Tải bản đầy đủ (.doc) (155 trang)

SỬ DỤNG các DI TÍCH QUỐC GIA đặc BIỆT TRONG dạy học LỊCH sử địa PHƯƠNG ở TRƯỜNG THPT TỈNH QUẢNG NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.73 MB, 155 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

TRƯƠNG QUỐC TÁM

SỬ DỤNG CÁC DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở
TRƯỜNG THPT TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


HÀ NỘI - 2015

2


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

TRƯƠNG QUỐC TÁM

SỬ DỤNG CÁC DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở
TRƯỜNG THPT TỈNH QUẢNG NINH
Chuyên ngành: LL&PPDH Lịch sử
Mã số: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS TRỊNH ĐÌNH TÙNG



HÀ NỘI - 2015

ii


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình
của các thầy giáo, cô giáo trong bộ môn lí luận và phương pháp dạy học, từ
việc định hướng đề tài, cung cấp tài liệu, cũng như những góp ý, điều chỉnh
giúp tôi từng bước hoàn thành đề tài. Qua đây cho phép tôi được bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc tới các thầy, các cô trong khoa lịch sử nói chung, các thầy, các
cô trong bộ môn lí luận và phương pháp dạy học nói riêng. Đặc biệt tôi xin gửi
lời cảm ơn sâu sắc tới PGS-TS Trịnh Đình Tùng đã dành nhiều thời gian, công
sức, hướng dẫn những định hướng khoa học cho đề tài, cung cấp cho tôi những
tài liệu quan trọng, cơ bản, giúp tôi hoàn thành công trình khoa học này.
Ngoài ra, tôi còn nhận được sự giúp đỡ cuả các ban ngành như thư viện
tỉnh Quảng Ninh, Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch Quảng Ninh, Ban quản lí các
di tích trọng điểm tỉnh Quảng Ninh. Đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của ban
quản lí các khu di tích: khu di tích lịch sử nhà Trần (Đông Triều); khu di tích
lịch sử - văn hóa Yên Tử (Uông Bí); khu di tích lịch sử Bạch Đằng (Yên Hưng);
Ban quản lí vịnh Hạ Long; cán bộ quản lí, giáo viên, học sinh các trường THPT
trong tỉnh. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng, song chắc chắn không tránh khỏi
những thiếu sót, hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy giáo,
cô giáo, các anh chị em đồng nghiệp, những người cùng quan tâm, để đề tài
ngày càng được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 10 năm 2015-10-03

Trương Quốc Tám



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
PGS-TS: Phó Giáo sư - Tiến sĩ
GS-TS : Giáo sư - Tiến sĩ
THPT: Trung học phổ thông
THCS : Trung học cơ sở
HS : Học sinh
GV : Giáo viên
GDCD : Giáo dục công dân
CTGDPT : Chương trình giáo dục phổ thông
GD : Giáo dục
SL : Số lượng
Cb : Chủ biên
NXB : Nhà xuất bản
ĐHSP : Đại học sư phạm
HĐND : Hội đồng nhân dân
UBND : Ủy ban nhân dân
KHXH : Khoa học xã hội


MỤC LỤC

TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................86


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh “toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế”, giáo dục lịch sử cho học
sinh trở thành nội dung được tất cả các quốc gia trên thế giới quan tâm. Ở nước ta,

Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến giáo dục, coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu”,
là chìa khóa mở cửa tiến vào tương lai. Với chủ trương đó, giáo dục góp phần làm triết
lí cho nền giáo dục thế kỉ XXI, trong đó lấy chủ đề “học suốt đời” với mục tiêu “ học
để biết, học để làm, học để chung sống và học để khẳng định mình” nhằm xây dựng
một xã hội “phát triển hiện đại và văn minh”.
Mỗi môn học trong nhà trường phổ thông với đặc trưng của từng bộ môn nhưng
đều phải góp phần đào tạo học sinh một cách toàn diện. Trong đó môn Lịch sử có vị trí
rất quan trọng. Dạy học lịch sử là giáo dục truyền thống văn hóa, giáo dục tư tưởng,
tình cảm, ý thức đạo đức để hình thành nhân cách học sinh. Giáo dục lịch sử có vai trò
đặc biệt đến sự trường tồn, hưng vượng của quốc gia dân tộc.
Trong những năm chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám, bác Hồ căn dặn:
“Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh hàm chứa một ý nghĩa vô cùng sâu sắc
về ý nghĩa, vai trò của lịch sử. Nhờ lịch sử chúng ta mới biết nguồn gốc của dân tộc,
biết được quá trình dựng nước và giữ nước với những chiến công oanh liệt, những
trang sử vàng chói lọi của các thế hệ đi trước. Học lịch sử, biết lịch sử cũng sẽ bồi đắp
trong mỗi chúng ta lòng yêu quê hương đất nước, tinh thần tự hào dân tộc, từ đó củng
cố ý chí, bản lĩnh; Rèn luyện, phấn đấu vươn lên trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong lịch sử dân tộc, lịch sử địa phương là một bộ phận không thể tách rời.
Lịch sử địa phương là biểu hiện của lịch sử dân tộc, là sự minh họa cho lịch sử dân
tộc. Nó chứng minh sự phát triển hợp quy luật của địa phương trong sự phát triển
chung của cả nước. Nó không chỉ giúp học sinh hiểu về mảnh đất, con người nơi
mình chôn nhau cắt rốn, hun đúc niềm tự hào, giáo dục truyền thống yêu quê hương,
đất nước mà còn giúp học sinh nhận thức sâu sắc về lịch sử.
Thực tế, việc dạy học lịch sử địa phương ít được quan tâm. Do ảnh hưởng nhịp
sống hiện đại, do các trường Đại học tuyển sinh theo khối (tổ hợp) mà có môn thi lịch
sử ít nên học sinh đổ xô vào học các môn học khác, nhằm thi đỗ đại học, tìm chỗ đứng

