I. MỞ ĐẦU
1. Lí do viết sáng kiến kinh nghiệm:
Mỡi môn học ở tiểu học đều góp phần rất quan trọng vào việc hình thành
và phát triển nhân cách con người. Cùng với các môn học khác, Toán là môn học
có tầm quan trọng đặc biệt, vì nó có tính chất phát triển tư duy lô - gic cho học
sinh. Thông qua môn Toán giúp cho học sinh lập luận có căn cứ, diễn đạt ý nghĩ
của mình một cách ngắn gọn, chính xác. Nó cịn giúp cho các em trong rèn luyện
phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp học tập và phương
pháp giải quyết vấn đề. Bên cạnh đó, Toán học còn giúp các em phát triển nhân
cách của mình một cách toàn diện hơn.
Mặt khác, mỗi đề toán là một bức tranh thu nhỏ của cuộc sống. Khi giải
mỗi bài toán học sinh sẽ rút ra tù trong bức tranh ấy bản chất toán học của nó,
phải biết lựa chọn những phép tính thích hợp, làm đúng các phép tính đó, đặt lời
giải chính xác…Vì thế sẽ giúp cho học sinh rèn luyện kĩ năng quan sát và giải
quyết các vấn đề của cuộc sống qua con mắt toán học của mình.
Giải tốt các bài toán sẽ giúp phát triển trí thơng minh, óc sáng tạo và thói
quen làm việc một cách khoa học cho học sinh. Bởi vì khi giải toán, các em phải
tập trung vào bản chất của đề toán, phải biết gạt bỏ những cái thứ yếu, phải biết
phân biệt được cái đã cho và cái phải tìm, phải biết phân tích để tim ra đường dây
liên kết giữa các số liệu. Nhờ đó mà đầu óc các em sẽ sáng suốt hơn, tinh tế hơn,
tu duy của các em sẽ linh hoạt hơn, cách học tập của các em sẽ khoa học hơn và
lô-gic hơn.
Tuy nhiên, việc rèn kĩ năng giải toán có lời văn, đặc biệt là giải bài toán bằng
hai phép tính cho học sinh hiện nay đạt hiệu quả chưa cao. Các em nắm được kĩ
năng giải toán của giáo viên truyền đạt tới như là một văn bản của lí thuyết, khi
vận dụng vào tình huống cụ thể lại rất khó khăn. Một trong số các nguyên nhân
1
đó là giáo viên chưa chú ý đúng mức và đầy đủ tới vai trò cũng như đặc trưng của
việc giải bài toán bằng hai phép tính đối với việc hình thành kĩ năng giải toán hợp
cho học sinh. Giáo viên còn lúng túng trong việc tổ chức sao cho hiệu quả, cách
thức, biện pháp hướng dẫn học sinh nắm được các kĩ năng giải quyết đề toán sao
cho hiệu quả còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, kĩ năng của một số giáo viên
chưa vững cũng là lí do khiến cho việc dạy giải toán chưa được như mong muốn.
Mặt khác, trong các giờ học, giáo viên vẫn là người hoạt động chủ yếu, học sinh
chưa phát huy được tính chủ động tích cực. Vì vậy, rèn kĩ năng giải toán chưa
thực sụ là công việc hứng thú của học sinh và các em chưa có ý thức rèn luyện
cho chính bản thân mình.
Chính vì những lí do nêu trên thúc đẩy tôi chọn, nghiên cứu và viết giải
pháp hữu ích “ Một số biện pháp rèn kĩ năng giải bài tốn bằng hai phép tính
cho học sinh lớp 3.” này.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu Sách giáo khoa, Sách giáo viên, Vở bài tập Toán 3 và các tài
liệu có liên quan để nắm được nội dung chương trình, trên cơ sở lí luận, thực tiễn
phân tích những ưu điểm và tồn tại để đưa ra những biện pháp hữu ích nhằm nâng
cao hiệu quả dạy học giải toán bằng hai phép tính nói riêng và giải toán có lời văn
ở lớp 3 nói chung.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 3A và 3B trường Tiểu học Hermann Gmeiner.
Các dạng toán giải bằng hai phép tính ở lớp 3.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp quan sát khoa học, phương pháp điều tra, phương pháp thực
nghiệm sư phạm, phương pháp phân tích – tổng hợp.
