Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp trong chăn nuôi heo trên địa bàn huyện tân phú, tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 107 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước sản xuất nông nghiệp lớn với hơn 70% dân số sống
bằng nghề nông. Mặc dù nền nông nghiệp Việt Nam có vai trò vị trí chiến lược
trong việc phát triển kinh tế, xã hội, ổn định chính trị, nâng cao đời sống nhân dân
và là một ngành sản xuất chính nhưng thu nhập của người nông dân từ lĩnh vực này
lại không đáng kể.
Việt Nam vẫn chưa có một nền nông nghiệp sản xuất lớn theo đúng nghĩa, vẫn
duy trì nền sản xuất nhỏ lẻ theo quy mô hộ gia đình, chủ yếu dựa vào sức lao động,
không sản xuất theo kế hoạch mà chủ yếu lại theo tập quán, do đó, sản xuất nông
nghiệp của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào vấn đề thời tiết, vị trí địa lý, đặc điểm về
địa hình... mà Việt Nam lại là một trong những nước chịu nhiều ảnh hưởng và hậu
quả do thiên tai gây ra, là một trong năm tâm bão của khu vực Châu Á-Thái Bình
Dương. Vì vậy, tất yếu sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam phải chịu những rủi ro
không chỉ về thiên tai, dịch bệnh mà bên cạnh đó là những rủi ro từ nền kinh tế vĩ
mô, về chính trị... Đây cũng là những nguyên nhân chính dẫn đến nông nghiệp Việt
Nam là một thị trường tiềm năng cho Bảo hiểm nông nghiệp.
Bảo hiểm nói chung và Bảo hiểm nông nghiệp nói riêng đều là những lá chắn
cho nền kinh tế, làm giảm thiểu rủi ro có thể sẽ xảy ra đối với những người mua bảo
hiểm. Và bảo hiểm nông nghiệp ra đời là một nhu cầu cấp thiết đối với nền nông
nghiệp Việt Nam nói chung và người nông dân nói riêng, là cứu cánh làm giảm bớt
những rủi ro do thiên tai, dịch bệnh gây ra. Tuy nhiên trên thực tế vấn đề Bảo hiểm
Nông nghiệp ở Việt Nam vẫn chưa thực sự được triển khai có hiệu quả, thị trường
bảo hiểm nông nghiệp vẫn chưa phát triển và còn gặp rất nhiều khó khăn.
Huyện Tân Phú nằm ở phía Bắc của tỉnh Đồng Nai, có truyền thống chăn nuôi
gia súc, đặc biệt là chăn nuôi heo trong nhiều năm nay. Tuy nhiên trên thực tế,chăn
nuôi heo của huyện gặp rất nhiều rủi ro, ngoài những yếu tố bên trong thì chăn nuôi
heo còn chịu nhiều tác động của các yếu tố ngoại cảnh khác như thiên tai, dịch
bệnh, thị trường. Hạn chế được những rủi ro trong chăn nuôi sẽ giúp các hộ tăng kết




2

quả và hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho người chăn nuôi. Với bối cảnh đó, Tân
Phú được tỉnh Đồng Nai chọn thực hiện thí điểm BHNN theo Quyết định 315/QĐTTg. Huyện thực hiện triển khai thí điểm tại 3 xã Phú Xuân, Phú Lâm, Phú Thanh.
Mặc dù đã được tuyên truyền về chế độ BHNN qua nhiều hình thức nhưng do
thói quen về sản xuất và chưa nhận thức đầy đủ về BHNN nên vẫn còn có hiện
tượng nghe ngóng, xem xét, chờ đợi. Hầu hết người dân chưa tham gia thị trường
BHNN trước đây nên nhận thức của họ về quyền lợi, trách nhiệm khi tham gia
BHNN chưa thực sự đầy đủ, họ chỉ đơn thuần tham gia mua BH khi được trợ cấp
đáng kể từ Chính phủ. Số heo tham gia chưa phản ánh đúng tiềm năng hiện có của
địa phương. Thủ tục hành chính, chính sách pháp luật còn một số hạn chế. 15 xã thị
trấn còn lại trong huyện không được chọn làm thí điểm thì đến nay BHNN vẫn còn
là vấn đề rất mới mẻ, hầu hết người dân chưa hề biết BHNN. Những điều này ảnh
hưởng lớn đến việc mở rộng và phát triển thị trường BHNN.
Vậy, vấn đề đặt ra đối với phát triển thị trường BHNN là: (1) Những nhân tố
chính nào ảnh hưởng đến thực trạng phát triển thị trường BHNN ở Việt Nam nói
chung và huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai nói riêng? (2) Để triển khai BHNN rộng
trên toàn quốc thì Chính phủ nên thực hiện những chính sách nào? (3) Nếu Chính
phủ tiếp tục hỗ trợ phí BH như khi thực hiện thí điểm thì tỷ lệ người dân quyết định
tham gia là bao nhiêu?
Trong nước đã có những nghiên cứu liên quan đến hoạt động BHNN nhưng
chưa có nghiên cứu nào nghiên cứu cụ thể về phát triển thị trường BHNN, đặc biệt
là BHNN trong chăn nuôi heo tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Xuất phát từ
những vấn đề trên nghiên cứu lựa chọn đề tài: “Giải pháp phát triển thị trường bảo
hiểm nông nghiệp trong chăn nuôi heo trên địa bàn huyện Tân Phú, tỉnh Đồng
Nai”là vấn đề mang tính cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn lớn nhằm mở
rộng và phát triển thị trường BHNN trong chăn nuôi trên địa bàn huyện.



3

2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển thị
trường BHNN trong chăn nuôi heo trên địa bàn nghiên cứu, Luận văn đề xuất các giải
pháp phát triển thị trường này tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về bảo hiểm nông nghiệp và
thị trường bảo hiểm nông nghiệp;
- Đánh giá thực trạng thị trường bảo hiểm nông nghiệp trong chăn nuôi heo
trên địa bàn huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai;
- Chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường bảo hiểm nông nghiệp trong
chăn nuôi heo trên địa bàn huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp
trong chăn nuôi heo trên địa bàn huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
- Do thị trường BHNN là loại thị trường đặc biệt, thông tin không đối xứng,
người sản xuất (bên cầu) biết nhiều thông tin hơn doanh nghiệp bảo hiểm (bên cung)
về: Rủi ro, phương pháp hạn chế và phòng ngừa rủi ro, mức độ thiệt hại do rủi ro. Hiện
nay, cầu đang là nút thắt lớn trong thị trường BHNN. Do vậy, đối tượng tập trung
nghiên cứu của đề tài là cầu về thị trường BHNN trong chăn nuôi heo của các hộ chăn
nuôi trên địa bàn huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.
- Các đối tượng khảo sát: Các cán bộ quản lý cấp huyện, cấp xã ở địa bàn
chọn điểm khảo sát; Các hộ chăn nuôi heo ở địa bàn chọn điểm khảo sát; Các doanh
nghiệp trong hệ thống cung ứng dịch vụ BHNN trên địa bàn khảo sát.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Về không gian:

Nghiên cứu thực trạng chăn nuôi heo và thị trường BHNN trong chăn nuôi
heo trên địa bàn huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.


