Tải bản đầy đủ (.docx) (164 trang)

Phát triển nông nghiệp thành phố hải phòng theo hướng nông nghiệp đô thị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.4 MB, 164 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Khởi đầu từ một số đô thị cổ đầu tiên trên thế giới ở vùng Địa Trung Hải,
những lưu vực sông lớn tại châu Á; đến nay, mạng lưới đô thị đã phủ kín hầu hết
phần đất nổi trên bề mặt Trái Đất. Đó là biểu hiện rõ nét nhất của quá trình đô thị
hóa. Đến năm 2014 có 53% dân số thế giới sinh sống trong các đô thị và được dự
báo tiếp tục tăng. Số dân đô thị tăng nhanh hay nói cách khác quá trình đô thị hóa
diễn ra mạnh mẽ sẽ đặt ra nhiều vấn đề mà trước mắt là khả năng cung cấp lương
thực, thực phẩm cho dân cư sinh sống trong đô thị, khả năng sản xuất nông nghiệp
trong điều kiện đất đai bị thu hẹp….Vì vậy, phát triển nông nghiệp hợp lí đã trở
thành yêu cầu bức thiết cho các đô thị, đặc biệt là đô thị ở các nước đang phát triển.
Với một thành phố trực thuộc Trung ương, đô thị loại I như Hải Phòng cũng
không phải ngoại lệ. Đô thị hóa đang diễn ra tại thành phố là một quá trình tất yếu
khách quan. Hiện nay, đô thị hóa trong điều kiện công nghiệp hóa-hiện đại hóa ít
gắn liền với các yếu tố nội tại - động lực cho kinh tế đô thị đã làm trầm trọng thêm
những tồn tại trong sản xuất nông nghiệp của thành phố: một bộ phận lao động
trong nông nghiệp mất đất sản xuất, thiếu việc làm; một bộ phận dân cư từ nông
thôn hoặc vùng ven đô thị chuyển về đô thị trung tâm để làm việc, làm gia tăng nhu
cầu về lương thực, thực phẩm; vấn đề vệ sinh - an toàn thực phẩm và vệ sinh môi
trường đô thị cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng (ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn
nước...). Đây là các yếu tố đe dọa sự phát triển nhanh và bền vững của thành phố.
Trong khi đó, sản xuất nông nghiệp có vai trò quan trọng trong nền kinh tế
và đời sống sinh hoạt của người dân thành phố: cung cấp lương thực, thực phẩm
(gạo, thịt, trứng, rau, quả...), các nông sản khác thường xuyên và liên tục cho nhu
cầu tiêu dùng của người dân Hải Phòng cũng như các tỉnh lân cận nhưng đồng thời
cũng tạo ra nhiều sản phẩm nông sản là nguồn hàng xuất khẩu thu ngoại tệ. Ngành
nông nghiệp còn có những đóng góp nhất định trong tổng GDP của toàn thành phố.
Rõ ràng, nông nghiệp chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế của thành phố
Hải Phòng. Năm 2013, nông - lâm - thủy sản chiếm 9,4% GDP toàn thành phố [3]


1


(cao hơn thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng và chỉ
thấp hơn thành phố Cần Thơ). Song, để thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững
cần có giải pháp hợp lí. Trong rất nhiều giải pháp thì phát triển nông nghiệp theo
hướng nông nghiệp đô thị, mô hình được nhiều đô thị trên thế giới áp dụng được
xem như một hướng đi tối ưu để giải quyết các bất cập liên quan đến sản xuất nông
nghiệp trong tiến trình đô thị hóa, hướng tới xây dựng đô thị Hải Phòng bền vững
trong tương lai.
Như vậy, để sản xuất nông nghiệp của thành phố khai thác tối đa và hợp lí
các điều kiện phát triển, đáp ứng được yêu cầu của thị trường và đảm bảo tính bền
vững, thân thiện với môi trường thì phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp
đô thị là hoàn toàn phù hợp...Với mong muốn vận dụng những kiến thức đã học vào
một vấn đề cụ thể của thành phố - nơi em đã sinh ra, lớn lên và sẽ trở về công tác
lâu dài nên em đã mạnh dạn chọn đề tài “ Phát triển nông nghiệp thành phố Hải
Phòng theo hướng nông nghiệp đô thị”. Đề tài này làm sáng tỏ những nhân tố tác
động tới phát triển và phân bố nông nghiệp của thành phố theo hướng nông nghiệp
đô thị; hiện trạng phát triển cũng như đề xuất một số giải pháp phù hợp cho sự phát
triển nông nghiệp của thành phố trong tương lai…
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài