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN
1. Cơ sở lí luận của vấn đề:
2
Việc giải toán có lời văn nói chung và giải toán bằng 2 phép tính ở lớp 3
nói riêng hết sức quan trọng vì:
Giúp học sinh có thêm vốn ngôn ngữ, bởi vì các bài toán đưa ra thường
không trùng về ngôn ngữ, mỗi dạng có những ngôn từ rất hay và chính xác do các
nhà toán học đưa ra. Ví dụ: khơng thể có người đi bộ một giờ đi được 12 – 14 km
mà ở đó chỉ có đi xe đạp ( trừ những trường hợp đặc biệt ).
Giúp bồi dưỡng các em qua giải toán ý chí vượt khó, đức tính cẩn thận, cần
cù, chịu khó, trong học tập và làm việc khoa học. Có kế hoạch, thói quen tự kiểm
tra công việc của mình, có óc suy nghĩ độc lập, sáng tạo và phát triển tư duy. Tin
tưởng vào sự hiểu biết của bản thân.
Giải toán giúp học sinh hình thành kĩ năng vận dụng kiến thức đã học, kĩ
năng về tính toán. Đồng thời giải toán giúp giáo viên dễ dàng phát hiện những ưu
điểm hoặc những kiến thức thiếu sót của học sinh, từ đó dễ dàng tìm giải pháp cho
học sinh phát huy ưu điểm, khắc phục những kiến thức bị hổng, những khó khăn
khi sử dụng ngôn từ trong lời giải bài toán.
Phần lớn nội dung trong sách giáo khoa là dành cho các bài toán giải. Kết
quả học tập môn toán của học sinh thường được đánh giá qua kĩ năng giải toán...
Điều quan trọng của việc dạy giải toán có lời văn giúp học sinh tự biết cách
giải quyết vấn đề thường gặp trong cuộc sống. Các vấn đề này được nêu dưới
dạng các bài toán có lời văn. Đây là sự vận dụng có tính chất tổng hợp các kiến
thức kĩ năng, phương pháp suy nghĩ và giải quyết vấn đề học được ở môn toán
tiểu học.
2. Thực trạng của vấn đề:
Quá trình giảng dạy lớp 3, trong nội dung luyện tập cũng như kiểm tra, tôi
thấy học sinh còn nhiều hạn chế như:
- Học sinh chưa nắm rõ các quy tắc giải toán điển hình. Do học sinh hổng
kiến thức ở những bài toán đơn nên dẫn đến giải bài toán hợp là rất khó khăn.
3
Ví dụ: Bể cá thứ nhất có 4 con cá, bể cá thứ hai có nhiều hơn bể cá thứ nhất
3 con cá. Hỏi cả hai bể có bao nhiêu con cá? (SGK Toán – trang 50)
Học sinh làm như sau:
Bể thứ hai có số con cá là:
4 – 3 = 1(con cá)
Cả hai bể có số con cá là:
4 + 1 = 5 (con cá)
Đáp số: 5 con cá.
- Cũng có khơng ít học sinh lười suy nghĩ, lười học, không chịu động não,
rập khuôn máy móc dẫn đến kĩ năng giải toán còn hạn chế.
Cũng bài toán trên có học sinh lại trình bày như sau:
Cả hai bể có số con cá là:
4 + 3 = 7 (con cá)
Đáp số: 7 con cá
- Bên cạnh đó, trong đội ngũ giáo viên có một số giáo viên chưa thực sự
chú trọng việc rèn cho học sinh có kĩ năng giải toán, đặc biệt là kĩ năng giải bài
toán bằng 2 phép tính. Vì thế, giáo viên chỉ hướng dẫn các em giải theo mẫu tạo
ra thói quen máy móc, rập khuôn cho học sinh.
- Thêm vào đó là hình thức dạy học chưa thực sự đa dạng, phong phú nên
học sinh không có hứng thú tiếp nhận kiến thức mới, dẫn đến kĩ năng giải toán
chưa tốt, chưa đầy đủ.
Theo thống kê kiểm tra chất lượng đầu năm về mơn Toán lớp tơi đạt kết quả
như sau:
Mơn Tốn
Thời điểm
Số lượng
K.sát ĐN
29
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
TL
SL
TL
5
17,3% 24
82,7%
4
Xuất phát từ thực trạng trên, tôi đã áp dụng một số biện pháp rèn kĩ năng giải
toán bằng hai phép tính cho học sinh lớp 3 trong : “ Một số biện pháp rèn kĩ
năng giải toán bằng hai phép tính cho học sinh lớp 3”
3. Những biện pháp thực hiện.
Biện pháp 1: Rèn kĩ năng giải tốn thơng qua các hoạt động bằng tay của
bản thân từng học sinh.
