Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

skkn một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán lời văn dạng bài toán liên quan rút về đơn vị lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.01 KB, 27 trang )

UBND THỊ XÃ CHÍ LINH
TRƯỜNG TIỂU HỌC SAO ĐỎ 2

BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán lời văn
Dạng: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị
Lớp 3
Môn: Toán


Năm học 2014 – 2015
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến:
Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán lời văn
Dạng: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị
Lớp 3
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Sáng kiến áp dụng cho giáo viên đang trực tiếp giảng dạy lớp Ba các
trường Tiểu học được học chương trình chuẩn.
3. Tác giả:
Họ và tên: Mạc Thị Lan
Ngày tháng năm sinh: 08 - 12 – 1970
Trình độ chuyên môn: Đại học.
Chức vụ : Phó hiệu trưởng.
Đơn vị công tác: Trường tiểu học Sao Đỏ 2, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương
Điện thoại: 0974 010 297
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Mạc Thị Lan
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu:
Trường tiểu học Sao Đỏ 2, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
Giáo viên có trình độ từ CĐSP trở lên. Tuy nhiên để mang lại hiệu quả


cao, giáo viên cần biết vận dụng phương pháp dạy học sao cho linh hoạt, phù
hợp với đối tượng và điều kiện học sinh.
GV có đủ các phương tiện và đồ dùng dạy học. HS có đủ sách giáo khoa,
hiện hành và các đồ dùng học Toán.
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu:
Tháng 9 năm 2013 đến nay.
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP
DỤNG SÁNG KIẾN

TÁC GIẢ

MẠC THỊ LAN

2


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Xuất phát từ thực trạng học toán của học sinh lớp 3 hiện nay còn lúng
túng khi giải toán có lời văn, chưa nắm chắc bản chất của việc giải toán lời
văn, kĩ năng phân tích hay tổng hợp còn hạn chế chưa hiểu đúng những dữ
kiện bài toán được ẩn ý dưới dạng lời văn để phân tích tìm ra cách giải.
Một bộ phận giáo viên chỉ dạy học sinh giải toán ở mức áp dụng bài mẫu
trong sách giáo khoa. Khi dạy, giáo viên chưa phân loại được các dạng toán cơ
bản, điển hình để khắc sâu phương pháp giải từng dạng toán cho học sinh.
Vậy dạy như thế nào để học sinh dễ hiểu, biết cách giải bài toán lời văn
lớp Ba, giảm bớt khó khăn và hạn chế, sai lầm thường mắc của học sinh khi
thực hiện giải toán có lời văn. Đây là một vấn đề rất rộng và khó song tôi đi sâu
vào một dạng toán điển hình ở lớp Ba “ Bài toán liên quan đến rút về đơn vị.”
và đây là dạng toán làm tiền đề cho các em học toán lớp 4 và 5 sau này.

2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.
2.1. Điều kiện:
Giáo viên có trình độ từ CĐSP trở lên. Tuy nhiên để mang lại hiệu quả
cao, giáo viên cần biết vận dụng phương pháp dạy học sao cho linh hoạt, phù
hợp với đối tượng và điều kiện học sinh.
CSVC: Phòng học rộng rãi, thoáng mát có đủ bàn ghế thuận tiện cho HS
di chuyển trong tiết học.
GV có đủ các phương tiện và đồ dùng dạy học.
HS có đủ sách giáo khoa, hiện hành và các đồ dùng học Toán.
2.2. Thời gian:
Tháng 9 năm 2013 đến nay.
2.3. Đối tượng:
Sáng kiến áp dụng cho giáo viên đang trực tiếp giảng dạy lớp Ba các
trường Tiểu học được học chương trình chuẩn.
3


3. Nội dung sáng kiến:
3.1. Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến.
Các giải pháp truyền thống chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo
của học sinh khi giải bài toán có lời văn, học sinh còn thụ động áp dụng một
cách máy móc, cứng nhắc, chưa hiểu chắc được bản chất của vấn đề.
Sáng kiến đi sâu, vào nghiên cứu và đưa ra các biện pháp tích cực giúp
học chủ động, linh hoạt, sáng tạo khi vận dụng giải bài toán có lời văn ở lớp 3
nói chung và dạng Bài toán liên quan đến rút về đơn vị nói riêng.
Góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy, giáo viên chỉ là người định
hướng, gợi mở, dẫn dắt. Học sinh được phát huy tính tích cực, chủ động linh
hoạt, sáng tạo. Làm cho tiết học trở nên sinh động, tự nhiên, nhẹ nhàng, thoải
mái và đạt hiệu quả tốt hơn. Từ đó khơi ngợi nguồn cảm hứng, các em thích
thú học tập.

3.2. Khả năng áp dụng:
Các biện pháp dạy học sinh giải toán có lời văn trong sáng kiến này có
thể áp dụng để giảng dạy phần kiến thức mới, luyện tập, các tiết ôn tập, tiết
(tăng) buổi 2, giúp giáo viên giảng dạy hình thành biểu tượng, phương pháp,
củng cố khắc sâu, mở rộng kiến thức và kĩ năng giải bài toán lời văn một cách
linh hoạt cho học sinh.
3.3. Lợi ích thiết thực của sáng kiến.
Sáng kiến phù hợp với lý luận về giáo dục, phù hợp với chủ trương,
chính sách hiện hành về giáo dục và đào tạo của Nhà nước. Vận dụng sáng kiến
vào giảng dạy hàng ngày đem lại lợi ích thiết thực tiết kiệm được thời gian khi
giảng dạy không kéo dài thời gian tiết học làm cho tiết học trở lên sinh động,
nhẹ nhàng, thoải mái. Tiết kiệm được công sức của người dạy và người học.
GV không phải nói nhiều, làm nhiều, chỉ định hướng, dẫn dắt. Học sinh tích
cực tham gia vào các hoạt động học tập mang lại hiệu quả cao.
Tạo cho học sinh niềm đam mê, hứng thú học tập. Bồi dưỡng cho các em
khả năng tư duy, suy luận, logic, cách học tập và làm việc khoa học, rõ ràng, cụ
thể. Sáng kiến góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất
4


