Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

NGHIÊN cứu sự ẢNH HƯỞNG của HOẠT ĐỘNG sản XUẤT sản PHẨM ĐỒNG đến môi TRƯỜNG LÀNG NGHỀ đại bái, TỈNH bắc NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (708.85 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ NGA

NGHIÊN CỨU SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG SẢN
XUẤT SẢN PHẨM ĐỒNG ĐẾN MÔI TRƯỜNG LÀNG
NGHỀ ĐẠI BÁI, TỈNH BẮC NINH.

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC SINH HỌC

HÀ NỘI, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ NGA

NGHIÊN CỨU SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG SẢN
XUẤT SẢN PHẨM ĐỒNG ĐẾN MÔI TRƯỜNG LÀNG
NGHỀ ĐẠI BÁI, TỈNH BẮC NINH.

Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số
: 60.42.01.20

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC SINH HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Hoàng Trí


HÀ NỘI, NĂM 2015


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian nghiên cứu tôi đã gặp phải nhiều khó khăn
nhưng nhờ sự giúp đỡ Thầy, Cô giáo, các cô chú và bạn bè, tôi đã hoàn thành
được công việc nghiên cứu của mình, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới:
Thầy GS.TS. Nguyễn Hoàng Trí đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình nghiên cứu
Các thầy giáo, cô giáo trong khoa Sinh – Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội, đặc biệt các thầy cô trong tổ Thực vật đã tạo điều kiện cho tôi hoàn
thành luận văn.
Cô Trịnh Thị Thắm cùng các anh, chị trong phòng phân tích môi
trường – Trường Đại học Tài nguyên- Môi trường đã giúp đỡ tôi trong quá
trình làm luận văn.
Đồng thời tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các cán bộ trong
UBND huyện Gia Bình - tỉnh Bắc Ninh, cùng nhân dân thôn Đại Bái.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã luôn động
viên tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 02 tháng 06 năm 2015
Học viên
Nguyễn Thị Nga


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BNN&PTNN:

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn


BVMT:

Bảo vệ môi trường

CCN:

Cụm công nghiệp

CĐ:

Cao đẳng

CNH- HĐH:

Công nghiệp hoá- hiện đại hoá

ĐH:

Đại học

KT-XH:

Kinh tế, xã hội

QCVN:

Quy chuẩn Việt Nam

TCCN:


Trung cấp chuyên nghiệp

TCCP:

Tiêu chuẩn cho phép

THPT:

Trung học phổ thông

TNMT:

Tài nguyên môi trường

TNHH:

Trách nhiệm hữu hạn

TTCN:

Tiểu thủ công nghiệp

UBND:

Uỷ ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG



DANH MỤC HÌNH


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1 Lí do chọn đề tài
Nhiệt độ trái đất ngày càng nóng lên, thảm họa tự nhiên: thiên tai, hạn
hán, lũ lụt… cũng xảy ra với tần số lớn hơn dẫn đến những thiệt hại về người
và của, đây là một trong các hậu quả của biến đổi khí hậu - vấn đề đang được
toàn thế giới quan tâm. Một trong những nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu
chính là ô nhiễm môi trường.
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội thì các vấn đề môi trường cũng
trở nên ngày càng nhức nhối, không chỉ ở thành thị nơi tập trung những khu
công nghiệp phát triển mà còn xảy ra ở cả nông thôn, đặc biệt là ở môi
trường làng nghề.
Chúng ta có thể nhận thấy các giá trị kinh tế của làng nghề truyền
thống đem lại cho đất nước nói chung và đối với nền kinh tế nông thôn nói
riêng. Nhiều làng nghề truyền thống hiện nay đã được khôi phục, đầu tư phát
triển với quy mô và kỹ thuật cao hơn, hàng hóa không những phục vụ nhu
cầu trong nước mà còn cho xuất khẩu với giá trị lớn.Tuy nhiên, một trong
những thách thức đang đặt ra đối với các làng nghề là vấn đề môi trường và
sức khỏe của người lao động, của cộng đồng dân cư đang bị ảnh hưởng
nghiêm trọng từ hoạt động sản xuất của các làng nghề.
Những năm gần đây, vấn đề này đang thu hút sự quan tâm của Nhà
nước, cũng như các nhà khoa học nhằm tìm ra các giải pháp hữu hiệu cho sự
phát triển bền vững các làng nghề. Đã có nhiều làng nghề thay đổi phương
thức sản xuất cũng như quản lý môi trường và thu được hiệu quả đáng kể. Tuy

nhiên, đối với không ít làng nghề, sản xuất vẫn đang tăng về quy mô, còn môi
trường ngày càng ô nhiễm trầm trọng.
Bắc Ninh có 62 trên tổng số 1450 làng nghề của cả nước. Với định
hướng phát triển của tỉnh đến năm 2020 là chủ động phát triển kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá gắn liền với bảo vệ môi trường, ngăn chặn về cơ bản
1


