Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Giáo dục về quyền con người ở tỉnh đắk lắk hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.24 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HOÀNG NGỌC LONG

Giáo dục về quyền con người
ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
Mã số: 60 38 01 02.

ĐẮK LẮK – NĂM 2016


Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lương Thanh Cường

Phản biện 1:……………………………………………………………….
………………………………………………………………..
Phản biện 2:……………………………………………………………….
………………………………………………………………..

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, Học viện Hành
chính Quốc gia
Địa điểm: Phòng ………., Nhà A - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ,


Học viện Hành chính
Số:… - Đường…………… - Quận……………… - TP………………
Thời gian: vào hồi …… giờ …… tháng …… năm 201...

Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc
trên trang Web của Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người, hay nhân quyền, là một giá trị cơ bản, quan trọng của nhân loại. Đó là
thành quả của sự phát triển lịch sử, là một đặc trưng của xã hội văn minh. Quyền con người cũng là
một quy phạm pháp luật, đương nhiên nó đòi hỏi tất cả mọi thành viên của xã hội, không loại trừ
bất cứ ai, đều có quyền và nghĩa vụ phải tôn trọng các quyền và tự do của mọi người.
Được chính thức pháp điển hóa trong luật quốc tế từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai,
quyền con người đã trở thành một hệ thống các tiêu chuẩn pháp luật quốc tế có tính chất bắt buộc
với mọi quốc gia,
Mặc dù quyền con người có ứng dụng và ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực
của đời sống chính trị, xã hội nhưng do một số nguyên nhân, hoạt động giáo dục về quyền con
người ở nước ta còn nhiều hạn chế. Điều này dẫn tới một số hệ quả tiêu cực đó là do thiếu kiến
thức về quyền, người dân không biết tự bảo vệ các quyền của mình, đồng thời thiếu ý thức trách
nhiệm trong việc thực hiện các nghĩa vụ công dân, dẫn đến sự vi phạm các quyền hợp pháp của
người khác hoặc của cộng đồng.
Vấn đề giáo dục quyền con người có ý nghĩa to lớn trong xây dựng Nhà nước pháp quyền,
thúc đẩy VN hội nhập
Đắk Lắk là một tỉnh lớn ở vùng Tây Nguyên. Vấn đề giáo dục pháp luật nói chung, những
năm qua đã được quan tâm phát triển bởi các cơ quan hữu quan. Tuy nhiên, vấn đề giáo dục quyền
con người còn là vấn đề mới, cần được nghiên cứu sâu sắc cả về lý luận cũng như thực tiễn để tạo
cơ sở vững chắc cho hoạt động này trong thời gian tới. Do vậy, tôi chọn đề tài “Giáo dục về quyền
con người ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay” làm đề tài luận văn cao học chuyên ngành Luật Hiến pháp –

Luật Hành chính của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các công trình Nghiên cứu về quyền con người được viết thành sách; các luận văn, bài
báo…
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của Luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng của vấn đề quyền con người, giáo
dục quyền con người ở Đắk Lắk hiện nay, để xác định được phương hướng, đề xuất các giải pháp
nhằm tăng cường công tác giáo dục quyền con người ở Đắk Lắk trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Tìm hiểu những khái niệm, tính chất và đặc điểm của quyền con người;
- Hệ thống hóa lý luận chung về giáo dục quyền con người;
- Đánh giá thực trạng của công tác giáo dục quyền con người ở Đắk Lắk hiện nay;
- Từ thực trạng đó, đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công
tác giáo dục quyền con người ở tỉnh Đắk Lắk.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu

1


Luận văn phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con người và giáo dục về quyền
con người, nghiên cứu vấn đề thực trạng hoạt động giáo dục quyền con người ở tỉnh Đắk Lắk thời
gian qua…đề ra giải pháp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về đối tượng: Hoạt động giáo dục quyền con người của các chủ thể có thẩm
quyền, trách nhiệm trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk;
- Phạm vi về nội dung: Quyền con người nói chung.
- Phạm vi thời gian, không gian: Địa bàn tỉnh Đắk Lắk; từ 2013 đến 2016.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền với quyền con người, với
giáo dục quyền con người ở nước ta.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, hệ thống, so sánh, phân tích…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở tính đặc thù của quyền con người và hoạt động giáo dục quyền con người, Luận
văn đánh giá thực trạng và phân tích nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả giáo dục quyền con người
ở Đắk Lắk trong thời gian qua; trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp góp phần...
7. Kết cấu Luận văn: 02 Chương

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ GIÁO DỤC QUYỀN CON
NGƯỜI
1.1.1. Khái niệm, tính chất và đặc điểm quyền con người
Quyền con người là một phạm trù đa diện, thường được nhìn nhận theo các khuynh hướng
khác nhau, trong đó chủ yếu theo bốn khuynh hướng là: Tự nhiên, thực định, kinh tế và quan niệm.
Thứ nhất: Khuynh hướng “quyền tự nhiên”:
Những tư tưởng coi quyền con người là quyền “tự nhiên”, “trời phú” đã xuất hiện ngay từ
thời cổ đại. Ở Trung Quốc, Mặc Tử (479-381 trước Công nguyên) đã cho rằng quyền bình đẳng tự
nhiên của con người đó là “ý trời”. Theo đó, mỗi người đều có quyền tham gia công việc Nhà nước
tuỳ theo đạo đức và tài năng của họ, chứ không phải do dòng dõi quyết định. Cũng như vậy, mỗi
người đều có các quyền giống nhau và đều bị trừng phạt nếu phạm tội. Ở Hy Lạp cổ đại, các nhà
triết học cũng có những tư tưởng tương tự.
Thuyết quyền tự nhiên có điểm tích cực là đề cao con người với tư cách là sản phẩm cao
nhất, tinh tuý nhất của sự phát triển tự nhiên. Nhưng nhược điểm của nó là ở chỗ, nó che lấp nguồn
gốc xã hội của quyền con người và do đó, không thấy tính lịch sử, tính giai cấp, sự phát triển trong

những đòi hỏi về quyền con người.

2


Thứ hai: Khuynh hướng “thực định”:
Trái với khuynh hướng quyền tự nhiên – khuynh hướng không để ý đến mặt pháp luật và
Nhà nước của quyền con người, khuynh hướng thực định lại coi quyền con người là tất cả những gì
mà Nhà nước thông qua pháp luật để quy định cho cá nhân. Chỉ những gì pháp luật cho phép tự do
làm hay không làm thì mới là quyền con người, và chỉ được coi là quyền con người khi một hành
vi hay một yêu cầu của cá nhân là hợp pháp.
Thứ ba: Khuynh hướng “kinh tế”:
Khuynh hướng kinh tế coi quyền con người là những quyền nảy sinh từ nhu cầu của sản
xuất, kinh doanh. Nói cách khác, khuynh hướng này coi nguồn gốc của quyền con người là kinh tế.
Không phải “trời phú” tự nhiên, cũng không phải do Nhà nước ban phát, mà chính đời sống kinh tế
của con người trao cho con người các quyền.
Thứ tư: Khuynh hướng “quan niệm”:
Khuynh hướng quan niệm cho rằng quyền con người là tất cả những gì mà con người cho
là cần thiết và có giá trị đối với cuộc sống con người, tức là quyền lợi, nhu cầu, lợi ích và những
giá trị tinh thần đều có thể trở thành quyền con người.
Quyền con người là vấn đề phức tạp đa nghĩa, chứa đựng những mặt đối lập, mâu thuẫn,
nhưng không loại trừ nhau. Đó là các mặt khách quan và chủ quan, tự nhiên và xã hội, kinh tế và
tinh thần, văn hoá và chính trị, đạo lý và luật pháp. Nó cũng là sự kết hợp giữa các yếu tố quốc tế
và dân tộc, giai cấp và nhân loại, v.v…
Qua phân tích trên đây có thể rút ra kết luận: Quyền con người là những quyền không bị
tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào; đó là: quyền sống, quyền tự do, quyền được mưu cầu
hạnh phúc, quyền được bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật, quyền an ninh thân thể, quyền không
bị hình phạt tàn bạo và bất bình thường…Đó cũng là những đòi hỏi chính đáng về tự do và những
nhu cầu cuộc sống cơ bản cần được đáp ứng của con người, không bị phá hủy khi xã hội dân sự
được thiết lập và không một xã hội hay một chính phủ nào có thể xóa bỏ hoặc chuyển nhượng các