lượng giáo dục đáp ứng mục tiêu phát triển của đất nước hiện nay. Giúp các em
trở thành những con người phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ,…
4. Khẳng định kết quả sáng kiến mang lại
Sáng kiến góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung,
nâng cao chât lượng môn Toán cho học sinh lớp Ba nói riêng. Từ việc nghiên
cứu nguyên nhân đến tìm hiểu thực trạng việc dạy và học toán hiện nay. Tôi đề
xuất một số biện pháp dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dạng Bài toán
liên quan đến rút về đơn vị. Đồng thời tiến hành dạy thực nghiệm để kiểm tra
tính khả thi của những biện pháp đó. Thực tế cho thấy, chất lượng dạy học môn
Toán nói chung, kĩ năng giải toán có lời văn của học sinh nói riêng ở lớp tôi

trực tiếp giảng dạy, đã được nâng cao rõ rệt so với các lớp chưa áp dụng các
biện pháp đã nêu. Điều đó khẳng định rằng: Một số biện pháp rèn kĩ năng giải
toán có lời văn dạng Bài toán liên quan đến rút về đơn vị ở lớp 3 đã nêu trong
sáng kiến này có hiệu quả tốt, có tính khả thi cao. Có thể áp dụng rộng rãi vào
thực tế giảng dạy hàng ngày ở lớp 3 hàng ngày.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng.
Đối với học sinh lớp Ba, mục tiêu chính là dạy cho các em nắm được
kiến thức theo chuẩn kiến thức kĩ năng môn học nói chung và hình thành
phương pháp học Toán một cách chủ động, linh hoạt, sáng tạo.Trong sáng kiến
này, tôi chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu Một số biện pháp rèn kĩ năng giải bài
toán có lời văn ở lớp 3 và đi sâu vào dạng Bài toán liên quan đến rút về đơn vị.
Bước đầu hình thành cho các em phương pháp và thói quen khi giải bài toán có
lời văn. Tôi chưa đi sâu nghiên cứu việc rèn kĩ năng giải các bài toán ở dạng
khác. Để chất lượng môn Toán của học sinh đạt cao hơn nữa và giúp các em
học sinh phát huy khả năng cá nhân ở các lớp 4,5. Cần được tiếp tục nghiên
cứu, áp dụng tiếp cách giải bài toán lời văn ở nhiều dạng khác nhau để góp
phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Toán..

5


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
1.1. Xuất phát từ thực trạng học toán của học sinh lớp 3 hiện nay còn lúng
túng khi giải toán có lời văn, chưa nắm chắc bản chất của việc giải toán lời văn,
kĩ năng phân tích hay tổng hợp còn hạn chế chưa hiểu đúng những dữ kiện bài
toán được ẩn ý dưới dạng lời văn mà học sinh phải hiểu đúng ý lời văn, phải
suy luận mới tìm ra được mối liên quan giữa các dữ kiện để phân tích tìm ra
cách giải.
1.2. Một bộ phận giáo viên chỉ dạy học sinh giải toán ở mức áp dụng bài mẫu

trong sách giáo khoa. Khi dạy, giáo viên chưa phân loại được các dạng toán cơ
bản, điển hình để khắc sâu phương pháp giải từng dạng toán cho học sinh.
1.3. Nhu cầu xã hội hiện nay đào tạo các em trở thành những con người chủ
động, sáng tạo, linh hoạt trong cuộc sống. Mục tiêu môn Toán Tiểu học nhằm
giúp học sinh có kiến thức cơ bản ban đầu về số, các đại lượng, yếu tố hình học
và giải các bài toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong cuộc sống; giúp các em
có kĩ năng thực hành, phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận và diễn đạt
đúng (nói, viết) cách phát hiện và giải quyết vấn đề đơn giản, gần gũi trong
cuộc sống. Giúp học sinh hình thành phương pháp tự học và làm việc có kế
hoạch khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo.
Vậy dạy như thế nào để học sinh dễ hiểu, biết cách giải bài toán lời văn
lớp Ba, giảm bớt khó khăn và hạn chế, sai lầm thường mắc của học sinh khi
thực hiện giải toán có lời văn. Đây là một vấn đề rất rộng và khó song tôi đi sâu
vào một dạng toán điển hình ở lớp Ba đó là dạng “Bài toán liên quan đến rút về
đơn vị.” và cũng là dạng toán làm tiền đề cho các em học toán lớp 4 và 5 sau
này.
2. Cơ sở lý luận của vấn đề:
Cấp Tiểu học là cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành
và phát triển toàn diện nhân cách của con người, là nền móng vững chắc cho
6


giáo dục phổ thông và hệ thống giáo dục quốc dân.
Môn toán là một môn học trí tuệ, giúp học sinh rèn luyện phương pháp
tư duy, phương pháp suy luận, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết
vấn đề,... giúp học sinh rèn luyện trí thông minh và tính sáng tạo. Nó còn giúp
học sinh trau dồi những đức tính quý báu như: cần cù, nhẫn lại, tự lực cánh
sinh, ý trí vượt khó, kiên trì, sự đam mê, tính chính xác,...
Dạy học giải toán có lời văn là một trong những con đường hình thành
và phát triển trình độ tư duy ở học sinh (phát hiện và tự giải quyết vấn đề, tự

nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp, rút ra phương pháp giải toán.)
Để đạt được hiệu quả cao, người giáo viên phải biết cách tổ chức, hướng
dẫn cho học sinh (các nhân, nhóm, cả lớp) hoạt động theo mục đích nhất định
với sự trợ giúp đúng mức của giáo viên, của SGK và của đồ dùng dạy học, để
mỗi cá nhân "khám phá" tự phát hiện và giải quyết bài toán thông qua việc
thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức có liên quan đã học. Để
mỗi học sinh đều đạt tới những kết quả theo chuẩn quy định trong kế hoạch và
chương trình đối với từng môn học, từng hoạt động học của học sinh.
3. Thực trạng của vấn đề
Trong 4 mạch kiến thức Tiểu học thì “giải toán có lời văn” là một loại
toán khó đối với học sinh, đòi hỏi học sinh phải tư duy một cách tích cực và
linh hoạt, phải biết phân tích, tổng hợp vì nhiều dữ kiện của bài toán được ẩn ý
dưới dạng lời văn mà học sinh phải hiểu ý của lời văn, phải suy luận mới tìm ra
được mối liên quan giữa các dữ kiện của bài toán mà phân tích tìm ra cách giải.
Bài toán có lời văn được xuyên suốt chương trình toán bậc Tiểu học. Nó được
viết dưới các dạng toán khác nhau, tùy từng đối tượng học sinh từ lớp 1 – lớp
5, từ đơn giản đến phức tạp.
3.1. Học sinh
Ở lứa tuổi Tiểu học, khả năng phân tích của các em còn hạn chế, sự chú
ý không chủ định chiếm ưu thế, trí nhớ trực quan hình tượng và trí nhớ máy
móc phát triển hơn trí nhớ lôgíc.
Các em còn mải chơi, không chú ý nhiều đến học tập, không chú ý đến
7