Giáo viên cho bài toán: Một công ty dự định xây 36 ngôi nhà, đến nay đã
xây được
1
số nhà đó. Hỏi cơng ty cịn phải xây tiếp bao nhiêu ngơi nhà nữa?
9
(SGK Toán 3 – trang 69)
Giáo viên yêu cầu học sinh tìm những điều đã cho và những điều cần phải
tìm bằng cách gạch chân những từ ngữ thể hiện các yêu cầu đó.
Giáo viên ra lệnh cho học sinh: Cả lớp dùng bút chì gạch chân những từ
ngữ thể hiện yêu cầu bài toán.
Từ lệnh của giáo viên thì bắt buộc tất cả học sinh phải đọc bài toán và tìm
ra những dữ liệu của bài toán (cái đã biết, cái cần tìm).
* Về ưu điểm của biện pháp này là tất cả học sinh trong lớp (nhóm) đều
phải làm việc nếu không làm việc giáo viên sẽ phát hiện ra ngay. Ngoài ra, học
sinh phải làm việc độc lập, phải thực sự suy nghĩ và tìm ra điều mà bài toán yêu
cầu. Giáo viên bao quát được lớp học và dễ dàng phát hiện những em nào còn yếu
về điểm nào và dễ dàng nhận ra học sinh khá giỏi.
* Về nhược điểm: Là học sinh có thể nhìn nhau, học sinh có thể gạch cả
một cụm từ, một dịng chứ khơng tìm ra đúng từ trọng tâm. Vì vậy, giáo viên khi
ra lệnh phải rõ ràng, rành mạch. Trong quá trình học sinh làm việc, giáo viên phải
xuống từng bàn, từng nhóm và từng học sinh để nhắc nhở, kiểm soát theo dõi các
em.
5
Biện pháp 2: Rèn cho học sinh nắm được các bước giải tốn bằng hai
phép tính :
Giải toán là hoạt động trí não rất khó khăn và phức tạp. Hình thành kỹ năng
giải toán khó khăn, nan giải hơn nhiều so với kĩ xảo tính, thực tế cho thấy rằng bài
toán là sự kết hợp đa dạng nhiều khái niệm, nhiều quan hệ toán học, và nhiều thứ
khác tạo thành lơgíc. Giải toán khơng chỉ là nhớ mẫu rồi áp dụng mà đòi hỏi phải
nắm chắc các kiến thức, các phép tính, địi hỏi suy nghĩ độc lập suy luận và kĩ
năng tính toán phải nhuần nhuyễn , chính xác. Để học sinh có kĩ năng đó cần cung
cấp cho các em các bước sau :
Bước 1 : Nghiên cứu kĩ đề toán ( Tri giác vấn đề )
Đọc ít nhất hai lần, phân biệt được cái đã cho và cái phải tìm. Tránh thói
quen xấu là vừa mới đọc xong đề đã vội vàng giải ngay.
Đây là bước quan trọng, không thể thiếu trong dạy học giải toán. Ở bước
này giáo viên cần phải giúp học sinh khắc phục những khó khăn về ngôn ngữ.
Biết diễn đạt bằng ngôn ngữ ( dùng lời nói để trình bày vấn đề ), kí hiệu toán học
( ngơn ngữ toán học ) sau đó xác định 3 yếu tố cơ bản của bài toán :
1. Dữ kiện:
Là những cái đã cho, đã biết trong bài toán .
2. Điều kiện : Là mối quan hệ giữa cái đã biết và cái phải tìm, các điều kiện
không tường minh ( điều kiện ẩn ).
3. Ẩn số: Là những cái chưa biết trong đề bài ( cái cần phải tìm ), cần nắm
vững các mối quan hệ đại lượng trong thực tiễn, phải biết trìu tượng hoá các nội
dung cụ thể từ đó rút ra bản chất của toán học. Rồi tóm tắt bài toán.