Nghiên cứu phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị là vấn đề
đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, nhiều chuyên gia kinh tế nhằm
tạo sự “phát triển xanh”, hiệu quả và bền vững cho sản xuất nông nghiệp tại các đô
thị trên thế giới cũng như tại các đô thị lớn của Việt Nam.
Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã công bố một số công trình
liên quan đến vấn đề này, tiêu biểu như:
Mô hình của Von Thunen (1826). Đây là mô hình về sử dụng đất nông
nghiệp được nghiên cứu và công bố bởi nhà kinh tế học nông nghiệp người Đức

J.H. Von Thunen (1783-1850). Mô hình này được ông công bố trước khi diễn ra quá
trình công nghiệp hóa, được xây dựng dựa trên thực tế diện tích đất sử dụng cho
nông nghiệp bị thu hẹp. Theo Von Thunen, khi diện tích đất canh tác nông nghiệp bị

2


thu hẹp thì cần đặt ra vấn đề sử dụng đất hợp lí và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Vì
vậy, sản xuất nông nghiệp sẽ được phân bố theo các vành đai xung quanh khu vực
trung tâm và mở rộng ra vùng ngoại vi.
Một số ấn phẩm của FAO như “FAO’s role in urban agriculture”, “Food for
the city”, “Urban agriculture and food sercurity” cũng đề cập đến vấn đề này. Trong
ấn phẩm “FAO’s role in urban agriculture” [30], có ba vấn đề lớn được đề cập, đó là
an ninh lương thực, trang trại đô thị và vai trò của FAO. Mô hình trang trại đô thị
thể hiện rõ rệt vai trò cung cấp lương thực, thực phẩm cho con người; cụ thể: đảm
bảo an ninh lương thực cho người dân đô thị; tạo việc làm và tăng thu nhập cho
người nghèo, đặc biệt là phụ nữ; góp phần giải quyết các vấn đề về môi trường…
Cùng với đó là vai trò tích cực của FAO trong tư vấn chính sách, hỗ trợ kĩ thuật và
hệ thống máy móc, công nghiệp phục vụ nông nghiệp đô thị tại một số quốc gia và
vùng lãnh thổ. Mặt khác, “Food for the city” [31] đề cập đến một số nội dung chủ
yếu, bao gồm thách thức của gia tăng dân số đô thị và mở rộng mạng lưới đô thị,
những tác động của quá trình này đến nhóm dân nghèo thành thị và sự cần thiết phải
đầu tư cho chương trình lương thực, thực phẩm đô thị nhằm đảm bảo an ninh lương
thực đô thị, đảm bảo cho quá trình sản xuất và tiêu thụ nông sản, xây dựng đô thị
bền vững và hoạch định các chính sách cho từng quốc gia, khu vực, toàn cầu. Cuối
cùng là ấn phẩm “Urban agriculture and food sercurity” [32]. Ấn phẩm đề cập đến
sự phát triển nhanh chóng của quá trình đô thị hóa, sự hình thành các siêu đô thị ở
các nước đang phát triển như Đê-li, Mumbai (Ấn Độ)…vai trò quan trọng của nông
nghiệp đô thị, đặc biệt là đối với dân nghèo thành thị phổ biến ở nhiều quốc gia như
ở châu Phi như Ni-giê-ri-a, Công-gô…một số quốc gia châu Á như Việt Nam, Inđô-nê-xi-a, Pa-kis-tan…; cung cấp thực phẩm dinh dưỡng cũng như tạo thu nhập

