Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

BIỆN PHÁP PHÁT TRỂN vốn từ TIẾNG VIỆT CHO TRẺ EM lào 5 6 TUỔI lớp SONG NGỮ lào VIỆT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ môi TRƯỜNG XUNG QUANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.47 KB, 127 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến Cô giáo PGS.TS Lã
Thị Bắc Lý – người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành
Luận văn này.
Tôi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến với:
Các thầy giáo, cô giáo Khoa Giáo dục Mầm non; Ban giám hiệu; Phòng sau đại
học; Thư viện trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu.
Ban Giám hiêu, Ban Chủ nhiệm khoa Tiểu học – Mầm non Trường cao đẳng sư
phạm Salavanh đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.
Ban giám hiệu, tập thể giáo viên cùng các cháu mẫu giáo hai trường mầm non:
Trường tư thục Lào-Việt Nguyễn Du, xã Đông Pa Lẹp, Huyện Chan Thu Bu Ly,
Thủ đô Viêng Chăn và trường song ngữ Lào-Việt Khongsedon, xã Khong Nhay,
Huyện Salavanh, Tỉnh Salavanh đã tạo điều kiện thuận lợi giup tôi tiến hành
nghiên cứu để hoàn thành Luận văn.
Cảm ơn gia đình, anh chị em đồng nghiệp, bạn bè đã hết lòng giúp đỡ, khích lệ,
động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, tháng 10 năm 2016
Tác giả

Vanchay Bouakasy


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
MG: Mẫu giáo
MN: Mầm non
GVMN: Giáo viên mầm non
MTXQ: Môi trường xung quanh
TC: Tiêu chí
TN: Thực nghiệm


ĐC: Đối chứng
Tb: Trung bình


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Mục tiêu của giáo dục mầm non
Là phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ cả về trí tuệ, thể chất, ngôn ngữ,
thẩm mỹ, đạo đức, năng động, sáng tạo, linh hoạt trong mọi hoạt động. Trong
đó, giáo dục ngôn ngữ là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Ngôn ngữ là
công cụ của tư duy, là đặc quyền của con người. Ngôn ngữ vừa là hình thức thể
hiện của tư duy vừa là chìa khóa để nhận thức, là vũ khí để chiếm lĩnh kho tàng
kiến thức của dân tộc, nhân loại. Đối với trẻ mầm non, ngôn ngữ đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách toàn diện. Nhiều
nhà nghiên cứu đã xem công tác phát triển ngôn ngữ cho trẻ là khâu chủ yếu của
hoạt động trong trường mầm non, là tiền đề cho mọi sự thành công khác.
1.2. Nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ cho trẻ vừa mang ý nghĩa giáo dục vừa
mang ý nghĩa nhân văn, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và tiếng mẹ đẻ. Nội
dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ bao gồm các mặt: giáo dục ngữ âm, từ vựng,
ngữ pháp, phát triển lời nói mạch lạc, chuẩn bị cho trẻ tập đọc, tập viết, cảm
nhận ngôn ngữ nghệ thuật, giáo dục văn hóa giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm non được lồng ghép trong
các hoạt động khác nhau như: hoạt động khám phá khoa học, hoạt động khám
phá môi trường xung quanh, hoạt động âm nhạc… Để thực hiện tốt nhiệm vụ
phát triển ngôn ngữ cho trẻ thì việc đầu tiên là phải quan tâm phát triển vốn từ.
Bởi việc phát triển vốn từ Tiếng Việt cho trẻ là điều kiện, phương tiện quan
trọng để làm tăng khả năng sử dụng ngôn ngữ của trẻ trong giao tiếp với mọi

người xung quanh, đồng thời làm phong phú thêm đời sống tinh thần cho trẻ. Nó
là điều kiện phát triển tư duy, giúp trẻ tự tin, chủ động và tích cực hơn khi tham
gia vào các hoạt động ở trường mầm non cũng như hoạt động giao tiếp mọi lúc,
mọi nơi. Vì vậy, giáo dục mầm non coi việc hình thành và phát triển vốn từ là
một nhiệm vụ quan trọng trong nội dung giáo dục trẻ. Phát triển vốn từ là một

1


quá trình lâu dài, nó bao gồm hai mặt: tích lũy số lượng và nâng cao chất lượng
từ vựng.
Hoạt động khám phá môi trường xung quanh được coi là phương tiện
quan trọng để phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Mục tiêu của khám phá
MTXQ là: Giúp trẻ có những hiểu biết đơn giản, chính xác, cần thiết về các sự
vật, hiện tượng xung quanh; phát triển các kỹ năng nhận thức, kỹ năng xã hội và
hình thành cho trẻ thái độ sống tích cực trong môi trường, trong đó mục tiêu
phát triển kỹ năng là mục tiêu cơ bản.Trong hoạt động này giáo viên có thể lựa
chọn những đè tài, nội dung khám phá phong phú.Chính vì vậy mà thông qua
hoạt động này,trẻ được tiếp xúc với nhiều từ loại khác nhau hấp dẫn, khơi dậy
tính tò mò, phát triển tư duy, tình cảm và yếu tố thẩm mỹ. Nếu biết cách khai
thác để phát triển vốn từ cho trẻ thông qua khám phá môi trường xung quanh thì
không những vốn từ của trẻ được tăng lên, trẻ có khả năng sử dụng và cảm nhận
ngôn ngữ nghệ thuật tốt hơn mà còn phát triển đời sống tinh thần, giúp trẻ hiểu
biết thế giới xung quanh đa dạng và sâu sắc hơn để phát triển nhân cách một
cách toàn diện.
1.3. Ý nghĩa của việc dạy Tiếng Việt cho trẻ MG Lào: Trong thời đại công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam – Lào đã và đang thực hiện chính sách mở
cửa hội nhập với kinh tế thế giới. Mặc dù phải trải qua nhiều thử thách, nhưng
với quyết tâm khẳng định mình, Lào đã không ngừng học hỏi, không ngừng
vươn lên để lớn mạnh hơn, sánh vai với các nước trên thế giới và trong khu vực.