Bước 2 : Tóm tắt đề toán
Việc này sẽ giúp học sinh bớt được một số câu, chữ, làm cho bài toán gọn
lại, nhờ đó mối quan hệ giữa các số đã cho và các số phải tìm hiện ra rõ hơn. Mỗi
em cần cố gắng tóm tắt được các đề toán và biết cách nhìn vào tóm tắt ấy mà nhắc
6
lại được đề toán. Có nhiều cách tóm tắt một đề toán, càng biết nhiều cách sẽ càng
giải toán giỏi hơn. Dưới đây là một số cách:
a) Cách tóm tắt bằng chữ:
Ví dụ: Tổ Một trồng được 25 cây, tổ Hai trồng được gấp 3 lần số cây của tổ
Một. Hỏi Cả hai tổ trồng được bao nhiêu cây? (SGK Toán 3 – trang 49)
Tổ Một
:
25 cây
Tổ Hai
: gấp 3 lần Tổ Một
Cả 2 tổ
: ... cây ?
b) Cách tóm tắt bằng chữ và dấu:
Những dấu thường là :
Tổ Một
:
25 cây
Tổ Hai
: gấp 3 lần
( mũi tên ) ;
( dấu móc ) ; ...
? cây
c) Cách tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng :
Hiện nay cách tóm tắt này đang được dùng nhiều nhất trong tóm tắt Toán ở
Tiểu học vì nó vừa ngắn gọn lại dễ dàng nhìn ra dạng toán, từ đó tiến tới cách giải
tốt và đúng, phù hợp với trình độ, tâm lí của học sinh Tiểu học.
25 cây
Tổ Một
? cây
Tổ Hai
d) Cách tóm tắt bằng hình tượng trương:
Các hình tượng trương có thể là hình vng, hình trịn , hình tam giác, hình
chữ nhật, dấu gạch chéo...
Tổ Một:
:
? cây
Tổ Hai:
7
Ngoài ra, còn có các cách tóm tắt bằng lưu đồ, bằng sơ đồ Ven, bằng bảng kẻ ô.
Bước 3 : Phân tích bài tốn :
Đây là bước suy nghĩ để tìm cách giải bài toán. Thông thường, người ta
hay dùng cách lập “ sơ đồ khối ”.
Bài toán : Một công ty dự định xây 36 ngôi nhà, đến nay đã xây được
1
số
9
nhà đó. Hỏi cơng ty cịn phải xây tiếp bao nhiêu ngơi nhà nữa? (SGK Tốn 3 –
trang 69)
Từ tóm tắt của bài toán, HS cần biết tự suy luận như sau :
- Bài toán hỏi gì ? ( Hỏi số ngơi nhà cơng ty cịn phải xây tiếp )
Tay viết vào nháp : Số nhà còn phải xây tiếp .
- Muốn tìm số ngôi nhà công ty còn phải xây tiếp ta làm thế nào ? ( Lấy số
ngôi nhà công ty dự định xây trừ số ngôi nhà công ty đã xây ).
Viết tiếp :
Số nhà còn phải xây tiếp
Số nhà dự định xây – Số ngôi nhà đã xây
- Số nhà dự định xây biết chưa?
( Biết rồi )
- Số nhà đã xây biết chưa ? ( Chưa biết )
- Muốn tìm số ngôi nhà đã xây ta làm thế nào ? ( Lấy số nhà dự định xây
chia cho 3 )
Viết tiếp :
Số nhà còn phải xây tiếp
Số nhà dự định xây – Số ngôi nhà đã xây
Số nhà dự định xây : 9
8
Bước 4 : Viết bài giải :
Ta dựa vào sơ đồ phân tích trên để viết bài giải. Cần đi ngược từ dưới lên.
- Nhìn vào “Số nhà dự định xây : 9” , ta tính : 36 : 9 = 4 ( ngôi nhà )
- Nhìn vào bên trên dấu “ bằng ”, thấy chữ “Số ngôi nhà đã xây”, ta viết câu lời
giải : Số ngôi nhà đã xây là :
- Nhìn vào “Số nhà dự định xây – Số ngơi nhà đã xây”, ta tính : 36 - 4 = 32 ( ngôi
nhà ).
- Nhìn vào bên trái dấu “ bằng ” , thấy chữ “Số nhà còn phải xây tiếp”, ta viết câu
lời giải : Số nhà còn phải xây tiếp là :
Vậy ta có bài giải :
Số ngôi nhà đã xây là
36 : 9 = 4 (ngơi nhà)
Số ngơi nhà cịn phải xây tiếp là:
34 – 4 = 32 (ngôi nhà)
Đáp số : 32 ngôi nhà
Chú ý : HS chỉ phải làm vào vở ( hoặc bài kiểm tra ) bước 4 . Còn các
bước 1, 2, 3 thì nghĩ trong đầu hoặc làm vào vở nháp.
