quy định, Phòng Giáo dục và Đào tạo chấp nhận hồ sơ và cùng với Ủy
ban nhân dân phường/xã khảo sát tính khả thi và trình lên Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp quận/huyện xem xét quyết định. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp quận/huyện kí
quyết định thành lập trường tiểu học khi có đủ hồ sơ quy định thành lập trường.
- Hiệu trưởng: Hiệu trưởng trường công lập do Chủ tịch Ủy ban nhân dân
quận/huyện bổ nhiệm theo nhiệm kì 5 năm và không quá 2 nhiệm kì liên tục cùng một
trường. Hiệu trưởng phải là giáo viên tiểu học đã có thời gian dạy học ít nhất 5 năm,
được sự tín nhiệm về chuyên môn, đạo đức, có năng lực quản lý trường. Hiệu trưởng
quản lý toàn bộ công việc giáo dục đào tạo của nhà trường theo chế độ thủ trưởng.

- Phó hiệu trưởng: Phó hiệu trưởng là người giúp việc cho hiệu trưởng. Mỗi
trường tiểu học có từ một đến hai phó hiệu trưởng do Chủ tịch Ủy ban nhân dân
quận/huyện bổ nhiệm. Phó hiệu trưởng phải là người có thời gian làm giáo viên
tiểu học ít nhất 3 năm, không kể thời gian tập sự và được đào tạo từ trình độ Cao
đẳng sư phạm.
- Lớp học: Học sinh được tổ chức theo lớp, mỗi lớp có không quá 35 học sinh, có
lớp trưởng và lớp phó do học sinh bầu hoặc giáo viên chủ nhiệm chỉ định, mỗi lớp
có giáo viên vừa làm chủ nhiệm vừa giảng dạy các môn học. Trong trường, số lớp
22


không quá 30 lớp.
- Tổ chuyên môn: Trong trường tiểu học, tổ chuyên môn được tổ chức theo
khối lớp. Tổ chuyên môn có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch hoạt động chung, bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.
- Hội đồng giáo dục: Hội đồng giáo dục được thành lập vào đầu năm học có
nhiệm vụ tư vấn cho hiệu trưởng. Thành phần Hội đồng giáo dục gồm: hiệu
trưởng, phó hiệu trưởng, bí thư Đảng, bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, chủ tịch Công đoàn, tổng phụ trách Đội và các tổ trưởng.
Ngoài ra trong trường còn có một tổng phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong
Hồ Chí Minh, giáo viên phụ trách Đội có thể là chuyên trách hoặc kiêm nhiệm tùy
thuộc vào quy mô trường.
- Tổ chức Đảng và Đoàn thể khác:
Tổ chức Đảng trong trường tiểu học hoạt động theo khuôn khổ pháp luật.
Công đoàn giáo dục, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu
niên Tiền phong Hồ Chí Minh hoạt động nhằm giúp nhà trường thực hiện mục
tiêu, nguyên lý giáo dục.
- Hoạt động giáo dục trong trường tiểu học: Hoạt động giáo dục trên lớp được
tiến hành thông qua các môn học bắt buộc. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp do
nhà trường phối hợp với các lực lượng giáo dục khác ngoài nhà trường tổ chức như:

hoạt động vui chơi, tham quan du lịch,…
1.3.6. Giáo viên và học sinh



Giáo viên:

Giáo viên tiểu học có nhiệm vụ dạy học và giáo dục trong nhà trường
theo chương trình, kế hoạch của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Giáo viên phải tham
gia công tác phổ cập giáo dục; rèn luyện học sinh về các mặt văn hóa, đạo
đức; rèn luyện nghĩa vụ công dân được quy định trong Hiến pháp. Giáo viên
23


tiểu học phải có trình độ chuẩn trung học sư phạm; nếu có trình độ trên chuẩn
được tạo điều kiện để phát huy năng lực.
Người có trình độ trung học chuyên nghiệp hay cao đẳng khác muốn trở thành
giáo viên tiểu học phải thông qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm.
Ngôn ngữ người thầy phải đạt chuẩn phổ thông, có âm thanh trong sáng và thuyết phục.
Giáo viên tiểu học phải giữ gìn sự trong sáng về đạo đức, tác phong và lời nói
đẹp, tránh xúc phạm đến học sinh và thô tục đến người khác.