dấu hiệu của bản chất vấn đề đang học. Các em nhanh nhớ, cũng nhanh quên,
hay mắc tính chủ quan, hiếu động. Tư duy của các em chưa phát triển cao nên
những bài toán áp dụng công thức, quy tắc cơ bản của các em dễ làm hơn các
bài toán suy luận.
Một số em chưa nắm vững chắc cách thực hiện các phép tính: nhân, chia

trong bảng và ngoài bảng.
3.2. Giáo viên : Khi dạy “Bài toán liên quan đến rút về đơn vị ”
Giáo viên chưa thực hiện đầy đủ các bước của qúa trình giải toán, chưa
hướng dẫn học sinh cách đọc và phân tích dữ liệu, cách tóm tắt đề, ... Một bộ
phận giáo viên chỉ dạy học sinh giải toán ở mức áp dụng bài mẫu trong sách
giáo khoa, chưa phân loại được các dạng toán cơ bản, điển hình để khắc sâu
phương pháp giải từng dạng toán cho học sinh.
3.3. Điều tra, khảo sát chất lượng học sinh.
*Đề khảo sát: ( 15 phút)
Hãy tóm tắt và giải các bài toán sau:
Câu 1: Trong vườn ươm, người ta đã ươm 2032 cây giống trên 4 lô đất,
các lô đất đều có số cây như nhau. Hỏi Hai lô đất có bao nhiêu cây?
Câu 2: Có 45 học sinh xếp thành 9 hàng đều nhau. Hỏi có 60 học sinh thì
xếp được bao nhiêu hàng như thế?
* Biểu điểm:
Câu

1

Nội dung
-Tính được một lô đất có bao nhiêu cây
+ Câu trả lời đúng
+ Phép tính đúng
- Tính được hai lô đất có bao nhiêu cây
+ Câu trả lời đúng
+ Phép tính đúng

Cách cho điểm

- Đáp số đúng.

-Tính được một hàng có bao nhiêu học sinh
+ Câu trả lời đúng
+ Phép tính đúng
- Tính được 60 học sinh xếp được số hàng là
+ Câu trả lời đúng

1 điểm

8

1 điểm
1 điểm
1 điểm
1 điểm

1 điểm
1 điểm
1 điểm


+ Phép tính đúng

1 điểm

- Đáp số đúng.
3.4. Kết quả:
Sĩ số

1 điểm
9-10


7-8

3A: 35

Em
7

%
20

Em
15

%
42,9

Đối chứng
3C: 35

8

22,9

14

40

5- 6
Em

%
8
22,9
9

25,7

Dưới 5
Em
%
5
14,2
4

11,4

Thực nghiệm
Qua khảo sát chất lượng và tìm hiểu thực tế, tôi thấy học sinh còn mắc
một số sai sót trong quá trình giải toán do các nguyên nhân sau:
Các em chưa có thói quen đọc kĩ đề bài nên chưa hiểu đúng ý nghĩa từ
ngữ, các câu văn trong bài toán.
Chưa phân tích, thiết lập được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải
tìm trong bài toán.
Một số em chưa phân biệt được dạng toán, còn nhầm lẫn sang dạng toán
khác.
Từ các nguyên nhân trên dẫn đến :
Học sinh chưa biết tóm tắt bài toán, chưa tìm ra cách giải đúng của bài
toán.
Tìm câu trả lời chưa đúng hay thực hiện tính toán còn sai.
Ghi đơn vị của đại lượng chưa đúng. (bước 2 của bài toán 2)

4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện.
4.1. Các phương pháp nghiên cứu:
4.1.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận.
Đọc các tài liệu.
Tìm hiểu nội dung chương trình, mục tiêu, chuẩn KTKN cần đạt môn
Toán ở bậc Tiểu học nói chung và môn Toán lớp Ba nói riêng.
4.1.2. Phương pháp điều tra, khảo sát.
Điều tra chất lượng học sinh qua khảo sát, phỏng vần, theo dõi....
Trao đổi với đồng nghiệp.
9


4.1.3. Phương pháp kiểm tra, thống kê kết quả.
Kiểm tra, đánh giá kết quả sau mỗi giai đoạn học tập.
Thống kê chất lượng.
4.1.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
Rút ra bài học cho bản thân, trao đổi với đồng nghiệp áp dụng vào giảng
dạy thực tế.
4.2. Biện pháp thực hiện.
4.2.1. Hướng dẫn học sinh quy trình giải bài toán có lời văn ở lớp 3.
Để hướng dẫn học sinh giải bài toán có lời văn nói chung và Bài toán
liên quan đến rút về đơn vị nói riêng, tôi không áp đặt cách giải, không làm
thay học sinh, luôn gợi mở tạo cho học sinh tìm ra cách giải bài toán. Tập trung
vào các bước sau.
Bước 1: +Phân tích, tóm tắt đề toán
Đọc đề toán, gạch chân những từ “mấu chốt”, nắm được "dữ kiện" là
cái đã cho, đã biết; "ẩn số" là cái chưa biết, cần tìm và "điều kiện" là mối quan
hệ giữa “dữ kiện” và "ẩn số" Ở bước này tôi nêu hai câu hỏi:
Bài toán cho biết gì?
Bài toán hỏi gì?