Sứ mệnh của đất nước đặt lên vai thế hệ trẻ. Làm thế nào để đào tạo ra thế hệ
tương lai cho đất nước. Đó là một nhiệm vụ cấp thiết đặt ra cho nền giáo dục
nước nhà. Giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu, trong đó giáo dục Mầm non
là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, giữ vai trò quan trọng, là
nền tảng cho sự phát triển của các bậc học tiếp theo. Người Lào nói chung, trẻ
em Lào nói riêng từ lâu đã có truyền thống học Tiếng Việt.
Vấn đề dạy Tiếng Việt cho trẻ em Lào hiện nay được đưa vào từ cấp học
mầm non. Điều đó sẽ có ý nghĩa vô cùng quan trọng để phát triển tình hữu nghị
2


lâu đời và bền vững giữa hai nước. Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài: “Biện
pháp phát triển vốn từ Tiếng Việt cho trẻ 5-6 tuổi ở lớp mẫu giáo song ngữ Lào
– Việt thông qua hoạt động khám phá môi trường xung quanh”
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
“Ngôn ngữ là một thứ sản phẩm độc quyền của con người”. Ngôn ngữ được
hình thành, tồn tại và ngày càng phát triển trong xã hội loài người do ý muốn và
nhu cầu của con người. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi bước
đầu tiếp cận một số công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước
có liên quan đến vấn đề phát triển vốn từ cho trẻ mầm non. Cụ thể như sau:
2.1 . Các công trình nghiên cứu về việc phát triển vốn từ cho trẻ MG nói chung
Ở tuổi MG, trẻ phải nắm được một số vốn từ cần thiết đủ để cho chúng giao
tiếp được với bạn bè, người lớn, tiếp thu các tri thức ban đầu trong trường mầm
non, chuẩn bị học tập ở trường phổ thông, xem các chương trình truyền hình,
truyền thanh, tham gia các hoạt động xã hội gần gũi với đời sống của trẻ… Vì
vậy muốn mở rộng thêm vốn từ cho trẻ người lớn phải thường xuyên cho trẻ
được làm quen, tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với các vật thể và đặc tính của
nó để từ đó trẻ nhớ được từ. Theo bà E.I Tikheva, việc mở rộng khối lượng từ
cho trẻ trước hết phải là từ biểu tượng chứ không phải là từ âm thanh. Nghĩa là,
chúng ta càng cung cấp cho trẻ nhiều biểu tượng bao nhiêu thì ngôn ngữ của trẻ

càng phát triển bấy nhiêu. Có rất nhiều biện pháp để phát triển ngôn ngữ cho trẻ
nhưng theo các nhà khoa học, một trong những biện pháp hữu hiệu và dễ dàng
sử dụng nhất đối với cô và trẻ là phương pháp quan sát vật thật, tranh ảnh, kể
truyện, thăm quan, hay tổ chức trò chơi cho trẻ. Những tư tưởng của bà còn
được nhiều nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam tiếp tục nghiên cứu và phát
triển như: M.M Kônxôva: “Dạy nói cho trẻ trước tuổi đi học”, L.P Pheedorencô:
“Phương pháp phát triển lời nói cho trẻ mẫu giáo”, A.P. Uxôva: “dạy học ở mẫu
giáo” . Tại Việt Nam, tác phẩm “Phát triển ngôn ngữ trẻ em trước tuổi đến
trường phổ thông” đã được lựa chọn để đem vào sử dụng như một tài liệu giảng

3


dạy chính thức trong các trường sư phạm MN từ những năm 70 của Thế kỉ XX
vẫn còn giữ nguyên giá trị đến ngày nay.
Các tác phẩm trên đều đã nghiên cứu và phát triển ngôn ngữ trẻ em về: ngữ
âm, từ vựng, ngôn ngữ mạnh lạc trước tuổi đi học để từ đó đề ra các nhiệm vụ,
phương pháp, biện pháp đề phát triển từng mặt. Bên cạnh đó, Kaka-hai-no-dich
trong tác phẩm: “dạy trẻ học nói như thế nào” cũng đề cập đến nhiều vấn đề dạy
trẻ học nói. Ông cho rằng “sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em trải qua các giai
đoạn từ thấp đến cao”. Ông đã đưa ra nhiều phương tiện, biện pháp và cách thức
giúp những bậc cha mẹ áp dụng trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày vào việc
dạy trẻ học nói và phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Ở Việt Nam, trong những thập niên gần đây đã và đang có rất nhiều cố gắng
trong nghiên cứu tiếng mẹ đẻ cho trẻ. Bên cạnh đó cũng đưa ra nhiều phương
pháp giáo dục thích hợp cho trẻ ở Việt Nam thông qua các công trình nghiên
cứu về phát triển ngôn ngữ cho trẻ của các tác giả như: Nguyễn Huy Cẩn,
Nguyễn Xuân Khoa, Đinh Hồng Thái, Lê Thị Ánh Tuyết, Lã Thị Bắc Lý, Ngô
Thu Thủy, Bùi Kim Tuyến, Lưu Thị Lan,… và rất nhiều tác giả khác nữa.
Tác giả Đinh Hồng Thái có thể nói là một trong những nhà nghiên cứu hàng

đầu về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Ông có rất nhiều công trình nghiên cứu
như: “ Phát triển ngôn ngữ trẻ em – chuyên đề cao học”, “Giáo trình phát triển
lời nói trẻ em”, “ Giáo trình phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mẫu
giáo”, “Giáo trình phát triển ngôn ngữ tuổi Mầm non”… Trong các công trình
này, tác giả đã đưa ra cơ sở lý luận cơ bản cho việc phát triển ngôn ngữ của trẻ
đồng thời đưa ra những phương pháp, cách thức, con đường, hình thức giáo dục
phù hợp với từng nội dung và tương ứng với từng độ tuổi khác nhau một cách hệ
thống và cụ thể.
Trong tác phẩm “Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo” của tác
giả Nguyễn Xuân Khoa đã đề cập đến vấn đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua
các giai đoạn khác nhau của từng độ tuổi. Ông đưa ra được cơ sở lý luận và
khoa học để cho thấy tầm quan trọng cũng như vai trò của việc phát triển ngôn
4


ngữ đối với trẻ mầm non. Đồng thời, ông cũng chỉ ra nội dung, nhiệm vụ,
phương pháp, phương tiện, hình thức phát triển cụ thể qua từng giai đoạn khác
nhau của từng độ tuổi. Bên cạnh đó, tác giả còn đề cập đến việc cho trẻ làm
quen với các tác phẩm văn học, giúp cho trẻ phát triển ngôn ngữ và khả năng
cảm thụ văn học cũng như sáng tạo nghệ thuật ngay từ tuổi MN.
Trong công trình: “ Những bước phát triển ngôn ngữ của trẻ em từ 1 – 6
tuổi” của tác giả Lưu Thị Lan đã khẳng định: “Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ
chịu ảnh hướng rất lớn của yếu tố gia đình và sự tích cực của giao tiếp với mọi
người xung quanh”. Tác phẩm đã nghiên cứu về tất cả các khía cạnh của ngôn
ngữ ở trẻ độ tuổi MN, đưa ra hệ thống các đặc điểm phát triển ngôn ngữ bao
gồm: phát âm, từ vựng, vốn từ, phát triển lời nói mạch lạc và các yếu tố ảnh
hưởng tới việc hình thành và phát triển ngôn ngữ ở trẻ từ 0 – 6 tuổi. Từ đó xây
dựng nội dung, phương pháp, con đường phù hợp với trẻ từng độ tuổi để dạy trẻ
học nói một cách hiệu quả.
Trong bài viết “ Phát triển ngôn ngữ cho trẻ có nhu cầu đặc biệt – vấn đề cần

