Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

sáng kiến kinh nghiệm MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP TÍCH CỰC DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.92 KB, 13 trang )

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP TÍCH CỰC
DẠY MÔN GDCD CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong giai đoạn hiện nay cả nước đang ra sức phấn đấu thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, cũng như tiến hành hội nhập với các nước trên thế giới.
Trong công cuộc đổi mới yếu tố con người đặc biệt được coi trọng bên cạnh tiềm
năng trí tuệ, sức mạnh tinh thần và đạo đức của mỗi con người ngày càng được
toàn xã hội đặc biệt quan tâm, thiết thực nhất đó là toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân đang phấn đấu thi đua học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Vì vậy việc giáo dục và nâng cao chất lượng đào tạo thế hệ trẻ đáp ứng mọi yêu
cầu của xã hội đối với con người trong đại mới, phát triển như vũ bão là một vấn
đề cần kíp hơn bao giờ hết. Việc giáo dục đạo đức học sinh ở lứa tuổi THCS nói
riêng, và thế hệ tương lai của đất nước nói chung, là điều kiện vô cùng quan trọng
có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển “ Sánh vai với các cường Quốc
năm Châu” của đất nước.
Tiếp nhận sự phát triển của công nghệ thông tin, sự đổi mới của đất nước,
cùng với việc mở cửa giao lưu văn hoá, bên cạnh những mặt mạnh thì chúng ta
không thể không nhắc đến mặt trái của nó, đặc biệt là những luồng văn hoá phẩm
1
không phù hợp với thuần phong mỹ tục của người ẮÊ Đông, nó trực tiếp ảnh hưởng
đến con người nói chung, lứa tuổi học sinh nói riêng. Một điều thực tế hiện nay
cho thấy mức độ xuống cấp về đạo đức, học sinh hư hỏng ngày càng nhiều ở tất cả
các trường học, cấp học, từ miền xuôi cho đến miền ngược, là “bài toán” mà cả
xã hội cũng như ngành giáo dục đặc biệt quan tâm.
Như cố Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đã nói “ Nghề dạy học là nghề cao quý
nhất trong các nghề cao quý”. Nhiệm vụ của nghề dạy học là giáo dục và đào tạo
trong đó có cấp THCS, môn học trực tiếp cung cấp lí luận và thực tiễn về những
chuẩn mực đạo đức và pháp luật đó là môn GDCD, thế nhưng với môn học này
dưới con mắt của một số giáo viên trực tiếp đứng trên bục giảng, kể cả học sinh,
phụ huynh, lại có sự đánh giá quá chênh lệch với các môn học khác như: Toán, lý,


hoá… Hay còn gọi là môn “ Phụ”. Vấn đề đặt ra ở đây là nhận thức của toàn xã
hội, trong đó có giáo viên, phải có sự nhìn nhận khác về môn học CDCD, đặc biệt
là những giáo viên trực tiếp giảng dạy môn GDCD, cần phải tự mình tìm cho mình
một “con đường đi” hữu hiệu nhất, lôi cuốn nhất, để từng bước khẳng đònh vò trí
của môn học, trong trường học và người học. Chính lí do đó tôi đã chọn đề tài một
số phương pháp tích cực dạy môn GDCD ở trường THCS.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Cơ sở lí luận
2
Với mục tiêu giáo dục cũng như của Đảng, là tạo ra “sản phẩm” phát triển toàn
diện, có đủ năng lực và phẩm chất đêû cống hiến cho đất nước, trong xu thế hội
nhập. Vì vậy giá trò và nhiệm vụ của các môn học, cũng như nhiệm vụ của những
“kó sư tâm hồn” là như nhau, trong hệ thống của chuyên môn, không có khái niệm
môn học “phụ”.
Trong thực tế, môn GDCD từ lớp 6 đến lớp 9 đã cung cấp cho học sinh về lí
luận, tính thực tế, phương pháp rèn luyện, những chuẩn mực đạo đức, pháp luật
của một con người phát triển toàn diện.
Lương tâm của người giáo viên khi trực tiếp dạy môn GDCD, bằng tất cả
tâm huyết của mình, với những phương pháp dạy học tích cực hiện nay, thì chắc
chắn giờ học, môn học sẽ thu được nhiều kết quả như mong muốn.
2. Tình hình thực trạng của vấn đề:
a. Thuận lợi:
Ưu thế của môn GDCD là tâm thế khi bước vào giờ học, đó là sức ép không lớn
về lượng kiến thức, mức độ tư duy không cao, ví dụ: Như sau khi học xong hai tiết
toán, sự thoải mái của học sinh thể hiện rất rõ ràng khi đến giờ GDCD.
Giáo viên dạy GDCD cũng cảm thấy nhẹ nhàng hơn so với dạy môn khác.
Phương pháp dạy môn GDCD cũng phong phú hơn, so với một số môn học
khác, tạo ra hứng thú cho người học.
3
Trong giờ dạy- học người dạy và người học có điều kiện liên hệ thực tế, trên