+Tóm tắt đề toán:
Thiết lập mối quan hệ giữa cái đã cho và cái cần tìm, tóm tắt nội dung
bài toán bằng ngôn ngữ, kí hiệu, sơ đồ, hình vẽ,... Tùy thuộc vào nội dung mỗi
bài toán mà lựa chọn cách tóm tắt phù hợp sao cho ngắn gọn, khoa học, đầy đủ,
rõ ràng. (không nhất thiết phải viết tóm tắt vào phần trình bày lời giải.)
Bước 2: Lập kế hoạch giải toán
Thông qua việc thiết lập mối quan hệ dữ liệu của bài với yêu cầu bài
toán. Tôi hướng dẫn học sinh suy nghĩ để trả lời câu hỏi của bài toán cần biết
gì, phải thực hiện phép tính gì? Suy nghĩ từ cái đã cho và điều kiện của bài
toán, có thể giải được bài toán ngay không hay phải qua những bước giải trung
gian nào? Trên cơ sở đó, suy nghĩ để lập các bước giải bài toán.
Bước 3: Trình bày bài giải
10


Trên cơ sở bước phân tích tìm cách giải, hướng dẫn học sinh diễn đạt câu
trả lời các phép tính tương ứng. Tôi luôn gợi mở để học sinh tự diễn đạt câu trả
lời trước rồi viết phép tính. (có thể diễn đạt câu trả lời bằng nhiều cách khác
nhau, chấp nhận cách diễn đạt vụng về nhưng đúng của học sinh chậm, rồi uốn
nắn sửa dần.) Cái khó của việc giải toán có lờì văn trong Toán 3 đối với học
sinh chính là trình bày bài giải và nhất là câu trả lời cho bước trung gian.
Bước 4: Kiểm tra và thử lại.
Kiểm tra xem phép tính đã đúng chưa, viết câu trả lời đã hợp lí chưa?,
thử xem đáp số tìm ra có trả lời đúng câu hỏi của bài toán, có phù hợp với các
điều kiện của bài toán không?
Trong giải toán, tôi thường xuyên khuyến khích học sinh tìm nhiều cách
giải và biết so sánh, lựa chọn cách giải tốt nhất.Vì thế tôi luôn khai thác được
các tiềm năng trong các bài tập, hướng dẫn học sinh trao đổi ý kiến về các cách
giải, qua đó củng cố khắc sâu kiến thức bài học.
4.2.2. Hướng dẫn học sinh giải Bài toán liên quan đến rút về đơn vị.

Trên cơ sở học sinh đã được làm quen với giải toán có lời văn ở lớp 2
(dạng: thêm, bớt, nhiều hơn, ít hơn, tìm tích, chia thành phần bằng nhau,...)
Lên lớp 3 học sinh được học và giải các bài toán hợp (có hai phép tính)
phù hợp với sự phát triển nhận thức của học sinh lớp 3. Trong đó có dạng toán
điển hình dạng : "Bài toán liên quan đến rút về đơn vị." Với dạng toán này có
hai kiểu bài cơ bản sau:
Bài toán giải bằng hai phép tính chia, nhân.
Bài toán giải bằng hai phép tính chia.
Để giúp học sinh tìm được cách giải cho dạng toán này tôi đã đề ra mục
tiêu học sinh cần đạt như sau:
-Học sinh hiểu được thế nào là “Bài toán có liên quan đến rút về đơn vị”
-Biết nhận dạng bài toán.
-Học sinh biết được cách giải bài toán có liên quan đến dạng toán từ đơn
giản đến phức tạp.
4.2.2.1 Dạy bài mới:
11


Căn cứ vào yêu cầu về kiến thức, kĩ năng mỗi tiết học, nội dung sách
giáo khoa, chương trình môn Toán lớp 3, tôi đã nghiên cứu, áp dụng theo từng
hoạt động trong mỗi tiết học như sau:
*Dạng bài toán giải bằng hai phép tính chia, nhân
Bài toán 1: Có 6 can dầu như nhau đựng được 30l dầu ăn. Hỏi 4 can như thế
thì đựng được bao nhiêu lít dầu ăn?
Bước 1: Phân tích, tóm tắt đề

Học sinh đọc đề toán

-Bài toán cho biết gì?


-6 can chứa 30 lít dầu ăn

-Bài toán hỏi gì?

-4 can như thế đựng bao nhiêu lít dầu
ăn.

Tóm tắt:

6 can: 30 lít
4 can:.........lít?

Bước 2: Lập kế hoạch giải
-"6 can như nhau" nghĩa là mỗi can đều
đựng số lít dầu bằng nhau.
-Muốn biết 4 can đựng được bao nhiêu -Một can đựng đươc bao nhiêu lít.
lít ta phải biết gì?
-Muốn biết 1 can đựng được bao nhiêu -Lấy 30 : 6 =?
lít ta làm thế nào?
-Biết 1 can đựng được 5 lít. Làm thế nào -Ta lấy số lít dầu ăn có trong 1 can
để tính được 4 can đựng được bao nhiêu rồi nhân với 4 (tức là lấy 5 x 4 =
lít?

20)

Bước 3: Trình bày bài giải

Bài giải

Dựa vào bước phân tích trên


-HS giải bài toán vào vở.
Mỗi can đựng được số lít dầu ăn
là: 30 : 6 = 5 (l)
Bốn can đựng được số lít dầu ăn
là: 5 x 4 = 20(l)
Đáp số: 20 lít dầu ăn

Bước 4: Kiểm tra, đánh giá

- 1 em chữa bài trên bảng lớp.
12


-Giáo viên chữa bài nhận xét:

- HS nhận xét, đánh giá.

-Bài giải qua mấy bước?

- 2 bước.

-Bước 1 đi tìm gì?

- 1 can đựng bao nhiêu lít dầu ăn..

*Chốt: Bước 1 là bước "rút về đơn vị"
-Giới thiệu đây là "Bài toán liên quan đến rút về đơn vị."
-Trong bài toán dạng này có hai đại lượng quan hệ với nhau đó là "số can dầu"
và "số lít dầu"; số can dầu tăng lên (hay giảm đi) bao nhiêu lần thì số lít dầu

cũng tăng lên (hay giảm đi) bấy nhiêu lần. Vì mỗi can chứa số lít dầu như nhau.
-Khi giải ta thường làm qua hai bước sau:
Bước 1: Tính giá trị một phần bằng nhau (dùng phép chia)
Bước 2: Tính giá trị nhiều phần bằng nhau (dùng phép nhân)
Yêu cầu học sinh nhắc lại cách giải.
*Dạng bài toán giải bằng hai phép tính chia:
Bài toán 2: Có 30 lít dầu ăn đựng đều vào 6 can như nhau. Hỏi 20l dầu ăn phải
đựng mấy can như thế?
Bước 1: Phân tích, tóm tắt đề

Học sinh đọc đề toán.