được quan tâm trong thời kỳ hội nhập quốc tế” ( Kỷ yếu hội thảo GVMN trong
thời kỳ hội nhập quốc tế), tác giả Lã Thị Bắc Lý đã đề cập đến việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ thuộc đối tượng đặc biệt về ngôn ngữ và văn hóa ( trẻ em
khuyết tật và trẻ dân tộc thiểu số). Tác giả khẳng định GVMN cần đặc biệt quan
tâm đến hai nhóm đối tượng này, nhất là quan tâm đến mặt ngôn ngữ để đảm
bảo quyền lợi và công bằng cho các em được đến trường phổ thông, được hưởng
thụ nền giáo dục về văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Bài viết” Can thiệp lời nói và ngôn ngữ cho trẻ nhỏ: Một số kỹ năng cơ bản
trong việc xây dựng mục tiêu can thiệp” của tác giả Phạm Thị Bền đã bàn đến
môt số kỹ năng cũng như kỹ thuật cần thiết để xây dựng mục tiêu can thiệp lời
nói và ngôn ngữ cho trẻ thuộc đối tượng này.
Bên cạnh đó còn rất nhiều công trình nghiên cứu, luận án, luận văn, khóa
luận tốt nghiệp đề cập đến vấn đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

5


Như vậy, việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một khoa học. Muốn phát triển
ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất cần phải có sự định hướng, giáo dục từ người lớn.
Thành tựu của các công trình nghiên cứu trên chính là cơ sở, nền tảng góp phần
quan trọng trong việc giáo dục ngôn ngữ trẻ em nói riêng và giá trị của ngôn ngữ
nói chung góp phần phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
2.2 Các công trình nghiên cứu về phát triển vốn từ tiếng Việt cho trẻ mẫu
giáo Lào
Các công trình nghiên cứu về vấn đề phát triển vốn từ tiếng Việt cho trẻ mẫu
giáo Lào gần như không có. Giáo viên mầm non của Lào hầu như giảng dạy
bằng kinh nghiệm của bản thân mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng một số biện pháp phát triển vốn từ Tiếng Việt cho trẻ 5 – 6
tuổi lớp MG song ngữ Lào – Việt thông qua hoạt động khám phá môi trường

xung quanh.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1.

Khách thể nghiên cứu: Quá trình phát triển vốn từ Tiếng Việt cho trẻ
5-6 tuổi ở lớp MG song ngữ Lào-Việt

4.2.

Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp phát triển vốn từ Tiếng Việt cho trẻ
5-6 tuổiở lớp MG song ngữ Lào –Việt thông qua hoạt động khám phá
môi trường xung quanh.

5. Giả thuyết khoa học
Nếu sử dụng các biện pháp phát triển vốn từ Tiếng Việt cho trẻ MG
Lào 5 – 6 tuổi, lớp song ngữ Lào – Việt một cách hợp lý và khoa học qua hoạt
động khám phá môi trường xung quanh thì vốn từ của trẻ ở lứa tuổi này sẽ được
phát triển tốt hơn bởi vì thông qua đó trẻ phát triển được kỹ năng nhận thức, kỹ
năng xã hội và hình thành cho trẻ thái độ sống tích cực trong môi trường.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1.

Xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài

6.2.

Nghiên cứu và đánh giá thực trạng việc phát triển vốn từ cho trẻ 5 – 6
6



tuổi thông qua hoạt động khám phá môi trường xung quanh
6.3.

Đề xuất một số biện pháp phát triển vốn từ Tiếng Việt cho trẻ 5 – 6
tuổi ở lớp MG song ngữ Lào – Việt thông qua hoạt động khám phá
môi trường xung quanh

6.4.

Tổ chức thực nghiệm nhằm đánh giá hiệu quả của các biện pháp đã đề
xuất

7. Phạm vi nghiên cứu
7.1.

Phạm vi về trẻ
Trẻ 5- 6 tuổi tại Lào, lớp MG song ngữ Lào – Việt

7.2.

Phạm vi về khám phá môi trường xung quanh
Môi trường xung quanh rất đa dạng nên có nhiều chủ đề như động vật,

thực vật, đất, nước, không khí, …Trong phạm vi đề tài này, tôi xin phép
trọng tâm chủ đề “Thực vật”
7.3.

Phạm vi về hoạt động

Trong luận văn tôi chủ yếu phát triển vốn từ cho trẻ thông qua hoạt động

học có quan sát( vật thật, trực quan).
7.4.

Phạm vi về từ loại
Hệ thống từ loại Tiếng Việt bao gồm: Thực từ, hư từ, lớp từ trung gian.

Trong đề tài này chúng tôi chỉ đi sâu nghiên cứu thực từ (gồm: Danh từ, động
từ, tính từ)
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1.

Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

Tổng hợp, phận tích, nghiên cứu, khái quát hệ thống hóa các nguồn tài liệu có
liên quan đến đề tài.
8.2.

Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

8.2.1. Phương pháp điều tra phiếu Anket
Sử dụng phiếu hỏi nhằm thăm dò ý kiến giáo viên tại các trường mầm non về
trình độ, thái độ, kinh nghiệm và việc sử dụng các biện pháp phát triển vốn từ
Tiếng Việt cho trẻ 5 – 6 tuổi ở lớp MG song ngữ Lào –Việt thông qua hoạt
7


động khám phá môi trường xung quanh.
8.2.2. Phương pháp đàm thoại
Chúng tôi tiến hành trò chuyện, trao đổi với giáo viên để tìm hiểu nhận thức của
giáo viên về những vấn đề có liên quan đến phát triển vốn từ Tiếng Việt cho trẻ

5 – 6 tuổi ở lớp MG song ngữ thông qua hoạt động khám phá môi trường xung
quanh.
8.2.3. Phương pháp quan sát
Quan sát cô và trẻ trong quá trình giáo viên tổ chức hoạt động cho trẻ khám phá
môi trường xung quanh để thu thập những thông tin cần thiết.
8.2.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
Phân tích và đánh giá giáo án của giáo viên.
8.3.

Nhóm phương pháp xử lý số liệu bằng toán thống kê

Chúng tôi ứng dụng toán thống kê vào việc xử lý các số liệu thu thập được để từ
đó đưa ra những đánh giá, nhận xét một cách chính xác và khách quan.
9. Đóng góp của đề tài
• Về lý luận: Xây dựng cơ sở lý luận về việc phát triển vốn từ Tiếng Việt cho
trẻ 5 – 6 tuổi ở lớp MG song ngữ thông qua hoạt động khám phá môi trường
xung quanh.
• Về thực tiễn:
+ Làm rõ thực trạng phát triển vốn từ Tiếng Việt cho trẻ 5 – 6 tuổi ở lớp
MG song ngữ Lào – Việt thông qua hoạt động khám phá môi trường
xung quanh, chỉ ra những ưu điểm và hạn chế đồng thời phân tích
nguyên nhân của thực trạng đó.
+ Xây dựng một số biện pháp phát triển vốn từ Tiếng Việt cho trẻ 5 – 6
tuổi ở lớp MG song ngữ thông qua hoạt động khám phá môi trường
xung quanh.
10. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu thamk khảo, nội dung
chính của luận văn gồm có ba chương:
8



Chương I: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương II: Thực trạng phát triển vốn từ Tiếng Việt cho trẻ 5 – 6 tuổi lớp MG
song ngữ Lào –Việt thông qua hoạt động khám phá môi trường xung quanh
Chương III: Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp phát triển vốn từ Tiếng
Việt cho trẻ 5 – 6 tuổi lớp MG song ngữ Lào – Việt qua hoạt động khám phá
môi trường xung quanh

