Tải bản đầy đủ (.doc) (138 trang)

TÍCH hợp GIÁO dục PHÁP LUẬT TRONG môn GIÁO dục CÔNG dân ở TRUNG học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (530.4 KB, 138 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

HÀ ĐỨC KIÊM

TÍCH HỢP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
TRONG MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Ở TRUNG HỌC CƠ SỞ

Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp giảng dạy giáo dục chính trị
Mã số: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TRỌNG HOÀN

HÀ NỘI, NĂM 2014


CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10


11
12
13
14

VIẾT TẮT
HS
GV
GD & ĐT
PPDH
SGK
TW
THCS
GDCD
CNH, HĐH
ĐHSP
NXB
SGV
CHXHCNVN
PL

NỘI DUNG
Học sinh
Giáo viên
Giáo dục và đào tạo
Phương pháp dạy học
Sách giáo khoa
Trung ương
Trung học cơ sở
Giáo dục công dân

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đại học sư phạm
Nhà xuất bản
Sách giáo viên
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Pháp luật



MỤC LỤC



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỷ 21, thế kỷ được coi là của khoa học, công nghệ, kỹ thuật
và thông tin thời đại của kinh tế tri thức con người chúng ta cũng đang đứng
trước vận mệnh và sự thay đổi lớn lao để theo kịp những thành tựu và sự phát
triển đó. Người ta không thể phủ nhận rằng giáo dục có vai trò vô cùng quan
trọng trong tiến trình phát triển kinh tế của một đất nước, một thời đại. Lịch sử
đã chứng minh rằng nước nào có nền giáo dục tiên tiến nước đó sẽ phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nói: Muốn có xã hội chủ nghĩa, trước
hết phải có con người xã hội chủ nghĩa. Giáo dục cho học sinh, sinh viên lòng
yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có bản lĩnh vững vàng, có tư duy sáng tạo và
năng lực thực hành giỏi, có chí học tập, rèn luyện để lập thân, lập nghiệp,
vững vàng tiếp bước các thế hệ cha anh, góp phần đưa đất nước đến hưng
thịnh, phú cường.
- Điều 2 của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ xung năm 2001) khẳng
định quan điểm, định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm này được khẳng định tại điều 12 Hiến pháp với nội dung cụ thể:

“Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa”. Điều rất quan trọng để xây dựng nhà nước pháp quyền là
phải đánh giá vai trò đầy đủ của giáo dục pháp luật, thấy nó như một động lực
tư tưởng của con người, một giá đỡ tư tưởng cho con người hành động.
- Điều 27, Luật Giáo dục, năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), cũng
nêu rõ hệ thống môn học và hoạt động giáo dục phải góp phần giúp HS “phát
triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, các kĩ năng cơ bản, phát
triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân,
chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham
gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

1


- Và theo quyết định số 1928/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
20/11/2009 phê duyệt Đề án: “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật trong nhà trường”. Hay còn gọi là đề án 1928 mục tiêu của đề
án là nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật trong nhà trường. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn
trọng pháp luật và hành vi chấp hành pháp luật của nhà giáo, cán bộ quản lý
cơ sở giáo dục và người học, góp phần ổn định môi trường giáo dục, nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện.
- Chương trình hành động của Bộ GD & ĐT thực hiện theo đề án 1928
của Chính phủ triển khai thực hiện có hiệu quả Luật phổ biến, giáo dục pháp
luật; Quyết định 409/QĐ-TTg ngày 09/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ ban
hành Chương trình hành động thực hiện Kết luận số 04-KL/TW ngày
19/4/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX); Quyết định số
1928/QĐ-TTg ngày 20/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà

trường” (Đề án 1928) nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức,
nhà giáo, người lao động, người học trong toàn ngành; góp phần tăng cường
hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục.
- Ngày 13/6/2012 Chính phủ kí Quyết định số 711/QĐ-TTg: Chiến lược
phát triển giáo dục, đào tạo giai đoạn 2011 - 2020. Mục tiêu đến năm 2020,
nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn
hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; chất lượng
giáo dục được nâng cao một cách toàn diện gồm: giáo dục đạo đức, kỹ năng
sống, năng lực sáng tạo, năng lực thực hành, năng lực ngoại ngữ và tin học,
đáp ứng nhu cầu nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế tri thức, đảm
bảo công bằng xã hội trong giáo dục và cơ hội học tập suốt đời cho mỗi người
dân, từng bước hình thành xã hội học tập.