-Bài toán cho biết gì?

30 lít dầu ăn đựng vào 6 can.

-Bài toán hỏi gì?

20 lít dầu ăn đựng vào mấy can như

Tóm tắt:

30 lít:

6 can

thế.

20 lít:.... can?
-Bài toán liên quan đến dạng toán -Bài toán liên quan đến rút về đơn vị.

nào?
Bước 2: Lập kế hoạch giải
-Để tính được 20 lít dầu ăn đựng Tìm số dầu ăn đựng trong 1 can
vào mấy can thì trước hết ta phải tìm
gì?
-Làm thế nào để tìm số lít dầu ăn Lấy 30 : 6 = 5 ( l )
đựng trong 1 can?
-Biết được 5 lít dầu ăn đựng trong 1 20 lít dầu ăn đựng trong số can là:
can, vậy 20 lít dầu ăn đựng trong 20 : 5 = 4 ( can )
13


mấy can? Làm thế nào?
Bước 3: Trình bày bài giải

Học sinh làm bài vào vở.

-Dựa vào phân tích trên để giải.

Số lít dầu ăn đựng trong mỗi can là:

-GV hướng dẫn HS phát triển cách 30 : 6 = 5 ( l )
diễn đạt câu trả lời bằng nhiều cách Số can cần để đựng hết 20l dầu ăn là:
khác nhau.

20 : 5 = 4 ( can)
Đáp số: 4 can dầu ăn

Bước 4: Kiểm tra, đáng giá.


- 1 em chữa bài trên bảng lớp.

Giáo viên chữa bài, nhận xét

Học sinh nhận xét, chữa bài

Chốt:
Bài toán thuộc dạng toán nào?

Bài toán thuộc dạng toán “Rút về đơn
vị ”

-Bài toán giải qua mấy bước?

2 bước.

-Bước nào được gọi là bước rút về Bước tìm số lít dầu ăn có trong 1 can
đơn vị?

(bước 1)

-Cách giải bài toán này có gì giống và -Giống: Bước 1 tìm giá trị 1 phần bằng
khác với cách giải bài toán 1

nhau. (ứng với việc rút về đơn vị)
-Khác: Bước 2 Tìm số phần.(lấy giá trị

các phần chia cho giá trị 1 phần)
- Đây cũng là một dạng toán cơ bản của Bài toán liên quan đến rút về đơn vị.
Với dạng toán này, ta thường giải qua 2 bước:

Bước 1: Tìm giá trị của một phần (thực hiện phép chia)
Bước 2: Tìm số phần (thực hiện phép chia)
Yêu cầu học sinh nhắc lại các bước giải bài toán..
Tiểu kết: Với cách hướng dẫn và khai thác như hai bài toán trên, tôi thấy học
sinh không còn lúng túng khi giải toán có lời văn. Bước đầu các em có kĩ năng
phân tích, tổng hợp, biết suy luận, phán đoán tìm ra được mối liên quan giữa
các dữ kiện để có cách giải phù hợp. Sau mỗi dạng bài, tôi đều chốt kiến thức
trọng tâm, hướng dẫn để học sinh so sánh, nhận dạng, phân biệt, ghi nhớ. Từ đó
các em không nhầm lẫn khi giải toán. Tôi chỉ là người tổ chức, định hướng, dẫn
dắt, học sinh chủ động tích cực tham gia các hoạt động và tự chiếm lĩnh kiến
14


thức. Các em được phát huy tính tích cực, chủ động linh hoạt, sáng tạo. Làm
cho tiết học trở nên sinh động, tự nhiên, nhẹ nhàng, thoải mái và đạt hiệu quả
tốt hơn. Từ đó khơi ngợi nguồn cảm hứng, các em thích thú học tập.
4.2.2.2 Dạy phần luyện tập:
Khi học sinh đã nắm được phương pháp và các bước giải, các em sẽ vận
dụng những kiến thức đó để thực hành luyện tập giải các bài toán có liên quan.
Để giúp học sinh nắm kiến thức một cách vững chắc, đồng thời bộc lộ sáng tạo
của mình, khi dạy tôi đã đưa ra một số bài tập sau:
*Dạng bài toán giải bằng hai phép tính chia, nhân
Bài toán 1: Có 245 quyển vở được xếp vào 7 thùng. Hỏi 5 thùng như thế có
bao nhiêu quyển vở?
Yêu cầu học sinh làm bài (theo các bước đã học)
Tóm tắt

Bài giải

7thùng : 245 quyển vở


Mỗi thùng xếp được số quyển vở là:

5 thùng : ...quyển vở?

245 : 7 = 35 ( quyển vở)
Năm thùng xếp được số quyển vở là:
35 x 5 = 175 (quyển vở)

Đáp số: 175 quyển vở
Bài toán 2: Có 6 người thợ làm được 54 sản phẩm (sức làm của mỗi người như
nhau). Hỏi 1 phân xưởng có 18 người thì làm được bao nhiêu sản phẩm?
Yêu cầu học sinh làm bài (theo các bước đã học)
Tóm tắt

Bài giải

6 người : 54 sản phẩm

Mỗi người làm đợc số sản phẩm là:

18 người : ... sản phẩm

54 : 6 = 9 (sản phẩm)
Một phân xưởng có 18 người thì làm
được số sản phẩm là:
9 x 18 = 162 (sản phẩm)

Đáp số: 162 sản phẩm
* Sau khi chữa bài và nhận xét đánh giá, tôi củng cố bằng hệ thống câu hỏi

như sau:
-Bài toán thuộc dạng toán gì?
15


-Nêu các bước giải cụ thể?
*Mở rộng: Để khai thác tiềm năng của học sinh, tôi định hướng học sinh suy
nghĩ, tìm cách giải khác cho bài toán. ( thảo luận nhóm 4)
VD: Bài toán 2: (cách 2)
-So sánh 2 đại lượng "số người" và "số sản phẩm":
Ta thấy: 18 : 6 = 3 (lần)
-Số người tăng lên gấp 3 lần thì số sản - Vì sức làm mỗi người như nhau nên
phẩm như thế nào?

số người tăng lên 3 lần thì số sản

(Vì sức làm của mỗi người như nhau)
-Vậy ta có thêm cách giải thứ 2:

phẩm cũng tăng lên gấp 3 lần.