1



trong tương lai, mà sao nhãng học lịch sử, đặc biệt là tìm hiểu về lịch sử địa phương.
Do vậy, chúng ta cần phải có cách nhìn nhận khách quan và có định hướng đúng trong
trong công tác chỉ đạo dạy học lịch sử địa phương để từ đó lôi cuốn, thu hút và định
hướng đúng cho sự phát triển nhận thức và phát triển năng lực của thế hệ học sinh.
Quảng Ninh là vùng đất có vị trí đặc biệt quan trọng trong cả nước. Từ trước,
nhiều người biết đến nơi đây như; Một vùng vàng đen với ngành khai thác than rất
phát triển; Một vùng đất có biển đảo với cảnh đẹp thiên nhiên hữu tình; Một địa danh
du lịch sinh thái hấp dẫn; Một vùng kinh tế mở sôi động với cửa khẩu quốc tế Móng
Cái… điều đó đôi khi làm người ta quên đi một Quảng Ninh với tư cách là một biểu
tượng cho truyền thống văn hóa lịch sử của dân tộc.
Quảng Ninh không chỉ là một chiếc nôi của người Việt cổ với dấu tích của nhiều
nền văn hóa lớn: như nền văn hóa Hạ Long, nền văn hóa Cái Bèo, nền văn hóa Soi
Nhụ… mà còn có nền văn hóa đa dạng phong phú trên cơ sở hội tụ 21 dân tộc anh em
với nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể được quốc gia và thế giới ghi nhận. Người
dân nơi đây cũng đã sát cánh cùng nhân dân cả nước, kiên trì bền bỉ trên suốt chặng
đường dài dựng nước và giữ nước. Biết bao thế hệ kế tục nhau viết lên những trang sử
chói lọi của tinh thần anh hùng bất khuất chống ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc (từ các triều
đại phong kiến phương Bắc tới hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ).
Quảng Ninh cũng là nơi chứng kiến sự ra đời, trưởng thành và đấu tranh của
giai cấp công nhân Việt Nam. Những trang sử rạng ngời của tỉnh Quảng Ninh cần
phải được các thế hệ học sinh biết đến, lấy đó để giáo dục truyền thống văn hóa lịch
sử, tình yêu quê hương đát nước, làm động lực xây dựng quê hương Quảng Ninh phát
triển giầu mạnh.
Quảng Ninh được ví như đất nước Việt Nam thu nhỏ, với phong phú các di
tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng, các di tích cấp tỉnh,
di tích quốc gia, di tích quốc gia đặc biệt. Tính đến năm 2013, Quảng Ninh đã
được nhà nước công nhận 4 khu Di tích quốc gia đặc biệt, đó là:
Danh lam thắng cảnh Vịnh Hạ Long (Thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả

và huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh);
Di tích lịch sử Bạch Đằng (thị xã Quảng Yên, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh);

2


Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Yên Tử (thành phố Uông Bí, huyện
Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh);
Di tích lịch sử Khu di tích Nhà Trần tại Đông Triều (huyện Đông Triều, tỉnh
Quảng Ninh).
Di tích quốc gia đặc biệt là tài sản quý giá của tất cả các dân tộc, có vai trò
quan trọng trong việc tôn vinh những giá trị về truyền thống văn hoá, lịch sử. Di tích
quốc gia đặc biệt là ánh lửa hồng trong hoạt động giáo dục truyền thống văn hóa lịch
sử cho học sinh, đồng thời quảng bá góp phần cho việc phát triển kinh tế xã hội của
địa phương, đất nước. Các di tích quốc gia đặc biệt còn đóng vai trò to lớn cho nền
hoà bình, phát triển và hưng thịnh của quốc gia dân tộc và của nhân loại thông qua
các hoạt động hợp tác tích cực cùng có lợi với cộng đồng quốc tế.
Xuất phát từ nhận thức và tâm lí, chúng ta có thể hiểu rằng: Con người bảo vệ
và gìn giữ những gì họ yêu, họ chỉ yêu những gì mà họ hiểu và họ chỉ hiểu những gì
mà họ được học. Chính vì vậy, sử dụng các di tích quốc gia đặc biệt trong dạy học
lịch sử địa phương ở trường THPT là hoạt động góp phần giáo dục toàn diện, giáo
dục tình yêu quên hương, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm và phát triển năng
lực cho học sinh.
Với giá trị kì diệu và đặc biệt trên, chúng tôi chọn vấn đề “Sử dụng các di
tích quốc gia đặc biệt trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT tỉnh
Quảng Ninh” làm đề tài luận văn cao học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Các di tích quốc gia đặc biệt của nước ta nói chung và các di tích quôc gia đặc biệt
của Quảng Ninh nói riêng đã và đang được tìm hiểu, nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau trong các công trình khoa học. Các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã đề cập

đến các di tích quôc gia đặc biệt ở Quảng Ninh với góc nhìn của sử học, khảo cổ học, văn
hóa, tâm linh, môi trường, địa chất địa mạo, thiên nhiên... Các nhà lí luận và phương pháp
dạy học lịch sử đã đề cập đến các di tích quốc gia đặc biệt như các di sản dưới góc độ của
một giáo cụ trực quan trong đổi mới phương pháp dạy học. Còn các nhà quản lí xem xét
các di tích quôc gia đặc biệt tại địa phương trên bình diện vĩ mô tức là vấn đề về bảo tồn
và phát triển. Nhìn chung, qua các công trình nghiên cứu các nhà nghiên cứu đều khẳng
định các di tích quốc gia đặc biệt, các di sản văn hóa là kho tư liệu vật chất phong phú,
quý giá của dân tộc được xây dựng từ nền tảng của các địa phương. Trong phạm vi

3


nghiên cứu của luận văn chúng tôi tập trung tìm hiểu những công trình nghiên cứu của các
nhà khoa học nước ngoài và trong nước về sử dụng các di sản văn hóa nói chung và di
tích lịch sử văn hóa nói riêng trong dạy học lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương ở trường
THPT tỉnh Quảng Ninh.
Tài liệu nước ngoài
Trong các công ước quốc tế, các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu
nước ngoài về di sản văn hóa hầu hết đã bàn đến di sản văn hóa được bảo lưu từ đời này
sang đời khác và có tác dụng giáo dục con người về truyền thống của mỗi dân tộc.
Trong “Công ước về bảo vệ di sản tự nhiên và di sản văn hóa”(1972) và
“Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể” Pari, 17/10/2003 di sản văn hóa
“được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, đồng thời hình thành trong họ một
ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với sự đa dạng
văn hóa và tính sáng tạo của con người”.
Tại hội nghị Quốc tế các khoa học lịch sử lần thứ XVII ở Madrit (Tây Ban
Nha), từ ngày 26/8 đến 2/9/1990 có báo cáo về vấn đề "Các nhà sử học và việc gìn
giữ các di sản văn hóa của nhân loại". Hội nghị đã khẳng định: "Di tích lịch sử - văn
hóa là những di sản văn hóa quý hiếm của nhân loại, cần được bảo vệ và sử dụng
đúng đắn. Di tích lịch sử đã và đang trải qua những hiểm họa đó là thời gian ngày

càng lùi xa, thiên nhiên khắc nghiệt và cả sự vô ý thức của con người" [22; 20]. Hội
nghị đã nhấn mạnh: "Khả năng sử dụng các di tích lịch sử thể hiện trình độ văn minh
của xã hội đương thời".
Theo “Hiến chương Quốc tế” về bảo tồn và trùng tu di tích và di chỉ (1964), Đại
hội Quốc tế lần thứ hai các kiến trúc sư và kỹ thuật gia về di tích lịch sử, Venice,
1964, được ICOMOS chấp nhận năm 1965 đã coi các di tích lịch sử của các thế hệ con
người, thấm đượm một thông điệp từ thời quá khứ, đến ngày nay hãy còn như là những
chứng nhân sống của những truyền thống lâu đời cổ xưa. Nhân loại ngày càng ý thức rõ
ràng tính thống nhất của các giá trị con người và coi các di tích cổ như là một di sản
chung. Khái niệm di tích lịch sử không chỉ là một công trình kiến trúc đơn chiếc mà cả
khung cảnh đô thị hoặc nông thôn có chứng tích của một nền văn minh riêng, một phát
triển có ý nghĩa hoặc một sự kiện lịch sử. Khái niệm này không chỉ áp dụng với những
công trình nghệ thuật to lớn mà cả với những công trình khiêm tốn hơn vốn đã, cùng với
thời gian, thâu nạp được một ý nghĩa văn hoá.