nhiều lónh vực của cuộc sống, rất gần gũi với cuộc sống đời thường của GV và HS.
b. Khó khăn:
Dân gian thường hay nói “Lợi bất cập hại”. Trên cơ sở những thuận lợi của
môn học, thì đồng thời chính nó cũng sinh ra những hạn chế nhất đònh.
Người dạy- học cảm thấy “nhẹ nhàng”, thì dễ sinh ra xem thường môn học.
Xu thế của đại đa số phụ huynh ,học sinh hiện nay là đònh hướng cho con em và
bản thân mình, là cần học môn gì để đáp ứng nền tảng kiến thức cho lớp học, cấp
học tiếp theo. ( Môn tự nhiên).
Chính vì lượng kiến thức không nhiều, không trừu tượng, do đó ai dạy cũng
được ( kể cả không phải chuyên môn), trường hợp này sẽ không tận dụng được thế
mạnh khi dạy môn GDCD, sinh ra nhàm chán cho học sinh.
3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề.
a. Tạo môi trường học gần gũi, thân thiện:
- Với người dạy khi bắt đầu và thực hiện các bước với tiết dạy, phải tạo ra sự
gần giũ ,thân thiện giữa người dạy, người học, tránh tình trạng lí luận giáo dục
suông, kòch liệt phê phán, thông qua việc sử dụng ngôn ngữ, liên hệ thực tế trực
tiếp nhằm vào đối tượng có ngay trong lớp, hoặc đụng chạm đến hoàn cảnh của
người hocï. Nói như thế có nghóa là giáo viên trong khi dạy, liên hệ thực tế… phải
4
có nghệ thuật dùng từ, mang tính giáo dục, nhắc nhở, phải chia sẻ hoàn cảnh ngoài
ý muốn mà người học có thể đã và đang gặp phải, thậm chí đã có những hành vi
trái với chuẩn mực đạo đức, pháp luật đang học.
- Tránh tình trạng gây ra sự tự ti cho đối tượng học sinh, khi có hành vi không
đúng với mục đích giáo dục, mà phải từng bước cảm hoá người học qua nhận thức
những hành vi đạo đức, pháp luật, phù hợp với con người trong xã hội mới, hiện
đại, tiến tiến, và phù hợp với lứa tuổi học sinh.
- Hướng cho tập thể học sinh của lớp, trường tạo điều kiện cho những học sinh
thường xuyên vi phạm nội quy, hoặc những chuẩn mực đạo đức do hoàn cảnh tác
động, tham gia vào các hoạt động văn hoá nghệ thuật của tập thể.
b. Kết hợp một số phương pháp dạy- học:

Như đã trình bày thực tế dạy môn GDCD khá phong phú về phương pháp, trong
sáng kiến bản thân chỉ nêu lên một số phương pháp mang tính lôi cuốn học sinh
trong giờ học.
* Phương pháp sắm vai đóng kòch:
- Đối với phương pháp này chúng ta không nên hiểu máy móc, GV phải là nhà
soạn kòch bản, đạo diễn, học sinh là diễn viên, diễn theo cách đạo diễn của GV,
mà ở đây GV chỉ cần đưa tình huống, học sinh giải quyết tình huống đó bằng việc
vào vai đóng kòch, giải quyết tình huống theo sở trường, ý tưởng của học sinh, có
5
thể điều chỉnh hành vi cho đúng với chuẩn mực đạo đức, hoặc trái ngược với
chuẩn mực đạo, pháp luật. Trên cơ sở đó GV đều có thể nhận xét và liên hệ đến
nội dung của bài học.
- Phương pháp này rèn luyện cho HS tính tự tin, từng bước khẳng đònh mình
trước tập thể, và có niềm tin vào chính bản thân mình, qua đó GV cũng phát hiện
được năng khiếu của học trò và tạo điều kiện cho các em phát huy khả năng đó
trong sinh hoạt tập thể, tư vấn cho GV là TPT Đội.
Ví dụ : Chuẩn mực thật thà.
+ Tình huống: Ba bạn Trung,Thật và Thương trên đường đi học về nhặt được
chiếc ví (bop), cả ba cùng vui mừng mở ra xem. Trời! toàn tiền là tiền…!
Là ba bạn các em xử lí tình huống đó như thế nào?
- Khi HS thể hiện xong vai diễn, GV cho học sinh nhận xét, liên hệ nội dung
của bài học, trong thực tế hành vi của một số người như vậy đúng hay sai, liên hệ
bản thân, hoặc đưa ra lời khuyên cho mọi người…
Lưu ý: Với học sinh khi tham gia đóng kòch GV đều phải có nhận xét, khen,
thậm chí là thưởng xứng đáng ( thưởng bằng cách cho điểm, bằng một tràng vỗ
tay…), để khuyến khích trong những lần sau. Tuyệt đối không chê, khi nhận xét
GV cũng nên nhận xét một cách tế nhò, để học sinh thấy được ưu, nhược của bản
thân và lần sau có cơ hội phát huy hoặc khắc phục.
6
* Phương pháp tổ chức trò chơi tiếp sức:

- Đối với phương pháp này về ưu điểm, tiết học rất sôi động, học sinh hứng
thú, cổ vũ cho nhau, khi đưa những chuẩn mực, hành vi đạo đức pháp luật phù hợp
với nội dung bài học. Muốn thành quả của cả đội như mong muốn, thì các thành
viên trong đội phải có sự đoàn kết, thống nhất cao. Đây cũng là một phương pháp
giáo dục có hiệu quả, xây dựng tình đoàn kết trong từng HS, lớp, trường, cộng
đồng…
- Về tồn tại: Bên cạnh những ưu điểm tồn tại của phương pháp này thường
gây mất trật tự, làm ảnh hưởng đến lớp học khác, trách móc bạn khi thực hiện tiếp
sức chậm, làm ảnh hưởng đến thành quả của cả đội. Nhận thấy điều này GV có
cách hạn chế bớt mặt tồn tại của phương pháp , để giờ học đạt kết quả tốt hơn.
Ví dụ 1: Chuẩn mực khoan dung.
Trước khi tiến hành trò chơi GV chia lớp thành hai đội, quy đònh luật chơi,
khi bạn thực hiện xong phần thi của mình trở về chỗ ngồi thì người kia mới được
chạy lên bảng, thực hiện tiếp phần thi của mình, cứ lần lượt như thế cho đến khi
kết thúc thời gian quy đònh của trò chơi ( khoảng từ 3 phút đến 5 phút). Mỗi HS chỉ
đưa ra một hành vi.
Giáo viên chia bảng thành bốn ô cho hai đội, hai ô ghi lại hành vi thể hiện
lòng khoan dung, hai ô ghi lại hành vi thể hiện thiếu, hoặc không thể hiện lòng
7
khoan dung, trò chơi cứ tiến hành như thế cho đến khi kết thúc thời gian quy đònh
của GV.
ĐỘI I ĐỘI II
H.Vi thể hiện lòng
khoan dung.
H.Vi thể hiện chưa,
không khoan dung.
H.Vi thể hiện lòng
khoan dung.
H.Vi thể hiện chưa,
không khoan dung.

Tha thứ cho bạn.
….
Hay trả thù
……
Nhường nhòn người
khác.
…….
Đổ lỗi cho người
khác.