cho người lao động…
“Nhận dạng nông nghiệp đô thị Việt Nam” của tác giả Lê Văn Trưởng [29]
đề cập đến một số vấn đề nổi bật như nông nghiệp đô thị Việt Nam hình thành và có
những đóng góp quan trọng cho sự phát triển đô thị của đất nước, sự phân hóa lãnh
thổ nông nghiệp đô thị theo 5 hướng rõ nét, tính chất nhiệt đới của nông nghiệp đô

3


thị, các loại hình sản xuất nông nghiệp đô thị bao gồm 5 loại hình trước đây và 9
loại hình hiện nay và một số vấn đề đặt ra của nông nghiệp đô thị hiện nay.
Một số đề tài nghiên cứu khác cũng liên quan đến vấn đề này như “Nghiên
cứu nông nghiệp thành phố Hà Nội sau thời điểm 1/8/2008”, Luận văn Thạc sĩ Địa
lí học, Đại học sư phạm Hà Nội, năm 2011 của tác giả Lê Mỹ Dung làm rõ sự thay
đổi của các nhân tố ảnh hưởng tới sản xuất và phân bố nông nghiệp của thành phố
Hà Nội tại thời điểm thay đổi ranh giới hành chính năm 2008. Đồng thời, đề tài còn
nghiên cứu sự hình thành các vành đai nông nghiệp theo thứ tự từ vùng lõi đến
vùng ngoại vi thành phố. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng phát triển và phân bố
nông nghiệp hiện tại, tác giả đề xuất giải pháp và định hướng phát triển ngành nông
nghiệp của thành phố đến năm 2020.
Đề tài “Nghiên cứu sự phát triển nông nghiệp đô thị ở Hà Nội”, Luận án tiến
sĩ địa lí học, năm 2014 của tác giả Vũ Mai Hương tập trung làm rõ các nhân tố ảnh
hưởng đến nông nghiệp đô thị Hà Nội, hiện trạng phát triển cũng như đưa ra giải
pháp và định hướng phát triển nông nghiệp đô thị Hà Nội. Đặc biệt, tác giả cũng
nghiên cứu sâu trường hợp điển hình của chăn nuôi bò sữa và trồng rau sạch tại
vùng ven đô thị của thành phố Hà Nội để làm nổi bật đặc trưng hình thức sản xuất
nông nghiệp đô thị của Hà Nội. Đồng thời, tác giả đề xuất giải pháp và định hướng
phát triển nông nghiệp đô thị của thành phố Hà Nội đến năm 2020.
Đề tài “Nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở thành phố Hải
Phòng”, Luận án tiến sĩ địa lí học Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh năm 2012 của

Vũ Thị Kim Cúc ngoài làm rõ cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, thực tế chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại một số
thành phố trực thuộc trung ương như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đã Nẵng; tác
giả còn tập trung phân tích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp: chuyển dịch
cơ cấu ngành nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế nông nghiệp và
chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp (chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất, chuyển
dịch cơ cấu mùa vụ và chuyển dịch hình thức tổ chức sản xuất, đặc biệt là hình
thành các vành đai nông nghiệp bao quanh thành phố - biểu hiện rõ nét của nông