4


Trong cuốn “Phương pháp giảng dạy lịch sử” của Viện sĩ Xtơrajốp. A.I (Sách
dùng cho GV) NXB GD, HN, 1964 đã nêu rõ tầm quan trọng của các tài liệu văn hóa lịch sử trong các khóa trình lịch sử Liên xô trên tất cả các mặt: cung cấp tri thức, giáo dục
đạo đức, tư tưởng và phát triển kỹ năng thực hành bộ môn. Tác giả quan niệm rằng những
sự kiện về lịch sử - văn hóa rất phong phú, phức tạp, do đó cần xác lập một số nguyên tắc
về phương pháp dạy học để GV vận dụng khi giảng dạy nội dung này: Giảng dạy những
nội dung văn hóa - lịch sử không chỉ liệt kê các hiện tượng văn hóa nổi bật hoặc tiểu sử
của các nhà văn mà điều quan trọng hơn là trình bày cho HS hiểu cuộc đấu tranh về thế
giới quan, thể hiện trong tư tưởng, hành động và tác phẩm của các nhân vật văn hóa, để
thấy được sự phát triển của xã hội; Cần làm cho HS thấy được tính độc đáo, đa dạng của
văn hóa các dân tộc trong một quốc gia đang ngày càng xích lại gần nhau, nhưng vẫn giữ
được bản sắc văn hóa của riêng mình; khi giảng dạy nội dung văn hóa cần đảm bảo tính
cụ thể, trực quan và truyền cảm.

Di sản văn hóa được xem là giáo cụ trực quan tốt nhất để phát triển tư duy cho
HS. Các nhà nghiên cứu giáo dục lịch sử xem xét di sản văn hóa dưới góc độ là một
giáo cụ trực quan trong dạy học. PTS khoa học giáo dục Liên Xô M.CuGiac trong
cuốn “Phát triển tư duy HS như thế nào” NXB GD, HN 1976 đã chỉ rõ việc sử dụng
đồ dùng trực quan có vai trò và ý nghĩa to lớn về việc phát triển tư duy HS. Ông khẳng
định: “phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan là phương pháp tốt nhất đem lại sự
phát triển tư duy cho HS” [32].
Trong cuốn“Phát huy tính tích cực của HS như thế nào” NXB GD HN, 1978
I.F. Khalamôp. Di sản văn hóa được xem là giáo cụ trực quann nó còn góp phần rèn luyện
tư duy, phân tích, tập cho các em nhìn thấy bản chất của các đối tượng và hiện tượng ẩn
sau các hình thức biểu hiện bề ngoài, kích thích sự ham hiểu biết của các em… Tác giả
cũng đã nêu ra các loại và phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong khi nghiên cứu
về phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông khẳng định về vai trò của đồ dùng
trực quan. Ông khẳng định: “đồ dùng trực quan có vai trò quan trọng , tính trực quan là
phương tiện cơ bản để hình thành kiến thức lịch sử” [60] .
Trong cuốn “Phát triển tư duy HS trong dạy học lịch sử” của I.A.Lecne, NXB
GD HN, 1982 [58] đề cập đến việc dạy học phải bắt đầu từ trực quan nhằm tạo ra trong
óc trẻ một biểu tượng bền vững để từ đó đi sâu vào tìm hiểu bản chất sự kiện.
Trong cuốn “Các phương pháp dạy học hiệu quả” của tác giả Robert J.
Marzano, người dịch Nguyễn Hồng Vân (NXB GD Việt Nam, HN, 2013). Đây là một

5


trong số những quyển sách nằm trong bộ sách đổi mới phương pháp dạy học, với mục
đích phát huy cao độ khả năng học tập của HS, nâng cao chất lượng giảng dạy của GV
đứng lớp. Trong đó, tác giả đã đề cập đến phương pháp điều tra lịch sử, tức là: “Học
sinh tham gia điều tra lịch sử khi các em dựng lên một kịch bản hợp lý cho những sự
kiện xảy ra trong quá khứ, một sự kiện không có sự thống nhất chung trong dư luận”
[61; tr. 136]. Đây là một phương pháp dạy học hiệu quả khi gắn nội dung bài học lịch

sử với lịch sử địa phương. GV có thể giao nhiệm vụ cho HS tìm kiếm và phân tích
những cứ liệu lịch sử ở địa phương liên quan đến lịch sử dân tộc để làm sáng tỏ những
nội dung trong bài học…
Trong cuốn “Phát triển tư duy HS” của Aleexep [1], đã khẳng định: “cơ sở
tâm lý của nhận thức trực quan sinh động trong học tập lịch sử khi tạo biểu tượng
trong sáng muôn màu muôn vẻ về các sự vật hiện tượng đang học”. Có thể thực hiện
nhiệm vụ này bằng cách tổ chức cho HS tri giác các di tích lịch sử và các di sản văn
hóa. Các tác giả có chung quan điểm việc tham quan học tập tại di tích lịch sử, di sản
văn hóa là hoạt động quan trọng, là một phương thức dạy cho HS đọc cuốn sách của
cuộc sống. Việc được tri giác các di tích, di sản văn hóa không chỉ bồi dưỡng kiến
thức mà còn góp phần giáo dục các em về truyền thống dân tộc.
Trong cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào” của Đairi. N.G (NXB GD,
Hà Nội, 1973) cũng đã chỉ ra rằng thầy giáo bắt buộc phải biết rõ những thành tựu của
khoa học lịch sử và các khoa học giáo dục, những vấn đề mà khoa học đang giải quyết,
phải biết tất cả những hiện tượng quan trọng nhất của đời sống chính trị xã hội và văn
hóa... Muốn vậy, phải sử dụng không ngừng và có hệ thống tất cả mọi nguồn tư liệu
muôn hình muôn vẻ: tác phẩm kinh điển, văn kiện của Đảng và Nhà nước, sách
chuyên khảo, sách giáo khoa, sách báo tạp chí, tác phẩm hội họa, những cuộc tham
quan và khẳng định: “toàn bộ công tác dạy học sẽ vô cùng có lợi, nếu thầy giáo hiểu
môn học trên cơ sở tất cả những nguồn tư liệu có liên quan đến sự kiện...” [40; tr. 10]
nhằm xây dựng nên một bức tranh toàn diện, trọn vẹn, rõ ràng, có hình ảnh, gợi cảm
về một biến cố lịch sử hoặc về một quá trình lịch sử [40; tr. 7].
Như vậy, qua tài liệu nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, chúng tôi rút ra một
số kết luận sau: Các tác giả đều nhấn mạnh đến sự cần thiết phải sử dụng tài liệu văn
hóa - lịch sử trong dạy học ở trường phổ thông; Các tác giả củng khẳng định nguồn tài
liệu nếu được sử dụng hợp lý còn góp phần nâng cao kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng,
tình cảm và phát huy được năng lực nhận thức độc lập, sáng tạo cho HS; Các tác giả