mức độ gia tăng ô nhiễm, phục hồi suy thoái và nâng cao chất lượng môi
trường. Xuất phát từ thực tiễn này, với hy vọng góp phần phát triển bền vững
môi trường làng nghề chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu sự ảnh
hưởng của hoạt động sản xuất sản phẩm đồng đến môi trường làng nghề
Đại Bái, tỉnh Bắc Ninh”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Trên thế giới
Ở các nước châu Á, sự phát triển kinh tế làng nghề truyền thống
là giải pháp cho việc phát triển kinh tế ở nông thôn, có nhiều quốc gia trong
khu vực đã thực hiện có hiệu quả việc phát triển kinh tế ở nông thôn bằng sự
phát triển làng nghề, điển hình là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ,
Thái Lan. Trung Quốc sau thời kỳ cải cách mở cửa năm 1978, việc thành lập
và duy trì Xí nghiệp Hương Trấn, tăng trưởng với tốc độ 20 – 30 % đã giải
quyết được 12 triệu lao động dư thừa ở nông thôn. Hay Nhật Bản, với sự
thành lập “Hiệp hội khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống” là hạt
nhân cho sự nghiệp khôi phục và phát triển ngành nghề có tính truyền thống
dựa theo “Luật nghề truyền thống”(Trần Minh Yến, 2003)[29]...
Bên cạnh việc phát triển làng nghề thì sự quản lí môi trường cũng
là vấn đề được chú ý theo Đặng Đình Long, các nghiên cứu của World Bank
đã chứng minh rằng, “dựa trên sức ép của cộng đồng, cộng với việc tăng
cường năng lực của các cơ quan quản lý môi trường có thể cải thiện được
lượng phát thải tại các cơ sở gây ô nhiễm”(Đặng Đình Long, Đinh Thị Bích

Thủy, 2005)[12].
Một số quốc gia đã thực hiện thành công cách quản lý này như:
Côlômbia, Trung Quốc, Hàn Quốc, Philippin, Băng-la-đét, Malaysia, In-đônê-xia… Ở In-đô-nê-xia, dưới áp lực của cộng đồng địa phương bằng việc phát
đơn kiện các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm, qua đó chính phủ và các cơ quan kiểm
2


soát ô nhiễm làm trung gian đứng ra giải quyết, buộc các cơ sở gây ô nhiễm phải
đền bù cho cộng đồng và có những giải pháp giảm thiểu ô nhiễm (Đặng Đình
Long, Đinh Thị Bích Thủy, 2005)[12]…
2.2 Ở Việt Nam
Chủ đề “ làng nghề” thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu,
có rất nhiều công trình nghiên cứu về làng nghề ở nhiều khía cạnh khác nhau:
Trên khía cạnh kinh tế, văn hóa, xã hội
Trong cuốn sách: “Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam” (Bùi
Văn Vượng, 1998)[28]. Các tác giả giới thiệu lịch sử, kinh tế, văn hoá, nghệ
thuật, tư tưởng, kỹ thuật, các bí quyết nghề, thủ pháp nghệ thuật, kỹ thuật của
các nghệ nhân và các làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam như: đúc
đồng, trạm khắc đá, dệt, thêu ren, giấy dó, tranh dân gian, dệt chiếu, quạt giấy,
mây tre đan,... Trong cuốn “Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá
trình CNH – HĐH”(Dương Bá Phượng, 2001)[13], tác giả đã đề cập khá đầy
đủ từ lý luận đến thực trạng của làng nghề: từ đặc điểm, khái niệm, con đường
và điều kiện hình thành làng nghề, tập trung vào một số làng nghề ở một số
tỉnh với các quan điểm, giải pháp và phương hướng nhằm phát triển các làng
nghề trong CNH – HĐH. Cùng với hướng này còn có cuốn “Phát triển làng
nghề truyền thống trong quá trình CNH – HĐH ở vùng ven thủ đô”(Mai Thế
Hởn, 1998)[8]…“Làng Đại Bái – Gò đồng Bắc Ninh”(Đỗ Thị Hào, 1987)[5].
Tác giả giới thiệu về một làng nghề truyền thống tái chế kim loại ở Bắc Ninh.
“Làng nghề trong công cuộc phát triển đất nước” (Vũ Quang Tuấn, 2011)
[23].

Về đề tài nghiên cứu:“Hoàn thiện các giải pháp kinh tế tài chính nhằm
khôi phục và phát triển làng nghề ở nông thôn vùng Đồng bằng sông
Hồng”(Học viện tài chính, 2004); “Nghiên cứu về quy hoạch phát triển làng
3


nghề thủ công theo hướng CNH nông thôn ở nước CHXHCN Việt Nam” của Bộ
NN & PTNT hợp tác cùng với tổ chức JICA của Nhật (2002), đã điều tra nghiên
cứu tổng thể các vấn đề có liên quan đến làng nghề thủ công nước ta về tình hình
phân bố, điều kiện KT-XH của làng nghề (Trần Minh Yến ,2003 )[29].
Nhìn chung các tác giả đã làm rõ về khái niệm, lịch sử phát triển, đặc
điểm, thực trạng sản xuất các làng nghề.
Ở khía cạnh môi trường
Khoa học kĩ thuật phát triển, máy móc được tạo ra ngày càng nhiều thì
tốc độ tác động của con người vào tự nhiên cũng theo đó mà tăng lên. Những
vấn đề môi trường không chỉ được đặt ra nơi thành thị, nơi nhiều nhà máy xí
nghiệp và vấn để đó cũng đang nổi lên ở môi trường làng nghề:
Trong cuốn sách “Làng nghề Việt Nam và môi trường”, (Đặng Kim
Chi, 2005)[2]. Tác giả đã nêu rõ từ lịch sử phát triển, phân loại, các đặc điểm
cơ bản làng nghề cũng như hiện trạng kinh tế, xã hội của các làng nghề Việt
Nam hiện nay. Cùng với đó là hiện trạng môi trường các làng nghề (có phân
loại cụ thể 5 nhóm ngành nghề chính). Qua đó cũng nêu rõ các tồn tại ảnh
hưởng tới phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường của làng nghề, nêu dự báo
phát triển và mức độ ô nhiễm đến năm 2010, một số định hướng xây dựng
chính sách đảm bảo phát triển làng nghề bền vững và đề xuất các giải pháp cải
thiện môi trường cho từng loại hình làng nghề của Việt Nam. Qua nghiên cứu
của tác giả, 100% mẫu nước thải ở các làng nghề được khảo sát có thông số
vượt tiêu chuẩn cho phép. Môi trường không khí bị ô nhiễm có tính cục bộ tại
nơi trực tiếp sản xuất, nhất là ô nhiễm bụi vượt tiêu chuẩn cho phép (TCCP)
và ô nhiễm do sử dụng nhiên liệu than củi. Tỷ lệ người dân làng nghề mắc

bệnh cao hơn các làng thuần nông, thường gặp ở các bệnh về đường hô hấp,
đau mắt, bệnh đường ruột, bệnh ngoài da. Nhiều dòng sông chảy qua các làng