4

- Về thời gian:
+ Số liệu thứ cấp: Trong quá trình thực hiện, các tài liệu, số liệu được thu
thập trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2015.
+ Số liệu sơ cấp: Tiến hành khảo sát từ tháng 03/2015 - 06/2016.
- Về nội dung:
Tập trung nghiên cứu thực trạng chăn nuôi heo và cầu về thị trường BHNN
trong chăn nuôi heo của các hộ chăn nuôi trên địa bàn huyện Tân Phú, tỉnh Đồng
Nai.
4. Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo hiểm nông nghiệp và thị trường bảo hiểm
nông nghiệp;
- Thực trạng thị trường bảo hiểm nông nghiệp trong chăn nuôi heo trên địa
bàn huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai;
- Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu bảo hiểm nông nghiệp trong chăn nuôi heo
trên địa bàn huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai;
- Giải pháp nhằm phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp trong chăn nuôi
heo trên địa bàn huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh sách bảng biểu, phụ lục, nội dung chính
của luận văn được thể hiện trong 03 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo hiểm nông nghiệp và thị trường
bảo hiểm nông nghiệp
Chương II: Đặc điểm cơ bản của địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương III: Kết quả nghiên cứu



5

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP
VÀ THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM NÔNG NGHỆP
1.1. Cơ sở lý luận về BHNN và thị trường BHNN
1.1.1. Rủi ro trong sản xuất nông nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm
Cho đến nay thì vẫn chưa có định nghĩa thống nhất về rủi ro, những trường
phái khác nhau, những tác giả khác nhau đưa ra những định nghĩa khác nhau về rủi
ro. Những định nghĩa này đưa ra rất đa dạng, phong phú nhưng có thể tóm lại làm
hai trường phái lớn đó là phái truyền thống và phái hiện đại.
Theo trường phái truyền thống: Rủi ro là điều không may mắn, không lường
trước được về khả năng xảy ra, về thời gian và không gian xảy ra, cũng như mức độ
nghiêm trọng và hậu quả của nó [19]. Như vậy theo trường phái này “rủi ro là
những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó
khăn, hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người”.
Theo trường phái hiện đại: Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được, vừa
mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro co thể mang đến những tổn thất
mất mát cho con người nhưng cũng có thể mang lại những lợi ích, những cơ hội.
Nếu tích cực nghiên cứu rủi ro, người ta có thể tìm ra những biện pháp phòng ngừa,
hạn chế những rủi ro tiêu cực, đón nhận những cơ hội mang lại kết quả tốt đẹp cho
tương lai [19].
1.1.1.2. Các loại hình rủi ro trong sản xuất nông nghiệp
Trong SXNN, các hộ nông dân thường phải đối mặt với nhiều loại rủi ro
khác nhau. Rủi ro trong SXNN ở nước ta có thể chia thành 4 nhóm lớn: (1) Rủi ro
thiên tai, (2) rủi ro dịch bệnh, (3) rủi ro thị trường và (4) rủi ro khác. Cụ thể:
a. Rủi ro thiên tai

Trong thực tế, thiên tai xuất hiện ngày càng nhiều với tần số lớn hơn và mức
độ gây hại ngày càng nghiêm trọng hơn đối với đời sống của con người và môi


6

trường xung quanh. Trong các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh, SXNN (theo
nghĩa rộng bao gồm nông, lâm, thủy sản) được tiến hành trên diện rộng, hầu hết ở
ngoài trời nên chịu sự tác động rất lớn của thiên tai. Mặt khác, đối tượng SXNN là
những cơ thể sống có chu kỳ sinh trưởng, phát triển khá dài và có mối liên hệ chặt
chẽ với thiên nhiên. Do đó, sự biến động của thiên nhiên tác động trực tiếp đến
thành quả SXNN. Thiên tai luôn rình rập và gây ra rất nhiều rủi ro cho SXNN như:
rủi ro do lũ lụt, gió bão, hạn hán, nắng gắt, mưa đá, rét đậm, rét hại, cháy rừng, sóng
thần…gây ra rất hậu quả lớn đối với SXNN và sinh kế của người dân.
Việt Nam là một trong 10 quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu
toàn cầu nên thiên tai diễn biến rất phức tạp, khó lường, hậu quả ngày càng có xu
hướng nặng nề hơn, thậm chí mang tính thảm họa. Theo số liệu thống kê, trung bình
mỗi năm nước ta phải hứng chịu 6-7 trận bão, gây thiệt cho SXNN từ 15% đến 20%
giá trị SXNN. Trong hơn 50 năm qua (1960-2014) đã có tới trên 400 trận bão và áp
thấp nhiệt đới ảnh hưởng đếnViệt Nam. Có tới 80-90% dân số Việt Nam chịu ảnh
hưởng của bão, gây tổn thất rất lớn đến tính mạng, tài sản, nhà cửa và phá huỷ môi
trường [17].
b. Rủi ro dịch bệnh
Mỗi loại cây trồng, mỗi loại gia súc, gia cầm có đặc điểm sinh lý khác nhau
nên có các loại dịch bệnh khác nhau. Dịch bệnh trong SXNN hết sức đa dạng và
đang là yếu tố rủi ro thường trực đối với ngành nông nghiệp, làm cho cây trồng, vật
nuôi chết hàng loạt, năng suất thu hoạch giảm sút. Trong những năm qua, ở nước ta
ngành trồng trọt có các loại sâu, bệnh lan truyền rất nhanh như: Cây lúa có các loại
sâu, bệnh như bệnh vàng lùn, bệnh đạo ôn, bệnh khô vằn, dịch rầy nâu, rầy xanh, sâu
đục thân…; Cây cà phê, điều cam, quýt có bệnh sâu đục thân, vàng lá..vv..Trong

ngành chăn nuôi có các loại dịch bệnh lan truyền rất nhanh như bệnh dịch cúm gia
cầm H5N1, dịch lở mồm long móng ở trâu, bò, heo, dịch heo tai xanh...thiệt hại rất
lớn.
Dịch bệnh là yếu tố rủi ro thường trực trong SXNN. Có những loại bệnh
thông thường nhưng có những bệnh nguy hiểm, lan truyềnrất nhanh và rất khó kiểm


7

soát. Cũng như thiên tai, không năm nào ở nước ta không xảy ra các đợt dịch bệnh
đối với cây trồng, vật nuôi. Khi dịch bệnh xảyra, mặc dù Nhà nước đã có nhiều biện
pháp hỗ trợ người dân khắc phục rủi ro nhưng những giải pháp hỗ trợ của Nhà nước
cũng mới giúp người dân khắc phục được một phần thiệt hại [17].
c. Rủi ro thị trường
* Rủi ro giá cả: Thị trường nông sản là thị trường cạnh tranh hoàn hảo,
người sản xuất là người chấp nhận giá. Rủi ro về giá cả đối với SXNN rất khó kiểm
soát như rủi ro giá cả nguyên liệu đầu vào, rủi ro giá cả đầu ra. Các nguyên nhân
dẫn tới rủi ro giá cả là: Cung vượt cầu trên thị trường, biến động của tỷ giá hối đoái,
chất lượng sản phẩm, các rào cản thương mại và sự yếu kém về quản lý thị trường
vật tư, thị trường nông sản, hạn chế về cơ chế quản lý chính sách Nhà nước (yếu
kém trong việc quản lý hàng giả, hàng nhái, hàng chất lượng thấp, hàng nhập lậu).
Một thực tế ở Việt Nam đó là chất lượng nông sản không cao nên thường
không có nhiều lợi thế cạnh tranh giá trên thị trường quốc tế. Cùng với nó là việc
chi phí sản xuất hàng nông sản của Việt Nam thường cao, chu kỳ sản xuất kéo dài,
làm cho người nông dân lâm vào khó khăn. Trong thị trường nội địa thì người dân
SXNN hầu hết không định giá bán được mà lại do trung gian, thương lái ép giá. Vì
vậy, lợi nhuận SXNN của người nông dân rất thấp, bị rơi nhiều vào tay các trung
gian, thương lái [20].
* Rủi ro do lạm phát: Rủi ro do lạm phát là rủi ro rất khó dự báo và rất khó
kiểm soát bởi lạm phát do nhiều nguyên nhân gây ra như giá cả đầu vào trên thị

trường thế giới, tăng tiêu dùng và biến động tỷ giá. Đối với SXNN ở nước ta,rủi ro
do lạm phát gây ra những thiệt hại lớn vì nhiều loại vật tư sản xuất hiệnnay còn
đang dựa vào nguồn nhập khẩu (nguyên liệu sản xuất thức ăn chănnuôi, phân bón,
thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật...) [19].
d. Rủi ro khác
SXNN ở nước ta còn đối mặt với những rủi ro khác như: Rủi về đất đai sản
xuất và quản lý nguồn nước, rủi ro về tổ chức quản lý sản xuất và sử dụng vật tư sản
xuất, rủi ro do hạn mức tín dụng và trì hoãn thanh toán [19].