quyền này. Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc thì quyền con người là những
bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm
chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm,
những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người.
1.1.1.2. Tính chất của quyền con người
Quyền con người có các tính chất cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Tính phổ biến
Tính phổ biến của nhân quyền thể hiện ở chỗ quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn
có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi người, không có sự phân biệt đối xử vì
màu da, chủng tộc, dân tộc, giới tính, độ tuổi, thành phần xuất thân…
Thứ hai: Tính đặc thù
Mặc dù tất cả mọi người đều được hưởng quyền con người nhưng mức độ thụ hưởng quyền
có sự khác biệt, phụ thuộc vào năng lực cá nhân của từng người, hoàn cảnh chính trị, truyền thống
văn hóa xã hội mà người đó đang sống. Ở mỗi vùng, mỗi quốc gia khác nhau, vấn đề quyền con
người mang những sắc thái, đặc trưng riêng gắn liền với trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở khu
vực đó.
Thứ ba: Tính không thể tước bỏ

3


Thể hiện ở chỗ các quyền con người không thể bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện
bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức Nhà nước. Ở đây, khía cạnh “tùy tiện” nói
đến giới hạn của vấn đề. Nó cho thấy không phải lúc nào nhân quyền cũng “không thể tước bỏ”.
Trong một số trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như khi một người phạm một tội ác thì có thể bị tước
tự do theo pháp luật, thậm chí bị tước quyền sống.
Thứ tư: Tính không thể phân chia
Tính không thể phân chia của nhân quyền bắt nguồn từ nhận thức rằng các quyền con
người đều có tầm quan trọng như nhau, nên về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá
trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào đều tác động tiêu cực

đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người.
Thứ năm: Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau
Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của nhân quyền thể hiện ở chỗ việc đảm bảo các quyền
con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi
phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền
khác. Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực
đến việc bảo đảm các quyền khác.
1.1.1.3. Đặc điểm của quyền con người
Nhận thức chung cho rằng, quyền con người là một phạm trù đa diện, có thể nhìn nhận từ
nhiều góc độ khác nhau như đạo đức, tôn giáo, chính trị, xã hội, pháp luật… cụ thể như sau:
Thứ nhất, quyền con người nhìn từ góc độ đạo đức – tôn giáo
Những ý niệm đầu tiên về quyền con người có lẽ được nảy sinh từ quan niệm về các chuẩn
mực đạo đức – cách thức đối xử giữa người với người trong xã hội – mà vốn có và hiện còn trong
văn hóa truyền thống của hầu hết dân tộc trên trái đất. Cụ thể, ở khắp nơi trên thế giới, người ta đều
lưu truyền những quy tắc ứng xử, coi đó là những quy luật vàng, kiểu như: nếu muốn người khác
đối xử với mình như thế nào thì hãy đối xử với người khác như thế, ác giả ác báo hoặc gieo gì gặt
nấy…
Thứ hai, quyền con người nhìn từ góc độ lịch sử - xã hội
Xét tổng thể, lịch sử loài người thực chất là một quá trình phấn đấu không ngừng để tồn tại
và nâng cao các tiêu chuẩn sống, trong đó bao gồm việc phấn đấu để xác lập và bảo vệ những giá
trị tự do, bình đẳng, công bằng . Trong suốt quá trình phát triển này, quyền con người luôn mang
những dấu ấn về chính trị, kinh tế, văn hóa của từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử của xã hội loài
người.
Thứ ba, quyền con người từ góc độ triết học
Trên phương diện triết học, sự hình thành, phát triển của quyền con người phản ánh quy
luật của xã hội loài người từ thấp đến cao. Cụ thể, nó phản ánh quá trình phát triển mang tính quy
luật trong nhận thức của loài người từ những khái niệm sơ khai nhất về công bằng, bình đẳng, tự do
và nhân phẩm cho đến những tư tưởng, học thuyết và những quy phạm pháp lý về quyền con
người.
Thứ tư, quyền con người từ góc độ chính trị

Ngay từ khi còn ở dưới dạng quan điểm, tư tưởng, quyền con người đã là một vấn đề ảnh
hưởng, chi phối quan hệ chính trị, cả ở phạm vi quyết định giúp giai cấp tư sản lật đổ sự thống trị
của giai cấp phong kiến.

4


Sau đó, quyền con người đã trở thành một trong những vấn đề trung tâm của cuộc đấu
tranh chính trị, tư tưởng giữa hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa trong suốt thời kỳ Chiến
tranh Lạnh. Ngay từ khi quyền con người bắt đầu được pháp điển hóa trong luật quốc tế (kể từ sau
Chiến tranh thế giới lần thứ hai), vấn đề quyền con người đã bị “chính trị hóa” một cách sâu sắc và
hệ thống.
Thứ năm, quyền con người từ góc độ pháp lý
Là một phạm trù đa diện, song quyền con người có mối liên hệ gần gũi hơn cả với pháp
luật. Điều này trước hết là bởi cho dù quyền con người có là bẩm sinh, vốn có (nguồn gốc tự nhiên)
hay phải do các nhà nước quy định (nguồn gốc pháp lý), thì việc thực hiện các quyền vẫn cần có
pháp luật. Hầu hết những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người (các quyền tự nhiên) không thể
được bảo đảm đầy đủ nếu không được ghi nhận bằng pháp luật, mà thông qua đó, nghĩa vụ tôn
trọng và thực thi các quyền không phải chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc đạo đức mà trở thành
những quy tắc ứng xử chung, có hiệu lực bắt buộc và thống nhất cho tất cả mọi chủ thể trong xã
hội. Chính vì vậy, quyền con người gắn liền với các quan hệ pháp luật và là một phạm trù pháp lý.
1.1.2. Giáo dục quyền con người
1.1.2.1. Khái niệm giáo dục quyền con người
Hiện nay, có nhiều định nghĩa về giáo dục quyền con người:
“Giáo dục quyền con người được định nghĩa là các nỗ lực về đào tạo, phổ biến và thông tin
nhằm tạo lập nền văn hóa toàn cầu về quyền con người thông qua truyền đạt kiến thức, các kỹ
năng, hình thành các thái độ và hướng tới: Tăng cường tôn trọng quyền con người và các tự do cơ
bản; Phát triển đầy đủ nhân cách con người và ý thức về nhân phẩm; Tăng cường hiểu biết, khoan
dung, bình đẳng giới và tính hữu nghị giữa các dân tộc, người bản địa và các nhóm chủng tộc, quốc
gia, đạo đức, tôn giáo và ngôn ngữ...” [58, tr.33].