Bài giải
18 người gấp 6 người số lần là:
18 : 6 = 3 (lần)
Một phân xưởng có 18 người thì làm được số sản phẩm là:
54 x 3 = 162 (sản phẩm)
Đáp số: 162 sản phẩm.
Tiểu kết: Ở cách 2, tôi đã hướng dẫn học sinh vận dụng dựa vào mối quan hệ
giữa hai đại lượng" số người" và "số sản phẩm".
-Số người tăng lên "hay giảm đi" bao nhiêu lần thì số sản phẩm cũng tăng lên

"hay giảm đi" bấy nhiêu lần.
* Dạng bài toán giải bằng hai phép tính chia
Bài toán 3: Có 45 học sinh xếp thành 9 hàng đều nhau. Hỏi có 60 học sinh thì
xếp được bao nhiêu hàng như thế?
Yêu cầu học sinh thực hiện các bước như đã hướng dẫn.
Tóm tắt

Bài giải

45 học sinh: 9 hàng

Mỗi hàng xếp được số học sinh là:

60 học sinh: ...hàng?

45 : 9 = 5 (học sinh)
60 học sinh thì xếp được số hàng như
thế là: 60 : 5 = 12 (hàng)

Đáp số: 12 hàng
Bài toán 4: Có 48 cái đĩa thì xếp đều vào 8 hộp. Hỏi có 30 cái đĩa thì xếp vào
16


mấy hộp như thế?
Yêu cầu học sinh thực hiện các bước như đã hướng dẫn.
Tóm tắt

Bài giải


48 cái đĩa: 8 hộp

Mỗi hộp xếp số cái đĩa là:

30 cái đĩa: ... hộp?

48 : 8 = 6 ( cái đĩa)
30 cái đĩa thì xếp được số hộp như thế
là: 30 : 6 = 5 (hộp)
Đáp số: 5 hộp đia.

4.3. Hướng dẫn học sinh so sánh cách giải 2 kiểu bài:
Để học sinh phân biệt cách giải 2 kiểu bài này, tôi hướng dẫn các em so
sánh các bước giải và đặc điểm mỗi kiểu bài như sau:
Các

Kiểu bài 1

Kiểu bài 2

bước

( Tìm giá trị của các phần)
-Tìm giá trị 1 phần ( phép chia)

(Tìm số phần)
-Tìm giá trị 1 phần ( phép chia)

1


Đây là bước rút về đơn vị
-Tìm giá trị nhiều phần ( Phép

Đây là bước rút về đơn vị
- Tìm số phần ( Phép chia)

nhân)

- Lấy giá trị các phần chia cho giá

-Lấy giá trị 1 phần nhân với số

trị 1 phần.

2

phần.
Sau mỗi lần luyện tập, tôi lại củng cố, khắc sâu và mở rộng kiến thức (nếu
có) để giúp học sinh nhận dạng, nhớ kiến thức và nắm chắc cách giải dạng
toán, không nhầm lẫn.
4.4. Dạy minh họa.
Giáo án minh họa (Phụ lục 1)
5. Kết quả đạt được:
Để khẳng định kết quả sáng kiến, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh hai
lớp sau khi áp dụng các biện pháp nêu trên.
*Đề bài ( Thời gian làm bài 15 phút)
Bài 1:
Có 8 xe ô tô chở được 1048 thùng hàng. Hỏi 5 xe ô tô như thế chở được bao
nhiêu thùng hàng?
17



Bài 2:
Có 7500 lít dầu đựng đều trong 5 thùng. Hỏi có 13500 lít dầu thì cần mấy thùng
như thế?
* Biểu điểm:
Câu

hàng
+ Câu trả lời đúng
+ Phép tính đúng
- Tính được năm xe ô tô chở bao nhiêu thùng hàng
+ Câu trả lời đúng
+ Phép tính đúng

1

2

Nội dung
Cách cho điểm
-Tính được một xe ô tô chở được bao nhiêu thùng
1 điểm
1 điểm
1 điểm
1 điểm

- Đáp số đúng.
-Tính được một thùng đựng bao nhiêu lít đầu.


1 điểm

+ Câu trả lời đúng
+ Phép tính đúng
- Tính được 13 500 lít dầu cần bao nhiêu thùng
+ Câu trả lời đúng
+ Phép tính đúng

1 điểm
1 điểm
1 điểm
1 điểm

- Đáp số đúng.
1 điểm
Sau khi học sinh làm đề khảo sát, tôi đã chấm cả hai lớp và thu được kết quả

như sau:
HÌNH

LỚP



3A

SỐ
35

3C


35

THỨC
Đối
chứng
Thực

9 -10

7-8

5-6

Dưới 5

SL

%

SL

%

SL

%

SL


%

12

34,3

13

37,1

08

22,9

02

5,7

21
60
10 28,6
4
11,4
0
nghiệm
Kết quả thống kê trên khẳng định những biện pháp rèn kĩ năng giải toán

có lời văn như tôi đã nêu trên bước đầu có có hiệu quả tốt.
- Kết quả làm bài đúng của học sinh được nâng cao rõ rệt. So với lớp 3A, số
học sinh khá giỏi lớp 3C đạt tỉ lệ cao hơn nhiều; học sinh trung bình chỉ còn 4