6



cũng đã nêu ra một số gợi ý về phương pháp dạy học tài liệu văn hóa - lịch sử địa
phương để GV tham khảo; Các công trình nghiên cứu đã cung cấp những kinh nghiệm
thực tiễn quý báu cho việc sử dụng cacsmdi tích lịch sử - văn hóa tại địa phương phù
hợp với đối tượng, cấp học, đặc trưng vùng miền góp cho chúng tôi nhiều điều bổ ích
khi thực hiện nhiệm vụ luận văn thạc sĩ.
Tài liệu trong nước
Việc sử dụng đồ dùng trực quan nói chung, các di tích văn hóa lịch sử nói riêng
cũng được các nhà giáo dục học, tâm lí học và giáo dục lịch sử trong nước quan tâm
nghiên cứu.
Trong giáo trình “Giáo dục học” do Trần Thị Tuyết Oanh chủ biên, NXB ĐHSP,
HN, 2009. Đây là bộ giáo trình có ý nghĩa rất lớn đối với GV, giúp ích rất nhiều trong
việc xác định hệ thống kiến thức phổ thông, hình thành kĩ năng, thái độ để tiến hành
các hoạt động dạy học và giáo dục trong lĩnh vực nghề nghiệp của mình. Trong đó, các
tác giả có đề cập đến việc dạy học những nội dung văn hóa thông qua hoạt động ngoại
khóa. Qua đó, giáo dục cho HS lòng yêu quê hương đất nước, yêu con người và cuộc
sống lao động cho HS.
Bộ giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” do Phan Ngọc Liên (chủ biên),
Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi biên soạn, NXB ĐHSP, HN, 2002 (tái bản có sửa
chữa và bổ sung vào các năm 2009, 2010) được sử dụng rộng rãi, trong đó các tác giả
đã đề cập một cách sâu rộng các vấn đề lý luận và thực tiễn của việc DHLS, giúp cho
GV nâng cao nhận thức lý luận dạy học của bộ môn và góp phần rèn luyện năng lực
nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên. Đồng thời trong nội dung cuốn sách, các tác giả đã
đề cập đến vai trò của môn Lịch sử đối với việc giáo dục cho HS qua dạy học những
nội dung văn hóa “văn hóa là một bộ phận hữu cơ của LSDT; nó có quan hệ khăng
khít gắn bó chặt chẽ với kinh tế, xã hội… Văn hóa không chỉ là yếu tố cấu tạo nên lịch
sử mà còn làm cho lịch sử phong phú, trở thành một động lực cho sự tồn tại và phát
triển xã hội… Vì vậy, khi nghiên cứu, học tập lịch sử không thể không tìm hiểu các
vấn đề văn hóa, khoa học, giáo dục” [75; tr. 221]. Đồng thời các tác giả cũng chỉ ra
một số hình thức, biện pháp dạy học trong bài nội khóa cũng như ngoại khóa. Giáo

trình xuất bản năm 2009 tiếp tục được trình bày một cách có hệ thống việc sử dụng di
tích trong các nội dung ngoại khóa và được xem xét dưới góc độ là phương tiện trực
quan trong dạy học lịch sử. Thông qua đó, các tác giả cũng nêu lên những hình thức và
biện pháp sử dụng di tích lịch sử có hiệu quả như việc tổ chức bài học tại thực địa,

7


tham quan ngoại khóa, công ích xã hội…Tuy nhiên, giáo trình mới chỉ đề cập đến một
khía cạnh của di sản văn hóa vật thể đó là di tích lịch sử.
Trong cuốn “Các con đường biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở
trường phổ thông” [25] của tác giả Nguyễn Thị Côi, NXB ĐHSP HN, 2006 đã hướng
dẫn thực hiện một hoạt động ngoại khóa với di tích. Qua đó, tác giả đã đưa ra một số
hình thức, biện pháp tổ chức hoạt động ngoại khóa cho HS tại di sản văn hóa tiêu biểu,
tăng cường dạy học tại di tích...
Cục di sản văn hóa đã ra “Tạp chí Di sản văn hóa’’ đề cập đến các vấn đề lý
luận về di sản văn hóa, bảo tồn và phát triển di sản văn hóa vật thể và phi vật thể nói
chung. Như vậy, các công trình khoa học đã từng bước khẳng định vị trí và vai trò của
di sản văn hóa trong lịch sử. Di sản văn hóa địa phương gắn liền với sự phát triển lịch
sử góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của đất nước.
Tác giả Hoàng Thanh Hải viết trong tạp chí “Nghiên cứu giáo dục” số 5, năm 1997
[46] đã nêu ra hình thức, biện pháp để “Giáo dục ý thức tôn trọng và bảo vệ phát huy giá trị
di sản văn hóa cho HS qua môn Lịch sử”. Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu trên
mới chỉ đề cập đến hình thức và biện pháp sử dụng di tích lịch sử - văn hóa.
Trong “Luận án Tiến sĩ giáo dục” của tác giả Hoàng Thanh Hải viết về: "sử
dụng di tích trong dạy học lịch sử dân tộc ở trường THCS" [47], đã đề cập đến cơ sở
lý luận và những hình thức, biện pháp trong việc sử dụng di tích. Ngoài ra, tác giả đã
có nhiều bài viết bàn về việc hình thức sử dụng di tích trong dạy học lịch sử, giáo dục
ý thức HS qua di sản như "Tổ chức hướng dẫn HS phổ thông tham gia lễ hội xuân tại
các di tích lịch sử văn hóa”.

Được sự hỗ trợ của UNESSCO, Bộ GD&ĐT đã biên soạn cuốn tài liệu "Sử
dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông’’. Tài liệu đã đề cập đến khái niệm di
sản văn hóa, đặc điểm, phân loại di sản, ý nghĩa của di sản đối với hoạt động dạy học,
giáo dục phổ thông, những di sản thường được sử dụng trong dạy học và các hình thức
tổ chức dạy học. phương pháp sử dụng di sản trong dạy học...và một số ví dụ minh
họa. Bên cạnh nội dung lý luận là các thiết kế các bài học sử dụng di sản trong dạy
học bậc THCS và THPT của các môn học trong đó có môn Lịch sử nhằm mục đích
minh họa cho phần lý luận chung. Bên cạnh đó, trong hội nghị giao ban về " Sử dụng
di sản văn hóa ở trường phổ thông" đã tổng kết việc triển khai sử dụng di sản trong
dạy học ở trường phổ thông của 7 tỉnh và thành phố thí điểm (trong đó có tỉnh Quảng
Ninh). Bộ GD&ĐT vừa xây dựng Website nhằm hỗ trợ
tư liệu và tạo diễn đàn chia sẻ kinh nghiệm dạy học của cán bộ quản lý, GV trên nhiều