Có thể học sinh sẽ đưa ra một số hành vi giống nhau, mục đích của trò chơi
này học sinh đưa được nhiều hành vi là tốt, sau khi kết thúc trò chơi đội nào tìm
được nhiều hành vi hơn đội đó thắng cuộc. Trò chơi này thường tổ chức khi nội
dung bài học đã được GV và HS tìm hiểu xong. Sau khi trò chơi kết thúc GV- HS
có thể tổng kết nội dung bài học
Ví dụ 2: Chuẩn mực giữ chữ tín.
Để tránh tình trạng học sinh nhìn kết quả của đội bạn, GV có thể chia bảng
thành hai ô, nhưng cũng tuỳ theo nội dung của bài học, đối tượng học sinh của
từng lớp, GV linh động trong tổ chức cho phù hợp. Cách thực hiện như sau:
ĐỘI I ĐỘI II
8
Những hành vi thể hiện giữ chữ tín.
Những hành vi thể hiện không giữ chữ tín.
- Thực hiện lời hứa chép bài cho bạn khi
bạn bò đau.
- ………………….
- Chỉ cần giữ lời hứa thôi, cũng được.
Không cần thực hiện theo lời hứa.
- ……………
Nếu tổ chức như trên ( chia hai ô) để tạo tính công bằng GV nên cho đại

diện của hai đội bốc thăm tìm những hành vi “ có” hoặc “không”.
Ngoài hai phương pháp trên, trong quá trình thực hiện giảng dạy, GV còn
phối kết hợp thêm một số phương pháp khác như: Giải ô chữ, hoạt động nhóm, sử
dụng đồ dùng trực quan ( tranh, ảnh)… Đây cũng là thế mạnh của người dạy- học
môn GDCD, trong cùng một tiết dạy- học, người dạy có thể sử dụng nhiều phương
pháp để tổ chức hoạt động học, khai thác nội dung bài học một cách có hiệu quả
nhất.
4. Kết quả đạt được trong quá trình giảng dạy:
Qua quá trình thực hiện giảng dạy bản thân, cùng với các đồng nghiệp tôi
nhận thấy, học sinh có nhiều hứng thú hơn trong học tập, đến giờ GDCD cũng là
cơ hội giải toả mọi căng thẳng , mệt mỏi trong buổi học, có cơ hội thể hiện khả
năng, năng khiếu của mình. Đây cũng là thế mạnh từng bước khắc phục khó khăn
chung của môn GDCD
9
Kết quả học tập của HS với môn GDCD cũng có nhiều tiến bộ, tỉ lệ điểm
giỏi, khá tăng rõ rệt, hạn chế mức thấp nhất điểm yếu, kém, có lớp không còn
điểm yếu, kém. Trường hợp lớp có điểm yếu kém lí do HS cá biệt, hoặc có xu
hướng bỏ học, không thực hiện kiểm tra, thi mặc dù bản thân, cũng như GV trong
nhà trường, đã có biện pháp khắc phục như: Nhắc nhở kiển tra bù, động viên…
CHẤT LƯNG BỘ MÔN GDCD HỌC KÌ I NĂM HỌC 2008- 2009.
Trường THCS Nguyễn Viết Xuân
Lớp TS Giỏi
SL %
Khá
SL %
TB
SL %
Yếu
SL %
Kém