9


NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN VỐN TỪ
TIẾNG VIỆT CHO TRẺ 5-6 TUỔI Ở LỚP MẪU GIÁO
SONG NGỮ LÀO – VIỆT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ MÔI
TRƯỜNG XUNG QUANH
1. Cơ sở ngôn ngữ học
1.1 Từ Tiếng Việt
1.1.1 Khái niệm về từ Tiếng Việt
Khái niệm về từ Tiếng Việt trong ngôn ngữ học được đưa ra không ít, có
nhiều quan điểm. Bách khoa toàn thư Việt Nam đưa ra khái niệm: Từ là đơn vị
sẵn có trong ngôn ngữ. Từ là đơn vị nhỏ nhất, cấu tạo ổn định, mang nghĩa hoàn
chỉnh, được dùng để cấu thành nên câu. Từ có thể làm tên gọi của sự vật (danh
từ), chỉ các hoạt động (động từ), trạng thái, tính chất (tính từ)... Từ là công cụ
biểu thị khái niệm của con người đối với hiện thực.
Trong ngôn ngữ học, từ là đối tượng nghiên cứu của nhiều cấp độ khác
nhau, như cấu tạo từ, hình thái học, ngữ âm học, phong cách học, cú pháp học...
Các định nghĩa trên đúng nhưng chưa đủ vì nó không bao gồm được hết
các sự kiện được coi là từ trong ngôn ngữ. Từ trong mỗi ngôn ngức khác nhau sẽ
khác nhau và ngay cả trong một ngôn ngữ cũng vậy. Vì lẽ đó mà không ít những

nhà khoa học đã chối bỏ khái niệm “từ” hoặc nếu thừa nhận thì họ cũng tránh
đưa ra một khái niệm chính thức.
Trong các định nghĩa hiện có thì định nghĩa của Giáo sư Đỗ Hữu Châu –
nhà nghiên cứu từ vựng tiếng Việt là bao quát hơn cả. “Từ của tiếng Việt là một
hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp cố định,
nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất
để tạo câu”.
Định nghĩa trên đã khái quát được các đặc điểm cơ bản của từ tiếng Việt, đó là:

10


- Từ tiếng Việt là một âm tiết như: đi, cây, bố, mẹ… từ tiếng Việt có một số âm
tiết như: chủ nghĩa xã hội, hợp tác xã, xinh đẹp… Từ tiếng Việt cố định, bất biến
về hình thức ngữ âm.
- Mỗi từ tiếng Việt mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định. Đó là đặc điểm
về khả năng kết hợp với các từ khác, khả năng đảm nhiệm những chức vụ ngữ
pháp trong câu…
- Mỗi từ tiếng Việt nằm trong một kiểu cấu tạo nhất định: không là từ đơn thì là
từ láy, từ ghép.
- Các từ thuộc cùng một kiểu cấu tạo sẽ có cùng một kiểu ý nghĩa. Ví dụ: từ
ghép đẳng lập có nghĩa mang tính khái quát (ví dụ: học tập, ăn uống, nhà cửa,
bàn ghế…), từ ghép chính – phụ có nghĩa mang tính phân loại (ví dụ: xanh lơ,
máy bay, cá voi…)
- Từ là đơn vị lớn nhất trong tiếng Việt vì không đơn vị ngôn ngữ nào có sẵn mà
lại lớn hơn từ. Với tư cách là đơn vị tạo câu thì từ được coi là đơn vị nhỏ nhất.
1.1.2 Chức năng của từ Tiếng Việt
Từ có các chức năng sau: chức năng biểu danh, chức năng biểu niệm và
chức năng biểu cảm.
Chức năng biểu danh (còn gọi là chức năng biểu vật): là chỉ vật được nói tới.

Chức năng biểu niệm: Từ là tên gọi của khái niệm, tổng hợp, khái quát hóa.
Chức năng biểu cảm: là mối quan hệ giữa từ và người sử dụng từ, hay nói cách
khác là thái độ, cảm xúc, tình cảm của người sử dụng trong quá trình giao tiếp
bằng ngôn ngữ. Nó được thể hiện rõ hơn khi được kết hợp với ngữ điệu của
người nó. Ví dụ: Ôi trời đẹp quá! Ôi cô ấy xinh quá!...
Vốn từ biểu danh, biểu niệm, biểm cảm có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Vốn từ biểu niệm được hình thành trên vốn từ biểu danh giàu có và phong phú.
Vốn từ biểu danh và biểu niệm là cơ sở để hình thành thái độ, tình cảm cho trẻ.
Do đó, trong trường MN chúng ta cần tích cực dạy trẻ vốn từ biểu niệm
đơn giản, gần gũi với cuộc sống xung quanh của trẻ qua ngôn ngữ - hành vi của

11


người lớn, qua nhân vật trong truyện. Qua đó, hình thành thái độ, tư tưởng, tình
cảm cho trẻ và cách sử dụng ngôn ngữ để biểu lộ tình cảm.
1.1.3 Thực từ
Thực từ có nhiều cách định nghĩa khác nhau như:
Trong tác phẩm "Từ vựng học tiếng Việt hiện đại" của Nguyễn Văn Tu thì
định nghĩa: Người ta gọi những từ có ý nghĩa chân thực như từ "nhà" là thực từ.
Nhưng thực từ có giá trị đầy đủ và có vị trí độc lập, rõ ràng, không cần bàn cãi.
Theo Nguyễn Kim Thản trong "Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt" thì
những từ có ý nghĩa từ vựng chân thực và có thể làm thành phần câu gọi là
thực từ.
Trong bài viết "Bước đầu tìm hiểu vấn đề từ hư trong tiếng Việt" của
Hồng Dân thì: Thực từ là những từ có khả năng một mình tạo thành câu,
một mình làm phần nêu hoặc phần báo trong phần chính của câu; đồng
thời có chức năng gọi tên (hoặc trỏ) sự vật, thuộc tính sự vật.
Trong cuốn sách"Ngữ pháp tiếng Việt" của Nguyễn Tài Cẩn thì: Tiếng
độc lập, thực, chính là những yếu tố xưa nay ta thường quen gọi là thực từ.