2


- Tại Hội nghị lần thứ 8 ngày 4/11/2013, Ban chấp hành TW Đảng khóa
XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) nêu rõ: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
- Dự thảo đổi mới chương trình SGK phổ thông sau năm 2015 với mục tiêu
đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ chương trình giáo dục tất cả các bậc học, ngành
học phổ thông theo yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực người học; đổi mới
căn bản hình thức và phương pháp kiểm tra, thi và đánh giá chất lượng giáo dục,
bảo đảm trung thực, khách quan theo yêu cầu phát triển năng lực, phẩm chất
người học…
Và trong các văn kiện của các lần Đại hội Đảng thì Đảng ta cũng xác
định “khoa học công nghệ cùng với giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu”.
Do đó hằng năm luôn dành một khoản ngân sách khá lớn dành cho giáo dục

và đào tạo chiếm khoảng 20% GDP của cả nước.
Tuy nhiên chất lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo còn thấp so với yêu cầu,
nhất là giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào
tạo còn thiếu liên thông giữa các trình độ, giữa các cấp học và giữa các
phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo
thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của
thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức tới giáo dục đạo đức, lối sống,
kỹ năng làm việc, kiến thức pháp luật cho các em. Phương pháp giáo dục,
việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất. Chương
trình sách giáo khoa hiện nay có nhiều nội dung chưa thực tế dẫn đến tâm lý
thụ động, chán nản cho học sinh trong quá trình học tập.

3


Đối với các em ở trong các trường phổ thông đặc biệt là các em học sinh
ở cấp Trung học cơ sở nơi các em đang ngưỡng sắp bước vào độ tuổi của vị
thành niên có nhiều sự thay đổi về mặt tâm sinh lý. Việc giáo dục pháp luật
cho các em trong giai đoạn này có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong việc
hình thành nhân cách sống sau này của các em. Do đó vai trò giáo dục pháp
luật của gia đình, nhà trường có vai trò rất quan trọng đặc biệt là phương pháp
giáo dục pháp luật của các thầy cô giáo trong nhà trường sẽ giúp trang bị cho
các em kiến thức ban đầu về quyền, nghĩa vụ của công dân, rèn luyện thói
quen, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật cho các em.
Chương trình giáo dục hiện nay ở nước ta chưa có môn học pháp luật
riêng cho các em HS mà việc giáo dục pháp luật cho HS là vô cùng cần thiết
vì vậy nếu tích hợp giáo dục pháp luật trong môn học sẽ góp phần giảm tải
môn học cho các em học sinh ở THCS.
Đồng thời với việc góp phần giáo dục pháp luật cho các em học sinh
còn nhằm giảm tải khối lượng các môn học mà vẫn cung cấp cho các em

đầy đủ các kiến thức thức ban đầu về quyền, nghĩa vụ của công dân, rèn
luyện thói quen, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật cho các em giúp
các em sau này có thể làm được gì chứ không phải học được gì như trước
đây nữa thì cần phải có cách tiếp cận mới, phương pháp giáo dục mới. Với
những lý do trên tôi quyết định chọn đề tài “ Tích hợp giáo dục pháp luật
trong môn Giáo dục công dân ở Trung học cơ sở” làm đề tài nghiên cứu
cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu

4


Lý thuyết tích hợp là một triết lý được Ken Wilber đề xuất. Lý thuyết
tích hợp là tìm kiếm sự tổng hợp tốt nhất thực hiện. Nó được hình dung như là
một lý thuyết về mọi sự vật và cung cấp một đường hướng kết hợp nhiều mô
thức rời rạc hiện tại thành một mạng hoạt động phức hợp, tương tác nội tại
của nhiều cách tiếp cận. Lý thuyết tích hợp đã được nhiều nhà thực hành lý
thuyết áp dụng trong hơn 35 lĩnh vực chuyên môn và học thuật khác nhau.
Vậy chương trình tích hợp chính xác là gì? Trong khái niệm đơn giản
nhất của nó theo Drake and Burns thì đó là liên quan đến việc tạo lập các kết
nối, các mối liên hệ, các loại kết nối nào? Xuyên qua các môn học? Với đời
sống thực tế? Các kết nối này dựa trên các kiến thức, nội dung hay dựa trên
kỹ năng, năng lực.
Tích hợp trong dạy học đã trở thành một trào lưu sư phạm hiện đại bên
cạnh các phương pháp dạy học truyền thống khác như giải quyết vấn đề, hợp
đồng, phân hóa, dự án hay thuyết trình… Theo thống kê của tổ chức văn hóa,
giáo dục của Liên hợp quốc Unesco từ những năm 1960 đến 1974 đã có 208
chương trình môn học thể hiện quan điểm tích hợp ở các mức độ khác nhau từ
tích hợp liên môn, tích hợp xuyên môn, tích hợp đa môn đến tích hợp hoàn
toàn theo chủ đề. Từ năm 1960 đã có nhiều hội nghị bàn về việc phát triển

chương trình dạy học theo hướng tích hợp. Năm 1981 một tổ chức quốc tế đã
được thành lập để cung cấp các thông tin về các chương trình dạy học tích
hợp nhằm thúc đẩy việc áp dụng quan điểm dạy học theo hướng tích hợp
trong việc thiết kế chương trình dạy học các môn khoa học trên thế giới.