8

* Rủi về đất đai sản xuất và quản lý nguồn nước: Một bộ phận nông dân bị
rủi ro về đất đai sản xuất do Nhà nước thu hồi đất để quy hoạch các khu công
nghiệp, cácđô thị và xây dựng hạ tầng giao thông, thủy lợi làm cho đất nông nghiệp
giảm. Ngoài ra, ô nhiễm môitrường đất cũng làm cho người nông dân bị thiệt
hại trong SXNN, chẳng hạn đất bị dầu loang, đất bị nhiễm mặn xâm nhập. Các rủi
rovề đất đai sản xuất đã làm cho một bộ phận nông dân mất đi sinh kế và rơivào
tình cảnh khó khăn.
Bên cạnh đó, rủi ro về quản lý nguồn nước như việc xây dựng các công trình
thủy điện đã làm cho nhiều địa phương khan hiếm nguồn nước cho SXNN, nhiều hộ
nông dân đã mất đi sinh kế. Ô nhiễm nguồn nước do nước bị xâm nhập mặn, nước
bị ô nhiễm do chất thải công nghiệp, chất thải sinh hoạt làm cho SXNN bị thiệt hại.
* Rủi ro về tổ chức quản lý sản xuất và sử dụng vật tư sản xuất: Do trình
độ chuyên môn kỹ thuật và kiến thức kinh tế thị trường yếu kém, nhiều hộ nông dân
chạy theo tín hiệu thị trường đã đưa vào sản xuất các loại sản phẩm mà họ chưa thông
hiểu kỹ thuật. Mặt khác, do quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún nên việc ứng dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật không hiệu quả. Việc lạm dụng phân bón, thức ăn chăn
nuôi, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật đã làm cho giá thành sản xuất tăng cao, sản
phẩm không tiêu thụ được, người sản xuất trở nên lỗ vốn, phá sản.

Không những vậy, do sự yếu kém của các cơ quan chức năng về quản lý thị
trường nên các loại vật tư sản xuất kém chất lượng hoặc hàng giả vẫn được bày
bántại các đại lý, các cửa hàng bán lẻ.
* Rủi ro do hạn mức tín dụng và trì hoãn thanh toán:Phần lớn nông dân
hiện nay đều thiếu vốn để đầu tư thâm canh hoặc mở rộng quy mô sản xuất. Tuy
nhiên, họ không vay được đủ vốn do hạn mức tín dụng đối với từngloại hộ và thế là
họ không đủ điều kiện về vốn để đầu tư theo đúng quy trình. Bên cạnh đó, sự trì
hoãn thanh toán của các doanh nghiệp thu mua sản phẩm của nông dân, làm cho
người nông dân bị động trong việc đầu tưtái sản xuất. Điển hình ở Đồng bằng sông
Cửu Long, trong hợp đồng bán cáTra nguyên liệu giữa nông dân với doanh nghiệp
chế biến ghi rất rõ doanh nghiệp sẽ thanh toán cho người nuôi cá trong vòng 10-


9

15 ngày kể từ khi bàn giao sản phẩm nhưng thực tế phải vài tháng sau mới thanh
toán làm cho gánh nặng lãi suất ngân hàng của người nuôi cá nặng thêm [19].
1.1.2. Sự cần thiết của BHNN và phát triển thị trường bảo BHNN
Hàng năm SXNN ở nước ta phải hứng chịu hàng loạt các loại rủi ro, đặc biệt là
thiên tai, dịch bệnh tác động nhiều mặt đến đời sống và kế hoạch sản xuất của người
dân, nhanh chóng hủy hoại nguồn thu nhập hiện tại và phá hủy tài sản của các hộ
gia đình. Trước tình cảnh như vậy, nhiều hộ gia đình bị đẩy vào vòng xoáy của
nghèo đói. Những hộ trước đây sống trên mức nghèo đói thì chỉ sau một thiên tai,
dịch bệnh lớn có thể bị dìm xuống dưới mức nghèo đói.
Rủi ro

Hình 1.1: Tài sản của hộ nông dân sau rủi ro
(Nguồn: Global AgsRick,2009)
Ngân sách Nhà nước và các nguồn tài chính khác đã phải chi hàng nghìn tỷ
đồng để hỗ trợ. Tuy nhiên đây mới chỉ mang tính chất khôi phục cuộc sống tối thiểu

chứ chưa phải giúp nông dân khôi phục và bù đắp chi phí SXNN.
Trong tình hình như vậy, BHNN có thể giải quyết ngay vấn đề tài chính của
người nông dân khi họ phải chịu tổn thất. Ổn định đời sống cho hàng triệu người nông
dân mỗi khi rủi ro xảy ra. Vì vậy, phát triển BHNN và thị trường BHNN là hết sức
quan trọng và cần thiết, bởi vì:


10

Thứ nhất, BHNN có tác dụng rất lớn trong việc chia sẻ lợi ích và chia sẻ rủi ro
giữa người SXNN và DNBH. Bảo vệ sinh kế người nông dân, giữ vững năng suất
lao động, do vậy giúp giảm đói nghèo.
Thứ hai, thị trường BHNN giúp khôi phục và duy trì năng lực tài chính ổn
định, bảo vệ các tổ chức tài chính trước tình trạng không thể thanh toán nợ do
thiên tai xảy ra, do đó giảm bớt các nỗi lo âu về tinh thần của các tổ chức, cá nhân
tham gia BH, thông qua hoạt động chi trả bồi thường.
Thứ ba, BHNN có vai trò bổ sung cho các chương trình bảo đảm xã hội do
Nhà nước thực hiện, quỹ Chính phủ được huy động vào những mục tiêu khác thay
vì phải tiến hành trợ cấp trong điều kiện SXNN gặp rủi ro, nhờ đó làm giảm gánh
nặng ngân sách Nhà nước và nâng cao hiệu quả phân bổ các nguồn lực xã hội.
Thứ tư, thị trường BHNN có tác dụng thúc đẩy các hoạt động thương mại, sản
xuất kinh doanh, khuyến khích người SXNN đầu tư vào các hoạt động mang lại lợi
nhuận cao hơn vì có thể yên tâm rằng đứng sau họ đã có sự bảo vệ về tài chính của
các Công ty BH thông qua việc họ tham gia BHNN.
Thứ năm, thị trường BHNN tạo ra kênh huy động vốn tiết kiệm quan trọng
cho đầu tư phát triển,thúc đẩy thị trường vốn phát triển. Mở rộng tài chính nông
thôn thông qua các hình thức bảo đảm cho người SXNN được tiếp cận tốt hơn với
dịch vụ tài chính và được hưởng điều khoản tín dụng thuận lợi hơn.
Thứ sáu, triển khai BHNN góp phần nâng cao dân trí, trình độ nhận thức và
trách nhiệm của người dân trong các hoạt động sản xuất của chính mình và trách

nhiệm với xã hội.
1.1.3. Lý luận chung về bảo hiểm và bảo hiểm nông nghiệp
1.1.3.1. Bảo hiểm
a. Một số khái niệm cơ bản
* Khái niệm bảo hiểm: Bảo hiểm là biện pháp chia sẻ rủi ro của một người
hay của số một ít người cho cả cộng đồng những người có khả năng gặp rủi ro cùng
loại, bằng cách mỗi người trong cộng đồng góp một số tiền nhất định vào một quỹ


11

chung và từ quỹ chung đó bù đắp thiệt hại cho thành viên trong cộng đồng không
may bị thiệt hại do rủi ro đó gây ra [23].
* Khái niệm kinh doanh bảo hiểm: Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của
DNBH nhằm mục đích sinh lợi, theo đó DNBH chấp nhận rủi ro của người được BH,
trên cơ sở bên mua BH đóng phí bảo hiểm để DNBH trả tiền BH cho người thụ
hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện BH [23].
* Kinh doanh tái bảo hiểm: Kinh doanh tái bảo hiểm là hoạt động của DNBH
nhằm mục đích sinh lợi, theo đó DNBH nhận một khoản phí BH của DNBH khác để
cam kết bồi thường cho các trách nhiệm đã nhận bảo hiểm [23].
b. Các hình thức bảo hiểm
- Bảo hiểm tương hỗ: Là biện pháp chia sẻ rủi ro bằng việc liên kết
giữa các thành viên trong cộng đồng đóng góp một khoản tài chính nhất định để xây
dựng quỹ khắc phục rủi ro và chi trả cho các thành viên khi xảy ra rủi ro theo một tỷ
lệ đã được ước định giữa các thành viên trong nhóm.
- Bảo hiểm thương mại: Là hoạt động mà ở đó các DNBH chấp nhận rủi ro
trên cơ sở người được bảo hiểm đóng một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để DNBH
bồi thường khi xảy ra các rủi ro đã thỏa thuận trước trên của số ít trên cơ sở quy
tụ nhiều người có cùng rủi ro thành cộng đồng nhằm phân tán hậu quả tài
chính của những vụ tổn thất [23].