8


lĩnh vực trong đó có việc sử dụng di sản trong dạy học. Qua triển khai thí điểm các GV
xây dựng, giáo án hay kế hoạch bài học, nhiều hoạt động ngoại khóa trải nghiệm di
sản được thiết kế và thử nghiệm trong các trường THCS, THPT ở các tỉnh và thành
phố thí điểm. Đây là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng để cho GV sử dụng trong
giai đoạn tiếp theo.
Đặc biệt là tại Hội thảo quốc tế “Tăng cường sử dụng di sản văn hóa phi vật thể
trong giáo dục vì sự phát triển bền vững tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương”
được Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Văn phòng UNESCO
phối hợp tổ chức trong 2 ngày (24 - 25/03/2015) tại Hà Nội. Các chuyên gia đã chia sẻ
những kinh nghiệm thực tế khi triển khai thí điểm công tác giảng dạy về di sản trong
môi trường giáo dục được thực hiện trong 2 năm vừa qua (2013 - 2014) tại 4 quốc gia
(Pakistan, Palau, Uzebekistan và Việt Nam). Cũng tại hội thảo này, các đại biểu đã thảo
luận và đi đến thống nhất việc sử dụng DSVH để dạy học sẽ mang lại những kết quả
tích cực, bởi vậy, chương trình được xây dựng cần có sự linh hoạt và phải phù hợp với

văn hóa địa phương và dân tộc, phù hợp với mọi điều kiện của nhà trường.
Cuốn giáo trình “Phương pháp nghiên cứu và biên soạn lịch sử địa phương”
do Nguyễn Cảnh Minh chủ biên, NXB ĐHSP HN, 2008. Các tác giả đã nhấn mạnh:
việc sử dụng tài liệu văn hóa truyền thống địa phương, tạo nên một trạng thái tâm lý
đặc biệt, giúp HS hiểu một cách sinh động quá khứ lịch sử qua những tài liệu, hiện vật
thu được. Góp phần không nhỏ vào việc hiểu biết đầy đủ, toàn diện, sâu sắc hơn
LSDT. Ngoài ra, các tác giả còn chỉ ra nhiều hoạt động dạy nội khóa cũng như ngoại
khóa những nội dung văn hóa - lịch sử địa phương sao cho đạt hiệu quả cao.
Bộ tài liệu “Giáo dục bảo tồn di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long” của Sở
Giáo dục - Đào tạo Quảng Ninh, Ban quản lý vịnh Hạ Long và Tổ chức Bảo tồn động
thực vật quốc tế (FFI), NXB Văn hóa Dân tộc, Hạ Long - 2002 (tái bản lần thứ nhất 2003, tại Nhà in Tạp chí Cộng sản) dành cho cả 3 cấp học: Tiểu học (5 cuốn), Trung
học Cơ sở (1 cuốn), Trung học Phổ thông (1 cuốn) dành cho giáo viên. Di sản được sử
dụng trong dạy học, giáo dục đều góp phần nâng cao tính trực quan, giúp người học
mở rộng khả năng tiếp cận với đối tượng, hiện tượng liên quan đến bài học tồn tại
trong di sản. Bên cạnh đó, di sản cũng là phương tiện quan trọng giúp học sinh rèn một
số kĩ năng học tập như: Kĩ năng quan sát, thu thập, xử lý thông tin qua đó tự chiếm
lĩnh kiến thức cần thiết thu được trong quá trình tiếp cận với di sản; Kĩ năng vận dụng
kiến thức liên môn đã học để giải thích những hiện tượng, sự vật có trong các di

9


sản. Tuy nhiên, việc khai thác và sử dụng tài liệu về di sản để tiến hành giảng dạy
cũng cần sự nhuần nhuyễn. Cụ thể, giáo viên phải tiến hành chọn lọc kỹ và xác minh
tính chân thực của các tài liệu về di sản. Đặc biệt, phải biết chọn lọc những tài liệu
điển hình nhất, sắp xếp các tài liệu đó thành hệ thống phù hợp với tiến trình bài học
kết hợp với các phương tiện trực quan, kỹ thuật hiện đại... phải bảo đảm yêu cầu như
lập kế hoạch cụ thể về công tác chuẩn bị và tiến hành bài học, đi khảo sát thực địa, liên
hệ với các cơ quan quản lý di sản... Việc khai thác di sản trên địa bàn tỉnh nhà, nhà
trường đóng vai trò như là nguồn tri thức, là phương tiện dạy học, giáo dục đáp ứng

nhu cầu nâng cao hiểu biết về di sản cho học sinh.
Di sản cần phải sống đúng nghĩa trong cộng đồng dân cư tại chỗ là một yếu tố
thiết thực nhất, có ý nghĩa đối với sự phát triển bền vững. Bảo tồn và phát huy có tác
động qua lại với nhau. Thiên nhiên được ổn định sẽ đảm bảo cho an toàn của di sản
vịnh Hạ Long. Ngày nay, việc bảo tồn, tôn tạo, quản lí, khai thác, sử dụng, phát huy
giá trị di sản là trách nhiệm của toàn xã hội. Cần đẩy mạnh xã hội hóa, công tác quản
lý, khai thác hay tôn vinh di sản vịnh Hạ Long để khuyến khích các thành phần kinh tế
tham gia nhằm tạo ra nguồn lực tài chính phong phú và đa dạng hóa các loại hình dịch
vụ để bảo tồn và khai thác có hiệu quả bền vững.
Trong cuốn “Khu di tích Lịch sử Bạch Đằng” của Ban quản lí các di tích trọng
điểm Quảng Ninh, NXB khoa học xã hội, năm 2011: đã nói lên khu di tích lịch sử chiến
thắng Bạch Đằng có mối quan hệ mật thiết với khu di tích Yên Tử (Uông Bí) - Đông
Triều - Vân Đồn. Bạch Đằng là nơi ba lần ghi dấu chiến công của quân và dân Đại Việt,
trận chiến năm 938 của Ngô Quyền, năm 981 của Lê Hoàn, đặc biệt là chiến thắng năm
1288 của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Đông Triều - Yên
Tử là kinh đô Phật giáo, là trung tâm Văn hoá tiêu biểu của nước Đại Việt thời Trần. Khu
di tích thương cảng Vân Đồn là trung tâm giao lưu Kinh tế, Văn hoá quốc tế, nơi chiến
lược có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ an ninh vùng Đông Bắc.
Trong cuốn “Di tích Lịch sử - văn hóa nhà Trần tại Đông Triều” của Ban quản
lí các di tích trọng điểm Quảng Ninh – NXB khoa học xã hội, năm 2010: Đông Triều
là vùng đất có nhiều Di tích lịch sử, văn hóa của các thời kỳ lịch sử. Nổi bật nhất là hệ
thống các Di tích lăng mộ, đền, miếu, chùa, tháp thời Trần với kiến trúc độc đáo, bên
trong ẩn chứa một kho tàng tư liệu Hán Nôm quý báu gồm hoành phi, văn bia, câu đối,
đại tự, sắc phong... trong đó có nhiều di tích đã được xếp hạng là di tích lịch sử - văn
hóa cấp quốc gia. Đặc biệt là khu di tích Đền thờ và Lăng miếu các vua Trần đã được

10


Bộ Văn hóa xếp hạng đặc cách là Di tích cấp quốc gia năm 1962. Với nhà Trần, Đông