“Giáo dục quyền con người là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có mục đích của chủ
thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ tri thức về quyền con người để
biết tự mình bảo vệ quyền của mình và tôn trọng quyền của người khác phù hợp với các yêu cầu,
đòi hỏi của các chuẩn mực trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền con người” [3].
“Giáo dục quyền con người là tất cả quá trình học hỏi để phát triển kiến thức, kỹ năng và
các giá trị của quyền con người, nhằm thúc đẩy sự công bằng, khoan dung, nhân phẩm, cũng như
tôn trọng các quyền và nhân phẩm của người khác” [58].
1.1.2.2. Mục đích của giáo dục quyền con người
Giáo dục quyền con người có nhiều mục đích khác nhau, nhưng ta có thể dựa vào “bộ ba
mục đích” của phổ biến giáo dục pháp luật nói chung để xác định mục đích của việc giáo dục
quyền con người. Mục đích giáo dục pháp luật bao gồm ba tiêu chí:
Tiêu chí 1: đạt được mục đích nhận thức pháp luật
Tiêu chí 2: đạt được mục đích thái độ, tình cảm, niềm tin pháp luật
Tiêu chí 3: đạt được mục đích hành vi, phù hợp pháp luật [28, tr.3-8].
Giáo dục ý thức quyền con người, theo ba tiêu chí đó, cũng nhằm những mục đích chính
như sau:
Mục đích nhận thức; Mục đích cảm xúc; Mục đích hành

5


Giáo dục quyền con người giúp cho người dân cảm nhận được sự quan trọng của quyền
con người, tiếp thu các giá trị về quyền con người và hòa nhập vào nó theo cách mà họ sống.
Những giá trị và thái độ về quyền con người bao gồm:
-

Củng cố sự tôn trọng quyền con người và các quyền tự do cơ bản (Điều 30.2 Tuyên

ngôn thế giới về quyền con người);
-


Giáo dục việc tôn trọng người khác và tôn trọng chính mình;

-

Hiểu về bản chất của phẩm giá con người và tôn trọng phẩm giá của người khác;

-

Cảm thông với những người bị vi phạm quyền và đoàn kết với họ;

-

Công nhận rằng việc mọi công dân đều có quyền con người là một điều kiện tiên

quyết để có một xã hội công bằng và nhân đạo;
-

Quan niệm rằng khía cạnh quyền con người về dân sự, xã hội, chính trị, kinh tế và văn

hóa là vấn đề gây xung đột ở khắp nơi trên thế giới;
-

Tin tưởng rằng hợp tác thì tốt hơn là xung đột.

Tóm lại, mục đích của việc giáo dục quyền con người là để hướng con người vào việc phát
triển có đủ đức, đủ tài, nói cách khác là nhằm trang bị và hoàn thiện cho con người, làm cho cá
nhân con người trở nên hữu ích hơn với gia đình và cộng đồng xã hội…
1.1.2.3. Vai trò của giáo dục quyền con người
- Vai trò của giáo dục quyền con người trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền

Nhà nước pháp quyền là thành tựu của nền văn minh nhân loại trong tiến trình phát triển xã
hội loài người. Tư tưởng Nhà nước pháp quyền được hình thành từ lâu trong lịch sử và ngày càng
hoàn thiện như một phương thức tổ chức Nhà nước mà trong đó có các đặc điểm nội bật như:
quyền lực Nhà nước được bắt nguồn từ nhân dân; các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được
phân công thực hiện rõ ràng; pháp luật là tối thượng; và các cam kết quốc tế được Nhà nước đảm
bảo thực hiện. Đặc biệt, trong Nhà nước pháp quyền, quyền con người luôn luôn được coi trọng;
pháp luật quy định đầy đủ về quyền con người và được bảo đảm trong thực tế. Nhà nước pháp
quyền là một Nhà nước mà ở đó, quyền và nghĩa vụ của tất cả và của mỗi người được pháp luật ghi
nhận và bảo vệ. Nhà nước và cá nhân phải tuân thủ pháp luật, việc thực hiện pháp luật được bảo
đảm bằng một hệ thống Tòa án độc lập. Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá trị cao
nhất là con người. Nhà nước phải đảm bảo cho công dân có đủ khả năng và điều kiện chống lại sự
tùy tiện của Nhà nước, có một cơ chế chặt chẽ để kiểm tra tính hợp pháp và hợp hiến của pháp luật
và các hành vi của bộ máy chính quyền Nhà nước. Nhà nước pháp quyền phải tạo ra cho công dân
sự bảo đảm rằng người ta không bị đòi hỏi cái ngoài hoặc trên những điều được quy định trong
Hiến pháp và pháp luật. Trong Nhà nước pháp quyền, Hiến pháp giữ vị trí tối cao trong hệ thống
pháp luật. Hiến pháp xây dựng trên cơ sở bảo đảm tự do và quyền công dân [22, tr.39-40].
Ở nước ta, tư tưởng nhà nước pháp quyền đã có từ lâu (HP1946, 1959, 1960, 1992 đều xcs
định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhà nước quản lý XH bằng PL; thực hiện dân chủ, tôn
trọng và bảo vệ quyền con người.
HP 2013 những điểm tiến bộ về xác định, bảo vệ quyền con người
Giáo dục quyền con người có ý nghĩa XH sâu sắc; là mục tiêu không thể tách rời của xây
dựng nhà nước văn minh; thúc đẩy hội nhập quốc tế.
- Vai trò của giáo dục quyền con người đối với đội ngũ cán bộ, công chức

6


Muốn xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền thì bên cạnh việc ban hành hệ thống
pháp luật đầy đủ, đồng bộ, điều quan trọng hơn là phải làm thế nào để đưa pháp luật vào thực tế đời
sống xã hội, để mọi thành viên, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức am hiểu các nguyên tắc, quy