4


nghề hiện nay đang bị ô nhiễm nặng; nhiều ruộng lúa, cây trồng bị giảm năng
suất do ô nhiễm không khí từ làng nghề".
Nghiên cứu của PGS.TS Đặng Kim Chi cùng các cộng sự tại 3 làng
nghề Bắc Ninh cho thấy môi trường xung quanh các làng nghề đã bị ô nhiễm
ngày càng trầm trọng. Tại làng nghề sản xuất giấy Dương Ổ (Phong Khê –
Bắc Ninh): nồng độ CO cao hơn 5mg/l so với TCCP (28 – 36 mg/l). Bụi ở
khu vực dân cư có nồng độ cao hơn TCCP từ 1,3 đến 3 lần. CO tại khu vực
sản xuất cao gấp 2 lần TCCP, tiếng ồn cao hơn TCCP từ 3 – 10 dbA; tại làng
nghề tái chế sắt thép Đa Hội: Không khí xung quanh khu vực hộ gia đình sản
xuất cao lớn hơn TCCP 12 lần, tiếng ồn lớn hơn 28 lần TCCP, bụi hơn 6 lần,
nhiệt độ lớn hơn nhiệt độ không khí từ 4 – 5 0C; làng nghề tái chế nhựa Minh
Khai: nồng độ bụi lớn hơn TCCP 1h và 24h là 1- 4 lần và 3 - 6 lần, nồng độ
HCl cao hơn TCCP 1,6 lần.
Bên cạnh đó còn có rất nhiều các công trình nghiên cứu của các tác giả
khác về tình trạng môi trường và sức khỏe tại các làng nghề:
Cuốn “Nghiên cứu nguy cơ sức khoẻ ở các làng nghề tại một số tỉnh
phía Bắc và giải pháp can thiệp”(Nguyễn Thị Liên Hương, 2006)[9] cho thấy
tình trạng sức khỏe các làng nghề phía Bắc đều trong tình trạng báo động. Tỷ
lệ người lao động có phương tiện bảo hộ đạt TCVSLĐ thấp (22,5%); 100%
các hộ sản xuất CBLT-TP nước thải không qua xử lý, đổ thẳng ra cống rãnh.
Nồng độ các chất khí gây ô nhiễm trong môi trường (H 2S, NH3…) có đến 3/5;
1/5 mẫu không đạt yêu cầu. Tỷ lệ người mắc bệnh hô hấp chiếm 34,7%, bệnh
về da chiếm tới 37,3%...
Ngoài ra còn những nghiên cứu khác như: Nghiên cứu về “Những vấn

đề về sức khỏe và an toàn trong các làng nghề Việt Nam” (Nguyễn Thị Hồng
Tú, Nguyễn Thị Liên Hương, Lê Vân Trình,2005)[22]; “ Môi trường và sức
khoẻ cộng đồng tại các làng nghề ở Việt Nam”( Nguyễn Trinh Hương, 2009)
5


[19]; “Nghiên cứu thực trạng môi trường sức khoẻ ở làng nghề bún Phú Đô,
huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Đề xuất một số giải pháp cần thiết” (Lê
Đức Thọ, 2008)[19].
Ngoài ra còn có nhiều nghiên cứu khác về các khu vực làng nghề địa
phương như nghiên cứu về môi trường lao động một số các làng nghề Nam Định
của Trần Văn Quang và các cộng sự (2001); Nghiên cứu về môi trường, sức
khỏe làng nghề chế biến thuốc nam Thiết Trụ (Hưng Yên) của Đan Thị Lan
Hương (Lê Đức Thọ, 2008)[19]…
Những đề tài này nhìn chung đã giải quyết được vấn đề lý luận cơ bản
về các làng nghề, hiện trạng và xu hướng phát triển, vấn đề ô nhiễm môi
trường và một số giải pháp. Nhưng các đề tài đi sâu vào một làng nghề nào đó
thì hầu như chưa nghiên cứu một cách toàn diện nhất. Mỗi khu vực làng nghề
có những điều kiện và thực tế khác nhau cho sự phát triển và bảo tồn. Hơn
nữa, mỗi khu vực bị ô nhiễm cũng có những nguồn gây ô nhiễm không giống
nhau, vì vậy việc nghiên cứu cụ thể, chi tiết để có thể đánh giá toàn diện về
tiềm năng, thực trạng cũng như xu hướng của các làng nghề có ý nghĩa quan
trọng cả về khoa học và thực tiễn.
Nghiên cứu về các giải pháp: Hiện tại, đối với mỗi công trình nghiên cứu
về vấn đề môi trường làng nghề ít nhiều đều có đề cập đến các giải pháp khác
nhau nhằm cải thiện và bảo vệ môi trường, hướng tới sự phát triển bền vững.
Tổng quát nhất có lẽ phải đề cập đến cuốn “Làng nghề Việt Nam và
môi trường” của Đặng Kim Chi và các cộng sự. Dựa trên cơ sở đã nghiên
cứu tổng quan về đặc điểm cũng như thực trạng sản xuất, hiện trạng môi
trường các làng nghề, tác giả đã đi đến các giải pháp chung nhất cho từng