Triều không chỉ là quê gốc mà còn là một trung tâm văn hóa - tâm linh tiêu biểu và
đặc sắc. Do vậy nhà Trần đã chọn vùng đất này để xây dựng lăng mộ cho 11 vị Tiên
đế cùng với nhiều công trình tôn giáo linh thiêng khác.
Trong cuốn “Di tích Lịch sử - văn hóa và danh thắng Yên Tử” của Ban quản lí
các di tích trọng điểm Quảng Ninh - NXB khoa học xã hội, năm 2011: Một trong
những dấu ấn văn hoá đặc sắc mà các triều đại phong kiến Việt Nam đã để lại cho dân
tộc ta là di sản Thiền học của Phật giáo thời Trần: Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do
vua Trần Nhân Tông sáng lập - một thiền phái Phật giáo mang đậm bản sắc văn hoá
của dân tộc Việt Nam.
Đây là những minh chứng lịch sử còn lại của cả thời đại Lý - Trần, thời đại vẻ
vang nhất, hưng thịnh nhất của phật giáo trong lịch sử phong kiến Việt Nam . Với
những giá trị đặc biệt đó, tất cả những công trình kiến trúc và cảnh quan quanh đỉnh
núi Yên Tử đã tạo thành khu di tích lịch sử - danh thắng Yên Tử.
Nói tóm lại, các công trình trong và ngoài nước đã đề cập đến việc nghiên cứu
các di tích văn hóa nói chung và di sản văn hóa nói riêng qua nhiều cách tiếp cận. Tuy
nhiên, bàn về các điều kiện giáo dục, dạy học, nhìn chung các tài liệu về lý luận dạy
học, giáo dục chung, đại cương và tài liệu về lý luận dạy học bộ môn hầu như mới chỉ
đề cập đến một bộ phận của di sản văn hóa là di tích lịch sử - văn hóa. Các tác giả chưa
tập trung vào nghiên cứu chuyên đề riêng cho các di tích quốc gia đặc biệt. Các di tích
quốc gia đặc biệt không chỉ có di sản văn hóa, di tích lịch sử - văn hóa mà còn có danh
lam thắng cảnh, di vật, cổ vật bảo vật quốc gia. Hơn nữa, các tài liệu chưa đề cập đến
điều kiện, phương tiện dạy học là các di tích. Di sản văn hóa chưa được coi là nguồn
kiến thức quan trọng và bổ ích trong quá trình học tập của HS. Di sản văn hóa với vai
trò là nguồn kiến thức giáo dục nhằm hình thành kĩ năng sống cho HS vẫn chưa được
quan tâm. Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của các nhà nghiên cứu chúng tôi tiếp
tục hoàn thiện nội dung nghiên cứu của luận văn “ sử dụng các di tích quốc gia đặc
biệt trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT tỉnh Quảng Ninh”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Trên cơ sở khẳng định vai trò ý nghĩa của việc sử dụng các di tích quốc gia

đặc biệt trong dạy học lịch sử địa phương, luận văn đi sâu vào tìm hiểu nội dung các
di tích quốc gia đặc biệt của Quảng Ninh và đề xuất hình thức, biện pháp sử dụng.

11


- Sử dụng các di tích quốc gia đặc biệt trong dạy học lịch sử địa phương nhằm
tạo ra hứng thú học tập của học sinh, phát triển tư duy độc lập sáng tạo, giáo dục
tư tưởng, đạo đức cho học sinh.
- Góp phần cung cấp cho giáo viên và học sinh cách hiểu đầy đủ hơn về các
di tích quốc gia đặc biệt và giá trị của nó. Từ đó có cách tiếp cận khai thác các di tích
quốc gia đặc biệt trong dạy và học nhằm tạo cho học sinh ý thức gìn giữ, bảo vệ
các di tích quốc gia đặc biệt, góp phần xây dựng quê hương.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn có nhiệm vụ để thực hiện mục đích trên, đề tài cần thực hiện các nội
dung cụ thể về việc sử dụng các di sản văn hóa nói chung, di tích quốc gia đặc biệt nói
riêng trong dạy học lịch sử địa phương.
Tìm hiểu chương trình nội dung lịch sử địa phương và nội dung các di tích quốc
gia đặc biệt ở Quảng Ninh từ đó đề xuất hình thức, biện pháp sử dụng các di tích quốc
gia đặc biệt trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT tỉnh Quảng Ninh. Nhằm
góp phần từng bước nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn trên địa bàn tỉnh.
Thực nghiệm sư phạm một số bài trong chương trình (nội, ngoại khóa) để làm
cơ sở cho việc rút ra các kết luận khoa học về việc sử dụng các di tích quốc gia đặc
biệt trong dạy học lịch sử địa phương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.2.Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là qua trình sử dụng các di tích quốc gia
đặc biệt trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT tỉnh Quảng Ninh
4.2. Phạm vi
Đề tài giới hạn trong việc tìm hiểu về các di tích quốc gia đặc biệt và sử dụng

các di tích quốc gia đặc biệt trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT tỉnh
Quảng Ninh. Triển khai dạy ở một số bài học cụ thể của chương trình lịch sử địa
phương ở trường THPT cho đối tượng là học sinh trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Đề tài cũng tiến hành điều tra khảo sát các trường tiêu biểu cho các vùng miền
của tỉnh Quảng Ninh và tiến hành thực nghiệm sư phạm.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là lí luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác giáo dục

12


nói chung, giáo dục lịch sử ở nhà trường THPT nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu các tài liệu tâm lí học, giáo dục học, các tài liệu giáo dục lịch sử,
tài liệu lịch sử văn hóa, khảo cổ học có liên quan đến đề tài; Điều tra cơ bản bằng
phiếu đối với giáo viên lịch sử và học sinh một số trường THPT trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh về việc sử dụng các di tích quốc gia đặc biệt trong dạy học lịch sử địa
phương; Nghiên cứu phân phối chương trình lịch sử địa phương ở cấp THPT để lựa
chọn các di tích quốc gia đặc biệt sử dụng trong quá trình tổ chức dạy học; Khai thác
nội dung lịch sử của các di tích quốc gia đặc biệt và đề xuất hình thức biện pháp sử
dụng trong dạy học lịch sử địa phương; Tiến hành thực nghiệm sư phạm một số bài
học lịch sử địa phương nội khóa ở trên lớp và hoạt động ngoại khóa để rút ra những
kết luận về việc sử dụng các di tích quốc gia đặc biệt trong quá trình dạy học cũng như
tổ chức cho học sinh học tập với các di tích quốc gia đặc biệt trong dạy học lịch sử địa
phương ở trường THPT trong tình hình hiện nay.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu giáo viên khai thác những giá trị của các di tích quốc gia đặc biệt để tích hợp,
liên hệ trong dạy học lịch sử địa phương sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ

môn, góp phần bồi dưỡng lòng yêu quê hương đất nước, hình thành nhân cách cho học
sinh. Qua đó các em mới phát huy ý thức gìn giữ, bảo vệ các di tích quốc gia đặc biệt từ
đó tạo cảm nhận đam mê yêu thích lịch sử, nâng cao nhận thức là bước giáo dục tư tưởng
tình cảm, giáo dục truyền thống văn hóa lịch sử cho học sinh rất hiệu quả.
Nêu giáo viên tổ chức cho các các em học sinh tham quan học tập trãi nghiệm
tại các di tích quốc gia đặc biệt ở địa phương sẽ góp phần giáo dục truyền thống văn
hóa cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương nói riêng và giáo dục truyền thống
văn hóa lịch sử cho học sinh nói chung sẽ tạo sự chuyển biến trong nhận thức từ đó
các em có cách nhìn cách nghĩ và dẫn đến hành động có tác động tích cực, góp phần
cho sự phát triển của quê hương đất nước.
7. Đóng góp của luận văn
Góp phần khẳng định vị trí ý nghĩa, tầm quan trọng của việc sử dụng các di tích
quốc gia đặc biệt trong dạy học nói chung, trong dạy học bộ môn lịch sử ở trường
THPT nói riêng.
Phác họa bức tranh thực tiển về sử dụng các di tích lịch sử văn hóa nói chung