1.1.3.2. Bảo hiểm nông nghiệp
a. Khái niệm về bảo hiểm nông nghiệp
Theo Luật kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 và Luật số 61/2010/QH12
thì BHNN thuộc hình thức bảo hiểm thương mại và được quy định là một nghiệp vụ
bảo hiểm phi nhân thọ.
Theo đó, bảo hiểm sản xuất nông nghiệp (gọi tắt là bảo hiểm nông nghiệp
- BHNN) là hoạt động với mục đích bồi thường bằng cách đảm nhiệm rủi ro và đền
bù cho những rủi ro trong sản xuất và kinh doanh nông nghiệp [17,19].
b. Các loại hình bảo hiểm nông nghiệp
Hiện nay, trên thế giới đang tồn tại 2 loại hình BHNN:


12

* Bảo hiểm truyền thống:BH truyền thống là loại hình BH mà doanh nghiệp
đền bù thiệt hại cho người mua BH theo mức độ thiệt hại thực tế khi xảy ra rủi ro
được cam kết trong hợp đồng BH. Đặc trưng cơ bản nhất của BH bồi thường là lấy
thiệt hại, tổn thất của từng cá nhân hoặc từng tổ chức làm căn cứ để xét bồi thường.
Ưu điểm của phương thức này là mức bồi thường bám sát mức độ thiệt hại
của cá nhân, phạm vi BH rộng. Tuy nhiên, kinh nghiệm ở một số quốc gia cho thấy
hình thức BH truyền thống đang gặp phải một số vấn đề: (1) SXNN là loại hình đa
rủi ro và được bố trí trên địa bàn rộng, khi xảy ra rủi ro thì mức độ thiệt hại thường
rất lớn; (2) Phải xác định mức độ thiệt hại của từng cá nhân do rủi ro được BH và
không được BH; (3) Khó giám định mức độ thiệt hại, đánh giá nguyên nhân gây rủi
ro; (4) Khó kiểm soát tình trạng trục lợi BH.
* Bảo hiểm phi truyền thống (bảo hiểm chỉ số): Là phương thức bảo hiểm
mà trong đó việc bồi thường được thực hiện dựa trên một chỉ số như: Chỉ số về
lượng nước mưa, chỉ số nhiệt độ, chỉ số năng suất… để xác định trách nhiệm của
người bán BH, việc thanh toán căn cứ vào đo lường một sự kiện tương quan với
thiệt hại, việc trả tiền BH hoàn toàn dựa trên biến động thực tế của chỉ số so với chỉ

số chuẩn mà không phụ thuộc vào thiệt hại thực tế.
Ưu điểm của BH chỉ số là dễ dàng tính phí và bồi thường thiệt hại, giảm
thiểu rủi ro đạo đức và sự lựa chọn đối nghịch, giảm chi phí đánh giá thiệt hại. Tuy
nhiên BH chỉ số cũng có một số hạn chế: (1) Phạm vi BH bị hạn chế (2) Có những
đối tượng không bị thiệt hại vẫn được nhận đền bù; (3) Khó khăn trong việc xây
dựng cơ sở dữ liệu về các yếu tố gây rủi ro; (4); Khó khăn về cơ sở dữ liệu để xây
dựng phí BH và mức phí bồi thường [17,19].
c. Đối tượng và nội dung bảo hiểm nông nghiệp
BHNN là loại hình BH thương mại nhằm bù đắp những thiệt hại xảy ra với đối
tượng BH là những vật nuôi, cây trồng và sản phẩm nông nghiệp do rủi ro được BH
gây ra.Căn cứ vào đối tượng BH, BHNN được chia thành:
* BHNN trong trồng trọt (bao gồm cây trồng hoặc sản phẩm thu hoạch từ
trồng trọt):Đối tượng BH có thể là bản thân cây trồng trong suốt quá trình sinh


13

trưởng và phát triển hoặc cũng có thể là sản phẩm cuối cùng do cây trồng đem lại
tùy theo mục đích trồng trọt. Vì thế có thể chia ra:Đối với cây hàng năm, đối tượng
BH là sản lượng thu hoạch.Đối với cây lâu năm, đối tượng BH là giá trị của các loại
cây trồng đó hoặc sản lượng từng năm của mỗi loại cây.Đối với vườn ươm, đối
tượng BH là giá trị cây giống trong suốt thời gian ươm giống đến khi nhổ đi trồng
nơi khác [19].
* BHNN trong chăn nuôi (bao gồm vật nuôi hoặc sản phẩm thu hoạch từ
chăn nuôi): Đối tượng các sản phẩm chăn nuôi là các loại vật nuôi. Đối với vật nuôi
là tài sản cố định thường được BH đến từng con, còn đối với vật nuôi là tài sản lưu
động có thể BH cả đàn. Vật nuôi là tài sản lưu động là những vật nuôi được nuôi
dưỡng trong thời gian ngắn, quá trình thu sản phẩm gắn liền với quá trình giết mổ
hoặc chuyển chúng sang làm chức năng tài sản cố định. Thời hạn BH của loại này là
từ khi con giống tách mẹ nuôi độc lập đến khi vật nuôi xuất chuồng.Vật nuôi là tài

sản cố định thường có thời gian nuôi dưỡng lâu, giá trị lớn và được chuyển dịch dần
vào sản phẩm thu được qua các năm. Thời hạn BH loại này thường là một năm hoặc
toàn bộ chu kỳ sản xuất [19].
* BHNN trong nuôi thủy sản: Theo Quyết định số 315/QĐ-TTg thì đối
tượng BHNN trong nuôi thủy sản là: Cá Tra, tôm Sú, tôm Thẻ Chân Trắng. Vùng
nuôi cá Tra thâm canh có diện tích từ 05 ha trở lên; Vùng nuôi tôm Sú, tôm Thẻ
Chân Trắng thâm canh có diện tích từ 05 ha trở lên; bán thâm canh có diện tích 10
ha, quảng canh cải tiến có diện tích 15 ha trở lên; Vùng nuôi cá Tra, tôm Sú, tôm
Thẻ Chân Trắng phải đảm bảo có đường giao thông; hệ thống thủy lợi cơ bản đáp
ứng yêu cầu sản xuất [14].
1.1.4. Những vấn đề lý luận về thị trường bảo hiểm nông nghiệp
1.1.4.1. Khái niệm về thị trường bảo hiểm nông nghiệp
Thị trường BHNN là nơi diễn ra hoạt động mua bán sản phẩm BHNN. Hay
thị trường BHNN là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về BHNN.
Khác với các loại sản phẩm khác trên thị trường, sản phẩm BHNN không tồn
tại hữu hình, không có hình dáng, kích thước, trọng lượng…Nó là loại sản phẩm dịch


14

vụ đặc biệt, vô hình và là loại sản phẩm mà người mua không bao giờ muốn nó xảy ra
để được thực hiện quyền đòi bồi thường hay trả tiền BH. Người mua BHNN chỉ với
mục đích đề phòng khi sự kiện BH xảy ra vẫn đảm bảo được an toàn về mặt tài chính,
ổn định được quá trình sản xuất kinh doanh và đời sống.
Tham gia thị trường BHNN cũng gồm người mua (hay còn được gọi là người
được BH), người bán (các DNBH hay còn gọi là người BH) và Nhà nước (ban hành
cơ chế chính sách, pháp luật nhằm điều tiết thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển thị
trường BHNN). Ngoài ra còn có các tổ chức là môi giới BH [19, 20].
1.1.4.2. Đặc điểm của thị trường bảo hiểm nông nghiệp
Cũng giống như thị trường các loại hàng hóa khác, hoạt động của thị trường