5


Từ đó có thể thấy tích hợp là một trong những quan điểm xây dựng dạy
học của nhiều nước phương Tây và các nước tư bản phát triển từ lâu. Ví dụ:
Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, tài liệu giới thiệu về chương trình
(Curriculum A comprehensive) của Mỹ đã dành hẳn một mục bàn về vấn đề
tích hợp trong các cơ hội học tập. Tài liệu này khẳng định rằng tích hợp nội
dung giáo dục trong chương trình giáo dục là nhằm đáp ứng mong muốn làm
cho chương trình giáo dục thích ứng với các yêu cầu của xã hội, làm cho
chương trình giáo dục đó trở nên có ý nghĩa hơn.
Ở Pháp thì nhà sư phạm Xavier Roegiers đã tổng hợp thành tài liệu:
“Khoa sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển các năng lực ở nhà
trường”. Trong đó tác giả đã phân tích các căn cứ để dẫn tới làm thế nào để
tích hợp trong dạy học, từ lý thuyết về các quá trình về học tập, lý thuyết về
quá trình dạy học, các phương pháp xây dựng chương trình dạy học theo quan
điểm tích hợp tới định nghĩa, mục tiêu của khoa sư phạm tích hợp, ảnh hưởng
của cách tiếp cận này tới việc xây dựng chương trình giáo dục, tới mô hình
xây dựng sách giáo khoa và đánh giá kết quả học tập của học sinh…
Một nghiên cứu của Viện khoa học giáo dục Việt Nam về chương trình
giáo dục phổ thông ở 20 nước phát triển cho thấy 100% các nước đó đều xây
dựng chương trình dạy học theo hướng tích hợp.
Từ đó có thể thấy các nước trên thế giới từ lâu đã chú ý và vận dụng đưa dạy
học theo hướng tích hợp vào giảng dạy đây cũng là xu thế của giáo dục hiện đại.
2.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam về tích hợp và tích hợp giáo dục


6


Ở nước ta thì tư tưởng về tích hợp cũng đã bắt đầu được nghiên cứu và
được áp dụng trong các lĩnh vực khác nhau như trong nghiên cứu và ứng dụng
của các khoa học cơ bản, kỹ thuật, trong công nghệ thông tin... Còn trong lĩnh
vực sư phạm thì tư tưởng về tích hợp cũng đã được nghiên cứu và vận dụng
để xây dựng chương trình giảng dạy, sách giáo khoa và vận dụng vào thực tế
đổi mới phương pháp dạy học của nhiều môn.

7


Có nhiều tác giả tiêu biểu quan tâm đến vấn đề này có thể kể tới như:
Trần Bá Hoành (2006), Dạy học tích hợp, Tạp chí Khoa học giáo dục số 12/
2006. Nguyễn Trọng Hoàn (ch.b), Bùi Ngọc Diệp, Nguyễn Thuý Hồng
(2011), Hướng dẫn tích hợp nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh cấp Trung học cơ sở - Tái bản lần thứ 1, NXB Giáo dục. Hay
Nguyễn Thị Hồng Vân – Hà Nội (2006): Hệ thống đề kiểm tra nhằm đánh giá
năng lực ngữ văn của học sinh Trung học cơ sở theo yêu cầu tích hợp, Luận
án Tiến sĩ Giáo dục học. Lê Thanh Sử, Lê Văn Cầu (2011), Hướng dẫn tích
hợp nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cấp Trung học cơ sở, NXB Giáo dục.
Bùi Anh Tú, Lê Anh Tuấn (2011), Dạy học tích hợp nội dung học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh môn âm nhạc - Trung học cơ sở, NXB
Giáo dục. Còn Chu Thị Phương (2009), Trương Dĩnh (2003) với đề tài:
Nghiên cứu và vận dụng quan điểm tích hợp vào giảng dạy môn Tiếng Việt ở
Tiểu học và môn văn học ở THCS hay Ngô Thị Thủy với đề tài, Đổi mới
phương pháp dạy học môn công nghệ lớp 12 theo quan điểm tích hợp… Các

tác giả đã phân tích bản chất của khái niệm, bản chất của dạy học theo quan
điểm tích hợp, các xu thế và giải pháp vận dụng quan điểm tích hợp trong xây
dựng các chương trình môn học và vận dụng các quan điểm này vào dạy học
các môn học cụ thể. Các tác giả cũng đã khai thác, phân tích tính chất tích hợp
thể hiện trong sách giáo khoa và nêu giải pháp cho giáo viên vận dụng các
phương pháp dạy học thích hợp để khai thác các nội dung, ý tưởng trong sách
giáo khoa giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách vững chắc.