13


và di tích quốc gia đặc biệt nói riêng trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT
tỉnh Quảng Ninh. Xác định nội dung lịch sử thể hiện qua việc sử dụng các di tích quốc
gia đặc biệt trong dạy học. Qua đó đề xuất hình thức, biện pháp sử dụng các di tích
quốc gia đặc biệt trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT tỉnh Quảng Ninh.
Trên cơ sở của việc khảo sát thực trạng về việc sử dụng các di tích quốc gia đặc
biệt trong quá trình dạy học, có những đề xuất trao đổi cùng các đồng nghiệp trong việc
tổ chức dạy học nói chung, tổ chức sử dụng các di tích quốc gia đặc biệt nói riêng, góp
phần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng “phát huy tính tích cực”, “phát triển
năng lực” của học sinh từ đó mà từng bước nâng cao hiệu quả quá trình dạy học.
Đề tài cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản giá trị của các di tích quốc
gia đặc biệt cũng như kiến thức về địa phương nơi mình đang sinh sống học tập. Từ

đó giáo dục , bồi dưỡng cho các em tình yêu, niềm tự hào về quê hương, ý thức xây
dựng bảo vệ quê hương đất nước.
8. Ý nghĩa của luận văn
Về mặt lí luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú lí
luận và phương pháp dạy học bộ môn về việc sử dụng sử dụng các di tích quốc gia
đặc biệt để giáo dục truyền thống văn hóa cho học sinh trong dạy học lịch sử địa
phương ở trường THPT tỉnh Quảng Ninh.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp bản thân và đồng nghiệp
vận dụng một cách linh hoạt và có hiệu quả việc tổ chức sử dụng đồ dùng trực quan nói
chung, các di tích quốc gia đặc biệt nói riêng trong quá trình dạy học. Đặc biệt trong
dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Việc thực hiện nội dung dạy học
trãi nghiệm qua các di tích quốc gia đặc biệt nhằm từng bước nâng cao hiệu quả dạy học
lịch sử, góp phần bồi dưỡng niềm tin, tình yêu quê hương đất nước cho học sinh.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương:
Chương 1:
Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng các di tích quốc gia đặc biệt
trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT tỉnh Quảng Ninh.
Chương 2:
Hình thức và các biện pháp sử dụng các di tích quốc gia đặc biệt trong dạy
học lịch sử địa phương ở trường THPT tỉnh Quảng Ninh. Thực nghiệm sư phạm.

14


CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÁC DI TÍCH
QUỐC GIA ĐẶC BIỆT TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở
TRƯỜNG THPT TỈNH QUẢNG NINH
1.1. Cơ sở lí luận

1.1.1. Các khái niệm cơ bản có liên quan đến đề tài
-Di sản: Theo nghĩa ban đầu di là để lại; sản là tài sản. Vậy nên, di sản là những
tài sản của con người trong quá khứ để lại cho hậu thế. Những tài sản đó gắn với đời
sống của con người đương thời. Thông qua đó, nó phản ánh những hoạt động, đời
sống kinh tế, xã hội, văn hóa của con người qua các thời kì lịch sử.
-Di sản văn hóa là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. (Di sản văn hóa phi vật thể là sản
phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên
quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không
ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền
miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác. Di sản văn hóa vật thể là sản
phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa,
danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia).
- Di sản văn hoá vật thể là một bộ phận của văn hoá nhân loại, thể hiện dưới hình
thức vật chất; là kết quả của hoạt động sáng tạo, biến những vật và chất liệu trong thiên
nhiên thành những đồ vật có giá trị sử dụng và thẩm mĩ nhằm phục vụ cuộc sống con người.
Di sản văn hóa vật thể bao gồm: Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng,
địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị
lịch sử, văn hóa, khoa học; Danh lam thắng cảnh còn gọi là di sản thiên nhiên là cảnh
quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công
trình kiến trúc có giá trị lịch sử thẩm mỹ, khoa học; Di vật là hiện vật được lưu truyền
lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học; Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị
tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên; Bảo vật quốc
gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước
về lịch sử, văn hóa, khoa học.
- Di sản văn hóa phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện,
biểu đạt, tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các
không gian văn hóa có liên quan mà cộng đồng, các nhóm và trong một số trường hợp là

15



các cá nhân, công nhận là một phần DSVH của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang
thế hệ khác, DSVH phi vật thể được cộng đồng và các nhóm không ngừng tái tạo để
thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử
của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích
lệ thêm sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người”
Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm: Tiếng nói, chữ viết của các dân tộc Việt
Nam; Ngữ văn dân gian, bao gồm: Sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, hò, vè, câu đố,
truyện cổ tích, truyện trạng, truyện cười, truyện ngụ ngôn, hát ru và các biểu đạt khác
được chuyển tải bằng lời nói hoặc ghi chép bằng chữ viết; Nghệ thuật trình diễn dân
gian, bao gồm: Âm nhạc, múa, hát, sân khấu và các hình thức trình diễn dân gian khác;
Tập quán xã hội, bao gồm luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi lễ và các
phong tục khác; Lễ hội truyền thống; Nghề thủ công truyền thống; Tri thức dân gian.
- Di tích lịch sử là những dấu vết còn lại của con người trong tiến trình lịch sử.
Lịch sử là bản thân hiện thực khách quan, với tất cả những sự kiện, hiện tượng đã xảy
ra trong quá khứ. Từ khi con người xuất hiện trên trái đất, trải qua hàng triệu năm đấu
tranh vì sự sinh tồn và phát triển, con người đã để lại những tài sản quý báu. Những tài
sản này là những dấu vết, minh chứng cho quá khứ có thật của con người. Nó chính là
bằng chứng của dĩ vãng, nhằm mục đích bảo tồn quá khứ hoặc chỉ dẫn cho hậu thế về
những sự việc xảy ra trong quá khứ.
- Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
Di tích lịch sử - văn hóa phải có một trong các tiêu chí sau đây: Công trình xây
dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử, văn hóa tiêu biểu của quốc gia hoặc của địa
phương; Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng
dân tộc, danh nhân, nhân vật lịch sử có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của
quốc gia hoặc của địa phương trong các thời kỳ lịch sử; Địa điểm khảo cổ có giá trị
tiêu biểu; Công trình kiến trúc, nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc đô
thị và địa điểm cư trú có giá trị tiêu biểu cho một hoặc nhiều giai đoạn phát triển kiến

trúc, nghệ thuật.”
- Di vật là hiện vật được lưu truyền lại có giá trị lịch sử văn hóa, khoa học.
- Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại có giá trị tiêu biểu về lịch sử văn hóa,
khoa học có từ một trăm năm tuổi trở lên. Trong mỗi một di tích lịch sử bao gồm
nhiều cổ vật như đồ thờ tự, hoành phi, câu đối, sắc phong ….