Với cách giải bài toán như trên, học sinh từng bước phát triển năng lực tư
duy lô – gic , rèn luyện kĩ năng suy nghĩ độc lập, linh hoạt, khắc phục cách suy
nghĩ máy móc, rập khuôn, xây dựng lịng ham thích tìm tịi, sáng tạo.
Biện pháp 3: Vận dụng hợp lý các hình thức thi đua, khen thưởng nhằm
khuyến khích học sinh mạnh dạn, chủ động, sáng tạo trong giờ học.
Thi đua gắn với khen thưởng là một động lực không thể thiếu được trong
quá trình học của học sinh. Hình thức thi đua khen thưởng rất phù hợp với đặc
điểm tâm lý của học sinh tiểu học. Các em cố gắng phấn đấu vì động cơ rất đơn
giản: Cố gắng để được cô giáo khen, được bạn bè mến phục, cố gắng để làm vui
lịng ơng bà, bố mẹ… Trong giờ học giải toán, nhờ không khí thi đua, học sinh sơi
9
nổi hơn, hăng say hơn, khen thưởng khi giải toán tốt là sự công nhận kết quả mà
học sinh đạt được( Học sinh phân tích đúng, tìm câu lời giải đúng và tính chính
xác các phép tính …). Nếu được khen đúng lúc, học sinh sẽ cảm thấy tự tin và
phấn đấu hơn. Hiện nay, giáo viên ít sử dụng khen thưởng nên giờ học trầm,
không sôi nổi và chất lượng dạy học giải toán cũng bị hạn chế do lý do này.
- Trong quá trình dạy giải toán tôi đã vận dụng phương pháp thi đua, khen
thưởng như sau:
+ Trước khi vào bài học hay trước khi tổ chức một trị chơi học tập, giáo viên
nêu tiêu chí thi đua rõ ràng, cụ thể để tạo tâm thế thi đua cho học sinh.
Ví dụ:
• Thi đua xem bạn nào phân tích đúng, tìm lời giải chính xác hay tóm tắt
nhanh sẽ được tăng hoa vào sổ liên lạc.
• Thi đua xem nhóm nào thảo luận sôi nổi, hoàn thành bài tập đúng và nhanh
sẽ được thưởng ngôi sao “tốt” cho cả nhóm.
• Thi đua giữa các tổ về mọi mặt: nề nếp, ý thức, hiệu quả thảo luận…
- Hình thức khen thưởng đua ra phải mang tính cụ thể, chủ yếu về mặt tinh
thần để khuyến khích học sinh: cộng ngôi sao “tốt”, 1 tràng vỗ tay…
- Trong mỗi tiết dạy, giáo viên cần kịp thời khen những cá nhân tiêu biểu
xuất sắc và những cá nhân có tiến bộ vượt bậc trong tiết học. Từ đó học sịnh cả
lớp có thể noi gương để phấn đấu, phấn đấu để được cô giáo khen và phấn đấu để
không kém bạn bè.
- Tuy nhiên, trong một tiết học, không phải mọi học sinh đều có tinh thần thi
đua để học tốt, vẫn có một số học sinh ít chú ý vào bài học. Vi vậy, bên cạnh việc
sử dụng biện pháp khen thưởng, giáo viên cần phải thường xuyên nhắc nhở, động
viên đối với học sinh không chú ý xây dựng bài. Giáo viên phải khéo léo nhưng
nghiêm khắc và công minh để các em nhận ra khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa
để cùng tiến bộ với bạn bè.
10
Trong giờ học giải toán nói riêng và tất cả các giờ học khác nói chung, giáo
viên phải luôn tạo được khơng khí thi đua sơi nổi, hào hứng trong giờ học. Khi
học sinh đạt thành tích, giáo viên cần khen thưởng kịp thời để khuyến khích, động
viên các em. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng, giáo viên không lạm dụng quá
nhiều gây nhàm chán đối với học sinh.
Biện pháp 4: Sử dụng trò chơi học tập để rèn kĩ năng giải tốn cho hoc sinh
Trị chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích đầu tiên và chủ
yếu là vui chơi, giải trí và thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng. Nhưng qua
trò chơi , người chơi có thể rèn luyện các giác quan, tạo cơ hội giao lưu với mọi
người cùng hợp tác với mọi người, cùng hợp tác với đồng đội trong nhóm, tổ.