SL %
6a 48 6 12.5 38 79.2 4 8.3
6b 48 3 6.3 29 60.4 16 33.3
6c 48 10 20.8 17 35.4 19 39.6 2 4.2
6d 48 24 50.0 15 31.3 9 18.8
6e 48 6 12.5 36 75.0 5 10.4 1 2.1
7a 45 4 8.9 26 57.8 14 31.1 1 2.2
7b 45 3 6.7 20. 44.4 16 35.6 5 11.1 1 2.2
7c 41 1 2.4 23 56.1 16 39.0
7d 43 2 4.7 28 65.1 12 27.9 1 2.3
7e 46 7 15.2 22 47.8 13 28.3 4 8.7
7f 45 5 11.1 17 37.8 20 44.4 3 6.7
8a 37 20 54.1 14 37.8 3 8.1
8b 38 18 47.7 16 42.1 2 5.3 2 5.3
8c 39 26 66.7 11 28.2 2 5.1
8d 39 9 23.1 20 51.3 9 23.1 1 2.6
8e 40 9 22.5 24 60.0 6 15.0 1 2.5
8f 40 9 22.5 17 42.5 11 27.5 3 7.5 `
9a 35 4 11.4 15 42.9 15 42.9 1 2.9
9b 37 10 27.0 6 16.2 14 37.8 6 16.2 1 2.7
9c 40 5 12.5 9 22.5 21 52.5 4 10.0 1 2.5
10
9d 38 7 18.4 17 44.7 12 31.6 1 2.6 1 2.6
9e 40 11 27.5 21 52.5 8 20.0
Trường 928 188 20.3 431 46.4 258 27.8 44 4.7 7 0.8
III/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Thông qua quá trình giảng dạy bản thân đã rút ra bài kinh nghiệm như sau:
- Muốn đạt được kết quả tốt trong dạy học của bộ môn, trước hết GV thực
hiện giảng dạy phải tâm huyết, nắm được nhược điểm của môn học để từng bước
khắc phục nó. Không nên coi đây là môn học “phụ”, việc GD một con người toàn

diện thì môn GDCD cũng có vai trò vô cùng quan trọng. Bác Hồ đã dạy:
“ Có tài mà không có đức là người vô dụng
Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”.
- Không nên nghó rằng môn này dễ dạy, dạy thế nào cũng được “ HS đều
hiểu” Vì có sẵn nội dung bài học trong SGK.
- Bản thân phải biết vận dụng, lựa chọn một cách tổng hợp các phương pháp
dạy học một cách tinh hoa, sáng tạo, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của
đối tượng học.
- Phải biết kết hợp với các GV bộ môn khác, cũng như các lực lượng giáo
dục, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường, gia đình, xã hội.
- Bản thân GV, trực tiếp giảng dạy phải là tấm gương sáng cho học sinh noi
theo.
IV KẾT LUẬN:
11
Trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, đặc biệt là quan niện của người
học, phụ huynh, thậm chí có cả người dạy còn xem nhẹ môn GDCD, chủ yếu đầu
tư cho môn học khác. Để lấy lại vò thế của môn học, đòi hỏi GV trực tiếp dạy
GDCD phải thực sự tâm huyết, khẳng đònh rõ nhiệm vụ chính trò của mình khi
đứng trên bục giảng, trực tiếp cung cấp cho HS cơ sở lí luận, và cách rèn luyện để
có được những chuẩn mực đạo đức. “ Học đi đôi với hành”.
Bằng kó năng, nghiệp vụ sư phạm hãy thức tỉnh sự trỗi dậy trong HS lòng
yêu thích, say mê học tập. Từ đó các em tiến tới các nhu cầu đòi hỏi sự trưởng
thành về đạo đức để rồi các em hiểu được những nhu cầu về đạo đức tích cực và ý
chí, góp một phần công sức của mình cho sự nghiệp GD, cũng như phát triển nhân
cách của người học sinh, trong giai đoạn hiện nay.
V/ NHỮNG ĐỀ XUẤT:
Các cấp, các ngành học phải có sự đánh giá công bằng về những môn học
trong nhà trường phổ thông.
GV là người trực tiếp giảng phải có sự đầu tư đúng mức, có trách nhiệm khi
đứng trên bục giảng nói về những chuẩn mực đạo đức và pháp luật trước HS.

* Bằng khả năng và kiến thức của mình, trong thực tế giảng dạy bản thân
cũng mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm chắc chắn không thể tránh được những
thiếu sót rất mong nhận được sự hợp tác của quý cấp lãnh đạo, đặc biệt là những
12
đồng nghiệp thân mến, để bản thân rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm hơn nữa
trong công tác giảng dạy, cũng không ngoài mục đích góp một phần công sức nhỏ
bé của mình vào sự giáo dục nói chung, thế hệ trong tương lai là những chủ nhân
của đất nước phát triển một cách toàn diện, đáp ứng nhu cầu chung của toàn nhân
loại.
Chân thành cảm ơn nhiều, xin chào và hẹn gặp lại!
Hoà Tiến, ngày 10 tháng 03 năm 2009
Người viết

Nguyễn Quốc Huy
13

×