4


nghiệp đô thị hiện nay. Đồng thời, tác giả đưa ra một số giải pháp và định hướng
phát triển nông nghiệp Hải Phòng trong tương lai.
Các công trình nghiên cứu trên đều tập trung làm rõ các khái niệm nông
nghiệp đô thị, nông nghiệp nông nghiệp đô thị; cơ sở lí luận về phát triển nông
nghiệp đô thị và cơ sở thực tiễn về phát triển nông nghiệp đô thị tại Việt Nam,
trường hợp của thành phố Hà Nội cũng như những nhân tố tác động đến phát triển
nông nghiệp đô thị.
Tuy nhiên, nghiên cứu vấn đề phát triển nông nghiệp theo hướng nông
nghiệp đô thị tại thành phố Hải Phòng dưới góc độ địa lí học chưa có đề tài nào làm
sáng tỏ.
Vì vậy, đề tài luận văn của em nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lí luận và
thực tiễn của phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị, bản chất của
nông nghiệp đô thị, những hiệu quả cũng như tồn tại khi phát triển nông nghiệp theo
hướng nông nghiệp đô thị tại thành phố Hải Phòng hiện nay.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và giới hạn đề tài

Mục tiêu


3.1.

Vận dụng cơ sở lí luận và thực tiễn về địa lí nông nghiệp, nông nghiệp đô thị
vào địa bàn thành phố Hải Phòng để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng, thực trạng
phát triển nông nghiệp ở thành phố theo hướng nông nghiệp đô thị dưới góc độ địa
lí học và từ đó đề xuất các giải pháp phát triển để đạt hiệu quả cao và bền vững
trong tương lai.
Nhiệm vụ

3.2.
-

Đúc kết cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp
đô thị để vận dụng vào địa bàn thành phố Hải Phòng.

-

Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp ở thành phố Hải Phòng
theo hướng nông nghiệp đô thị.

-

Phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp ở thành phố Hải Phòng theo hướng
nông nghiệp đô thị.

-

Đề xuất một số giải pháp cho sự phát triển nông nghiệp nông nghiệp đô thị bền

5



vững ở thành phố Hải Phòng đến năm 2020.
Giới hạn đề tài

3.3.
-

Về nội dung: tập trung đánh giá các nhân tố (tự nhiên và kinh tế - xã hội) có ảnh
hưởng đến sản xuất nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị và phân tích thực
trạng phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị dưới góc độ địa lí học
(theo nghĩa hẹp, gồm các ngành trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp).

-

Về không gian: tập trung nghiên cứu các huyện có hoạt động sản xuất nông nghiệp
của thành phố Hải Phòng, bao gồm 7 huyện ngoại thành (không nghiên cứu huyện
đảo Bạch Long Vĩ) và một số quận mới thành lập vẫn còn hoạt động sản xuất nông
nghiệp; có chú ý so sánh với các địa bàn lân cận.

-

Về thời gian: trong giai đoạn từ 2005 đến 2013 và định hướng đến năm 2020.

4.

Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
4.1. Quan điểm nghiên cứu
4.1.1. Quan điểm hệ thống – tổng hợp
Quan điểm này cho phép xem xét lãnh thổ nghiên cứu là một hệ thống, với

nhiều khía cạnh có quy mô, bản chất khác nhau cùng tồn tại trong mối quan hệ tác
động qua lại; mặt khác lãnh thổ đó lại là một bộ phận của hệ thống cấp cao hơn và
có mối quan hệ chặt chẽ với các bộ phận khác.
Quan điểm hệ thống và tổng hợp đặt thành phố Hải Phòng trong các hệ thống
cấu thành lãnh thổ sản xuất lớn hơn là vùng đồng bằng sông Hồng và toàn bộ lãnh
thổ Việt Nam. Mặt khác, bản thân thành phố là một hệ thống kinh tế - xã hội được
cấu tạo bởi mối quan hệ giữa các thành phần tự nhiên, kinh tế, xã hội, dân cư…Hệ
thống các ngành kinh tế, trong đó có nông nghiệp lại bao gồm các bộ phận cấu
thành như nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản với các mối liên hệ tác động qua lại
lẫn nhau. Bất kì sự thay đổi của một thành phần nào cũng sẽ làm ảnh hưởng tới các
thành phần khác nhau và toàn bộ hệ thống kinh tế - xã hội nói chung.
4.1.2. Quan điểm lãnh thổ
Bất kì một sự vật, hiện tượng địa lí nào cũng tồn tại trên một không gian lãnh
thổ nhất định. Tìm ra mọi sự phân hóa theo lãnh thổ, giải thích nguyên nhân và dự