BHNN cũng tuân theo các quy luật chung của thị trường như quy luật cung cầu,
quy luật cạnh tranh. Song, thị trường BHNN có những đặc điểm rất khác biệt với
các thị trường BH phi nhân thọ khác:
- Đối tượng của BHNN là vật nuôi và cây trồng, là những cơ thể sống được bố
trí trên địa bàn rộng lớn. Nó không chỉ chịu tác động của điều kiện tự nhiên mà còn
chịu tác động của các quy luật sinh học trong quá trình sinh trưởng và phát triển nên
rất khó quản lý rủi ro. Để tham gia thị trường BHNN, DNBH phải có đội ngũ nhân
lực đông đảo và am hiểu nhiều loại rủi ro trong nông nghiệp.
- SXNN là ngành đa rủi ro, đôi khi có những rủi ro thảm họa như thiên tai
nghiêm trọng, dịch bệnh xảy ra trên diện rộng và có khả năng lan truyền. Khi đó,
thiệt hại đối với SXNN là rất lớn. Chính vì vậy, các doanh nghiệp không thiết tha
tham gia thị trường BHNN.
- Chủ thể SXNN tuy khá đa dạng nhưng phổ biến vẫn là các hộ nông dân với
qui mô sản xuất nhỏ, sản xuất đa canh, tiềm lực đầu tư có hạn nên khó có thể tham
gia vào thị trường đối với tất cả các loại sản phẩm.
- Việc xác định thiệt hại trong BHNN là phức tạp do sự hao phí lao động
sống và lao động quá khứ cho vật nuôi, cây trồng không đồng nhất với thời gian và
kế quả thu được.


15

- Khó kiểm soát được tình trạng rủi ro đạo đức (trục lợi BH) do SXNN được
bố trí trên địa bàn rộng lớn. Việc kiểm soát, giám định thiệt hại khi xảy ra rủi ro
gặp rất nhiều khó khăn [18,19].
1.1.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường bảo hiểm nông nghiệp
a. Các nhân tố bên ngoài
* Khung pháp lý và chính sách của Nhà nước đối với BHNN và thị trường
BHNN:
Đây là nhân tố thể hiện sự điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước đối với BHNN.

Một khung pháp lý chặt chẽ, hoàn thiện nhưng thông thoáng sẽ tạo điều kiện thuận
lợi để cả DNBH và người SXNN tham gia các hoạt động trên thị trường BHNN.
Các chính sách của Nhà nước trong từng giai đoạn, từng thời kỳ sẽ tạo động lực,
khuyến khích hay kìm hãm thị trường BHNN phát triển. Khi cần khuyến khích phát
triển thị trường BHNN, Nhà nước ban hành các chính sách hỗ trợ, tạo động lực cho
thị trường này phát triển (như hỗ trợ phí BH cho người sản xuất, hỗ trợ phí quản lý
BHNN cho các DNBH, trợ cấp phí tái BH…). Khi cần điều tiết thị trường BHNN
phát triển theo đúng mục tiêu của Nhà nước thì Nhà nước sẽ ban hành các chính
sách điều tiết (các quy định về thủ tục thanh toán bảo hiểm quá rườm rà hoặc quy
định mức phí bảo hiểm gốc, mức đền bù thiệt hại không thỏa đáng sẽ làm cho các
chủ thể sản xuất không muốn tham gia thị trường BHNN) [18].
* Thị trường bảo hiểm và hoạt động tái bảo hiểm:
Hoạt động BHNN là một phần của thị trường BH. Vì vậy, sự phát triển của
BHNN không tách rời với sự phát triển của thị trường BH. Ngoài ra, do đặc điểm
của BHNN là rủi ro lớn, một “tấm lá chắn” cho các DNBH thông qua hoạt động tái
BH là vô cùng cần thiết. Tái BH là thị trường đầu ra rất quan trọng đối với DNBH
gốc. Thông qua hoạt động của các doanh nghiệp tái BH, DNBH gốc có thể chia sẻ
một phần rủi ro của mình đối với doanh nghiệp tái BH bằng việc trích một phần
doanh thu BH gốc để mua BH, khi xảy ra rủi ro các doanh nghiệp tái BH sẽ chi trả
bồi thường cho DNBH gốc.


16

Như vậy, có thể thấy sự phát triển của thị trường BH và tái BH là yếu tố ảnh
hưởng rất quan trọng đến sự quyết định của DNBH tham gia hay không tham gia thị
trường BHNN. Tuy nhiên, cũng do rủi ro trong SXNN lớn, việc các công ty tư nhân
nhận tái BH là không nhiều. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, nếu không có sự
tham gia của Nhà nước trong việc nhận tái BH cho ngành SXNN thì BHNN sẽ rất
khó tồn tại [19].

b. Các nhân tố thuộc về nội tại doanh nghiệp bảo hiểm (bên cung)
DNBH có quyết định tham gia thị trường BHNN hay không phụ thuộc vào
nhiều nhân tố. Trong đó, các nhân tố chính cụ thể sau:
* Tiềm lực tài chính và chiến lược kinh doanh, quản lý rủi ro của DNBH:
Do rủi ro trong SXNN lớn và bất thường, vì là người cung cấp hàng hóa cho
thị trường BHNN, DNBH khó có thể tồn tại được nếu không đủ năng lực kể cả về
mặt tài chính, nhân lực hay kỹ thuật nghiệp vụ. Một chiến lược quản lý rủi ro phù
hợp sẽ giúp cho các DNBH giảm thiểu được chi phí bồi thường khi xảy ra sự kiện
rủi ro, đảm bảo được lợi ích kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó,các doanh nghiệp
sẽ tự tin hơn khi tham gia cung ứng dịch vụ BH cho các sản phẩm nông nghiệp
[19].
* Lợi nhuận kỳ vọng:
Cũng như các doanh nghiệp khác, mục tiêu của DNBH là tìm kiếm lợi nhuận.
Lợi nhuận kỳ vọng từ nghiệp vụ BH này không cao nên khó thu hút họ tham gia thị
trường, trừ khi Nhà nước có những chính sách ưu tiên hoặc chiến lược của họ là tham
gia thị trường BHNN để tạo thương hiệu [19].
c. Các yếu tố thuộc về người sản xuất (bên cầu)
Cầu là lượng hàng hoá dịch vụ mà người tiêu dùng có khả năng và sẵn sàng
mua ở các mức giá khác nhau (mức giá chấp nhận) trong một phạm vi không gian
và thời gian nhất định khi các yếu tố khác không thay đổi.
Cũng giống như các loại hàng hóa khác, cầu về BHNN của người SXNN cũng
tuân thủ theo quy luật cầu. Cầu thị trường BHNN phụ thuộc rất nhiều yếu tố, cho nên
sự thay đổi của những yếu tố này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cầu BHNN. Để nghiên


17

cứu mối quan hệ giữa cầu BHNN và các yếu tố ảnh hưởng đến nó, người ta sử dụng
hàm cầu, có dạng tổng quát:
AD(x,t) =f(Px; I, Py; T, N, E…).