Ở bậc tiểu học cũng như các bậc học khác, sử dụng trò chơi trong quá trình
học tập làm cho việc tiếp thu tri thức, rèn luyện kỹ năng, củng cố tri thức bớt đi sự
khô khan, có thêm sự sinh động, hấp dẫn. Từ đó hiệu quả học tập của học sinh
tăng lên.
Trong giờ giải toán, học sinh phải thực hiện các nhiệm vụ để hoàn thành bài
tập. Nếu giáo viên chỉ sử dụng một phương pháp cho cả tiết học thì hiệu quả giờ
học không cao, học sinh thụ động, lười suy nghĩ. Sử dụng trò chơi học tập là
phương pháp dạy học tích cực. Từ đó làm thay đổi khơng khí trong lớp học, tạo ra
sự thi đua sôi nổi, hào hứng của các đội chơi và sự cổ vũ nhiệt tình của các bạn
trong lớp. Nhờ có trò chơi học tập, học sinh hứng thú hơn, làm giảm bớt đi sự khô
khan của bài học, học sinh tiếp thu, ghi nhớ bài nhanh hơn, vận dụng vào giải toán
một cách chính xác hơn.
Trong quá trình giảng dạy, tơi thường sử dụng các trị chơi như sau:
Tên trò chơi: THI TIẾP SỨC
- Rèn luyện tác phong nhanh nhẹn, lụn trí thơng minh và cách ứng sử
nhanh.
+ Chuẩn bị:
11
-
Bảng phụ hoặc kẻ bảng chính của lớp, trong bảng đó ghi đề bài.
Tôi sử dụng vào từng bước trong quá trình học sinh giải toán, như là: bước
tóm tắt, bước giải.
Ví dụ: Đối với bài toán liên quan đến rút về đơn vị : Có 28kg gạo đựng đều
vào 7 bao. Hỏi 5 bao như thế nặng bao nhiêu ki lơ gam gạo? (SGK Tốn 3 –
trang 128)
+ Cách tiến hành:
- Trò chơi chia làm hai đội Nam- Nữ, mỗi đội 3, 4 học sinh ( tùy thuộc vào
bài tập cần làm).
- Khi giáo viên có hiệu lệnh “ Bắt đầu” lần lượt mỗi em của hai đội chạy lên
ghi 1 câu trong bài giải vào đúng vị trí. Khi ghi xong, học sinh chạy xuống chạm
tay vào học sinh thứ hai thí học sinh thứ hai mới được chạy lên ghi tiếp vào bảng,
cứ tiếp tục như vậy cho đến khi hai đội làm xong, trò chơi kết thúc. Đội nào đúng
và nhanh đội đó giành chiến thắng.
Ưu điểm của trò chơi này là kết quả làm việc của học sinh sẽ tạo ra biểu
tượng cụ thể( trên bảng lớp) cho học sinh so sánh và ghi nhớ.
Trò chơi này theo dạng rất đơn giản, giáo viên không phải chuẩn bị, dễ tổ
chức và không gây ồn ào nhưng lại có tác động tích cực đến việc ghi nhớ cách
giải toán bằng hai phép tính của học sinh. Nếu giáo viên tổ chức tốt trò chơi thì
ngoài tác dụng củng cố kiến thức của bài học, trò chơi còn có tác dụng trở lại với
bài học mới để ghi nhớ nội dung bài học. Học sinh phải cố gắng để khi chơi đạt
kết quả cao. Từ đó, hiệu quả của giờ học được nâng cao, kĩ năng giải toán của các
em sẽ được chuyển biến rõ rệt.
Trò chơi học tập rất hấp dẫn đối với học sinh. Tuy nhiên, giáo viên khơng nên
lạm dụng trị chơi học tập, biến cả tiết học thành tiết chơi gây nhàn chán đối với
học sinh. Giáo viên cần chuẩn bị chu đáo , chặt chẽ về điều kiện vật chất và cách
thức thể lệ chơi. Trong lúc chơi, giáo viên cần hướng dẫn, động viên hoàn thành
12
tốt bài tập, tạo sự hưng phấn, thích thú trong tiết học. Tổ chức trò chơi trong giờ
học toán chịu sự chi phối của nhiều yếu tố: thời gian ngắn, nội dung kiến thức
thay đổi theo từng bài học… Vì vậy, tổ chức trị chơi phải linh hoạt, khéo léo,
khơng làm ảnh hưởng đến thời gian và đảm bảo chất lượng dạy học.