6


kiến sự phân hóa ấy trong tương lai là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
nghiên cứu địa lí.
Vận dụng quan điểm lãnh thổ trong nghiên cứu phát triển nông nghiệp thành
phố Hải Phòng theo hướng nông nghiệp đô thị nhằm đánh giá tác động của các điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đối với sản xuất nông nghiệp và sự phân hóa của
chúng theo các đơn vị lãnh thổ khác nhau, từ đó tìm ra đặc trưng, thế mạnh của từng
vùng sản xuất để có cơ sở quy hoạch phân vùng phát triển nông nghiệp thành phố
theo hướng nông nghiệp đô thị một cách hợp lí và hiệu quả cũng như lí giải được sự
phát triển, phân bố nông nghiệp của thành phố trong điều kiện hiện tại – phân bố
sản xuất theo các vành đai, khác hẳn với phân bố sản xuất trước đây.
4.1.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Sự thay đổi trong khai thác, sử dụng các nguồn lực tự nhiên; sự tăng hay

giảm của giá trị sản xuất cũng như thay đổi trong mô hình sản xuất qua các thời kì
lịch sử đã phản ánh trình độ khái thác tự nhiên và trình độ phát triển lực lượng sản
xuất của xã hội loài người. Sự phát triển sản xuất của ngành nông nghiệp cũng vậy:
từ sản xuất mang tính tự cấp tự túc đến phát triển hàng hóa, chuyên môn hóa; dần
khai thác, sử dụng hợp lí các tiềm năng sinh thái của lãnh thổ và phù hợp với nhu
cầu của của thị trường trong thời điểm hiện tại. Vì vậy, cần nhìn nhận quá khứ để lí
giải được sự phát triển ở hiện tại và có được tầm nhìn chính xác cho tương lai.
Trên quan điểm lịch sử - viễn cảnh, đề tài đã phân tích sự ảnh hưởng thường
xuyên và có tính quyết định của các yêu tố KT-XH đến phát triển nông nghiệp để lí
giải sự phát triển trong hiện tại và đề xuất những giải pháp nhằm sử dụng hợp lí
tiềm năng của lãnh thổ nghiên cứu trong tương lai, đồng thời hạn chế những rủi ro
cho cộng đồng.
4.1.4. Quan điểm phát triển bền vững
Phát triển bền vững đã trở thành xu hướng tất yếu trong mọi chương trình,
chiến lược phát triển của nhân loại trong thời đại ngày nay.
Đối với sản xuất nông nghiệp – một hoạt động chủ yếu dựa vào tự nhiên,
càng phát triển càng tác động nhiều vào tự nhiên thì vấn đề bảo vệ môi trường và

7


phát triển bền vững trở thành một vấn đề sống còn để có thể đạt và duy trì sự phát
triển. Đặc biệt, dưới sức ép của quá trình CNH-HĐH thì yêu cầu phát triển bền
vững, “phát triển xanh” trở nên cấp thiết đối với sản xuất nông nghiệp tại đô thị.
Quán triệt quan điểm này trong quá trình nghiên cứu phát triển nông nghiệp
thành phố Hải Phòng theo hướng nông nghiệp đô thị có ý nghĩa định hướng cho
công tác phân tích, đánh giá các thành quả phát triển nông nghiệp cũng như chỉ ra
những thách thức mà thành phố gặp phải nhằm khai thác lãnh thổ một các hợp lí,
hiệu quả và bền vững.
4.2. Phương pháp nghiên cứu