loại hình làng nghề. Ở đây cũng đề cập đến việc định hướng xây dựng một
số chính sách đảm bảo phát triển làng nghề bền vững (như các chính sách về
hỗ trợ tài chính, chính sách về thị trường, về cơ sở hạ tầng, giáo dục môi
6


trường…). Qua đó đề xuất các giải pháp, nhìn chung tập trung vào hai nhóm
chính là giải pháp kỹ thuật và giải pháp quản lý nhằm giảm thiểu ô nhiễm
môi trường cho các làng nghề..
Ngoài những giải pháp về kỹ thuật (sản xuất sạch hơn và sử dụng công
nghệ xử lý chất thải) thì trong công tác quản lý môi trường, các nhà nghiên
cứu hiện đang lưu ý đến một số giải pháp có tính khả thi và có hiệu quả trong
điều kiện của Việt Nam hiện nay đó là giải pháp có sự tham gia của cộng
đồng và phát triển làng nghề gắn với phát triển du lịch. Một số nghiên cứu
như: “Quản lí môi trường cho sự phát triển bền vững”(Lưu Đức Hải, Nguyễn
Ngọc Sinh, 2008)[4];“Môi trường làng nghề với việc phát triển du lịch bền
vững”(Lê Hải, 2006)[3]; Đặc biệt trong đó có nghiên cứu về “Tính cộng đồng
và xung đột môi trường tại khu vực làng nghề ở đồng bằng sông Hồng, thực
trạng và xu hướng biến đổi” (Đặng Đình Long, 2005)[12]. Nghiên cứu đã đề
cập đến tình trạng xung đột môi trường hiện nay tại các làng nghề Việt Nam,
nhất là khu vực Đồng bằng sông Hồng. Các tác giả đã nêu cơ sở lý luận của
việc nghiên cứu mối quan hệ giữa tính cộng đồng với xung đột môi trường tại
khu vực nông thôn Đồng bằng sông Hồng và đã đi đến những kết luận khá rõ
ràng có liên quan như: chất lượng môi trường tại các làng nghề hiện nay là rất
xấu; nhận thức đối với việc bảo vệ môi trường của cộng đồng còn hạn chế; Tâm
lý phổ biến của chính quyền và cộng đồng trước thực trạng ô nhiễm là sự trông
chờ vào các cấp cao hơn, chưa có ý thức tự giác; mô hình ứng xử cơ bản của
người dân đối với vấn đề môi trường là không biết làm gì và không có những
hành vi cụ thể để bảo vệ môi trường….
Theo kết quả khảo sát của các tác giả tại 3 làng nghề điển hình thì tỷ lệ

những ý kiến trông chờ sự giải quyết ô nhiễm vào Nhà nước chiếm tới 56,6%;
giải pháp nâng cao nhận thức môi trường chiếm 14,8%; thông cảm và cùng

7


người sản xuất xử lý ô nhiễm chỉ có 8,5%, đặc biệt ý kiến nếu không xử lý ô
nhiễm thì ngừng sản xuất chỉ có 1,1% (Đặng Đình Long, 2005)[12]. Qua đó
cho thấy rằng ý thức của cộng đồng trong vấn đề phát triển kinh tế gắn với
môi trường còn nhiều hạn chế, vấn đề xung đột môi trường có nguy cơ khá
cao và phức tạp.
* Khu vực nghiên cứu.
Bắc Ninh là một tỉnh có diện tích nhỏ nhưng lại tập trung khá nhiều
làng nghề. Bên cạnh những làng nghề truyền thống cũng có những làng nghề
mới. Sự phát triển của làng nghề đã góp phần giải quyết vấn đề kinh tế ở nông
thôn nhưng lại làm xuất hiện những vấn đề môi trường.
Theo kết quả nghiên cứu của Vũ Thị Thuỳ Dương (2008) thì môi
trường đất làng Văn Môn huyện Yên Phong đã có dấu hiệu ô nhiễm kim loại
nặng, nguyên nhân gây lên sự ô nhiễm này chính là do hoạt động sản xuất
làng nghề. Một nghiên cứu khác của Nguyễn Thị Thắm (2012), tác giả nghiên
cứu môi trường đất và nước của 5 làng nghề trong tổng số 62 làng nghề của
Bắc Ninh, qua kết quả nghiên cứu tác giả thấy rằng môi trường nước ở các
làng nghề nghiên cứu đều có dấu hiệu ô nhiễm, ở môi trường đất tuy các chỉ
số phân tích vẫn nằm trong giới hạn cho phép, nhưng nếu không có biện pháp
can thiệt thì về lâu dài sẽ gây ra ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống người dân
(Nguyễn Thị Thắm, 2012)[18].
Nhìn chung các nghiên cứu đã giải quyết được vấn đề lý luận cơ bản
về các làng nghề, nhưng các nghiên cứu chỉ dừng lại ở mức chung chung,
chưa cụ thể, đa số môi trường làng nghề đều tồn tại bất cập. Vì vậy việc
nghiên cứu toàn diện mỗi một làng nghề là việc rất cần thiết để bảo tồn và

phát triển bền vững làng nghề.