định pháp luật; từ đó sử dụng pháp luật như một công cụ để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập
thể và của mỗi công dân, và cụ thể hơn là bảo vệ quyền con người. Cán bộ, công chức là đội ngũ
chủ yếu thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong
phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình, cán bộ, công chức thường tham gia vào các quan hệ pháp
luật với tư cách là người đại diện cho Đảng và Nhà nước thực hiện các quyền và nghĩa vụ cụ thể
trong quan hệ với nhân dân.
1.2. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI
1.2.1. Chủ thể giáo dục quyền con người
Lý luận giáo dục cho rằng, chủ thể giáo dục là những thầy, cô giáo và tất cả những người
làm công tác giáo dục khác.
Việc xác định chủ thể của giáo dục quyền con người có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận
và thực tiễn hoạt động giáo dục quyền con người. Trên cơ sở mối quan hệ, sự tác động qua lại lẫn
nhau giữa các chủ thể, đối tượng giáo dục trong hoạt động giáo dục quyền con người – chủ yếu là
các hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của người giáo dục lên đối tượng giáo dục – cho
phép xác định đúng mức những nhu cầu, khả năng và điều kiện tiếp nhận tác động lên hoạt động
giáo dục quyền con người; cũng như cho phép xác định chính xác yêu cầu khách quan của chủ thể
giáo dục quyền con người trong việc xác định nội dung, hình thức, phương tiện, biện pháp thích
hợp để tiếp cận với đối tượng giáo dục quyền con người một cách có hiệu quả nhất.
1.2.2. Khách thể, đối tượng giáo dục quyền con người
1.2.2.1. Khách thể giáo dục quyền con người
Theo khoa học pháp luật: “Khách thể quan hệ pháp luật là những gì mà các bên mong muốn đạt
được khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, là cái mà quan hệ pháp luật hướng tới, tác động tới, đó là
những lợi ích vật chất, chính trị, tinh thần [29].
Một số nhà nghiên cứu đồng nhất khách thể với đối tượng giáo dục pháp luật dựa trên khái
niệm về khách thể của Từ điển Tiếng Việt và quan niệm đồng nhất giáo dục của khoa học sư phạm.
Những người này cho rằng: “Khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật ở đây không phải chỉ là
những cá nhân, những nhóm người chung chung mà còn bao hàm cả những yếu tố bên trong của họ
như nhận thức tình cảm, cảm xúc, hành vi, hành động cụ thể của họ phù hợp với pháp luật” [18,
tr.16].
1.2.2.2. Đối tượng của giáo dục quyền con người

Đối tượng giáo dục quyền con người trước hết là toàn bộ cá nhân đang tồn tại trong cộng
đồng nhân loại bao gồm tất cả các dân tộc trong mối quan hệ quốc tế.
Đối tượng giáo dục quyền con người ở Việt Nam vừa mang những đặc điểm chung của
cộng đồng nhân loại, vừa có những đặc điểm riêng biệt. Đối tượng giáo dục quyền con người ở
Việt Nam rất phong phú, đa dạng và có thể phân loại thành các nhóm dựa trên các cơ sở, yếu tố,
phản ánh trạng thái, địa vị pháp lý, điều kiện kinh tế, môi trường sống, việc làm, truyền thống văn
hóa, đạo đức, tôn giáo của đối tượng giáo dục này. Các chủ thể giáo dục sẽ lựa chọn các nội dung,
hình thức, giáo dục phù hợp nhằm làm cho từng đối tượng giáo dục tiếp thu được những tri thức

7


cần thiết về quyền con người để họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, thích ứng với vai trò,
địa vị của họ trong quan hệ với cộng đồng, với công dân khác.
Như vậy, có thể chia đối tượng của giáo dục quyền con người thành các nhóm chủ yếu như
sau:
Thứ nhất: Những người làm công tác hành pháp và tư pháp
Thứ hai: Những người làm công tác lập pháp
Thứ ba: Những nghề nghiệp khác
Thứ tư: Các tổ chức, các hiệp hội và các nhóm
1.2.3. Hình thức giáo dục quyền con người
Hình thức giáo dục quyền con người là các dạng hoạt động cụ thể, có tổ chức, phối hợp
giữa các chủ thể giáo dục quyền con người và đối tượng giáo dục quyền con người. Hình thức giáo
dục quyền con người rất đa dạng và phong phú và thường thể hiện dưới các dạng sau:
- Giáo dục quyền con người có thể dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp; qua tranh ảnh, lời
nói; qua phương pháp nêu gương, lên lớp, thảo luận, tham gia các hoạt động thực hành, thực tế, tự
học và tham gia các hoạt động khác do người dạy quy định…
- Giáo dục quyền con người cũng có thể được thực hiện một cách chính thức hoặc không
chính thức. Giáo dục chính thức được kéo dài từ giáo dục trẻ thơ, qua bậc tiểu học và trung học
đến giáo dục đại học.

Ngoài ra, có thể chia hình thức giáo dục quyền con người thành hai loại:
Thứ nhất: Các hình thức giáo dục quyền con người mang tính phổ biến, truyền thống như
phổ biến, nói chuyện về quyền con người tại các Hội nghị, cuộc họp, hội thảo, câu lạc bộ về quyền
con người.
Thứ hai: Các hình thức giáo dục quyền con người đặc thù. Đây là các hoạt động định
hướng giáo dục quyền con người thông qua các hoạt động hoạch định đường lối, chính sách, hoạt
động lập pháp, hành pháp, tư pháp
1.2.4. Nội dung giáo dục quyền con người
Việc xác định nội dung giáo dục quyền con người là yếu tố quan trọng hàng đầu của quá
trình giáo dục quyền con người. Nội dung giáo dục quyền con người dựa trên cơ sở nghiên cứu nhu
cầu, đặc điểm của từng đối tượng cụ thể, và xuất phát từ đặc điểm, nhiệm vụ, mục đích của dạng
giáo dục này. Phạm vi của dạng giáo dục này là rất rộng, có những đặc điểm đặc thù riêng không
đồng nhất, không lẫn với các nội dung giáo dục khác, nhưng nó có thể lồng ghép, đan xen với nội
dung giáo dục khác như giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật.
1.2.5. Phương pháp giáo dục quyền con người
Phương pháp giáo dục và hình thức giáo dục là hai khái niệm không đồng nhất nhưng có
quan hệ chặt chẽ với nhau
1.2.5.1.Các căn cứ lựa chọn phương pháp giáo dục quyền con người
1.2.5.2. Các yêu cầu của phương pháp giáo dục quyền con người: Phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo…
1.2.5.3.Các phương pháp giáo dục quyền con người
Phương pháp nêu vấn đề - tình huống
Phương pháp thuyết trình – minh họa

8


Phương pháp sàng lọc
Phương pháp tự nghiên cứu
Phương pháp tái tạo

Phương pháp khám phá, sáng tạo
1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI
1.3.1. Ý thức pháp luật của mỗi người dân: Các tập tục, tư tưởng cổ hủ…
1.3.2. Hệ thống thể chế cầm quyền: Phong cách, tư chất, đạo đức nhà cầm quyền…công
việc thành hay bại là ở cán bộ…
1.3.3.Trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
Khi kinh tế phát triển đến một mức độ nhất định, người dân sẽ có ý thức hơn về quyền của
mình và tham gia công cuộc đấu tranh vì các quyền của mình. Ngược lại, khi trình độ phát triển
kinh tế thấp thì người dân không có điều kiện để tìm hiểu pháp luật nói chung và quyền con người
nói riêng.
1.4. CÁC BẢO ĐẢM GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI
1.4.1. Bảo đảm về chính trị
Cơ sở pháp lý đầu tiên của việc giáo dục quyền con người phải nhắc tới là Hiến pháp năm
1992, trong đó Điều 50 đã quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quy chế về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng.” Trong 12 điều được bổ sung vào Hiến
pháp sửa đổi tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội Khóa XIII ngày 28/11/2013 có tới 5 Điều đề cập đến
quyền con người là Điều 19, Điều 34, Điều 41, Điều 42 và Điều 43.
1.4.2. Bảo đảm về kinh tế
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là điều kiện kinh tế cho
đảm bảo giáo dục quyền con người. Từ góc nhìn vận động của lịch sử, có thể nhận thấy, bản chất
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có khả năng đưa đến một xã hội mang bản chất
nhân văn, xã hội của sự phát triển tự do và toàn diện của cá nhân mỗi người, xã hội phát triển trong
quan hệ hài hòa giữa con người và con người với tự nhiên.
Một nền kinh tế thị trường phát triển lành mạnh đặt ra yêu cầu cao về sự công bằng, bình
đẳng, chủ động, sáng tạo, bảo đảm thực thi đầy đủ thực thi các quyền con người, quyền công dân,
trong đó có tự do kinh doanh.
1.4.3. Bảo đảm về xã hội và nhận thức xã hội
Các kế hoạch, các chính sách về giáo dục quyền con người khó có thể đi vào cuộc sống
trong một xã hội mà các công dân còn thờ ơ với chính trị, không tích cực tham gia vào các công việc
chung của đất nước, không nhạy cảm về các vấn đề chính trị - pháp lý, không dũng cảm đấu tranh với