4.2.1. Phương pháp thu thập, xử lí tài liệu
Đây là phương pháp quan trọng, mấu chốt để mở ra nội dung đề tài nghiên
cứu. Những tài liệu thu được tương đối nhiều và được tác giả tổng hợp lại nội dung
chính để viết nên đề tài này. Cụ thể: thu thập các số liệu từ các trang web trên
internet, các tài liệu liên quan đến nông nghiệp nói chung và nông nghiệp thành phố
Hải Phòng từ sách, báo cáo, niên giám thống kê của cả nước và thành phố qua các
năm, các địa bàn sản xuất nông nghiệp cụ thể tại thành phố …
4.2.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Sau khi có các tài liệu, các bản đồ tranh ảnh cần thiết tác giả tổng hợp những
nội dung có liên quan đến đề tài, chắt lọc các ý, các nội dung sau đó tổng hợp lại và
dựa vào mối quan hệ giữa chúng để giải thích các hiện tượng. Cụ thể: phân tích các
số liệu của các nhân tố như khí hậu, đất, dân số và lao động, hiện trạng phát triển
ngành nông nghiệp của thành phố Hải Phòng đã thu thập được.
4.2.3. Phương pháp thống kê
Mỗi sự vật, hiện tượng đều có hai mặt thống nhất với nhau đó là mặt lượng
và mặt chất, thống kê nghiên cứu mặt lượng của những hiện tượng và quá trình kinh
tế - xã hội cụ thể. Trên cơ sở nhận thức được nội dung và bản chất của những hiện
tượng và quá trình kinh tế - xã hội mà các phương pháp khác đã xác định, phương
pháp thống kê có nhiệm vụ nghiên cứu quy mô, mức độ, cơ cấu và xu hướng phát
triển về mặt số lượng của chúng.

8


Để phù hợp với đối tượng nghiên cứu, phương pháp thống kê giúp xây dựng
hệ thống chỉ tiêu phản ánh các điều kiện sản xuất và kết quả của sản xuất nông
nghiệp. Trên cơ sở các chỉ tiêu đó chúng ta hiểu rõ được quy mô, trình độ và xu
hướng phát triển có tính chất quy luật của đối tượng đang nghiên cứu. Trong luận
văn, nguồn dữ liệu thống kê về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của vùng nghiên
cứu, hiện trạng phát triển cũng như các kết quả nghiên cứu được kế thừa là những

thông tin cơ sở quan trọng cho việc thực hiện đề tài.
4.2.4. Phương pháp điều tra, khảo sát thực địa
Việc tiến hành điều tra, khảo sát thực địa là một yêu cầu cần thiết nhằm kiểm
định số liệu thu thập được, phát hiện các vấn đề tồn tại và bổ sung những thông tin
từ thực tế cho những nhận xét được đưa ra. Từ đó việc điều tra thực địa, đề tài có
thể đánh giá các nhân tố tác động và hiện trạng phát triển nông nghiệp của Hải
Phòng theo hướng nông nghiệp đô thị một cách khách quan và chính xác nhất.
4.2.5. Phương pháp bản đồ, GIS
Đề tài khoa học nào cũng cần đến bản đồ và sự cập nhật thông tin, mang tính
hiện đại, mới mẻ: Sử dụng phần mềm Microsof exel, Mapinfo, SPSS…để xử lí số
liệu thống kê, thành lập các dữ liệu địa lí , xây dựng biểu đồ , chồng xếp các thông
tin địa lí để xác định đặc trưng của một số nhân tố ảnh hưởng và thực trạng sản xuất
nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị của Hải Phòng.
5.

Những đóng góp chủ yếu của đề tài
- Đúc kết, làm sáng tỏ được cơ sở lí luận và thực tiễn về nông nghiệp, và
nông nghiệp theo hướng đô thị để vận dụng vào địa bàn nghiên cứu.
- Làm rõ được những điều kiện (thuận lợi và khó khăn) cho việc phát triển
nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị ở thành phố Hải Phòng.
- Đưa ra được bức tranh phát triển và phân bố nông nghiệp trên địa bàn thành
phố Hải Phòng, chủ yếu ở một số quận (huyện) mới vẫn còn sản xuất nông nghiệp.
- Nêu được một số giải pháp cho phát triển nông nghiệp theo hướng nông
nghiệp đô thị tại thành phố trong tương lai.