8


Như vậy vấn đề tích hợp trong giáo dục là một vấn đề đã được các nước
trên thế giới đề cập đến từ lâu. Phương pháp trên thực sự có hiệu quả trong
giáo dục và bắt đầu được các học giả giáo dục trong nước quan tâm đến.
Phương pháp này bước đầu đã được áp dụng trong một số nội dung dạy học
cụ thể của các môn học khác nhau và tỏ ra khá hiệu quả đáp ứng được yêu cầu
đổi mới giáo dục hiện nay.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm xác định một số phương pháp dạy
học nhằm tích hợp nội dung giáo dục pháp luật trong môn GDCD ở THCS
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục pháp luật cho HS ở THCS
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu nội dung, phương pháp
dạy học tích hợp giáo dục pháp luật trong môn GDCD ở THCS.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực
tiễn của giáo dục pháp luật trong môn GDCD ở THCS, trên cơ sở đó đề xuất
một số nội dung và phương pháp tích hợp giáo dục pháp luật trong môn
GDCD ở THCS và tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm xác định tính khả
thi của đề tài.
4. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của tích hợp giáo dục pháp

luật trong môn GDCD ở THCS.
- Nghiên cứu thực trạng tình hình giáo dục pháp luật hiện nay thông qua
khảo sát ở một số trường THCS, nghiên cứu nội dung và phương pháp tích
hợp giáo dục pháp luật trong môn GDCD ở THCS sau đó tiến hành thực
nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi của đề tài đó là những luận điểm
cơ bản của đề tài.

9


- Đóng góp mới của tác giả là đề tài đã làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực
tiễn của việc tích hợp giáo dục pháp luật trong môn GDCD ở THCS. Thực
trạng của việc giáo dục pháp luật trong môn học GDCD ở THCS hiện nay
đồng thời phân tích sự cần thiết phải tích hợp nội dung giáo dục pháp luật và
phương pháp tích hợp giáo dục pháp luật trong môn học GDCD ở THCS.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chung của luận văn là vận dụng phương pháp luận của dạy
học tích hợp để tích hợp giáo dục pháp luật trong môn GDCD ở THCS.
Đồng thời tác giả cũng sử dụng nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
như tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Và nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn như khảo sát, điều tra, quan
sát, tổng hợp, phỏng vấn, trao đổi...
Cuối cùng là sử dụng phương pháp thực nghiệm khoa học xem xét tính khả
thi và hiệu quả của các phương pháp sư phạm đã đề xuất.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục thì
kết cấu luận văn được chia thành ba chương và mười tiết cùng các tiểu tiết:

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÍCH HỢP GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT TRONG MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở
TRUNG HỌC CƠ SỞ

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Vấn dề tích hợp trong giáo dục

10


Tích hợp là một khái niệm rất rộng được dùng trong nhiều lĩnh vực khác
nhau không phải chỉ trong lý luận dạy học như công nghệ thông tin, truyền
thông, điện, điện tử...
Tích hợp (Intergration) có nguồn gốc từ tiếng Latinh là xác lập lại cái
chung, cái toàn thể, cái thống nhất trên cơ sở những bộ phận riêng lẻ.
Còn theo từ điển tiếng Anh- Anh thì “Intergrate” có nghĩa là kết hợp các
bộ phận với nhau trong một tổng thể. Những phần, những bộ phận này có thể
khác nhau nhưng thích hợp với nhau.
Từ điển bách khoa khoa học giáo dục Cộng hòa liên bang Đức thì nghĩa
chung của Intergrate có hai khía cạnh:
+ Đầu tiên là quá trình xác lập lại cái chung, cái toàn thể, cái thống nhất
từ những cái riêng lẻ.
+ Thứ hai là trạng thái mà cái toàn thể tạo được từ những cái riêng lẻ
Trong lĩnh vực giáo dục trẻ khuyết tật thì Intergrate có nghĩa là tiến hành
tổ chức giáo dục hòa nhập các trẻ em khuyết tật với các trẻ em phát triển bình
thường [30, tr10].
Theo từ điển tiếng Anh thông dụng thì “Intergrate” có nghĩa là sự kết hợp
của nhiều thành tố để tạo ra một thể thống nhất, trọn vẹn và hoàn chỉnh [29, tr 5].
Theo Đại từ điển bách khoa toàn thư Xô viết thì: “Tích hợp là một khái
niệm của lý thuyết hệ thống, chỉ trạng thái liên kết các phần tử riêng rẽ thành

cái toàn thể, cũng như quá trình dẫn đến trạng thái này”.
Còn theo GS.TS Nguyễn Như Ý: “Tích hợp là phương pháp sư phạm tìm
cách thực hiện những mục đích học tập đặt ra cho các môn học khác nhau
trong các bài học của một môn nhất định” [37, tr1567].
Còn từ điển giáo dục học cho rằng: “Tích hợp là sự liên kết các đối
tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực
khác nhau trong cùng một kế hoạch giảng dạy” [34, tr383].