các hành vi lạm quyền, chuyên quyền, với sự thiếu tinh thần trách nhiệm, vô cảm trước nỗi đau của con
người, với vi phạm dân chủ, vi phạm quyền con người. Kiến thức và sự hiểu biết về quyền con người
của chính người dân và việc sẵn sàng sử dụng những kiến thức này của họ sẽ là một công cụ cho sự
thay đổi [58, tr.40].
1.4.4. Bảo đảm về pháp lý
Pháp luật là tiền đề, nền tảng tạo cơ sở pháp lý để công dân đấu tranh bảo vệ các quyền con
người, các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nhìn nhận từ góc độ này, pháp luật chính là chỗ
dựa, là công cụ, vũ khí của mọi người trong xã hội để bảo vệ quyền con người. Pháp luật đóng

9


được vai trong này vì nó là đại lượng mang giá trị phổ biến, là chuẩn mực của sự công bằng, hợp
lý, hợp lẽ phải
Trong thời gian vừa qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản thể hiện rõ quyết tâm trong
việc giáo dục quyền con người trong thời đại mới:
-

Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 09 tháng 12 năm 2003 về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của cán bộ nhân dân.

-

Nghị quyết số 900/UBTVQH 11 ngày 21/03/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về kế
hoạch thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020 (giai đoạn 2007 – 2012) đã chỉ rõ một trong những nhiệm vụ cần thực hiện là:
“Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về đảm bảo quyền con người, quyền tự do, dân chủ của
công dân. Củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc xây

dựng, ban hành kịp thời, đồng bộ và tổ chức thực thi pháp luật, các điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên về quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực dân sự,
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân...”

-

Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP của Chính phủ ngày 07 tháng 12 năm 2007 về việc tiếp tục
thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09 tháng 12 năm 2003 1.4.5. Bảo đảm về nguồn
nhân lực và vật lực
Để tiến hành giáo dục quyền con người cần có một đội ngũ những người am hiểu về quyền

con người, được đào tạo, được cung cấp những tri thức vững vàng về quyền con người và cơ chế
đảm bảo quyền con người. Họ sẽ trở thành những nhà giáo góp phần đưa quyền con người vào
cuộc sống thông qua các bài giảng sinh động và sâu sắc của mình. Như vậy, đào tạo, huấn luyện
một đội ngũ các giảng viên, các tuyên truyền viên về quyền con người là một nhiệm vụ đặt ra rất
cấp bách hiện nay.

Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP GIÁO DỤC
QUYỀN CON NGƯỜI Ở ĐẮK LẮK HIỆN NAY
2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HÓA, XÃ HỘI CỦA GIÁO
DỤC QUYỀN CON NGƯỜI Ở ĐẮK LẮK
2.1.1. Điều kiện địa lý – tự nhiên và xã hội
Về vị trí địa lý, tỉnh Đắk Lắk nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, đầu nguồn của hệ thống
sông Sêrêpôk và một phần của sông Ba, nằm trong khoảng tọa độ địa lý từ 107o28'57" đến
108o59'37" độ kinh Đông và từ 12o9'45" đến 13o25'06" độ vĩ Bắc, có độ cao trung bình 400 – 800
mét so với mặt nước biển, nằm cách Hà Nội 1.410 km
Diện tích, dân cư: Đắk Lắk có diện tích 13.125,37 km2, dân số toàn tỉnh tính đến năm
2012 đạt 1.796.666 người


10


Về đơn vị hành chính, tỉnh Đắk Lắk có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm thành
phố Buôn Ma Thuột, thị xã Buôn Hồ và 13 huyện với tổng cộng 180 xã, phường, thị trấn
2.1.2. Đặc điểm tình hình kinh tế
Sự phát triển kinh tế là nhân tố giữ vai trò quyết định đối với mọi lĩnh vực hoạt động của
đời sống xã hội. Kinh tế phát triển sẽ kéo theo và là động lực thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh
vực hoạt động khác và ngược lại. Sự phát triển các lĩnh vực hoạt động khác nhau trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk, trong đó có hoạt động giáo dục pháp luật cho người dân cũng không nằm ngoài tính quy
luật này.
2.1.2.1. Về tiềm năng phát triển
2.1.2.2. Những kết quả đạt được năm 2014, 2015
* Năm 2014: Theo Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm
2014 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 của tỉnh Đắk Lắk [51], trong năm 2014, nền
kinh tế - xã hội của tỉnh dù gặp nhiều khó khăn nhưng cũng đã đạt, gần đạt nhiều chỉ tiêu quan
trọng theo kế hoạch đề ra
- Về kinh tế
- Về xã hội
* Năm 2015 [43]: Bên cạnh những thuận lợi, Đắk Lắk vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thời
tiết diễn biến phức tạp, giá cả một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh giảm; huy động vốn đầu
tư đạt thấp. Nhưng với sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của UBND tỉnh, tình hình kinh tế - xã hội
tiếp tục có bước phát triển, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Ước tính năm
2015, tổng sản phẩm xã hội đạt khoảng 41.091 tỷ đồng; tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 9%
2.1.3. Đặc điểm tình hình chính trị - xã hội
Cùng với yếu tố kinh tế, yếu tố chính trị luôn có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các lĩnh vực hoạt
động của đời sống xã hội, trong đó có hoạt động giáo dục pháp luật. Môi trường chính trị càng ổn
định, bầu không khí chính trị - xã hội càng dân chủ bao nhiêu thì các mặt hoạt động xã hội, bao
gồm cả hoạt động giáo dục pháp luật càng diễn ra thuận lợi và đạt chất lượng, hiệu quả cao bấy

nhiêu; ngược lại, môi trường chính trị bất ổn, xã hội thiếu dân chủ thì mọi lĩnh vực hoạt động đều
gặp khó khăn, thậm chí không thực hiện được.
2.1.4. Tình hình văn hóa – xã hội
Cùng với việc chăm lo đầu tư phát triển kinh tế, giữ vững an ninh chính trị, Đảng bộ, chính
quyền, các cấp, các ngành chức năng của tỉnh Đắk Lắk cũng luôn quan tâm phát triển lĩnh vực văn
hóa - xã hội; nhờ đó, tình hình văn hóa - xã hội trong tỉnh nói chung, ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số nói riêng có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được nhiều kết quả quan trọng.
2.2. HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI Ở ĐẮK LẮK HIỆN NAY
2.2.1. Hoạt động giáo dục quyền con người trong trường học
2.2.1.1. Giáo dục quyền con người trong các trường mầm non
Giáo dục quyền con người là một trong những nội dung quan trọng của giáo dục toàn diện,
đặc biệt là đối với thế hệ trẻ và là việc cần phải tiến hành một cách nghiêm túc từ tuổi mẫu giáo. Có
thể coi trẻ mẫu giáo là thời kỳ hoàng kim của giáo dục quyền con người. Ở lứa tuổi này, tâm hồn
trẻ rất nhạy cảm, dễ xúc động đối với con người, cảnh vật xung quanh, trí tưởng tượng của trẻ bay
bổng và phong phú. Hiện nay, trong các trường mầm non, thông qua các “tiết học” tạo hình, múa
hát, đóng kịch…, các em đã bắt đầu được tiếp xúc với quyền con người, mà cụ thể là quyền trẻ em.