Trong bài viết "Về một cách hiểu ý nghĩa các từ loại trong tiếng Việt" của
Đinh Văn Đức cho rằng: Trong bản thân ý nghĩa của mỗi từ loại, thực từ bao
giờ cũng chứa đựng sự thống nhất của các nhân tố "từ vựng" và nhân tố "ngữ
pháp".
Thực từ là từ có "nghĩa thực" (hoặc nghĩa từ vựng) về sự vật, hiện tượng,
loại nghĩa mà nhờ nó có thể làm được sự liên hệ giữa các từ với sự vật, hiện
tượng nhất định. Ví dụ: cơm, bánh, ăn, sản xuất, ngon, giỏi, tích cực... Thực từ
có thể dùng làm phần đề và phần thuyết trong một nòng cốt câu. Với hai thực từ
đã có thể cấu tạo được một nòng cốt câu đơn theo "Ngữ pháp tiếng Việt" của Ủy
ban Khoa học xã hội Việt Nam.
Giáo trình “Tiếng Việt và tiếng Việt thực hành” của nhóm tác giả: Lã Thị
Bắc Lý, Phan Thị Hồng Xuân, Nguyễn Thị Thu Nga đã phân chia từ loại tiếng Việt

12


gồm: thực từ, hư từ và lớp từ trung gian. Đề tài của chúng tôi chỉ quan tâm tới lớp
thực từ.
Thực từ gồm các từ loại: danh từ, động từ, tính từ, số từ.
-

Danh từ có ý nghĩa khái quát chỉ sự vật ( sự vật được hiểu theo nghĩa
khái quát nhất: đồ vật, động vật, cây cối, con người...)

Danh từ có khả năng kết hợp với các từ chỉ số lượng ở trước và từ chỉ
định ở sau để tạo nên cụm danh từ mà nó là thành tố trung gian.
Danh từ có khả năng đảm nhiệm thành phần chính và thành phần phụ
trong câu.
Danh từ được chia thành các tiểu loại như sau : danh từ riêng, danh từ
chung.

-

Động từ là những từ ngữ chỉ hiện tượng, trạng thái ( trạng thái vật
lí, sinh lí, tâm lí)

Động từ có khả năng làm thành tố trung tâm trong cụm từ chính phụ,
mà các thành tố phụ tiêu biểu là các phụ từ, trong đó có các phụ từ chỉ
mệnh đề.
Động từ đảm nhiệm được chức năng của các thành phần chính và
thành phần phụ trong câu.
Động từ được chia thành các tiểu loại sau: động từ độc lập và động từ
không độc lập.
-

Tính từ là những từ ngữ chỉ tính chất; đặc điểm của sự vật, của
hỏa động, trạng thái.

Tính từ có thể đảm nhiệm vai trò thành tố chính của một cụm từ chính phụ mà
các thành tố phụ là các phụ từ trừ phụ từ chỉ mệnh lệnh.
Tính từ có thể làm vị ngữ trực tiếp trong câu. Ngoài ra tính từ cũng có thể làm
chủ ngữ, định ngữ, bổ ngữ...
Tính từ được chia thành các tiểu loại sau: tính từ có ý nghĩa tính chất tự thân có
mức độ (đỏ au, trắng toát...); tính từ có ý nghĩa tính chất tự thân không có
mức độ ( đỏ, trắng...) Ngoài ra căn cứ vào ý nghĩa khái quát, có thể phân
13


biệt hai loại tính từ: các tính từ biểu hiện chỉ đặc điểm về chất và các tính
từ chỉ đặc điểm về lượng.
- Số từ có ý nghĩa khái quát chỉ số lượng hay thứ tự sự vật.

Số từ có khả năng kết hợp với danh từ làm thành tố phụ chỉ số lượng sjw vật
hoặc chỉ thứ tự sự vật.
Trong câu, số từ cũng có khả năng độc lập thực hiện chức vụ của các thành phần
câu như làm vị ngữ nhưng rất hạn chế.
1.2 Vốn từ
1.2.1 Khái niệm vốn từ
Vốn từ là số lượng từ hay còn gọi là từ vựng. Đó là tập hợp các từ và cụm
từ cố định. Vốn từ vựng của ngôn ngữ bao gồm nhiều lớp từ, nhiều nhóm từ
không đồng nhất và có chất lượng khác nhau. Vốn từ bao gồm các cơ cấu từ loại
như: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ... Trong vốn từ vựng của một số
ngôn ngữ đều có những từ cũ và mới, những từ phổ biến, từ địa phương, từ
chuẩn mực và những từ vạy mượn, từ chuyên môn.
Số lượng từ trong Tiếng Việt vô cùng lớn. Vốn từ của một ngôn ngữ là tổng số
và hệ thống hóa toàn bộ từ và cụm từ cố định của ngôn ngữ đó. Vốn từ vựng của
một ngôn ngữ bao gồm nhiều lớp từ, nhiều nhóm từ không đồng nhất và có chất
lượng khác nhau. Vốn từ bao gồm từ mới, từ cũ, từ phổ thông, từ địa phương, từ
chuẩn mực, từ vay mượn, từ chuyên môn.
Đối với mỗi cá nhân khác nhau thì có Vốn từ khác nhau, vốn từ này phụ
thuộc vào độ tuổi, sự phát triển trí tuệ, nhận thức và văn hóa của từng cá nhân.
Vốn từ của trẻ 4 tuổi có khoảng 1035 từ, trẻ 5 tuổi có 1204 từ, trẻ 6 tuổi 1423 từ.
Vốn từ của người có trình độ văn hóa cao khoảng 6000-9000 từ, nhà thiên tài
xấp xỉ 20.000 từ.
Dựa vào tần xuất sử dụng từ trong đời sống xã hội, người ta phân chia vốn
từ thành hai loại: vốn từ tích cực và vốn từ thụ động.
Vốn từ tích cực là vốn từ được con người hiểu và sử dụng trong hoạt động
giao tiếp.
14


Vốn từ thụ động là những từ con người mới lĩnh hội, chưa hiểu rõ nghĩa

của từ và không sử dụng được trong giao tiếp.
Ngoài ra, việc tích cực hóa vốn từ tức là chuyển từ từ thụ động sang từ
tích cực là một nội dung quan trọng của giáo dục ngôn ngữ cho trẻ đặc biệt là trẻ
ở trường mầm non song ngữ Việt – Lào. Phát triển vốn từ được hiểu như một
quá trình lâu dài của việc lĩnh hội vốn từ mà con người đã tiếp thu được trong
lịch sử. Nó bao gồm hai mặt: tích lũy số lượng và tích cực hóa vốn từ từ việc
lĩnh hội dần dần những kinh nghiệm lịch sử xã hội thể hiện phù hợp trong hoàn
cảnh giao tiếp.
Như vạy, nhiệm vụ nghiên cứu phát triển vốn từ cho trẻ đặc biệt là trẻ em
ở trường mầm non song ngữ không chỉ là giúp trẻ mở rộng vốn từ, làm giàu vốn
từ về mặt số lượng mà còn góp phần tích cực hóa vốn từ trong giao tiếp. Từ
vựng thể hiện một cách đầy đủ, toàn diện mối quan hệ giữa ngôn ngữ và cuộc
sống xã hội.
1.2.2 Đặc điểm về vốn từ của trẻ và mức độ nắm vững ý nghĩa từ vựng
Trẻ mẫu giáo lĩnh hội vốn từ ngữ chỉ là bước đầu nên không phải các từ
đều được trẻ sử dụng và tiếp nhận ngay. Vốn từ của trẻ tăng dần lên theo lứa
tuổi, song không đồng đều mà có lúc nhanh, lúc chậm và có sự chênh lệch về số
lượng từ giữa trẻ cùng độ tuổi, thậm chí có những trẻ ít tháng tuổi lại có nhiều từ
hơn so với trẻ nhiều tháng tuổi do những nguyên nhân tâm lý xã hội. Từ 12
tháng trở đi, bên cạnh các âm bập bẹ xuất hiện các từ chủ động đầu tiên. Ở 18
tháng tuổi, số từ bình quân là 11 từ. Từ 19 – 21 tháng, số lượng từ tăng nhanh.
Đến 21 tháng trẻ đạt tới 220 từ. Giai đoạn 21 – 24 tháng, tốc độ chậm lại, chỉ đạt
234 từ vào tháng 24, sau đó lại tăng tốc 30 tháng đạt 434 từ, 36 tháng đạt 486 từ.
Đến năm thứ 3, trẻ đã sử dụng được trên 500 từ, phần lớn là danh từ, động từ,
tính từ và các loại khác rất ít danh từ chỉ đồ chơi, đồ dùng quen thuộc, các con
vật gần gũi như: chó, mèo, chim… Động từ chỉ hoạt động gần gũi của trẻ và
những người xung quanh như: ăn, uống, ngủ, đi… Trẻ 4 tuổi có thể nắm được
khoảng 1.035 từ. Ưu thế vẫn thuộc về danh từ và động từ. Trẻ 5 tuổi vốn từ tăng
15