11


Còn theo X. Roegiers: “Tích hợp giáo dục là một quan niệm về quá trình
học tập, trong đó toàn bộ quá trình học tập góp phần hình thành ở học sinh
những năng lực cụ thể, có dự tính trước những điều kiện cần thiết cho học
sinh nhằm phục vụ cho quá trình học tập sau này hoặc giúp học sinh hòa nhập
vào cuộc sống lao động”. Cũng theo hướng tích hợp gắn học và hành thì ông
cho rằng giáo dục nhà trường phải chuyển từ đơn thuần dạy kiến thức sang
phát triển ở học sinh các năng lực hành động, xem năng lực là cơ sở của khoa
sư phạm tích hợp. Và quan điểm chuẩn mực về tích hợp của ông đã được lấy
làm cơ sở cho việc dạy học tích hợp sau này của các quốc gia trên thế giới.
Tóm lại có thể nói tích hợp giáo dục dưới góc độ của của giáo dục học
được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống các kiến thức trong một
môn học hoặc giữa các môn học thành một nội dung thống nhất.
- Trong tích hợp giáo dục thì tùy vào yêu cầu, nội dung của môn học
người ta chia thành các cách tích hợp như:
+ Tích hợp chương trình: là sự liên kết, hợp nhất nội dung các môn học
có nguồn tri thức khoa học và có những quy luật chung, gần gũi nhau. Tích
hợp chương trình nhằm làm giảm bớt số lượng môn học, loại bớt được nhiều
kiến thức trùng lặp nhau, tạo điều kiện để nâng cao chất lượng và hiệu quả
đào tạo [34, tr384].


12


+ Tích hợp các bộ môn: Là quá trình xích lại gần và liên kết các ngành
khoa học lại với nhau trên cơ sở của những nhân tố, những quy luật giống
nhau, chung cho các bộ môn, ngược lại với quá trình phân hóa chúng. Tích
hợp các bộ môn trong giáo dục là thể hiện trình độ phát triển cao của các
ngành khoa học vào nhà trường đồng thời cũng đòi hỏi tất yếu phải nâng cao
chất lượng và hiệu quả của hoạt động giáo dục. Tích hợp các bộ môn trong
dạy học không những làm cho học sinh có kiến thức bao quát về thế giới về
sự vật hiện tượng mà còn giúp người học bồi dưỡng các phương pháp học tập,
nghiên cứu có tính biện chứng lôgic làm cơ sở để đi đến những hiểu biết,
những phát hiện có ý nghĩa khoa học và thực tiễn hơn. Tích hợp bộ môn còn
có tác dụng tiết kiệm thời gian, công sức vì loại bỏ được nhiều điều trùng lặp
trong những nội dung và phương pháp của những bộ môn trùng nhau. Tích
hợp các bộ môn cần được thể hiện trong các chương trình đào tạo và chương
trình dạy học [34, tr383].
- Tích hợp các nội dung môn học cần được thể hiện trong các chương
trình đào tạo trong các ngành học và nó được thể hiện qua cách tích hợp như:
+ Tích hợp dọc: là tích hợp được dựa trên cơ sở lý thuyết hai hay nhiều
bộ môn thuộc cùng một lĩnh vực gần nhau.
+ Tích hợp ngang: là kiểu tích hợp dựa trên cơ sở liên kết các đối tượng
học tập, nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khoa học khác nhau.
+ Tích hợp giảng dạy: là sự tiến hành dạy học theo hướng liên kết, lồng
ghép những tri thức khoa học, những quy luật chung, gần gũi nhau nhằm đạt
yêu cầu trang bị cho người học cách nhìn bao quát đối với nhiều lĩnh vực
khoa học có chung đối tượng nghiên cứu, bên cạnh đó còn phải nắm được
phương pháp xem xét vấn đề một cách biện chứng và lôgic.
+ Tích hợp học tập: là hành động liên kết học tập cùng một lần những kiến

thức khác nhau và những kỹ năng khác nhau về cùng một chủ đề giáo dục.