11


Toàn tỉnh Đăk Lăk hiện có 294 trường mầm non. Năm học 2015 – 2016, tỷ lệ trẻ 5 tuổi ra
lớp đạt trên 98%, có 99% số trẻ được học 2 buổi/ngày, 79,5% trẻ được ăn bán trú tại trường; tỷ lệ
trẻ suy dinh dưỡng chiều cao, cân nặng giảm so với đầu năm học. Đến nay, tỉnh có 182/184 xã
được công nhận đạt chuẩn phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi theo quy định [59].
Tuy nhiên, công tác giáo dục phổ cập giáo dục mầm non ở Đăk Lăk vẫn còn gặp nhiều khó
khăn, là thách thức gây trở ngại cho công tác giáo dục mầm non nói chung, trong đó có giáo dục
nhân quyền, như: Tỷ lệ trẻ nhà trẻ ra lớp thấp, mới chỉ đạt 13% (bằng một nửa bình quân cả nước);
tỷ lệ giáo viên mầm non/lớp thiếu so với quy định, cơ sở vật chất ở một số trường chưa đáp ứng
được nhu cầu ra lớp cho trẻ mầm non; số lớp ghép 2- 3 độ tuổi còn cao; việc phân lớp trẻ theo độ
tuổi thực hiện chương trình giáo dục mầm non, duy trì trẻ đi học chuyên cần còn bất cập.

2.2.1.2. Giáo dục nhân quyền trong các nhà trường phổ thông
Mặc dù nhân quyền không phải là một phạm trù dễ hiểu, nhưng việc giáo dục nhân quyền
với mức độ nhất định và bằng các phương pháp phù hợp trong các nhà trường phổ thông là cần
thiết và có thể thực hiện được.
Đối với học sinh tiểu học (cấp I).
Ở cấp trung học cơ sở (cấp II)
Ở cấp trung học phổ thông (cấp III).
2.2.2. Hoạt động giáo dục quyền con người bên ngoài trường học
- Nhóm hoạt động tập huấn, phổ biến về quyền con người: nhóm hoạt động này chủ yếu
được diễn ra trong “ngành dọc” nhằm nâng cao năng lực nhận thức và khả năng công tác cho
những chủ thể trong hệ thống.
- Nhóm các hoạt động giáo dục quyền con người thông qua chương trình tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung của chính quyền địa phương: Trên cơ sở chương trình
của cơ quan nhà nước ở Trung ương (chủ yếu là Chính phủ), hàng năm, UBND tỉnh thường ra
Quyết định ban hành kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh, hoặc ban hành quyết
định phổ biến, giáo dục pháp luật theo chủ đề, được gọi là Đề án.
- Giáo dục quyền con người cho nhân dân thông qua hoạt động chuyên môn của cơ
quan bảo vệ pháp luật như Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân: Hoạt động giáo dục
quyền con người theo nhóm này được thực hiện tập trung nhất trong quá trình tố tụng, nhất là tại
phiên tòa xét xử.
2.3. NHỮNG THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN TRONG GIÁO DỤC VỀ
QUYỀN CON NGƯỜI Ở ĐẮK LẮK HIỆN NAY.
2.3.1. Những thành tựu
Theo thống kê, từ năm 1986 đến nay, Quốc hội Việt Nam đã thông qua trên 80 bộ luật các
luật, trong đó có những bộ luật lớn trực tiếp bảo đảm các quyền con người như: Bộ luật Hình sự,
Bộ luật Tố tụng hình sự; Bộ luật Lao động; Luật đầu tư, Luật Đất đai; Luật Bảo vệ, Chăm sóc và
Giáo dục trẻ em; Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo; Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống bạo lực
gia đình,...
Công tác giáo dục quyền con người đã đạt được nhiều thành tựu chính như sau:
Thứ nhất: Biên soạn các tài liệu pháp luật phục vụ hoạt động phổ biến, giáo dục pháp

luật về quyền con người
- Sách, tài liệu, sổ tay, tờ gấp…

12


Thứ hai: Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các tổ chức đoàn
thể và người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số đã được tổ chức bồi dưỡng, tập huấn kiến
thức pháp luật và nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền con người.
Thứ ba: Tổ chức thực hiện một số hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền
con người tại các xã thuộc huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của
Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện nghèo, với
các nội dung phong phú như:
- Lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền con người vào sinh hoạt của Câu lạc bộ
pháp luật tại cơ sở, bao gồm:
+ Bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật và kiến thức pháp
luật về quyền con người cho Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ;
+ Đa dạng hóa các hình thức sinh hoạt của Câu lạc bộ pháp luật tìm hiểu về quyền con
người như: tổ chức thi hái hoa dân chủ, mời báo cáo viên pháp luật phổ biến trực tiếp
- Tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật lưu động
Thứ tư: Thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền con người trên các phương tiện
thông tin đại chúng và hệ thống loa truyền thanh cơ sở
Thứ năm: Lồng ghép việc dạy và học kiến thức pháp luật về quyền con người vào
chương trình học môn giáo dục công dân, môn pháp luật trong nhà trường.
Thứ sáu: Tổ chức hội thảo, tọa đàm, các sự kiện nhằm nâng cao nhận thức chung của
cộng đồng về quyền con người
Thứ bảy: Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân theo Hiến pháp năm 2013 đang được phổ biến và nhận thức ngày càng sâu rộng trong
nhân dân, đang được vận dụng như một nguyên tắc hoạt động của bộ máy nhà nước, cán bộ, công
chức.