bình quân đến 1.204 từ; tính từ và các loại từ khác đã chiếm một tỉ lệ cao hơn.
Trẻ 6 tuổi có 1.423 từ. Hầu hết các loại từ đã xuất hiện trong vốn từ của trẻ.
Những trẻ có số lượng từ nhiều thường là những trẻ có điều kiện sống tốt hơn,
được kết hợp bởi các yếu tố như: bố mẹ có trình độ văn hóa, trẻ thường xuyên
được tiếp xúc bằng ngôn ngữ với mọi người xung quanh. Sự chênh lệch về số
lượng từ của trẻ trong cùng một năm ở trẻ dưới 3 tuổi lớn hơn nhiều so với trẻ từ
5– 6 tuổi. Do vậy, ở trẻ 5 – 6 tuổi sự khác biệt trong vốn từ của trẻ về cơ bản đó
là khả năng và trình độ sử dụng vốn từ vào các nội dung và hoàn cảnh khác
nhau. Điều này liên quan đến khả năng hiểu nghĩa từ cũng như trình độ nhân
thức, trình độ tư duy của trẻ.
Về khả năng hiểu nghĩa của từ ở trẻ diễn ra với nhiều mức độ khác nhau,
nó phụ thuộc vào độ tuổi và khả năng nhận thức của trẻ, nhất là khả năng khái
quát hóa. Trẻ 5 – 6 tuổi có khả năng hiểu nghĩa của nhiều từ loại khác nhau,
không chỉ là những từ biểu thị các sự vật, hành động, tính chất cụ thể mà còn
hiểu được những từ mang tính chất trừu tượng, biểu cảm. Do vậy, trẻ có khả
năng sử dụng đúng từ ngữ với nghĩa mà từ biểu thị trong những hoản cảnh cụ
thể. Tuy nhiên, trẻ 5 – 6 tuổi là thời kỳ tiếp thu và sử dụng từ. Đôi khi có trường
hợp trẻ nhớ được từ nhưng chưa hiểu được nghĩa của từ trong các hoản cảnh
giao tiếp nên sử dụng chưa đúng với nghĩa của nó trong câu.
Ở tuổi mẫu giáo, trẻ phải nắm được một số vốn từ cần thiết đủ để cho
chúng giao tiếp được với bạn bè, người lớn, tiếp thu các tri thức ban đầu trong
trường MN, chuẩn bị học tập ở trường phổ thông hay xem các chương trình
truyền hình, truyền thanh, tham gia các sinh hoạt xã hội gần gũi với đời sống của
trẻ. Vì thế, giáo dục học mẫu giáo coi việc hình thành vốn từ là một nhiệm vụ
quan trọng trong nội dung giáo dục trẻ. Phát triển vốn từ là một quá trình lâu dài
của việc lĩnh hội vốn từ mà con người đã lĩnh hội được trong lịch sử. Trong
hoàn cảnh khác nhau, điều kiện khác nhau thì sự tiếp xúc của trẻ với con người
và sự vật, hiện tượng xung quanh khác nhau sẽ dẫn đến mức độ và khả năng sử
dụng từ của trẻ là khác nhau. Những trẻ được giáo dục chu đáo, được tiếp xúc

16


với nhiều từ ngữ nghệ thuật giàu âm thanh, giàu hình ảnh, được tiếp xúc với môi
trường xung quanh phong phú, cộng với tính tích cực trong nhận thức và giao
tiếp của trẻ thì khả năng sử dụng từ ngữ của trẻ sẽ càng được nâng cao. Trẻ
không những biết sử dụng chính xác mà còn mang tính gợi cảm.
Sự hình thành vốn từ kết hợp chặt chẽ với quá trình phát triển tư duy và
hoạt động nhận thức tích cực của trẻ. Vì thế chúng ta cần mở rộng môi trường
cho trẻ được tiếp xúc, được giao lưu học hỏi để nâng cao nhận thức, đồng thời
làm phát triển vốn từ cho trẻ. Ngoài ra, trong quá trình hình thành và phát triển
vốn từ cho trẻ cần chú ý sao cho có đủ các loại từ tiếng Việt với tỷ lệ thích hợp.
Số lượng từ lớn mà cơ cấu từ loại không hợp lý hoặc thiếu một số từ loại nào đó
thì sẽ khó khăn khi trẻ diễn đạt. Đây chính là trách nhiệm của cô giáo MN nói
riêng và của ngành giáo dục MN nói chung để nâng cao hiệu quả phát triển ngôn
ngữ cho trẻ.
1.2.3 Ý nghĩa của việc phát triển vốn từ cho trẻ MGL
Phát triển vốn từ cho trẻ bao gồm ba nhiệm vụ chính: làm giàu vốn từ, củng cố
vốn từ; tích cực hóa vốn từ. Ba nhiệm vụ này luôn gắn liền với nhau và gắn liền
với quá trình nhận thức của con người.
Theo quan điểm duy vật biện chứng: “Phát triển là một phạm trù triết học
dùng để chỉ quá trình vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật, hiện tượng” thì sự phát triển diễn
ra không phải theo một đường thẳng mà quanh co, phức tạp theo đường xoắn ốc.
Nó là sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
Quan điểm “Phát triển vốn từ cho trẻ MGL là quá trình tác động và có ý
thức của các nhà sư phạm nhằm khơi dậy, phát huy ở trẻ những năng lực về sự
lĩnh hội và sử dụng vốn từ trong giao tiếp” đề cập đến việc phát triển vốn từ phải
bao hàm sự phát triển cả về lượng và chất, trong đó đề cao sự phát triển về chất.
Quá trình phát triển về chất là một quá trình lâu dài và không dễ dàng phát hiện,

nhất là sự hình thành và phát hiện tư duy con người. Do vậy, khi ta tiến hình
những tác động sư phạm ở giai đoạn 5 – 6 tuổi không thể đòi hỏi trông thấy
17