16


- Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại có giá trị đặc biệt quý hiếm
tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học. Ví dụ: Tượng Phật bà nghìn tay
nghìn mắt (Chùa Bút Tháp), Tượng Phật A-di-đà (Chùa Phật Tích).
Bảo vật quốc gia gồm các tiêu chí sau: Là hiện vật gốc độc bản; Là hiện vật có
hình thức độc đáo; Là hiện vật có giá trị đặc biệt liên quan đến một sự kiện trọng đại của
đất nước hoặc liên quan đến sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân tiêu biểu; hoặc
là tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng về giá trị tư tưởng, nhân văn, giá trị thẩm mỹ tiêu biểu
cho một khuynh hướng, một phong cách, một thời đại; hoặc là sản phẩm được phát
minh, sáng chế tiêu biểu, có giá trị thực tiễn cao, có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển ở
một giai đoạn lịch sử nhất định; hoặc là mẫu vật tự nhiên chứng minh cho các giai đoạn
hình thành và phát triển của lịch sử trái đất, lịch sử tự nhiên.
-Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa
cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử thẩm mỹ, khoa học.
Di tích quốc gia đặc biệt bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh.
-Lịch sử địa phương: Theo PGS – TS Nguyễn Cảnh Minh và Đỗ Hồng Thái:
Muốn hiểu đúng khái niệm “Lịch sử địa phương” trước hết ta cần hiểu thuật ngữ “địa
phương” trong Tiếng Việt. “Địa phương là những vùng, khu vực trong quan hệ với
những vùng và khu vực khác trong nước”. Như vậy địa phương là những vùng đất
nhất định nằm trong quốc gia có những sắc thái đặc thù riêng để phân biệt với những
vùng đất khác, là bộ phận cấu thành của đất nước. địa phương hiểu theo nghĩa cụ thể,
là những đơn vị chính của một quốc gia, đó là những tỉnh, thành phố, huyện, xã, thôn,

bản, làng, buôn, ấp .v.v... Với nghĩa khái quát, trừu tượng, địa phương được hiểu là
những vùng đất, khu vực nhất định được hình thành trong lịch sử, có ranh giới tự
nhiên (không giống địa giới hành chính) để phân biệt với các vùng đất khác. Nhưng
cũng có ý kiến quan niệm theo cách đơn giản là: tất cả những gì không phải của
“Trung ương” hay “Quốc gia” đều được coi là địa phương. Như vậy thủ đô của một
quốc gia hay từng khu vực của thủ đô được xem là địa phương. Từ nhận thức như vậy,
ta có thể hiểu được lịch sử địa phương cũng chính là lịch sử của các làng, xã, huyện,
tỉnh hay khu vực, vùng, miền.
Lịch sử địa phương còn bao hàm ý nghĩa lịch sử của các đơn vị sản xuất chiến
đấu, các trường học, cơ quan, xí nghiệp... Xét về yếu tố địa lý, các đơn vị đó đều gắn
với một địa phương nhất định, song nội dung của nó mang tính kỹ thuật, chuyên môn,
do vậy có thể xếp nó vào dạng lịch sử chuyên ngành. Như vậy, bản thân lịch sử địa

17


phương rất đa dạng, phong phú cả về nội dung và thể loại. Giữa lịch sử địa phương và
lịch sử dân tộc có mối quan hệ đặc biệt. Đây là mối quan hệ biện chứng không thể tách
rời, nằm trong cặp phạm trù “Cái chung và cái riêng”. Tri thức lịch sử địa phương là
biểu hiện cụ thể, sinh động, đa dạng của tri thức lịch sử dân tộc. Lịch sử địa phương là
bộ phận cấu thành lịch sử dân tộc. Nói vậy không có nghĩa một công trình nghiên cứu
lịch sử dân tộc là kết quả của phép tính cộng các cuốn lịch sử địa phương. Lịch sử dân
tộc được hình thành trên nền tảng khối lượng tri thức lịch sử địa phương đã được khái
quát và tổng hợp ở mức độ cao.
Trong nghiên cứu lịch sử, chúng ta thấy rằng, bất cứ một sự kiện, hiện tượng nào
xảy ra đều mang tính chất địa phương, bởi nó gần với một vị trí không gian cụ thể ở
một hoặc một số địa phương nhất định. Tuy nhiên những sự kiện, hiện tượng đó có
tính chất, quy mô, mức độ ảnh hưởng khác nhau. Có những sự kiện, hiện tượng chỉ có
tác dụng, ảnh hưởng ở một phạm vi nhỏ hẹp của địa phương, nhưng có những sự kiện,
hiện tượng xảy ra có mức độ ảnh hưởng vượt khỏi không gian địa phương, mang ý

nghĩa rộng đối với quốc gia, thậm chí đối với cả thế giới. Chính vì vậy, có những sự
kiện lịch sử địa phương gắn liền với lịch sử dân tộc hoặc rộng hơn là lịch sử thế giới.
Không chỉ riêng các nhà sử học chuyên nghiên cứu sâu về lịch sử, mỗi con người (ở
mức độ khác nhau) đều có nhu cầu tìm hiểu về cuộc sống và những hoạt động của
chính mình ở những khoảng thời gian và những vị trí không gian khác nhau. Tri thức
lịch sử sẽ làm giàu thêm tri thức của cuộc sống con người. Chính vì lẽ đó, sự am tường
về lịch sử dân tộc còn bao hàm cả sự hiểu biết cần thiết về lịch sử địa phương, hiểu
biết về lịch sử của chính miền quê, xứ sở, nơi chôn nhau cắt rốn của mình, hiểu rõ mối
quan hệ của lịch sử ở địa phương với lịch sử của dân tộc và rộng lớn là lịch sử thế giới.
1.1.2. Các loại di tích, đặc điểm
1.1.2.1. Di tích cấp tỉnh
Di tích cấp tỉnh là di tích có giá trị tiêu biểu của địa phương, bao gồm:
Công trình xây dựng, địa điểm ghi dấu sự kiện, mốc lịch sử quan trọng của địa
phương hoặc gắn với nhân vật có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của địa phương
trong các thời kỳ lịch sử;
Công trình kiến trúc, nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc đô thị và
địa điểm cư trú có giá trị trong phạm vi địa phương;
Địa điểm khảo cổ có giá trị trong phạm vi địa phương;
Cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên
với công trình kiến trúc, nghệ thuật có giá trị trong phạm vi địa phương.
1.1.2.2.Di tích quốc gia

18


×