8


3.
Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu làm rõ những tác động từ hoạt động sản xuất đồng
đến môi trườngở làng nghề Đại Bái, từ đó đề xuất một số giải pháp giải quyết vấn
đề môi trường.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu là hoạt động sản xuất đồng và môi

trường làng nghề Đại Bái
Phạm vi nghiên cứu: ảnh hưởng của hoạt động sản xuất
đồng tới môi trường ở làng nghề Đại Bái, tỉnh Bắc Ninh.
Địa điểm nghiên cứu: làng nghề Đại Bái- Gia Bình- Bắc
Ninh
Thời gian nghiên cứu: năm 2012-2015
5. Những đóng góp mới của luận văn
Nội dung nghiên cứu của đề tài cho ta có cái nhìn toàn diện về môi
trường làng nghề Đại Bái.Kết quả nghiên cứu của đề tài chỉ ra được ảnh
hưởng của hoạt động sản xuất TTCN tới môi trường làng nghề, nó là cơ sở
cho các giải pháp để phát triển bền vững ở làng nghề nơi đây.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1Nhóm phương pháp nghiên cứu hệ xã hội:
Phương pháp thu thập tài liệu, khảo sát, phỏng vấn, phiếu điều tra:
+ Thu thập các tài liệu liên quan đến làng nghề từ sách báo, các tạp chí khoa

học, từ các đề tài đã công bố, từ mạng internet…
+ Thu thập thông tin về làng nghề từ các cơ quan, các cấp có thẩm quyền:
trạm y tế xã, ủy ban nhân dân xã, sở tài nguyên và môi trường tỉnh Bắc Ninh.
+ Khảo sát thực địa, tìm hiểu tình hình sản xuất thông qua việc phỏng vấn
và phiếu điều tra nhân dân địa phương (50 phiếu điều tra).
6.2
Nhóm phương pháp nghiên cứu hệ tự nhiên
- Khảo sát thực tế để thống kê các loài sinh vật: Thống kê những loài
sinh vật được nuôi, trồng và những loài sinh vật ở môi trường tự nhiên

9


- Mẫu nước: với nước mặt: lấy ở vị trí giữa dòng, cách bề mặt nước
30cm, vị trí đầu nguồn, giữa nguồn(vị trí lấy mẫu được đánh dấu bằng kí tự *
trên bản đồ xã Đại Bái sau trang 38). Mẫu nước thải lấy ngay tại nguồn thải,
cho vào chai sạch, sau đó đem phân tích.
Xác định:-chỉ số pH, DO bằng máy HQd
- BOD 5 bằng phương pháp cấy và pha loãng theo
TCVN6001-1:2008
- COD theo TCVN 6491:1999
- Hàm lượng Cu, Pb, Zn trong nước bằng phương pháp quang
phổ hấp thụ nguyên tử theo TCVN 6193-1996.
- Mẫu đất: lấy đất ở độ sâu 10-20cm. Xác định hàm lượng kim loại Cu,
Pb, Zn trong đất bằng phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử theo TCVN
6496-2009.
(Phân tích tại phòng thí nghiệm môi trường, trường Đại học Tài
nguyên và môi trường Hà Nội)
7 Tổng quan tài liệu
7.1 Một số khái niệm về làng nghề

a. Khái niệm làng nghề.
Từ xa xưa, người nông dân Việt Nam đã biết sử dụng thời gian nông
nhàn để sản xuất những sản phẩm thủ công, phi nông nghiệp phục vụ cho nhu
cầu đời sống như: các công cụ lao động nông nghiệp, giấy, lụa, vải, thực phẩm
qua chế biến… Các nghề này được lưu truyền và mở rộng qua nhiều thế hệ, dẫn
đến nhiều hộ dân có thể cùng sản xuất một loại sản phẩm. Bên cạnh những người
chuyên làm nghề, đa phần lao động vừa sản xuất nông nghiệp, vừa làm nghề,
hoặc làm thuê (nghề phụ). Nhưng do nhu cầu trao đổi hàng hóa, các nghề mang
tính chất chuyên môn sâu hơn, được cải tiến kỹ thuật hơn và thường được giới
hạn trong quy mô nhỏ (làng), dần dần tách hẳn nông nghiệp để chuyển hẳn sang
nghề thủ công. Như vậy, làng nghề đã xuất hiện.

10


Có thể hiểu làng nghềlà làng nông thôn Việt Nam có ngành nghề tiểu
thủ công nghiệp, phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số lao động và thu nhập so
với nghề nông.
Có rất nhiều ý kiến và quan điểm khác nhau khi đề cập đến tiêu chí để
một làng ở nông thôn được coi là một làng nghề. Nhưng nhìn chung, các ý
kiến thống nhất ở một số tiêu chí sau:
- Giá trị sản xuất và thu nhập của từ phi nông nghiệp ở làng nghề đạt
trên 50% so với tổng giá trị sản xuất và thu nhập chung của làng nghề trong
năm; hoặc doanh thu hàng năm từ ngành nghề ít nhất đạt trên 300 triệu đồng,
hoặc:
- Số hộ và số lao động tham gia thường xuyên hoặc không thường xuyên,
trực tiếp hoặc gián tiếp đối với nghề phi nông nghiệp ở làng ít nhất đạt 30% so
với tổng số hộ hoặc lao động ở làng nghề có ít nhất 300 lao động.
- Sản phẩm phi nông nghiệp do làng sản xuất mang tính đặc thù của
làng và do người trong làng tham gia.