em.
18


- Học sinh có kĩ năng phân tích, tổng hợp, suy luận, diễn đạt ( nói, viết) tốt
hơn.
- So với lớp 3A (đối chứng) thì chất lượng giải toán của lớp tôi dạy tiến bộ
rõ rệt.
Năm học 2013 -2014, lớp 3C luôn đạt kết quả cao nhất qua các đợt kiểm tra
định kì và các đợt khảo sát học sinh năng khiếu đều dẫn đầu khối về chất lượng
môn Toán.
Với nhiều năm liên tục giảng dạy ở khối Ba, tôi đã nghiên cứu, học hỏi, vận
dụng linh hoạt, sáng tạo các biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học
sinh lớp Ba, tôi thường xuyên vận dụng vào công tác giảng dạy của bản thân và
trao đổi với đồng nghiệp trong tổ chuyên môn cùng thực hiện. Trong quá trình
thực hiện có điều chỉnh bổ sung kịp thời. Thực tế cho thấy, chất lượng dạy học
môn Toán của nhà trường nơi tôi công tác, cũng như chất lượng của lớp tôi trực
tiếp giảng dạy đều đạt cao. Điều đó khẳng định rằng: Một số biện pháp rèn kĩ
năng giải toán có lời văn dạng Bài toán liên quan đến rút về đơn vị - lớp 3, tôi
nghiên cứu và áp dụng vào giảng dạy có tính khả thi cao.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Kết quả sáng kiến đạt được.
Sau khi điều tra, khảo sát, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến các sai lầm
thường gặp của học sinh khi giải toán có lời văn, tôi đã nghiên cứu và đề xuất
một số biện pháp rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn dạng Bài toán liên quan
đến rút về đơn vị - lớp 3 và áp dụng các biện pháp vào giảng dạy hàng ngày.
Qua kiểm tra, khảo sát cho thấy kết quả môn Toán của các em nâng lên rõ rệt.
Học sinh không còn lúng túng khi giải toán có lời văn, tự tin, chủ động khi làm

bài, có thái độ thích thú học toán. Các em có kĩ năng phân tích hay tổng hợp
các dữ kiện bài toán tốt hơn, biết suy luận tìm ra được mối liên quan giữ các
dữ kiện để phân tích tìm ra cách giải. Học sinh được phát huy tính tích cực,
19


chủ động linh hoạt, sáng tạo. Các em nắm chắc phương pháp giải bài toán có
lời văn nói chung và Bài toán rút về đơn vị nói riêng.
Giáo viên nắm chắc hơn về nội dung, chương trình môn toán ở lớp Ba,
phân loại được các dạng toán cơ bản, điển hình để khắc sâu phương pháp giải
từng dạng toán cho học sinh. Vận dụng các biện pháp nêu trên vào giảng dạy
môn Toán hàng ngày. Góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy giáo viên chỉ
là người định hướng, gợi mở, dẫn dắt. Làm cho tiết học trở nên sinh động, tự
nhiên, nhẹ nhàng, thoải mái và đạt hiệu quả tốt hơn. Đáp ứng được nhu cầu xã
hội hiện nay đào tạo các em trở thành những con người chủ động, sáng tạo, linh
hoạt trong cuộc sống. Đạt được mục tiêu, nhiệm vụ của dạy học toán ở Tiểu
học nói riêng và mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục tiểu học nói chung.
2. Khuyến nghị:
- Cấp cơ sở:
Muốn nâng cao được chất lượng giải toán cho học sinh
*Giáo viên cần:
Tạo hứng thú và nhu cầu học, thu hút học sinh học tập, tạo không khí lớp
học sôi nổi.
Khảo sát thực trạng việc chất lượng của học sinh lớp mình, tìm hiểu
nguyên nhân, có biện pháp phù hợp. Quan tâm với từng đối tượng học sinh trên
lớp, phát hiện và giúp đỡ các em nắm chắc kiến thức và phương pháp làm bài
ngay trên lớp học. Chuẩn bị tốt nội dung bài dạy, dự kiến các tình huống để
phát huy tích tích cự của từng đối tượng học sinh..
* Nhà trường và các tổ chuyên môn:
- Cần tổ chức chuyên đề cho giáo viên áp dụng sáng kiến có tính khả thi

cao vào thực tế giảng dạy và theo dõi, đánh giá kết quả sau khi áp dụng sáng
kiến đó.
- Tích cực kiểm tra, đánh giá việc dạy và học sau chuyên đề.
- Các cấp quản lý giáo dục:
Đề nghị tổ chức các chuyên đề, hội thảo trong phạm vi rộng hơn, cao
hơn để giáo viên có dịp trao đổi, học hỏi tốt hơn.
20


Trên đây là một số biện pháp Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn dạng
Bài toán liên quan đến rút về đơn vị - lớp 3. Tôi luôn cố gắng để đạt được mục
tiêu đề ra bằng tất cả khả năng của mình. Rất mong sự đóng góp ý kiến chân
thành của Hội đồng Khoa học các cấp để sáng kiến của tôi được hoàn thiện,
đầy đủ, đạt hiệu quả hơn.
Tôi trân trọng cảm ơn!
Ngày 25 tháng 2 năm 2015

PHỤ LỤC 1
GIÁO ÁN DẠY MINH HỌA
TIẾT 122: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị
SGK - tr 128)
A. Mục tiêu: Giúp học sinh.
- Biết cách giải Bài toán liên quan đến rút về đơn vị.
- Rèn kĩ năng quan sát, phân tích, so sánh, suy luận, tổng hợp, phát hiện
và tự giải quyết vấn đề...kĩ năng diễn đạt và trình bày bài giải.
- Giáo dục tính khoa học, chính xác.
B. Đồ dùng dạy học:
- SGK, vở ghi, vở nháp.
21



-Phấn màu.
C. Các hoạt động dạy học chủ yếu.
I. Ổn định tổ chức:
II. Dạy bài mới:
1. Hướng dẫn giải toán:
Bài toán 1. (toán đơn)
Yêu cầu học sinh tự làm bài (theo các bước đã học).
Có 35l mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi mỗi can có mấy lít mật ong?
HS đọc đề, tự phân tích bài toán. ( cái gì đã cho, cái gì phải tìm?).
Lựa chọn phép tính thích hợp. (phép chia).
Tự trình bày bài giải vào vở.
Bài giải
Mỗi can chứa số lít mật ong là:
35 : 7 = 5 (l)
Đáp số: 5 lít mật ong
Nhận xét, đánh giá.
Học sinh nhắc lại muốn tính số lít mật ong đựng trong mỗi can, phải lấy 35 chia
cho 7.
Bài toán 2: (toán hợp có 2 phép tính nhân và chia)
Có 35l mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi 2 can có mấy lít mật ong?
Bước 1: Phân tích, tóm tắt đề

Học sinh đọc đề toán

-Bài toán cho biết gì?