ngay được sự phát triển về chất trong việc trẻ lĩnh hội, sử dụng vốn từ nói riêng
và tiếp thu ngôn ngữ nói chung mà chúng ta phải tiến hành một cách từ từ, kiên
trì tránh gây cho trẻ những căng thẳng, áp lực. Mặt khác, trẻ từ 1 – 6 tuổi là thời
kỳ đang hình thành và phát triển ngôn ngữ với các bước phát triển về mặt ngữ
âm, từ vựng, ngữ pháp. Ở độ tuổi này trẻ có một số lượng từ nhất định và nó
được tăng lên theo độ tuổi. Trong quá trình dạy trẻ có thể dựa vào đặc điểm tư
duy, nhận thức và vốn từ hiểu biết của trẻ để làm giàu vốn từ cho trẻ thông qua
các hoạt động khác nhau. Để phát triển vốn từ cho trẻ thì chúng ta chỉ nên dừng
lại ở việc tạo hứng thú, yêu thích việc nghe – nói để từ đó trẻ có ý thức sử dụng
ngày càng nhiều vốn từ của mình.
Vốn từ là điều kiện, phương tiện quan trọng để phục vụ cho hoạt động
giao tiếp của trẻ. Không có một vốn từ đầy đủ thì không thể nắm ngôn ngữ như
một phương tiện giao tiếp. Nó thể hiện ở chỗ người nói có thể diễn đạt, miêu tả
một cách sinh động, cụ thể, chính xác, logic các sự vật, hiện tượng làm cho
người nghe cảm thấy bị lôi cuốn và dễ dàng hiểu được ý của người nói. Mọi sự
vật, hiện tượng trở nên có hồn hơn dưới tác dụng tích cực của ngôn ngữ, bởi khi
vốn từ phong phú người nói có thể dễ dàng lựa chọn và sử dụng từ ngữ một cách
phù hợp, linh hoạt và sáng tạo trong hoạt động giao tiếp làm cho lời nói của
mình thêm sinh động, biểu cảm và sắc bén hơn. Ngược lại, nếu vốm từ nghèo
nàn thì người nói sẽ gặp khó khăn trong việc lựa chọn từ ngữ phù hợp với hoàn
cảnh giao tiếp. Sự linh hoạt, sáng tạo và biểu cảm trong lời nói cũng khó có thể
đạt tới một cách dễ dàng. Cho nên vốn từ nghèo nàn có ảnh hưởng rất lớn đến
hiệu quả của hoạt động giao tiếp, không gây được ấn tượng cũng như sự chú ý
đặc biệt đối với người nghe, đôi khi còn mang cảm giác khó hiểu cho người
nghe hoặc cũng có thể làm cho người nghe hiểu nhầm ý của người nói.

Khả năng hiểu nghĩa của từ có liên quan chặt chẽ đến quá trình nhận thức
của trẻ. Từ là tên gọi của các sự vật, hiện tượng mà con người nhận thức được
trong thế giới hiện thực xung quanh mình. Từ vựng thể hiện một cách toàn diện
mối quan hệ giữa ngôn ngữ và cuộc sống xã hội. Do đó, phát triển vốn từ cho trẻ
18


không những giúp trẻ phát triển nhận thức, củng cố được các biểu tượng mà còn
giúp trẻ nắm vững được tiếng mẹ đẻ và phát triển nhân cách toàn diện.
Hơn nữa, nếu nhà giáo dục thực sự quan tâm đến sự phát triển vốn từ cho
trẻ thì việc hiểu nghĩa của từ và sử dụng từ trong lời nói của trẻ cũng trở nên
chính xác và rõ nghĩa hơn. Vì vậy, giáo viên MN cần có một cách dạy dỗ đúng
đắn giúp trẻ có đủ vốn ngôn ngữ để tham gia vào hoạt động giao tiếp hàng ngày,
chuẩn bị tâm thế bước vào lớp một, đồng thời rèn luyện văn hóa nói cho trẻ.
1.3 Một số yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển vốn từ Tiếng Việt cho trẻ 5
– 6 tuổi ở lớp MG song ngữ Lào – Việt
1.3.1 Đặc điểm tâm lý của trẻ em Lào 5 – 6 tuổi
Trẻ em Lào cũng gần như trẻ em Việt Nam và các nước trên thế giới đến
giai đoạn tuổi mẫu giáo thường có khuynh hướng muốn độc lập, trưởng thành.
Trẻ bắt đầu biết khám phá và rất tò mò. Sự phát triển tâm lý ở giai đoạn này có
nhiều thay đổi, vì trẻ bắt đầu được hòa mình vào môi trường tập thể, đó là môi
trường lớp học.
Sự phát triển tâm lý của trẻ 5 – 6 tuổi được chi phối bởi các yếu tố sau:
- Ảnh hưởng của nền văn hóa
- Ảnh hưởng của các hoạt động
- Ảnh hưởng của điều kiện sinh học (di truyền)
- Ảnh hưởng của giáo dục
Trẻ em bắt đầu có sự tiếp xúc với bên ngoài, giao tiếp với “người lạ” khi
các em bước vào độ tuổi đi mẫu giáo, bạn bè ở trường mẫu giáo là một thế giới
vô cùng rộng lớn đối với trẻ thơ. Có rất nhiều em hứng thú với việc tới lớp vào

mỗi sáng, nhưng trái lại cũng có rất nhiều em có tâm lý sợ tới trường. Mặc dù ở
đó có bạn bè để chơi, có thầy cô, nhưng với các em, vẫn luôn sợ tới lớp. Thậm
trí có những em nhỏ thường kêu với bố mẹ đau bụng vào sáng thứ 2, tuy nhiên
triệu chứng này của các em cũng nhanh biến mất nếu như cha mẹ cho phép nghỉ
học ở nhà buổi hôm đó. Rõ ràng đó là những dấu hiệu tâm lý của trẻ em sợ đi
học. Nguyên nhân chính đó là các em chưa tìm thấy hứng thú trong việc đi học,
19


hoặc cảm thấy sợ cô giáo, sợ bị bạn bắt nạt….Những em nhỏ nào có hứng thú
với việc đi học ở trường mầm non thì trong kí ức của các em sau này, trường
mầm non là một thế giới tuyệt vời, và rất nhiều kỉ niệm đẹp.
Cũng trong giai đoạn này trẻ em có hứng thú với việc khám phá thế giới
xung quanh, tò mò và liên tục thắc mắc các vấn đề với cha mẹ. Nếu cha mẹ hiểu
được tâm lý của con, và định hướng sẽ có thể đem lại nhiều hiệu quả tích cực.
Ở giai đoạn từ 3 đến 6 tuổi, trí tưởng tượng của trẻ phát triển mạnh và
phần lớn thời gian của trẻ là chơi đùa. Trẻ chơi mà học và học mà chơi.
Chúng tự nghĩ ra những trò chơi và chơi mãi không chán, đôi khi quên cả đi
vệ sinh. Trẻ con ở lứa tuổi này không thích những trò chơi phức tạp, nhiều
quy tắc. Những trò chơi ngắn sẽ thích hợp với trẻ ở lứa tuổi này vì khoảng
thời gian chú ý, tập trung của trẻ không kéo dài. Trẻ thường bắt chước theo
các nhân vật trên phim, kịch. Nhiều lúc cha mẹ sẽ cảm thấy vui vui vì nghe
chúng lặp lại nguyên văn lời thoại các nhân vật mà chúng yêu thích. Chúng ca
hát, múa, uốn éo thân hình như các ca sĩ, người mẫu trên ti vi trông rất ngộ
nghĩnh và đáng yêu làm sao.
Trẻ mẫu giáo ở Lào luôn muốn là trung tâm chú ý của người lớn. Khi trẻ
làm được việc gì mà trẻ cho là rất “xuất sắc” nhưng với người lớn thì họ cho
rằng rất bình thường, trẻ thường cáu giận, quấy khóc cho đến khi được người
khác công nhận.Trẻ không thích bị chê trong tuổi này và rất dễ tủi thân, hay
vùng vằng, làm mình mẩy để được dỗ dành. Hiểu được tâm lý của trẻ giai đoạn