Theo Báo cáo môi trường quốc gia năm 2008(Bộ Tài nguyên Môi
trường, 2009)[1], tiêu chí công nhận làng nghề gồm có 3 tiêu chí sau:
- Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động
ngành nghề nông thôn.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời
điểm đề nghị công nhận.
- Chấp hành tốt chính sách Pháp luật của Nhà nước
[www.isge.monre.gov.vn].
b. Phân loại làng nghề.
Làng nghề với những hoạt động và phát triển đã có những tác động
tích cực và tiêu cực đến nền kinh tế, đời sống xã hội và môi trường với những
nét đặc thù rất đa dạng. Vấn đề phát triển và môi trường của các làng nghề
11


hiện nay đang có nhiều bất cập và đang được chú ý nghiên cứu. Muốn có
được những kết quả nghiên cứu xác thực, đúng đắn và có thể quản lý tốt các
làng nghề thì cần có sự nhìn nhận theo nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác
nhau đối với làng nghề. Bởi vậy, hệ thống phân loại các làng nghề dựa trên
các số liệu thông tin điều tra, khảo sát là cơ sở khoa học cho nghiên cứu, quản
lý hoạt động sản xuất cũng như việc quản lý, bảo vệ môi trường làng nghề.
Cách phân loại làng nghề phổ biến nhất là phân theo loại hình sản xuất,
loại hình sản phẩm. Theo cách này có thể phân thành 6 nhóm ngành sản
xuất gồm:
+ Ươm tơ, dệt vải và may đồ da.
+ Chế biến lương thực thực phẩm, dược liệu.
+ Tái chế phế liệu (giấy, nhựa, kim loại…).
+ Thủ công mỹ nghệ, thêu ren.
+ Vật liệu xây dựng, khai thác và chế tác đá.
+ Nghề khác (mộc gia dụng, cơ khí nhỏ, đóng thuyền, quạt giấy, đan vó, lưới..).

Dựa vào lịch sử hình thành người ta phân làng nghề thành làng nghề
truyền thống và làng nghề mới(Bùi Văn Vượng, 1998)[28]:
- Làng nghề truyền thống: là làng nghề xuất hiện từ lâu đời trong lịch
sử, là những làng nghề đã tồn tại hàng trăm năm thậm chí hàng nghìn năm,
sản phẩm có tính chất riêng biệt đặc thù, có giá trị văn hoá lịch sử của địa
phương được nhiều nơi biết đến, có phương thức truyền nghề cha truyền con
nối hoặc gia đình, dòng tộc. Ví dụ: làng nghề đúc đồng Đại Bái...
- Làng nghề mới: là những làng nghề xuất hiện do sự phát triển lan toả
của các làng nghề truyền thống trong những năm gần đây, đặc biệt trong thời
kỳ đổi mới, thời kỳ chuyển sang nền kinh tế thị trường. Những làng nghề xuất
hiện sau năm 1954 được coi là làng nghề mới ...

12


Ngoài ra còn có thể phân loại theo quy mô sản xuất (lớn, nhỏ, trung
bình); phân loại theo nguồn thải và mức độ ô nhiễm; theo mức độ sử dụng
nguyên liệu, theo thị trường tiêu thụ sản phẩm hoặc theo tiềm năng tồn tại và
phát triển…
7.2 Tổng quan về làng nghề Việt Nam
* Lịch sử phát triển làng nghề Việt Nam
Làng nghề là một trong những đặc thù của nông thôn Việt Nam. Nhiều
sản phẩm được sản xuất trực tiếp tại các làng nghề đã trở thành thương phẩm
trao đổi, góp phần cải thiện đời sống gia đình và tận dụng những lao động dư
thừa lúc nông nhàn. Đa số các làng nghề đã trải qua lịch sử phát triển hàng
ngàn năm, song song với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa và nông
nghiệp của đất nước.
Vào đầu thế kỉ XIX, riêng ở vùng châu thổ sông Hồng đã có 108 làng
nghề, thu hút 450 ngàn lao động, chỉ chiếm khoảng 7% dân cư ở tuổi trưởng
thành, đó là tỉ lệ rất nhỏ so với đông đảo dân cư ở vùng nông thôn lúc bấy giờ.

Theo thời gian, do nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, để tăng thêm thu nhập thì
người nông dân không chỉ trông chờ vào nông nghiệp, ngoài mùa vụ thì họ còn
rất nhiều thời gian rảnh, họ đã biết sử dụng thời gian này để làm thêm những
công việc khác với mục đích để cuộc sống được no đủ hơn. Khi đó số người
tham gia vào sản xuất nghề ngay càng tăng, từ 7% ban đầu nó đã tăng lên 20% ,
40%...nhiều người dân chuyển hẳn từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất phi
nông nghiệp, bán nông nghiệp (Đặng Kim Chi, 2005)[2].
Trước cách mạng tháng 8, một số ít làng nghề ở nước ta sản phẩm làm
ra không những phục vụ cho nhu cầu hàng ngày trong nước mà nó còn được
xuất khẩu, được nhiều nước trên thế giới yêu chuộng: như sản phẩm dệt lụa
Hà Đông rất nổi tiếng- thương hiệu đó vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay, giỏ
cói Nam Định cũng là một trong các sản phẩm được bạn bè quốc tế biết đến
13


khá sớm. Những sản phẩm này mang lại nguồn thu nhập cao hơn hẳn cho
người dân làm nghề so với người dân tham gia sản xuất nông nghiệp. Phần
lớn các làng nghề thủ công khi đó họ sản xuất sản phẩm phục vụ cuộc sống
hàng ngày, dùng để trao đổi hàng hoá, họ chỉ cố đáp ứng nhu cầu tiền mặt,
mong duy trì được một cuộc sống đủ ăn. Thời thế thay đổi nhiều làng nghề đã
bị mai một, lãng quên. Nhưng nhiều làng nghề cũng đã tồn tại và phát triển
thành làng nghề truyền thống tồn tại đến ngày nay.
Sự phân bố làng nghề ở Việt Nam không đồng đều, làng nghề chủ yếu
tập trung ở vùng nông thôn, đông dân cư, nhiều thời gian dư nhàn. Sự phân bố
làng nghề chủ yếu tập trung ở Miền Bắc- khu vực đồng bằng sông Hồng.
Nhiều tỉnh ở miền Bắc có sản phẩm làng nghề nổi tiếng truyền từ đời nay
sang đời khác, sản phẩm không chỉ phục vụ cho nhu cầu trong tỉnh mà nó
cũng đã rất nổi tiếng ở các tỉnh khác, thậm chí còn được những người nước
ngoài biết đến và yêu thích. Ngay từ thế kỉ XVIII, Hà Tây đã nổi tiếng với dệt
lụa tơ tằm. Bắc Ninh là tỉnh có diện tích nhỏ nhưng lại có khá nhiều làng