Trong đó: AD(x,t) là cầu về BHNN xác định trong khoảng thời gian t (ngày,
tháng, năm, quý…) và đóng vai trò hàm số cầu. Px, I, Py, T, N, E…là các yếu tố
ảnh hưởng đến BHNN và đóng vai trò như những biến của hàm cầu (Px là giá cả
hay còn gọi là phí BHNN; I là thu nhập của người tiêu dùng; Py là giá cả của hàng
hóa, dịch vụ liên quan; T là chuẩn mực và thị hiếu của người tiêu dùng; N là quy
mô dân số; E là kỳ vọng…).
Như vậy, cầu BHNN có những đặc điểm chung cũng giống như các loại
hàng hóa, dịch vụ khác. Tuy nhiên, BHNN là một loại hàng hóa đặc biệt nên cầu
BHNN cũng có những yếu tố riêng ảnh hưởng đến thị trường này, cụ thể:
* Nhận thức và tâm lý của người sản xuất:
Vì là người mua trên thị trường BHNN nên chỉ khi nào người sản xuất, đặc
biệt là người nông dân có đầy đủ nhận thức về BH, việc tham gia BH của họ mới
bền vững và tránh tình trạng trục lợi. Nhận thức không đầy đủ về lợi ích, vai trò
của thị trường BHNN cộng với tâm lý tiếc tiền là nguyên nhân khiến cho
người SXNN không muốn tham gia thị trường BHNN và nếu có dễ xảy ra tình
trạng trục lợi BH [18,19].
* Khả năng về tài chính (thu nhập):
Là yếu tố ảnh hưởng rất quan trọng đến sự tham gia thị trường BHNN của
các chủ thể SXNN, đặc biệt là người nông dân. Người nông dân nhìn chung là có
điều kiện kinh tế eo hẹp nên thường không muốn bỏ tiền mua BHNN. Kinh nghiệm
của các nước cho thấy, chỉ khi Nhà nước có sự hỗ trợ phí BH cho người nông dân
thì loại hình BH này mới có cơ hội tồn tại.
* Quy mô sản xuất:
Là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sự tham gia thị trường BHNN của các chủ
sản xuất. Đối với các loại sản phẩm sản xuất với quy mô nhỏ thường khôngcó vị thế
không quan trọng trong cơ cấu thu nhập của người sản xuất, khi xảyra rủi ro thì


18


mức độ thiệt hại không ảnh hưởng lớn đến đời sống thì mức độ sẵn sàng của người
sản xuất trong việc tham gia thị trường BHNN thấp. Ngược lại, các sản phẩm sản
xuất với quy mô lớn thường chiếmvị thế trọng yếu trong cơ cấu thu nhập của
người sản xuất (chủ yếu là sản phẩm hàng hóa) thì mức độ sẵn sàng tham
gia thị trường BHNN của người sản xuất cao hơn [18,19].
* Lợi ích kỳ vọng:
Đây là yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến sự quyết định của các chủ thể
SXNN tham gia thị trường BHNN. Các quy định, các thỏa thuận về mức bồi
thường thiệt hại khi xảy ra sự kiện rủi ro đảm bảo đượclợi ích mong muốn, đảm bảo
sự bình đẳng giữa DNBH với người mua BH có tác dụng khuyến khích người sản
xuất tham gia thị trường BHNN [19].
1.2. Cơ sở thực tiễn về BHNN và thị trường BHNN
1.2.1. Thực tiễn bảo hiểm nông nghiệp ở một số quốc gia trên thế giới
a. Bảo hiểm nông nghiệp ở Mỹ
BHNN ở Mỹ là BH đa hiểm họa thông qua chương trình BH cây trồng liên
bang - một chương trình liên kết giữa Chính phủ liên bang và các công ty BH. Tổng
chi phí cho BH cây trồng ở Mỹ lên tới 4 tỷ đô la mỗi năm cho hơn 100 loại cây trồng,
trong đó có 4 loại chính (ngô, đậu tương, lúa mì, bông) chiếm tới 79%.
BHNN ở Mỹ nhận được sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ phía Chính phủ. Chính
phủ Mỹ cung cấp miễn phí hợp đồng BH năng suất thiên tai cơ bản cho toàn bộ diện
tích cây trồng. Theo đó, phần tổn thất vượt quá năng suất bình quân của 4 năm
trước sẽ được bồi thường bằng 60% giá trị thị trường của tổn thất. Nông dân ở Mỹ
có thể mua thêm trách nhiệm cao với mức 38% từ Chính phủ. Tổng mức hỗ trợ phí
bồi thường của Chính phủ cho cây trồng toàn Liên bang lên tới 59%, còn phần phí
cho quản lý khoảng 22%, đồng thời Chính phủ nhận tái BH cho các công ty BH.
Bên cạnh phương thức BH truyền thống, Mỹ là nước đầu tiên trên thế giới thực hiện
BHNN theo chỉ số. Đây được coi là một phương thức bổ sung BH cho những rủi ro
lớn và có tính tương quan trong SXNN.



19

Mặc dù vậy, chương trình BHNN ở Mỹ chỉ nhận được khoảng 15% số hộ
nông dân tham gia. Đó là những nông dân có quy mô sản xuất lớn, có học thức và
đầu tư mạnh, còn hầu hết hộ nông dân nhỏ lẻ cũng chưa tham gia [19].
b. Bảo hiểm nông nghiệp ở Canada
BHNN được thực hiện ở Canada từ những năm 1917 với rủi ro được BH là
mưa đá gây thiệt hại cho mùa màng và áp dụng cho tất cả các cây trồng. Tuy nhiên
khi triển khai đó gặp một số khó khăn nhất định. Thời gian dài sau đó, BHNN mới
phát triển trở lại. Hiện nay, Canada có 3 chương trình BH cơ bản đối với sản lượng
và thu nhập của người nông dân, đó là: Chương trình BH mùa màng; Tài khoản
bình ổn thu nhập thuần; và trợ cấp thiên tai trong nông nghịêp. Chương trình BH ở
Canada được áp dụng cho hơn 100 loại cây trồng và cho cả vật nuôi. Ngoài việc BH
năng suất còn có BH tổn thất về chất lượng, tổn thất do hạt không nảy mầm, tổn thất
do phải gieo trồng lại...
Trong các hoạt động về BHNN luôn có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ Canada
ở các khía cạnh khác nhau. Hàng năm, Chính phủ đã bỏ ra các khoản chi tương đối
lớn kể cả về phí BH cũng như chi phí quản lý. Sự hỗ trợ của Chính phủ Canada đối
với phí BH tăng đều đặn hàng năm và cao hơn các chi phí khác và đây là phần phí
quan trọng nhất trong hoạt động BHNN; về hỗ trợ về các chi phí khác cũng có xu
hướng tăng lên. Trung bình, mức hỗ trợ của chính quyền khoảng 66% tổng chi phí
cho chương trình này.
Chính sách BHNN ở Canada có 2 điều khác biệt với chính sách BHNN
ở Mỹ: (1) Toàn bộ chương trình này được thực hiện trực tiếp bởi các đơn vị thuộc
chính quyền tỉnh chứ không phải các Công ty BH tư nhân, dưới sự trợ giúp một phần
về tài chính của chính quyền Liên bang; (2) Người mua BH phải mua chung cho
tất cả diện tích một loại cây trồng hoặc toàn bộ một loại vật nuôi nào đó [19].
c. Bảo hiểm nông nghiệp ở Nhật Bản
Ở Nhật Bản không có công ty BH tư nhân thực hiện BHNN vì không có
công ty tư nhân nào đủ tiềm lực tài chính để đối phó với những rủi ro thiên tai tàn