Như vậy, trong quá trình dạy học giải toán trên lớp, tôi đã áp dụng 4 biện
pháp để giúp học sinh rèn kĩ năng giải bài toán bằng hai phép tính . Các biện pháp
này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong quá trình học, giáo viên luôn phải
nhắc nhở học sinh ý thức tự học và hướng dẫn học sinh phương pháp tự ghi nhớ
kiến thức. Từ đó, các em sẽ vận dụng tốt hơn trong giải toán có lời văn.
4. Hiệu quả của sáng kiến
* Kiểm nghiệm
- Nhờ áp dụng các biện pháp đã nêu mà kĩ năng giải toán bằng hai phép tính
của học sinh ngày càng có chuyển biến rõ rệt. Mỗi khi giáo viên yêu cầu hoặc khi
làm bài kiểm tra, các em đều làm tương đối tốt.
- Học sinh thích làm bài tập hơn, hào hứng với trò chơi học tập, thảo luận
nhóm sôi nổi, tự mình khám phá ra cách giải và tìm nhiều cách giải khác nhau cho
một bài toán.
Kết quả thi cuối HKI của lớp 3A (sử dụng biện pháp rèn kĩ năng giải toán
bằng hai phép tính ) và lớp 3B( khơng sử dụng biện pháp rèn kĩ năng giải toán
bằng hai phép tính):
Tổng số
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Lớp
3A
HS
29
SL
28
TL
96,55%
SL
1
TL
3,45%
3B
28
17
60,7%
11
39,3%
13
Thông qua bảng thống kê, ta thấy chất lượng học sinh giữa hai lớp có sự
khác biệt rõ rệt. Điều đó chứng tỏ tính đúng đắn và hiệu quả của các biện pháp rèn
kĩ năng giải toán bằng hai phép tính cho học sinh mà tơi đã và đang áp dụng.
* Rút kinh nghiệm
- Rèn kĩ năng giải toán bằng hai phép tính là yêu cầu rất quan trọng để các em
tiếp thu tốt chương trình toán 3 nói riêng và các chương trình toán lớp trên nói
chung.
- Để việc dạy học gíải toán đạt hiệu quả ngay từ khi các em mới bắt đầu làm
quen với các bài toán đơn, giáo viên cần hướng dẫn các em thật tỉ mỉ về các bước
giải toán, cách giải toán…
- Để dạy tốt, người giáo viên cần phải không ngừng học hỏi, tham khảo ở
sách, báo và kinh nghiệm của anh chị đồng nghiệp; tự tìm hiểu, nghiên cứu để nâng
cao trình kiến thức. Nắm vững phương pháp đặc trưng của giải toán, kết hợp linh
hoạt các phương pháp giảng dạy sao cho sát hợp với từng đối tượng học sinh của
lớp mình.
- Phải dùng nhiều hình thức rèn luyện, khen thưởng và động viên học sinh kịp
thời. Hạn chế không nên trách phạt, chê các em trước lớp làm cho các em có mặc
cảm và bạn bè có ấn tượng không tốt về các em. Bên cạnh đó giáo viên còn phải
khích lệ, động viên học sinh phải kiên trì, chăm chỉ rèn luyện mới đạt được kết quả
tốt.
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT.
1. Kết luận
2. Những đề xuất:
- Học sinh phải tự chuẩn bị cho mình một cuốn sổ tay toán học (dùng viết
những bài toán khó và các bước giải cơ bản), tự giác trong học tập.
14
- Giáo viên nhắc nhở và rèn cho các em thói quen phân tích bài toán, tìm và
giải mã những từ khóa của bài để nắm được cách giải và giải tốt bài toán giải bằng
hai phép tính.
- Ban giám hiệu nhà trường tham mưu cho cấp trên đầu tư mua sắm đầy đủ
sách tham khảo, tài liệu, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy giải toán đạt hiệu quả
cao hơn.
- Các cấp lãnh đạo mở chuyên đề giải toán, các câu lạc bộ toán để học sinh và
giáo viên tham gia, giao lưu và học hỏi nhiều hơn
Tuy nhiên, đề tài không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự
góp ý của các cấp lãnh đạo và các đồng nghiệp.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày
tháng
năm 2016
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung
của người khác
MẠC THỊ THANH
15
MỤC LỤC
16