nghề, có những làng nghề xuất hiện ngay từ Thời Lý, khi đó cả nước mới có
64 làng nghề thì Bắc Ninh đã có 14 làng nghề mang tính truyền thống, sản
phẩm làm ra ngày càng đa dạng phong phú cung cấp phần lớn hàng tiêu dùng
cho người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh. Cũng như Bắc Ninh thì Hưng Yên
cũng là tỉnh có nhiều làng nghề, xuất hiện, phát triển và tồn tại từ rất lâu trong
lịch sử, như làng nghề chạm bạc Châu Khê, nhiều nghệ nhân chạm bạc giỏi đã
được nhà vua thời bấy giời mời về kinh đô Thăng Long để chạm khắc các đồ
trang sức và dụng cụ gỗ cho hoàng cung, sau đó nhiều người thợ đã tập trung
lại gìn giữ và phát huy nghề tạo lên phố Hàng Bạc vẫn còn tồn tại cho tại ngày
nay. Nhiều sản phẩm thương hiệu gắn với tên làng nghề còn tồn tại cho đến
ngày nay như nhuộm Đa Loan đã phát triển thành phố thợ nhuộm, gốm Chu
Đậu, chạm khắc Đông Giao, bánh gai Ninh Giang...cũng đã xuất hiện từ hàng
14


trăm năm với những nghệ nhân và sản phẩm nổi tiếng khắp vùng (Đặng Kim
Chi, 2005)[2].
Sự phát triển của các làng nghề cũng gắn liền với những thăng trầm
trong mỗi giai đoạn lịch sử. Từ năm 1954- 1978, khi đó nhà nước ta có
chương trình công nghiệp hoá ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, thợ thủ
công cũng được khuyến khích tham gia vào hợp tác xã, sản phẩm ở giai đoạn
này chủ yếu là các mặt hàng thủ công mĩ nghệ xuất khẩu đi các nước trong
phe chủ nghĩa xã hội. Do chính sách phát triển kinh tế khi đó chưa phù hợp
với đặc điểm, tình hình, điều kiện kinh tế của đất nước nên nhiều làng nghề đã
bị suy thoái trong giai đoạn này.
Từ năm 1978- 1985: khi hệ thống bao cấp sụp đổ, đất nước bị đè nặng
trong áp lực của gia tăng dân số và hậu quả của chiến tranh, lối thoát cho phát
triển kinh tế giai đoạn này là rất khó, đời sống của nhân dân đặc biệt ở vùng
nông thôn gặp nhiều khó khăn, chính nhu cầu cấp thiết trong sinh hoạt của
cuộc sông hàng ngày mà khi đó thì nhiều làng nghề lại được phục hồi.

Từ năm 1985- 1992, đất nước chuyển từ cơ chế quản lí bao cấp sang
cơ chế thị trường có sự quản lí vĩ mô của nhà nước, nhiều chính sách phát
triển kinh tế, đổi mới quản lí trong nông nghiệp, phát triển nhiều thành phần
kinh tế, nên nhiều làng nghề có cơ hội phát triển mở rộng quy mô sản xuất,
được đầu tư vốn kĩ thuật, thị trường sản phẩm được mở rộng dẫn đến nhu cầu
hàng hoá nhiều, thu hút nhiều lao động.
Từ năm 1993 đến nay: nước ta mở rộng quan hệ ngoại giao với nhiều
nước trên thế giới, việc này tạo điều kiện cho sự giao lưu kinh tế mở rộng thị
trường tiêu thụ, nó tạo cơ hội cho làng nghề phát triển trở lại vì lúc này khó
khăn về thị trường đã được giải quyết, đồng thời đó nhu cầu nâng cao đời
sống, giải quyết công ăn việc làm ở nông thôn dẫn đến nhiều làng nghề được
khôi phục và sự ra đời của nhiều làng nghề mới.
15


Lịch sử phát triển các làng nghề Việt Nam đã trải qua rất nhiều thăng
trầm cùng với những biến cố lịch sử, có nhiều làng nghề bị mất đi nhưng
cũng có nhiều làng nghề tồn tại được vượt qua những khó khăn trong lịch sử
trở thành những làng nghề truyền thống như làng đúc đồng Đại Bái (Bắc
Ninh) với hơn 900 năm phát triển, làng nghề gốm Bát Tràng (Hà Nội) có gần
500 năm tồn tại, nghề chạm bạc ở Đồng Xâm (Thái Bình) hay nghề điêu
khắc đá mỹ nghệ Non Nước (Đà Nẵng) cũng đã hình thành cách đây hơn 400
năm. Tổng số làng nghề cả nước hiện nay là 1450 làng nghề, tập trung chủ
yếu ở miền Bắc (chiếm khoảng 60%); còn lại là ở Miền Trung (chiếm
khoảng 30%) và Miền Nam (khoảng 10%) (Đặng Kim Chi, 2005)[2]. Hàng
năm các làng nghề đã có đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước, thúc
đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước đồng thời nó góp phần vào giải quyết
các vấn đề an ninh - xã hội.
7.2.1 Hiện trạng môi trường làng nghề Việt Nam
Các chất thải phát sinh tại nhiều làng nghề đã và đang gây ô nhiễm,