-7 can chứa 35 lít mật ong

-Bài toán hỏi gì?


-2 can như thế đựng bao nhiêu lít
mật ong.

Tóm tắt:

7 can: 35 lít
2 can:.........lít?

Bước 2: Lập kế hoạch giải
-"35l chia đều vào 7 can" nghĩa là mỗi
can đều đựng số lít dầu bằng nhau.
-Muốn biết 2 can đựng được bao nhiêu -Một can đựng đươc bao nhiêu lít.
22


lít ta phải biết gì?
-Muốn biết 1 can đựng được bao nhiêu -Lấy 35 : 7 =?
lít ta làm thế nào?
-Biết 1 can đựng được 5 lít. Làm thế nào -Ta lấy số lít mật ong có trong 1
để tính được 2 can đựng được bao nhiêu can rồi nhân với 2 (tức là lấy 5 x 2
lít?

= 10)

Bước 3: Trình bày bài giải

Bài giải

Dựa vào bước phân tích trên


-HS giải bài toán vào vở.
Mỗi can đựng được số lít mật ong
là: 35 : 7 = 5 (l)
Hai can đựng được số lít dầu ăn là:
5 x 2 = 10(l)
Đáp số: 10 lít mật ong

Bước 4: Kiểm tra, đánh giá

- 1 em chữa bài trên bảng lớp.

-Giáo viên chữa bài nhận xét:

- HS nhận xét, đánh giá.

-Bài giải qua mấy bước?

- 2 bước.

-Bước 1 đi tìm gì?

- 1 can đựng bao nhiêu lít mật ong.

*Chốt: Bước 1 là bước "rút về đơn vị"
-Giới thiệu đây là "Bài toán liên quan đến rút về đơn vị."
-Trong bài toán dạng này có hai đại lượng quan hệ với nhau đó là "số can dầu"
và "số lít dầu"; số can dầu tăng lên (hay giảm đi) bao nhiêu lần thì số lít dầu
cũng tăng lên (hay giảm đi) bấy nhiêu lần. Vì mỗi can chứa số lít dầu như nhau.
-Khi giải ta thường làm qua hai bước sau:

Bước 1: Tính giá trị một phần bằng nhau (thực hiện phép chia)
Bước 2: Tính giá trị nhiều phần đó. (thực hiện phép nhân)
Yêu cầu học sinh nhắc lại cách giải.
III. Thực hành.
Bài 1: Có 24 viên thuốc chứa đều trong 4 vỉ. Hỏi 3 vỉ thuốc đó có bao nhiêu
viên thuốc?
Yêu cầu học sinh làm bài (theo các bước đã học)
23


Tóm tắt

Bài giải

4 vỉ: 24 viên thuốc

Mỗi vỉ chứa số viên thuốc là:

3 vỉ: ....viên thuốc

24 : 4 = 6 (viên)
Ba vỉ thuốc đó chứa số viên thuốc là:
6 x 3 = 18 (viên)

Đáp số: 18 viên thuốc
* Sau khi chữa bài và nhận xét đánh giá, tôi củng cố bằng hệ thống câu hỏi
như sau:
-Bài toán thuộc dạng toán gì?
-Nêu các bước giải cụ thể?
Bài 2: Có 28 kg gạo đựng đều trong 4 bao. Hỏi 8 bao gạo đó đựng bao nhiêu

ki-lô-gam gạo?
Yêu cầu học sinh làm bài (theo các bước đã học)
Tóm tắt

Bài giải

4 bao : 28 kg

Mỗi bao đựng số gạo là:

8 bao: ...kg?

28 : 4 = 7 (kg)
Tám bao đựng số gạo là:
7 x 8 = 56 (kg)

Đáp số: 56 kg gạo
* Sau khi chữa bài và nhận xét đánh giá, tôi củng cố bằng hệ thống câu hỏi
như sau:
-Bài toán thuộc dạng toán gì?
-Nêu các bước giải cụ thể?
*Mở rộng: Để khai thác tiềm năng của học sinh, tôi định hướng học sinh suy
nghĩ, tìm cách giải khác cho bài toán. (thảo luận nhóm 4)
Cách 2:
-So sánh 2 đại lượng "số kg gạo" và "số bao gạo":
Ta thấy: 8 : 4 = 2 (lần)
-Số bao gạo tăng lên gấp 2 lần thì số - Vì mỗi bao đựng số gạo như nhau
ki-lô-gam gạo thay đổi như thế nào?

nên số bao tăng lên 2 lần thì số ki-lô-


(Vì mỗi bao đựng số gạo như nhau)

gam gạo cũng tăng lên gấp 2 lần.
24


-Vậy ta có thêm cách giải thứ 2:
Bài giải
8 bao gạo gấp 4 bao gạo số lần là:
8 : 4 = 2 (lần)
Tám bao gạo đó đựng số ki-lô-gam gạo là:
28 x 2 = 56 (kg)
Đáp số: 56 kg gạo.
*Kết luận: Ở cách 2, tôi đã hướng dẫn học sinh vận dụng dựa vào mối quan hệ
giữa hai đại lượng" số bao" và "số ki-lô-gam gạo".
-Số bao gạo tăng lên "hay giảm đi" bao nhiêu lần thì số ki-lô-gam cũng tăng lên
"hay giảm đi" bấy nhiêu lần.
IV. Củng cố- dặn dò
- Hãy nêu tên dạng toán hôm nay học?
- Giải Bài toán liên quan đến rút về đơn vị, làm qua những bước nào?

TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo khoa (Toán 3 )
- Sách hướng dẫn giảng dạy của giáo viên.
- Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 3 - tập 1 - Nhà xuất bản Giáo
dục.
- 100 câu hỏi và đáp về việc dạy học toán ở Tiểu học - Nhà xuất bản giáo
dục.
- Dạy học môn Toán ở bậc Tiểu học.- Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà

Nội.
- Hướng dẫn chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học ở Tiểu học- Nhà xuất
bản Giáo dục.
- Hướng dẫn chỉ đạo điều chỉnh nội dung dạy học của Bộ giáo dục - Đào
25


×