2.3.2. Những tồn tại
- Việc giảng dạy tại các cơ sở đào tạo
Chương trình giáo dục quyền con người trong hệ thống giáo dục quyền con người chưa đáp
ứng được yêu cầu, chưa có giáo viên giảng dạy về quyền con người (nếu có là kiêm nhiệm).
Một vấn đề tồn tại nữa liên quan đến tài liệu và phương tiện học tập.
- Về mạng lưới trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học
- Về nhận thức xã hội
Nhận định của TS. Phạm Ngọc Anh khi đánh giá về nhận thức của cán bộ, công chức về
quyền con người: “Hiểu biết về nhân quyền ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, dẫn đến có
những hành động cố ý hoặc vô ý vi phạm các quyền hợp pháp của công dân, đặc biệt là ở một số
cơ quan công quyền và một số cơ quan tư pháp” [1
- Phạm vi giáo dục quyền con người
Việt Nam đã phê chuẩn hoặc gia nhập nhiều điều ước quốc tế về nhân quyền, tuy nhiên,
trong thực tế Việt Nam mới chỉ tập trung giáo dục, tuyên truyền, phổ biến hai công ước là: "Công
ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ" (công ước CEDAW) và “Công
ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em” (công ước CRC). Việc giáo dục quyền con người chưa gắn
kết với nhau, ngay cả trong một số trường hợp Công ước quốc tế đã được chuyển hóa thành luật
quốc gia như Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em và Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ

13


em. Khi tuyên truyền phổ biến, giáo dục thường chỉ chú ý đến tuyên truyền giáo dục Công ước
quốc tế nhiều hơn Luật quốc gia.
Ngoài ra, Việt Nam có 54 dân tộc, ở Đắk Lắk có 47 dân tộc, trong đó có nhiều dân tộc
thiểu số (trên 20 dân tộc) có tiếng nói, chữ viết riêng; nhưng đến nay công ước Liên Hợp Quốc về
quyền trẻ em mới chỉ được dịch sang tiếng phổ thông và 4 tiếng dân tộc (Thái, H’mông, Êđê,
Bana).
- Hạn chế của phương tiện thông tin đại chúng
2.3.3. Nguyên nhân rút ra từ thực tiễn giáo dục quyền con người ở Đắk Lắk trong

thời gian qua
Nhìn từ bình diện quốc gia, tương tự như các quốc gia khác trên thế giới, giáo dục nhân
quyền đã và đang thực hiện ở cả trong và ngoài hệ thống nhà trường ở Việt Nam. Đây là một tiền
đề quan trọng cho việc thúc đẩy hoạt động giáo dục nhân quyền ở Việt Nam trong thời gian tới.
Tuy nhiên, so sánh với mặt bằng chung trên toàn quốc, phạm vi và trình độ giáo dục nhân
quyền tại Đăk Lăk vẫn còn ở mức thấp. Mặc dù đã có những tiến triển nhanh chóng trong hai thập
kỷ qua song giáo dục nhân quyền ở Đăk Lăk vẫn chưa bắt kịp với xu hướng phát triển chung của cả
nước và trên thế giới, chưa đáp ứng nhu cầu giáo dục nhân quyền ở trong tỉnh.
Giảng viên, giáo viên thiếu, trình độ, năng lực hạn chế, lạc hậu, thiếu tài liệu
2.4. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC VỀ QUYỀN CON
NGƯỜI Ở ĐẮK LẮK HIỆN NAY
2.4.1. Phương hướng chung
Thứ nhất, chuyển tải những nội dung cơ bản về quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước về quyền con người đến mọi công dân, mặt khác tuyên truyền các thành tựu cơ bản
về quyền con người mà Việt Nam nói chung, Đắk Lắk nói riêng đã nỗ lực đạt được nhằm làm cho
bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn về Việt Nam, phản bác lại các luận điệu vu cáo, bôi nhọ chế độ trên cơ
sở lợi dụng các vấn đề về dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch, hai mục tiêu này cũng là
đòi hỏi đặt ra khi thực hiện hoạt động giáo dục quyền con người trong bối cảnh thực tế tại Việt
Nam.
Thứ hai, quyền con người luôn luôn gắn với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình
độ phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước, của tỉnh, do vậy không thể áp đặt hoặc sao chép máy
móc các tiêu chuẩn, mô thức của nước này, nơi này cho nước khác, nơi khác
Thứ ba, kết hợp có hiệu quả việc giáo dục quyền con người với việc thực hiện các nghị
quyết của Đảng, các chương trình, đề án của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc
làm, xóa đói giảm nghèo… Phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và các
tổ chức thành viên, các tổ chức khác trong việc vận động, giáo dục quyền con người, quần chúng
nhân dân tích cực nghiên cứu, tìm hiểu quyền con người và tham gia các hoạt động pháp luật về
quyền con người. Phối hợp với Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh, Tòa án Nhân dân tỉnh đẩy mạnh các
hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục quyền con người cho cán bộ và nhân dân thông qua
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trên địa bàn của tỉnh. Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục quyền con người.
Thứ tư, giáo dục quyền con người gắn với giáo dục pháp luật, nói cách khác là gắn với
giáo dục quyền và nghĩa vụ công dân. Những nội dung của giáo dục pháp luật chính là góp phần
thực hiện giáo dục các quyền con người.

14


Đẩy mạnh việc giáo dục pháp luật…
Thứ năm, cần nghiên cứu, khảo sát nhu cầu, đặc điểm, phân loại đối tượng theo nhóm để
có những biện pháp, hình thức giáo dục quyền con người phù hợp, hiệu quả. Sử dụng, khai thác và
vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục quyền con người bảo đảm tính
phù hợp, hiệu quả;
Thứ sáu, giáo dục quyền con người phải phù hợp với mục đích của nó. Vì vậy, quá trình
giáo dục quyền con người phải được tiến hành trên cơ sở tăng cường sự tôn trọng đối với quyền
con người và phẩm giá con người, cho phép họ tham gia đầy đủ và tích cực vào quá trình giáo dục.
Giáo dục thường xuyên, trên phạm vi rộng…
2.4.2. Các giải pháp tăng cường giáo dục quyền con người ở Đắk Lắk hiện nay
Bảo đảm thực hiện quyền con người được đặt ra trước hết xuất phát từ mục tiêu, bản chất
của chế độ. Trước yêu cầu đó, trong điều kiện của tỉnh Đăk Lăk và của cả nước ta hiện nay, bảo
đảm hiện thực hóa quyền con người cần phải áp dụng một hệ thống đồng bộ các nhóm giải pháp
như sau:
2.4.2.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến về quyền con người
Công tác tuyên truyền pháp luật về nhân quyền được thực hiện trên cơ sở tư tưởng, pháp lý
và tổ chức bởi hệ thống các văn/loại bản sau:
- Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003, Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân; Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư về
công tác nhân quyền trong tình hình mới; Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật;Các quyết định của Thủ
tướng Chính phủ về tuyên truyền pháp luật;Quyết định của UBND tỉnh Đắk Lắk ban hành kế hoạch

tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật;
Trên cơ sở các biện pháp tổ chức của chính quyền tỉnh đã được thiết lập thành văn bản,
theo chúng tôi, giáo dục về quyền con người ở Đắk Lắk thông qua các biện pháp tuyên truyền pháp
luật nói chung cần tập trung vào những nhiệm vụ, nội dung, hình thức tuyên truyền sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp năm 2013, các luật mới được Quốc
hội khóa XIII thông qua để cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 , trong đó tập trung vào các luật về tổ
chức bộ máy nhà nước, các luật liên quan đến quyền con người, quyền công dân; các văn bản
pháp luật quan trọng khác liên quan đến hoạt động và đời sống của các tầng lớp nhân dân trên địa
bàn tỉnh.
Thứ hai, tăng cường tuyên truyền về quyền con người thông qua các hoạt động,
chương trình tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật đang được triển khai tại tỉnh.
2.4.2.2. Lồng ghép nội dung giáo dục về quyền con người vào chương trình đào tạo ở tất
cả các cấp giáo dục
Việc đưa chương trình giáo dục quyền con người vào hệ thống giáo dục Nhà nước, từ cấp
tiểu học đến cấp trung học phổ thông trên địa bàn của Đăk Lăk cũng như trên phạm vi cả nước sẽ
đảm bảo tính thống nhất, tính liên thông của chương trình, tránh tình trạng trông chờ vào các nguồn
tài chính, các dự án đầu tư... Với tư cách là một quá trình chính khóa, trách nhiệm của chủ thể
giảng dạy (giáo viên) và đối tượng thụ hưởng (học sinh) đều được nâng cao.