làm suy thoái môi trường nghiêm trọng, tác động trực tiếp đến sức khỏe
người dân và ngày càng trở thành vấn đề bức xúc. Ô nhiễm môi trường làng
nghề có một số đặc điểm sau:
* Ô nhiễm môi trường tại làng nghề là dạng ô nhiễm phân tán trong
phạm vi một khu vực (thôn, làng, xã,…).
Do quy mô sản xuất nhỏ, phân tán, đan xen với khu sinh hoạt nên đây
là loại hình ô nhiễm khó quy hoạch và kiểm soát.
* Ô nhiễm môi trường tại làng nghề mang đậm nét đặc thù của hoạt
động sản xuất theo ngành nghề và loại hình sản phẩm và tác động trực tiếp
tới môi trường nước, khí, đất trong khu vực.
*Môi trường không khí

16


Ở các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm (CBNSTP) thì ấn tượng
của môi trường không khí nơi đây là những mùi hôi rất khó chịu, nguồn gốc
của những mùi này kết quả của sự phân huỷ các chất hữu cơ dạng rắn và các
chất hữu cơ tồn tại trong nước thải sinh ra. Tại làng nghề sản xuất bún, bánh
nước thải không được xử lí mà thải trực tiếp ra cống rãnh khi trời nắng chất
thải bốc lên mùi chua rất khó chịu. Đặc biệt ở các làng nghề sản xuất nước
mắm do phơi cá ngoài trời nên mùi hôi tanh bốc lên rất khó chịu. Bên cạnh đó
ở loại hình làng nghề này sử dụng lượng nhiên liệu khá lớn chủ yếu là than và
củi, khi đốt than, củi đã thải ra môi trường một lượng bụi và các khí CO, NO 2,
CO2, SO2...làm suy giảm chất lượng môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng đến
sức khoẻ và cuộc sống con người.
Làng nghề dệt nhuộm cần sử dụng một lượng nước rất lớn đồng thời
cũng thải ra môi trường một lượng nước đáng kể, nhưng lượng nước thải ra
môi trường lại chứa lượng tồn dư thuốc nhuộm khá cao. Ở các làng nghề này
thì nó tác động đến môi trường nước nhiều hơn , nó cũng gây những tác động

đến môi trường không khí như trong quá trình xử lí vải thì tạo các bụi bông,
hay trong quá trình đốt nhiên liệu thải ra các khói , khí ở các lò đốt.
Theo khảo sát của Viện khoa học công nghệ môi trường, các nhà khoa
học đã đưa ra nhận định : ở làng nghề sản xuất sản phẩm thủ công mĩ nghệ thì
các chất thải tác động chủ yếu là đến môi trường không khí, do bụi, tiếng ồn,
hơi dung môi hữu cơ, mùi sơn, đặc biệt là công đoạn sông SO 2 cho các sản
phẩm đan lát, sơn và vecni cho các sản phẩm đồ gỗ mĩ nghệ

17


Bảng 1: Khảo sát chất lượng không khí tại 2 làng gốm
stt

Chỉ tiêu

1
2
3
4
5
6
7

Nhiệt độ(oC)
Tiếng ồn(dBA)
Bụi(mg/m3 )
SO2 (mg/m3 )
NO2(mg/m3 )
CO(mg/m3 )

HF(mg/m3 )

Làng nghề gốm Thanh
Hà- QNam
K1
K2
31,2
33
56-58
56,5-67,8
0,33
0,4
0,002
0,026
0,01
0,032
5
22,662
0,037

Làng nghề gốm
Thuận An- BDương
K3
K4
29,5
27,5
80-85
83-85
0,962
1,85

0,22
0,18
0,14
0,11
5,36
4,15

TCVN
5937-95
60*
0,3
0,5
0,4
40
0,02**

(Đặng Kim Chi, 2005)[2]
K1: Tại khu vực sản xuất gốm nhà ông Kiên tổ 62, làng nghề gốm
Thanh Hà
K2: tại khu vực cuối hướng gió gần chợ Lai Nghi làng nghề gốm
Thanh Hà
K3: khu vực sản xuất gốm sứ Minh Long, Thuận An- Bình Dương
K4: khu vực sản xuất gốm sứ Kim Long, Thuận An –Bình Dương
(*):TCVN5949-95: Giới hạn tối đa tiếng ồn ở khu dân cư
(**): TCVN 5938-95: nồng độ tối đa cho phép một số chất độc hại
trong không khí xung quanh
Từ bảng trên ta có thể nhận thấy rằng thành phần gây ô nhiễm môi
trường không khí ở đa số các điểm nghiên cứu chính là bụi (bụi nhiên liệu và
bụi nguyên liệu) phát sinh từ khâu vận chuyển, gia công nguyên liệu, pha trộn,
bốc dỡ sản phẩm...ở những điểm đó thì lượng bụi đều vượt tiêu chuẩn cho

phép, thậm chí ở khu vực Kim Long-Thuận An –Bình Dương hàm lượng bụi
còn gấp 6 lần tiêu chuẩn cho phép. Bên cạnh đó thì tiềng ồn ở cả 2 điểm
nghiên cứu ở Bình Dương đều khá cao vượt tiêu chuẩn cho phép. Hàm lượng
khí tuy ở trong giới hạn cho phép nhưng lâu dần hàm lượng khí này tích luỹ

18


×