13


+ Tích hợp kiến thức: là hành động liên kết, kết nối các tri thức khoa học
khác nhau thành một tập hợp kiến thức thống nhất.
+ Tích hợp kỹ năng: là hành động liên kết rèn luyện hai hay nhiều kỹ
năng của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực gần nhau đề nắm vững một thể.
- Theo yêu cầu và đặc trưng của từng môn học người ta chia ra làm bốn
kiểu tích hợp (theo quan điểm của D’ Hainaut) [40, tr47].
+ Quan điểm trong nội bộ môn học (tích hợp trong nội bộ môn học): Ưu
tiên các nội dung của môn học, quan điểm này duy trì các môn học riêng rẽ.
+ Quan điểm đa môn: trong đó đề nghị những tình huống những đề tài
thể hiện được nghiên cứu theo những quan điểm khác nhau, nghĩa là theo
những môn học khác nhau. Theo đó những môn học này tiếp tục được tiếp
cận một cách riêng rẽ và chỉ gặp nhau ở những thời điểm nhất định trong quá
trình nghiên cứu. Rõ ràng là môn học chưa thực sự được tích hợp.
+ Quan điểm liên môn: Trong đó đề xuất những tình huống chỉ có thể
tiếp cận một cách hợp lý qua sự soi sáng của nhiều môn học. Ở đây nhấn
mạnh đến sự liên kết của nhiều môn học làm cho chúng tích hợp với nhau để
giải quyết một tình huống học tập cho trước. Quá trình học tập sẽ không bị rời
rạc mà liên kết với nhau để giải quyết vấn đề.
+ Quan điểm xuyên môn: Nó chủ yếu phát triển kỹ năng mà học sinh có
thể sử dụng trong tất cả các môn học, tất cả các tình huống. Những kỹ năng
này gọi là những kỹ năng xuyên môn. Có thể lĩnh hội tri thức của kỹ năng này
trong từng môn học hoặc qua những hoạt động chung của nhiều môn học.
1.1.2.Vai trò của giáo dục pháp luật
Có nhiều cách kiến giải về vai trò của giáo dục pháp luật. Với điều kiện
thực tế của nước ta hiện nay thì có thể đặt ra các các vai trò của giáo dục pháp

luật như sau:
- Giáo dục pháp luật có vai trò hình thành, làm sâu sắc và từng bước

14


mở rộng hệ thống tri thức pháp luật cho công dân (vai trò nhận thức)
Cấu trúc nhận thức thể hiện ở các trình độ sau: Hình thành tri thức pháp
luật; Mở rộng và làm sâu sắc tri thức pháp luật; Am hiểu thấu đáo pháp luật;
Biết cách đánh giá một cách đúng đắn các hành vi pháp lý.
- Giáo dục pháp luật hình thành lòng tin vào pháp luật (vai trò cảm xúc)
Pháp luật chỉ có thể được mọi người thực hiện nghiêm chỉnh khi họ tôn
trọng, tin tưởng vào những quy định của pháp luật. Pháp luật được xây dựng
là để bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân, đảm bảo lợi ích chung của cộng
đồng, đảm bảo công bằng và dân chủ xã hội. Khi nào người dân nhận thức
đầy đủ được như vậy thì pháp luật không cần cưỡng chế mà mọi người vẫn tự
giác thực hiện.
Vai trò cảm xúc của phổ biến, giáo dục pháp luật bao gồm:
+ Giáo dục tình cảm công bằng là giáo dục cho con người biết đánh giá
về pháp luật, biết xác định các tiêu chuẩn về tính công bằng của pháp luật,
biết quan hệ với người khác trên cơ sở pháp luật.
+ Giáo dục tình cảm trách nhiệm là quá trình làm cho con người được
giáo dục về nghĩa vụ pháp lý cơ bản của mình, tự giác thực hiện các yêu cầu
của pháp luật, hoàn thành không điều kiện những nghĩa vụ pháp lý trong các
mối quan hệ pháp luật với chủ thể bên kia.
+ Giáo dục tình cảm không khoan nhượng đối với những hành vi vi
phạm pháp luật là giáo dục ý thức không thể khoan dung đối với những biểu
hiện chống đối pháp luật.
+ Giáo dục tình cảm pháp chế là quá trình giáo dục nhằm hình thành ý
thức tôn trọng và tự giác thực hiện pháp luật - nguyên tắc xử sự của công dân

trong mối quan hệ với nhau và với cơ quan nhà nước. Điều này có nghĩa là
người được giáo dục phải hình thành ý thức: mọi quyết định của bản thân họ

15


phải dựa trên cơ sở pháp luật.
- Vai trò hình thành động cơ và hành vi tích cực theo pháp luật
Ý thức pháp luật của người dân được hình thành từ hai yếu tố, đó là
tình cảm pháp luật và tri thức pháp luật.
Giáo dục pháp luật nhằm hình thành, củng cố tình cảm tốt đẹp của con
người với pháp luật, đồng thời ngày càng nâng cao sự hiểu biết của con người
đối với các quy định của pháp luật và các hiện tượng pháp luật trong đời sống,
từ đó nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân.
Việc hình thành những thói quen của hành vi hợp pháp do giáo dục pháp
luật mà có thường tồn tại dưới dạng cụ thể sau:
+ Thói quen tuân thủ pháp luật (kiềm chế không làm những gì mà pháp
luật cấm).
+ Thói quen thực hiện nghĩa vụ pháp lý (dùng hành vi tích cực làm
những gì pháp luật quy định phải làm).
+ Thói quen sử dụng pháp luật (sử dụng quyền mà pháp luật cho phép).
Sự hình thành động cơ và hành vi tích cực pháp luật là kết quả cuối cùng
của giáo dục pháp luật. Những vai trò về nhận thức và về tình cảm là phục
vụ cho vai trò hình thành động cơ và hành vi tích cực pháp luật. Tuy vậy,
cần lưu ý rằng các vai trò của giáo dục pháp luật tác động qua lại với nhau,
tạo thành một hệ thống thống nhất. Khi tiến hành giáo dục pháp luật phải
hướng vào cả ba vai trò nêu trên chứ không phải quá trình tác động rời rạc,
theo từng công đoạn, trước hết là trang bị tri thức, sau đó là bồi dưỡng tình
cảm và cuối cùng mới là giáo dục thói quen xử sự hợp pháp.