khốc của các thảm họa tự nhiên tại Nhật. BHNN được thực hiện bởi một chương


20

trình của Chính phủ và Nhật bản đã rất thành công với hình thức BHNN này. Hệ
thống BHNN của Nhật gồm 3 cấp:
- Cấp địa phương: Tất cả các địa phương đều có một Hội BHNN (AMRA),
mà thực chất có thể coi là các Hội BH tương hỗ của những người nông dân. Đây là
mô hình BH bắt buộc. Bất cứ nông dân nào gieo trồng hoặc chăn nuôi vượt quá quy
mô quy định đều bắt buộc tham gia AMRA và AMRA có nghĩa vụ phải công nhận
tư cách thành viên của họ. AMRA có thể giữ lại phần trách nhiệm tối thiểu là 10%,
phần còn lại có thể tái BH với các Liên hiệp Hội BHNN khu vực.
- Cấp vùng: Bao gồm liên hiệp các hội BHNN khu vực có thành viên là tất cả
các Hội BHNN trong khu vực. Ngoài việc thực hiện tái BH cho các Hội, Liên hiệp
còn hướng dẫn các hội về kiểm soát dịch bệnh.
- Cấp trung ương: Cơ quan tái BH nông nghiệp trung ương thực hiện nhận tái
BH cho các Liên hiệp. Nếu khoản đền bù của Liên hiệp vượt quá mức nào đó theo
quy định, phần vượt trội sẽ được bù đắp từ tài khoản đặc biệt quốc gia. Nếu tài
khoản đặc biệt quốc gia không đủ, ngân sách nhà nước sẽ trợ cấp. Tuy nhiên, chính
phủ Nhật bản đã phải hỗ trợ rất nhiều cho hệ thống BHNN này, lên tới 50% phí BH.
Tổng chi phí hỗ trợ BHNN của Nhật bản gấp đôi của Mỹ [18,19].
d. Bảo hiểm nông nghiệp ở Philippines
Chương trình BHNN của Philippines được sự giúp đỡ của Ngân hàng ruộng
đất Philippines bằng những biện pháp bảo vệ SXNN theo những tính toán rủi ro
thời tiết bất lợi và rủi ro thiên tai khác. Năm 1976 Ngân hàng ruộng đất Philippines
đã đề nghị thành lập uỷ ban phát triển chương trình BHNN của Philippines. Tổng
công ty BHNN Philippines là một công ty Nhà nước và được thành lập không nhằm
mục tiêu lợi nhuận mà nhằm giúp đỡ nông dân được thành lập sau đó (năm 1989).
Phí BH được chia sẻ giữa Chính Phủ, nông dân và các tổ chức tín dụng. Đối với

những người vay vốn ngân hàng, tổ chức tín dụng có trách nhiệm trợ giúp 2% phí
BH đối với cây lúa và 3% đối với cây ngô. Phần phí BH cũng lại sẽ được chia sẻ
theo tỷ lệ 40/60 đối với nông dân và Chính phủ. Với những hộ nông dân không vay
vốn ngân hàng thì được Nhà nước hỗ trợ 50% phí BH. Hiện nay, Philipines thực


21

hiện 3 chương trình BHNN chính: (1) Chương trình BH cây trồng cho cây lúa, ngô,
và các cây trồng mang tính thương mại có giá trị cao; (2) Tài sản đầu tư vào nông
nghiệp như máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, cơ sở hạ tầng; (3) BH vật nuôi.
Về chính sách, Chính phủ Philipines quy định: (1) Các hộ nông dân
trồng lúa, ngô, cây thương mại có giá trị cao, các hộ chăn nuôi gia súc, hay các tổ
chức cá nhân đầu tư tài sản vào nông nghiệp mà có vốn vay từ bất kỳ tổ chức tín
dụng nào đó, dù của Nhà nước hay tư nhân đều có thể tham gia chương trình
BH; (2) Đối với BH cây trồng, chỉ các trang trại có hệ thống tưới tiêu mới được tham
gia; các trang trại hoàn toàn phụ thuộc vào mưa tự nhiên thì chỉ được tham gia BH
trong mùa mưa; (3) Người dân có thể mua BH trực tiếp từ văn phòng khu vực của
tổng công ty BHNN Nhà nước hoặc từ các đại lý của họ [19].
e. Bảo hiểm nông nghiệp ở Trung Quốc
Thị trường BHNN xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc cách đâyhơn 70 năm.
Tuy nhiên nó đã gặp phải rấtnhiều khó khăn để có thể tồn tại và phát triển. Các
DNBH của nước này đều bị thua lỗ khi cung cấp BHNN. Năm 2004, Chính phủ
Trung Quốc thực hiện thí điểm BHNN triển khai tại 7 tỉnh. Sau đó Chính phủ nước
này đã ban hành chính sách nhằm tiếp tục mở rộng hỗ trợ BHNN và coi đây là một
trong những vấn đề ưu tiên trong quá trình thực hiện chính sách tam nông của mình.
Nhờ có những chính sách hỗ trợ của Chính phủ, đặc biệt là khoản trợ cấp phí BH
lớn cho các hộ nông dân, đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ BH, tự nguyện tham gia
với mức phí thấp, mức bồi thường thấp và được xác định dựa vào chi phí vật chất
đầu tư cho sản xuất nên BHNN ở Trung Quốc đã được phát trển nhanh chóng với

doanh thu phí BH trong năm 2009 đạt tới gần 2 tỷ USD với khoảng 127 triệu hộ
mua BH. Trung Quốc đã trở thành nước có doanh thu phí BH đứng thứ 2 trên thế
giới sau Mỹ.
Tuy nhiên, hiện nay BHNN của Trung Quốc vẫn gặp nhiều khó khăn về huy
động nguồn tài chính, hệ thống văn bản pháp luật về BHNN chưa hoàn chỉnh, nhận
thức của người dân về BHNN chưa đầy đủ [16].
g. Bảo hiểm nông nghiệp ở Thái Lan


22

Chương trình BHNN của Thái Lan được Chính phủ cung cấp cho nông dân
vào năm 1978 nhưng đã thất bại vào năm 1981 vì không có sự tham gia của người
dân. Nguyên nhân của sự thất bại này là chưa có nhận thức đúng đắn của người dân
về BHNN, phí BHNN quá cao và cũng chưa có một khung pháp lý rõ ràng cho việc
thực thi BHNN. Sau thất bại đó, Thái Lan đã đầu tư một cách thỏa đáng và có
những chiến lược đúng đắn, quỹ hỗ trợ nông nghiệp ra đời năm 1998 cùng với
nhiều các biện pháp hiệu quả được đưa ra để chống lại các rủi ro cho nông dân. Nếu
chính sách này ổn định lâu dài, các nông dân Thái Lan sẽ có một tương lai đầy hứa
hẹn. Hiện tại Thái Lan đã gặt hái được nhiều thành công trongchươngtrìnhBHNN
[19, 27].
h. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam và huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai
Qua kinh nghiệm thực tế đối với hoạt động BHNN ở các nước trên, có thể rút
ra một số nhận xét và những bài học cho Việt Nam nói chung và huyện Tân Phú,
tỉnh Đồng Nai nói riêng khi phát triển thị trường BHNN là:
Thứ nhất, rủi ro trong SXNN rất lớn, thu nhập và nhận thức của người nông
dân là hạn chế, điều này dẫn đến khó có nhà BH tư nhân nào có đủ tiềm lực tài
chính để nhận BH (mà không có sự hỗ trợ của Nhà nước) do việc đảm bảo hiệu quả
kinh doanh cho những nhà BH là khó khăn. Vì vậy,việc triển khai BHNN để thành
công được không dễ dàng.

Thứ hai, trên thế giới chưa có mô hình chuẩn về tổ chức BHNN, tùy theo đặc
điểm của mỗi nước mà có mô hình tổ chức khác nhau. Tuy nhiên, có một số mô
hình về BHNN cần được nghiên cứu và có thể vận dụng vào Việt Nam như: (1)
Mô hình BHNN được thực hiện bởi các công ty BH dưới sự bảo trợ của Nhà nước
như Mỹ, Canada, Trung Quốc; (2) Mô hình xây dựng hệ thống BH tương hỗ từ
Trung ương đến địa phương gồm 3 cấp: Trung ương - Vùng - Địa phương như ở
Nhật Bản; (3) Mô hình Tổng Công ty BHNN Nhà nước thực hiện dưới sự trợ giúp
của Chính phủ như mô hình Tổng công ty BHNN ở Philipines; (4) Mô hình
các DNBH tự triển khai dưới hình thức cung cấp các sản phẩm BH thương mại
như ở Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc [19].