Học sinh:

Học sinh tiểu học có độ tuổi từ 6 đến 11 tuổi. Nếu trẻ em có sức khỏe và trí lực tốt
có thể học trước tuổi hay vượt lớp.
Học sinh phải biết kính trọng thầy giáo và mọi người, chăm chỉ học hành và
hoàn thành nhiệm vụ học tập, rèn luyện thân thể và giữ gìn vệ sinh môi trường.
Học sinh được bình đẳng trong việc hưởng thụ giáo dục toàn diện, được tham

gia các hoạt động phát triển năng khiếu, được nhận học bổng hoặc các khoản trợ
cấp khác theo quy định.
Học sinh phải sử dụng ngôn ngữ trong sáng trong nhà trường và cấm
mọi hành vi phi đạo đức. Nếu học tập tốt, giữ gìn vệ sinh tốt, rèn luyện đạo
đức tốt thì học sinh được nhà trường xét khen thưởng và nếu ngược lại thì bị
kỉ luật tùy theo mức độ vi phạm.
1.3.7. Cơ sở vật chất và quan hệ xã hội



Cơ sở vật chất:

Trường học phải được xây dựng ở một địa điểm thích hợp, học sinh đến
trường không phải đi quá 2 km, vùng núi có thể 3 km. Môi trường xung quanh
không có tác động xấu đến nhà trường.
Khuôn viên trường phải đẹp và thoáng mát. Lớp học và nơi làm việc phải
được bố trí hợp lí, đảm bảo thuận lợi cho giảng dạy và học tập.
24




Mối quan hệ giữa nhà trường với gia đình và xã hội:

Nhà trường phải chủ động kết hợp thường xuyên và chặt chẽ với gia đình
để xây dựng môi trường giáo dục thống nhất, thực hiện mục tiêu giáo dục toàn
diện; thường xuyên kết hợp với ban đại diện cha mẹ học sinh và hội đồng giáo dục
phường/xã để thống nhất quan điểm, nội dung, phương pháp giáo dục giữa nhà
trường, gia đình và xã hội.
1.4. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và quản lý hoạt động giáo dục

ngoài giờ lên lớp ở trường tiểu học đáp ứng yêu cầu học 2 buổi/ ngày
1.4.1. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp

1.4.1.1. Vị trí, vai trò, mục tiêu, nhiệm vụ của hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp
1.4.1.1.1. Vị trí của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
* Nhà trường có nhiệm vụ dạy chữ và dạy người. Nếu nhà trường chỉ thực
hiện hoạt động dạy - học các bộ môn văn hóa trên lớp thì nhiệm vụ dạy người sẽ
không hoàn thành, vì học sinh sẽ thiếu môi trường hoạt động và giao tiếp, hạn chế
về tình huống thực tế, hạn chế về thời gian…các em hầu như không có điều kiện để
trải nghiệm những kiến thức đã học vào hoạt động thực tế. Vì vậy, việc nhà trường
tổ chức các hoạt động, các mối quan hệ khác nhau vào thời gian ngoài giờ lên lớp
là điều kiện quan trọng để hình thành thái độ, rèn luyện hành vi, kĩ năng xã hội cho
học sinh. Nói cách khác, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp có vị trí rất quan
trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ dạy người trong các nhà trường hiện nay.
Dưới góc độ chỉ đạo chung, vị trí của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
được khẳng định tại điều 27 Điều lệ trường tiểu học và điều 24 Điều lệ trường
trung học (ban hành ngày 11 tháng 7 năm 2000), là một trong hai hoạt động giáo
dục trong nhà trường:
- Hoạt động giáo dục trên lớp được tiến hành thông qua các môn bắt buộc và tự chọn…

25


×