16


1.1.3. Tích hợp giáo dục pháp luật trong môn GDCD ở THCS
1.1.3.1. Khái niệm pháp luật
Là tổng hợp các quy tắc xử sự thể hiện ý chí của nhà nước có tính bắt
buộc chung do nhà nước đặt ra, hoặc thừa nhận ra được Nhà nước đảm bảo
thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế. (Theo tài liệu: Sổ tay pháp lý thông
dụng - trang 268).
Pháp luật là những quy tắc chuẩn mực xã hội được ghi thành các điều
luật thể hiện trong hiến pháp và các bộ luật của Nhà nước, mỗi công dân có
nghĩa vụ tuân theo. Pháp luật là ý chí của giai cấp cầm quyền trong việc duy
trì trật tự xã hội. Ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức xã hội, bao gồm
một hệ thống các quy định về quyền lợi, nghĩa vụ của công dân đối với nhà
nước, những quy định xác định tính hợp pháp hay không hợp pháp của các
hành vi cá nhân hay tổ chức xã hội.
1.1.3.2. Giáo dục pháp luật
Giáo dục là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có
tổ chức nhằm bồi dưỡng cho người ta những phẩm chất đạo đức và những tri
thức cần thiết để người ta có khả năng tham gia mọi mặt của đời sống xã hội,
(Từ điển từ và ngữ Hán-Việt).
Giáo dục pháp luật, tuyên truyền pháp luật, phổ biến pháp luật là những
khái niệm gần nhau nhưng có những điểm khác nhau dù trong thực tế mọi
người đều có quan niệm rằng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là các
hoạt động nhằm nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.
So với tuyên truyền, phổ biến thì giáo dục cũng nhằm nâng cao nhận
thức, tình cảm song nội dung rộng hơn, phương thức tiến hành chặt chẽ hơn,
đối tượng xác định hơn, mục đích lớn hơn. Xét dưới góc độ nhất định thì
tuyên truyền, phổ biến chính là các phương thức giáo dục cụ thể.


17


Hiện nay, có quan niệm đồng nhất giáo dục pháp luật với hoạt động
giảng dạy pháp luật được thực hiện trong nhà trường. Hiểu như vậy về giáo
dục pháp luật là chưa đủ, mới hiểu theo nghĩa hẹp. Giảng dạy pháp luật trong
trường học được thực hiện đối với một nhóm đối tượng nhất định trong xã hội
với những điều kiện nhất định về chương trình, nội dung, đội ngũ giáo viên,
phương tiện, phương pháp giảng dạy... Giảng dạy pháp luật là một trong các
hình thức giáo dục pháp luật cơ bản ở nước ta hiện nay.
Hiện nay ở nhiều nước trên thế giới họ đã đưa vào dạy các môn học tích
hợp ở THPT và tiểu học nhằm làm giảm sự quá tải cho học sinh mà vẫn cung
cấp cho các em các kiến thức cơ bản của các môn học và các khái niệm sơ
đẳng về thế giới hiện tượng trong đó có nội dung giáo dục pháp luật.
1.1.3.3. Tích hợp nội dung giáo dục pháp luật trong môn GDCD ở THCS
Môn Giáo dục công dân ở Trung học cơ sở có vai trò quan trọng trực tiếp
trong quá trình hình thành ý thức, hành vi đạo đức, pháp luật và lối sống cho
học sinh (HS). Đây là môn học có đặc điểm nổi bật là gần với con người và
xã hội, gắn bó mật thiết với đời sống thực tiễn sinh động của gia đình, nhà
trường và xã hội. Đặc điểm này tạo cho môn Giáo dục công dân có những lợi
thế nhất định để định hướng giáo dục pháp luật cho các em HS như ở chương
trình lớp 6 giáo dục cho các em pháp luật quyền trẻ em, quyền đảm bảo về chỗ
ở, về thư tín, điện thoại, điện tín, quyền và nghĩa vụ học tập của học sinh... Ở
lớp 7 định hướng giáo dục cho các em về quyền được giáo dục của trẻ em,
quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng... Đến lớp 8 thì chương trình Giáo dục công
dân định hướng giáo dục cho các em quyền cơ bản để trở thành một công dân
như quyền và nghĩa vụ của công dân trong gia đình, quyền khiếu nại tố cáo, tự
do ngôn luận... Ở lớp 9 định hướng cho các em về quyền và nghĩa vụ của công
dân trong hôn nhân, tự do kinh doanh và đóng thuế, nghĩa vụ lao động của
công dân, quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân...