23

Thứ ba, BHNN chủ yếu BH cho các rủi ro thiên tai, thậm chí chỉ BH cho một
hoặc vài loại rủi ro cơ bản tùy thuộc vào đặc điểm tự nhiên của từng nước. Thời kỳ
đầu triển khai, BHNN chủ yếu BH cho cây trồng, vật nuôi có vị thế quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân của nước đó. Sau đó khi có điều kiện mới mở rộng dần
ra cho các vật nuôi cây trồng khác (ví dụ như Philipines).
Thứ tư, chi phí bồi thường tổn thất và chi phí quản lý BHNN rất lớn nên
không hấp dẫn các nhà đầu tư vào lĩnh vực BHNN. Tất cả các hoạt động BHNN đều
có sự trợ cấp rất lớn từ Nhà nước bao gồm trợ cấp phí BH, trợ cấp phí quản lý và trợ
cấp phí tái BH (Mỹ trợ cấp tới 70%; Canada 66%). Nếu thiếu sự hỗ trợ đủ mạnh từ
phía Nhà nước thì hoạt động BHNN rất khó thành công.
Thứ năm, mỗi quốc gia lại có những qui định của luật pháp về BHNN
khác nhau: Hình thức BHNN tự nguyện đang được áp dụng ở hầu hết các nước. Tuy
nhiên, một số quốc gia như Nhật Bản, Philipines qui định BHNN bắt buộc đối với
một số sản phẩm nông nghiệp. Tại Mỹ coi BHNN là quyền lợi đương nhiên miễn
phí của nông dân. Do vậy, tại Việt Nam BHNN có thể bắt buộc hoặc tự nguyện
hoặc kết hợp cả hai, và Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc triển khai

thành công BHNN từ việc có chính sách hỗ trợ về mặt tài chính đến tổ chức thực
hiện. Để thị trường BHNN phát triển Nhà nước cần đảm nhiệm các khâu: (1) Xây
dựng môi trường pháp lý cho hoạt động BHNN; (2) Xây dựng hệ thống thông tin và
số liệu; (3) Tăng cường các hoạt động nghiên cứu và phát triển; (4) Phát triển thị
trường tái BH.
Thứ sáu, cả BH truyền thống và BH chỉ số đều có những ưu điểm và hạn chế
riêng. Ở Mỹ và Canada đã thể triển khai cả phương thức BH theo chỉ số như một sự bổ
sung lựa chọn cho người nông dân, phù hợp với những rủi ro có tính tương quan làm.
Do vậy, BHNN ở Việt Nam có thể triển khai cả hai hình thức này.
1.2.2. Thực trạng phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam
BHNN ở nước ta được triển khai từ năm 1982 nhưng dịch vụ này phát triển rất
chậm. Trước thực trạng như vậy, nhận thức được tầm quan trọng của BHNN trong
việc góp phần ổn định và thúc đẩy SXNN, ngày 01/03/2011 Chính phủ ban hành


24

Quyết định số 315/QĐ-TTg về việc thực hiện thí điểm BHNN giai đoạn 2011-2013
tại 20 tỉnh thành với các chính sách khuyến khích chưa từng có trước đây. Như vậy,
sự hình thành và phát triển của thị trường BHNN ở Việt Nam có thể chia thành 2 giai
đoạn: (1) Trước khi thực hiện thí điểm BHNN theo Quyết định 315/QĐ-TTg và (2)
Sau khi thực hiện thí điểm BHNN theo Quyết định 315/QĐ-TTg.
1.2.2.1. Giai đoạn trước khi thực hiện thí điểm BHNN theo Quyết định 315/QĐ-TTg
Đây là giai đoạn thị trường BHNN ở Việt Nam bắt đầu được hình thành kể
từ năm 1982 khi Bảo Việt triển khai thí điểm BH cây lúa tại 2 huyện Nam Ninh và
Vụ Bản của tỉnh Nam Định với toàn bộ diện tích trồng lúa của 2 huyện trên. Phí BH
Bảo Việt thu được năm 1982 là 556 nghìn đồng, chi bồi thường là 464 nghìn đồng,
tỷ lệ tổn thất lên tới 83,45%. Năm 1983 phí BH thu được là 790 nghìn đồng, bồi
thường tổn thất năm 1983 là 300 nghìn đồng, tỷ lệ tổn thất giảm còn 37,97%. Năm
1983 do người dân được mùa, tổn thất SXNN thấp nên phần lớn người nông dân

tham gia BH không được bồi thường, khiến họ nghĩ rằng mua BHNN không có lợi,
vì vậy năm 1984 việc triển khai BHNN của Bảo Việt phải dừng lại do người dân
không tham gia BH nữa. [19]
Từ năm 1993-1998, Bảo Việt tiếp tục triển khai lại BH cây lúa tại 12 tỉnh
trên phạm vi cả nước, song kết quả thu được không thành công. Tổng diện tích lúa
tham gia BH chỉ chiếm 0,73% diện tích lúa cả nước. Tổng phí BH Bảo Việt thu
được không đủ để đền bù thiệt hại, đã làm cho Bảo Việt bị thua lỗ nặng, bồi thường
thiệt hại so với doanh thu lên tới 110%, với tổng giá trị hơn 5 tỷ đồng [20]. Nguyên
nhân là do trong 2 năm 1996 và 1997, những thảm hoạ thiên tai nghiêm trọng xảy ra
liên tục với cường độ cao làm 2.069 người thiệt mạng và ước tính thiệt hại hơn
15.728,88 tỷ đồng, riêng nông nghiệp thiệt hại hơn 4.193,14 tỷ đồng [34] . Vì vậy,
năm 1998 Bảo Việt đã dừng hoạt động BHNN.
Từ năm 2005 đến nay, Bảo Việt lại triển khai BH cho 2 đối tượng là cây cao
su ở Bình Phước và bò sữa ở Lâm Đồng. Đây là loại cây trồng và vật nuôi rủi ro
thấp, tỷ lệ bồi thường thấp trong khi phí bảo hiểm cao nên người dân lại không mặn


25

mà tham gia BH. Vì vậy, doanh thu phí BH rất thấp, chỉ chiếm từ 0,02% đến 0,05%
doanh thu phí toàn tổng công ty.
Trong giai đoạn này, không chỉ có Bảo Việt bị thua lỗ trong hoạt động
BHNN mà các doanh nghiệp BH nước ngoài cũng gặp phải tình trạng này. Công ty
trách nhiệm hữu hạn BH tổng hợp Groupama Việt Nam, 100% vốn nước ngoài
được thành lập bởi Groupama- một trong những công ty BH lớn nhất Châu Âu, bắt
đầu hoạt động tại Việt Nam từ tháng 12/2001. Groupama đã có hơn 100 năm kinh
nghiệm cung cấp BHNN tại Pháp, và đã rất chủ động trong việc khởi động BHNN
tại các quốc gia khác như Mê-hi-cô, nhưng cũng không thành công với BHNN ở
Việt Nam. Cụ thể, năm 2003 công ty bắt đầu triển khai hoạt động BHNN ở Việt
Nam với dự án BH trọn gói 6 loại vật nuôi cho nông dân. Tuy nhiên, do đối tượng

tham gia BH ít, phí BH cao, kỹ thuật canh tác nuôi trồng của người dân còn lạc hậu
nên doanh thu thấp, bồi thường cao, công ty liên tục lỗ lớn. Tỷ lệ bồi thường trên
doanh thu năm 2005 lên tới 4.426,67%. Tỷ lệ tổn thất cả giai đoạn 2004-2008 trên
220%. Những năm sau đó (2009, 2010), Groupama không còn chú trọng vào
BHNN mà đa dạng hóa sang các nghiệp vụ BH khác [18,19].
Bảng 1.1: Doanh thu và bồi thường hoạt động BHNN Việt Nam (2006-2010)
ĐVT: Tỷ đồng
TT
1

Chỉ tiêu

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Doanh thu BHNN

0,465

0,734


0,83

1,668

1,7

2,45

Tr đó: - Công ty Bảo Việt

0,45

0,67

0,819

1,65

1,62

1,8

- Công ty Groupama VN

0,015

0,064

0,011


0,018

0,08

0,31

0

0

0

0

0

0,34

Bồi thường BHNN

0,754

0,145

0,203

0,3454

0,41


0,68

Tr đó: - Công ty Bảo Việt

0,09

0,09

0,2

0,34

0,37

0,41

- Công ty Groupama VN

0,664

0,055

0,003

0,0054

0,04

0,27


Bồi thường/Doanh thu (%)

162,15

19,75

24,46

20,71

24,12

27,76

Tr đó: - Công ty Bảo Việt

20,00

13,43

24,42

20,61

22,84

22,78

- Công ty Groupama VN


4.426,67

85,94

27,27

30,22

50,00

87,10

- Công ty khác
2

3

(Nguồn: Hiệp hội BHVN, TổngcôngtyBHBảoViệt, CôngtyTNHHBHtổnghợpGroupamaVN)


×