này, cha mẹ sẽ biết cách dạy dỗ trẻ tốt hơn.
1.3.3 Đặc điểm ngôn ngữ (từ) Lào
Tiếng Lào (tên gốc: phát âm: phasa lao là một ngôn ngữ chính thức của
Lào. Đây là một ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Tai-Kadai, chịu những ảnh hưởng
của tiếng Phạn. Tiếng Lào cũng là ngôn ngữ truyền thống của Hoàng gia Lào,
truyền đạt tư tưởng Ấn Độ giáo và Phật giáo.

20


Tiếng Lào có ảnh hưởng ít nhiều đến những sinh ngữ khác trong vùng đối
với các lân bang như tiếng Thái, tiếng Khmer, tiếng Việt. Lào ngữ được coi là
một ngôn ngữ hỗn hợp ở bán đảo Đông Nam Á.
Tiếng Lào có những thanh điệu và phát âm giống tiếng Thái, phần tương
đồng lên đến hơn 80%. Vì vậy đối thoại giữa người Lào và người Thái Lan có
thể hiểu nhau được. Ở Đông Bắc Thái Lan dân địa phương có thể nói chuyện
với người Lào dễ dàng.
Thực chất, theo Lịch sử Biên giới giữa Lào và Thái Lan thì trước kia biên
giới nước Lào từng kéo dài xuống cả phía Tây Nam sông Mekong nên ở đó có
một tộc người được gọi là người Lào Isản (được gọi tục là Lào mọi hay Thái
mọi vì da của họ rất đen giống người Châu Phi) mà đặc điểm của người Lào Isản
tuy có làn da xấu nhưng họ rất có năng khiếu về thơ phú và âm nhạc nên họ
thường sáng tác rất nhiều bài hát Lào và Thái rất nổi tiếng.
Về sau do nhiều cuộc giao tranh mà Thái lan giành được phía Tây Nam
Mekong mà hợp thành đất Thái lan nên trở thành Đông Bắc Thái lan và người
Lào I-sản ở đây vẫn có truyền thống sáng tác nhiều bài hát mà vì thế rất nhiều
bài hát Thái lan nhưng lại mang 'hợp ngữ Lào - Thái' và cũng vì thế người Đông
Bắc Thái lan gần như sử chung ngôn ngữ bình thường với người Lào nhưng sâu
hơn vào nội địa của Thái lan thì người ta sử dụng tiếng thuần Thái nên có thể
khi sử dụng tiếng Lào sẽ khiến người Thái ở Bangkok không thể hiểu được.

Hiện nay tiếng Lào được 2 'trường phái' khác nhau phiên âm, một là do
các Hiệp hội Văn hóa Hữu nghị Lào - Việt thực hiện thì họ phiên sang âm tiếng
Việt vì tiếng Việt gần như có khá đầy đủ các bộ âm chuẩn mà không thể phát âm
sai được.
Một trường phái khác là phiên âm sang hệ ngữ Latinh nhưng rất lung
tung, cũng giống như tiếng Thái khi phiên âm sang hệ ngữ Latinh thì người ta dễ
nhầm lẫn giữa các Phụ âm như 'p' có thể bị đọc thành 'f' mà cũng có thể bị đọc
thành 'ph', 't' thì cũng có thể bị đọc thành 't' mà cũng có thể thành 'th'... ngoài ra

21


sự hợp ngữ giữa các Nguyên âm cũng bị phiên rất lung tung nên khó mà đọc
chuẩn xác nếu căn cứ theo phiên âm Quốc tế.
Vì vậy, phiên âm theo tiếng Việt là cách phiên âm chuẩn nhất đối với
tiếng Lào và tiếng Thái nói chung (mặc dù có nhiều bộ âm của Lào và Thái
không thể phiên âm sang tiếng Việt được nhưng vẫn đạt được khoảng 85-90%
so với tiếng Lào và khoảng 70-75% so với tiếng Thái thì dù sao vẫn tin cậy hơn
là phiên sang các Hệ ngữ Quốc tế khác).
Chính vì vậy, nếu học tiếng Lào và tiếng Thái qua các Ngôn ngữ khác thì
sẽ cực kỳ khó khăn bởi các ngôn ngữ khác không có thanh điệu và âm ngữ của
các nước khác thường bị biến đổi khó phù hợp với các quy tắc của tiếng Thái và
tiếng Lào.
1.3.3 Ý nghĩa của việc phát triển vốn từ tiếng Việt cho trẻ 5 – 6 tuổi ở lớp MG
song ngữ Lào – Việt
Ngoại ngữ, hay ngôn ngữ thứ hai là thứ tiếng được phát triển có thể sau,
có thể đồng thời với ngôn ngữ được nói nhiều nhất trong gia đình hay cộng đồng
chúng ta đang sống. Học Tiếng Việt hay bất cứ ngoại ngữ nào với trẻ nhỏ là làm
quen với ngôn ngữ thứ hai qua nhiều hình thức, hoạt động phù hợp với nhận
thức, cảm xúc, kỹ năng, nhu cầu sử dụng ngôn ngữ của từng lứa tuổi để ngôn

ngữ có thể vào một cách tự nhiên, chuẩn xác và với một lộ trình phù hợp nhất.
Song ngữ là khả năng hiểu và làm người khác hiểu mình bằng hai thứ
tiếng. Chương trình song ngữ là chương trình mà hơn một thứ tiếng được sử
dụng trong ngày. Chương trình song ngữ khuyến khích trẻ em sử dụng ngôn ngữ
thứ nhất trong trường (ngôn ngữ mẹ đẻ hay ngôn ngữ sử dụng nhiều nhất ở nhà)
và giới thiệu Tiếng Việt như ngôn ngữ thứ hai. Trẻ em sẽ liên hệ ngôn ngữ với
những người cụ thể nói thứ tiếng đó và với địa điểm, môi trường nơi hai ngôn
ngữ được sử dụng một cách có hệ thống.
Tầm quan trọng của việc học ngôn ngữ thứ hai cũng như các điều kiện tốt
nhất để học ngôn ngữ thứ hai đã được chứng minh và khẳng định:

22


×