18


Như vậy chương trình Giáo dục công dân từ lớp 6 đến lớp 9 ở Trung học
cơ sở về cơ bản đã định hướng giáo dục pháp luật cho các em học sinh các
quyền cơ bản để các em có kiến thức ban đầu của một công dân. Tuy nhiên
việc giáo dục pháp luật cho các em HS ở hiện nay ở THCS chưa thật sự đáp
ứng được các mục tiêu mà giáo dục pháp luật hướng tới. Do đó phải chương
trình hiện nay phải tập trung định hướng vào việc giáo dục pháp luật cho HS
hơn nữa. Chương trình GDCD ở THCS có nhiều nội dung hoàn toàn phù hợp
với định hướng này.
Có thể hiểu: Tích hợp giáo dục pháp luật trong môn GDCD ở THCS
dưới góc nhìn của giáo dục học nó được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ,
có hệ thống các nội dung kiến thức trong một môn học ở các mức độ khác
nhau thành một nội dung thống nhất. Bởi hiện nay chương trình giáo dục ở
nước ta chưa có môn học pháp luật riêng cho học sinh THCS do đó việc tích
hợp giáo dục pháp luật cho các em học sinh ở THCS thông qua môn học
GDCD là rất cần thiết và hợp lý.
1.1.4. Các nguyên tắc và mức độ tích hợp giáo dục pháp luật trong môn
GDCD ở THCS
1.1.4.1. Nguyên tắc tích hợp
Tích hợp nhưng không làm thay đổi đặc trưng của môn học, không biến bài
học môn đó thành bài học giáo dục pháp luật. Có nghĩa là lấy kiến thức của
môn đó làm nội dung chính và trên nền tảng kiến thức của môn đó liên hệ với
việc giáo dục pháp luật.
Khai thác nội dung tích hợp giáo dục pháp luật phải có chọn lọc, có tính tập
chung cao vào những chương, mục nhất định không tích hợp tràn lan, tùy
tiện. Các nội dung liên quan đến giáo dục pháp luật cần phải chọn lọc kỹ,
nghiên cứu kỹ về cách thức dẫn dắt, liên hệ đảm bảo cho học sinh vừa nắm

vững kiến thức bộ môn vừa có được kiến thức, kỹ năng về giáo dục pháp luật.

19


Việc tích hợp giáo dục pháp luật vào trong các bài học phải hết sức nhẹ
nhàng, tự nhiên, tránh gượng ép, khô khan làm cho học sinh cảm thấy không
thoải mái trong giờ học.
Đồng thời phải đảm bảo tư tưởng của việc giáo dục nghĩa là phải khai thác
những nội dung trong các môn học đó nhưng phải có ý nghĩa giáo dục.
Tích cực đổi mới phương pháp dạy học, giáo dục góp phần nâng cao hiệu
quả bộ môn nói chung và giáo dục pháp luật nói riêng.
1.1.4.2. Mức độ tích hợp
Việc tích hợp giáo dục trong môn GDCD được thể hiện ở ba mức độ:
Tích hợp toàn phần, tích hợp bộ phận, tích hợp ở mức độ liên hệ.
+ Mức độ toàn phần: Khi nội dung bài học hoặc chương trình học hoàn
toàn phù hợp với mục tiêu và nội dung của giáo dục pháp luật.
+ Tích hợp bộ phận (hay lồng ghép): Chỉ có một bộ phận của bài học
liên quan tới giáo dục pháp luật và có thể thực hiện được nội dung giáo dục
pháp luật.
+ Tích hợp ở mức độ liên hệ: Các kiến thức về giáo dục pháp luật không
được nêu rõ trong sách giáo khoa nhưng thông qua nội dung kiến thức bài học
có thể liện hệ với đời sống thực tế thì giáo viên có thể tiến hành liên hệ cho
học sinh hiểu.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Vài nét về giáo dục pháp luật trên thế giới
Vấn đề giáo dục pháp luật từ lâu đã là một vấn đề quan trọng được
các nước trên thế giới quan tâm và giáo dục pháp luật trong trường học
cũng được đặc biệt chú ý ở các nước phát triển nhằm hình thành nhân
cách cho thế hệ trẻ, nâng cao nhận thức và thái độ chấp hành pháp luật

của họ. Mục tiêu quan trọng của hoạt động giáo dục pháp luật là nhằm
giáo dục kỹ năng sống, ý chí vượt lên chính mình, khắc phục các trở ngại,
ứng xử đúng với các quy định của pháp luật.

20


×