15


2.4.2.3. Đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật Quốc tế về quyền con người
Nội dung phổ biến: Tinh thần, nội dung cơ bản và những quy định quan trọng của Công
ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR); các quyền dân sự, chính trị được quy định
trong Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật do Quốc hội ban hành; tình hình thực hiện các quyền
dân sự, chính trị được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và pháp luật, những thành tựu đạt được
của Việt Nam về bảo đảm quyền dân sự, chính trị.
2.4.2.4. Tăng cường nhận thức của người dân về vấn đề giới, bình đẳng giới, chống lại
các định kiến xã hội và phân biệt đối xử về giới, sắc tộc, tôn giáo.

2.4.2.5. Tăng cường bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự ở Đắk Lắk
Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự, đó là trong quá trình điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án và cả quá trình giam giữ, cải tạo phạm nhân, bảo đảm rằng mọi hành vi
phạm tội đều được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh, và suốt quá trình tiến hành tố tụng
không được làm oan người vô tội. Người phạm tội phải bị đưa ra xét xử, chịu hình phạt tương ứng
với hành vi phạm tội. Những mục đích của hình phạt lại không phải chỉ là trừng trị mà giáo dục, cải
tạo, răn đe và phòng ngừa tội phạm là mục đích ưu tiên hàng đầu. Đây là yêu cầu rất cơ bản để bảo
đảm quyền con người trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay, đòi hỏi xây dựng được một đội ngũ cán bộ tư
pháp tận tâm, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có khả năng hoàn thành nhiệm vụ; đồng thời
hoàn thiện kể cả về tổ chức với một cơ chế giám sát, chỉ đạo điều hành chặt chẽ từ phía Đảng, cơ
quan nhà nước, đoàn thể, nhân dân ở tỉnh là rất cần thiết. Trước hết, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với cơ quan tư pháp.
2.4.2.6. Nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác giáo dục quyền con người
Về lâu dài, ngành Giáo dục tỉnh Đắc Lắk cần đào tạo một đội ngũ cán bộ giáo viên chuyên
trách giảng dạy về quyền con người để có thể đưa nội dung giáo dục quyền con người vào giảng
dạy chính thức trong hệ thống giáo dục. Đội ngũ giáo viên này cần phải được đào tạo ở tất cả các
cấp, các hệ thống trường học. Trước mắt có thể đào tạo giáo viên chuyên trách từ đội ngũ giáo viên
giảng dạy các môn học có liên quan như Giáo dục công dân. Giáo dục về quyền con người có mối
quan hệ mật thiết với giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục pháp luật, do đó, về chiến lược có thể
đào tạo đội ngũ giáo viên chuyên trách từ nguồn sinh viên tốt nghiệp các trường luật, chính trị.
2.4.2.7. Xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, giảm sự phân hóa giàu
nghèo, bảo đảm nền tảng cho phát triển bền vững
Để bảo đảm thực hiện quyền con người trong nhà nước pháp quyền thì quan trọng nhất là
nghèo đói phải được giải quyết về căn bản; chú trọng đến các đối tượng hưởng chính sách xã hội,
đến vùng sâu, vùng xa; đồng thời, có chiến lược phát triển kinh tế vùng miền, bảo đảm vùng sâu,
vùng xa dần tiến kịp với các thành phố, đô thị…
Kinh nghiệm chỉ ra rằng, những bất ổn về chính trị, sự phân hóa và ly khai có những
nguyên nhân sâu xa của nó, nhưng đều bắt nguồn từ sự phân bổ không công bằng về lợi ích vật
chất, lợi ích tinh thần và sự phân cách giàu nghèo quá lớn trong xã hội. Vì thế, để khắc phục tình

trạng trên, cần thực hiện tốt chiến lược xóa đói, giảm nghèo. Trong đó, việc đào tạo nghề, cho vay
vốn, ưu tiên trong giáo dục, đào tạo, trong đầu tư… đối với đối tượng nghèo, gia đình khó khăn,
gia đình thuộc diện chính sách, con em nông dân và đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân

16


tộc thiểu số ở tỉnh Đăk Lăk nói riêng và trên cả nước nói chung phải là bước đi đầu tiên trong
hoạch định chính sách cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Và phát triển đồng đều phải trở thành một nguyên
tắc trong hoạch định chính sách xã hội, chính sách kinh tế.
KẾT LUẬN
Quyền con người là yếu tố cơ bản, nền tảng của một xã hội dân chủ, văn minh; quyền con
người là một phạm trù lịch sử và là kết quả của cuộc đấu tranh không ngừng của toàn nhân loại
vươn tới những ý tưởng, giải phóng hoàn toàn con người nhằm xây dựng một xã hội thật sự công
bằng, dân chủ, nhân đạo.

Giáo dục quyền con người nhằm xây dựng những chương

trình sáng tạo để thúc đẩy phát triển con người, hòa bình, dân chủ và tôn trọng Nhà nước pháp
quyền. Giáo dục quyền con người ở Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa chiến lược
đối với sự nghiệp giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ; đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa; là cơ sở để quần chúng nhân dân hình thành nhận thức đúng đắn về quyền con
người, củng cố niềm tin của quần chúng đối với Đảng, Nhà nước; chống lại những kẻ lợi dụng
nhân quyền để xuyên tạc, vu khống chế độ, lừa dối, mua chuộc, vận động đồng bào dân tộc ở tây
nguyên thành lập cái gọi là “Nhà nước ĐêGa độc lập”; chống lại những hoạt động lợi dụng chiêu
bài "nhân quyền" của một số nước phương Tây và các thế lực phản động, thù địch chống phá công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đắk Lắk là một tỉnh miền núi ở Tây Nguyên, về mặt bằng chung, còn gặp nhiều khó khăn
về kinh tế - xã hội. Giáo dục về quyền con người ở tỉnh những năm qua chủ yếu được thực hiện
theo những phương cách chính thống như giáo dục trong nhà trường, qua phổ biến, giáo dục pháp

luật, qua hoạt động thi hành pháp luật của cơ quan có thẩm quyền, và cũng đã đạt những thành tựu
ban đầu. Hiện nay, vấn đề giáo dục nhân quyền đã được quan tâm nhiều hơn, không chỉ bởi sự mở
mang dân trí, mà còn gắn liền với giảm nghèo bền vững, xây dựng nhà nước pháp quyền, ổn định
an ninh chính trị, ổn định và phát triển tín ngưỡng, tôn giáo theo chủ trương của Đảng, pháp luật
của Nhà nước. Đây cũng là những điểm đặc thù trong nghiên cứu về nhân quyền, giáo dục nhân
quyền ở Đắk Lắk./.

17


18



×