9


6.


Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, hệ thống các
bản đồ, biểu đồ, bảng biểu, luận văn được cấu trúc làm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về nông nghiệp và nông nghiệp đô thị.
Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng, thực trạng phát triển nông nghiệp TP. Hải
Phòng theo hướng nông nghiệp đô thị.
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp TP. Hải Phòng
theo hướng nông nghiệp đô thị.

10


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÔNG NGHIỆP
VÀ NÔNG NGHIỆP ĐÔ THỊ
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất đai để
trồng trọt và chăn nuôi; khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao
động chủ yếu để tạo ra lương thực, thực phẩm và một số nguyên liệu cho công nghiệp.
Nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản. Còn theo
nghĩa hẹp, nông nghiệp chỉ gồm trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp.
Từ khi ra đời đến nay, nông nghiệp luôn đóng vai trò quan trọng trong việc
phát triển kinh tế cũng như bảo đảm sự sinh tồn của loài người. Từ xưa, ông cha ta
đã có câu: “Phi nông bất ổn”. Ănghen cũng đã khẳng định: “nông nghiệp là ngành
có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ thế giới cổ đại và hiện nay nông nghiệp lại
càng có ý nghĩa như thế”. [12]
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam (1995): Nông nghiệp là ngành sản xuất vật

chất cơ bản của xã hội; sử dụng đất đai để trồng trọt, chăn nuôi, khai thác cây trồng
và vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu, tạo ra lương thực, thực
phẩm và một số nguyên liệu cho công nghiệp”. [18]
1.1.1.2. Đô thị
Hiện nay, tồn tại nhiều khái niệm khác nhau về đô thị.
Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995) đã định nghĩa: “Đô thị là một không
gian cư trú của cộng đồng người sống tập trung và hoạt động trong những khu vực
kinh tế phi nông nghiệp”[18]
Luật Quy hoạch Đô thị được Quốc hội phê chuẩn năm 2009, tại Điều 3, Giải
thích từ ngữ, điểm 1 có ghi [8]: “Đô thị là khu vực tập trung dân cư sinh sống có
mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung

11


tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy
sự phát triển KT-XH của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa pương, bao gồm
nội thành, ngoại thành của TP; nội thị, ngoại thị của thị xã; thị trấn”.
Tại điều 4, Phân loại và cấp quản lý hành chính đô thị, có ghi: Đô thị được
phân thành 6 loại, gồm: đô thị loại đặc biệt, đô thị loại I, II, III, IV và V theo các
tiêu chí cơ bản sau đây: chức năng đô thị, quy mô dân số, mật độ dân số, tỷ lệ lao
động phi nông nghiệp, trình độ phát triển cơ sở hạ tầng. Cụ thể, đối với đô thị loại I,
tỷ lệ lao động phi nông nghiệp tối thiểu đạt 90% tổng số lao động, loại I-85%,
Về mặt hành chính, các đô thị Việt Nam từ loại IV trở lên đều có hai khu
vực: khu vực nội thành và khu vực ngoại thành. Trong đó, khu vực ngoại thành có
điều kiện đất đai thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, vùng xanh phục vụ đô
thị và các vùng cảnh quan sinh thái.
Có thể thấy, dù là đô thị loại nào thì cũng vẫn có một tỷ lệ nhất định lao động
làm nông nghiệp và một khu vực nhất định để bố trí sản xuất nông nghiệp. Do vậy,
nông nghiệp vẫn là hoạt động kinh tế quan trọng ở đô thị.

1.1.1.3. Nông nghiệp đô thị
Hiện nay, có nhiều khái niệm khác nhau về nông nghiệp đô thị.
Theo Tổ chức Nông lương Liên hiệp quốc FAO (1996) và Chương trình phát
triển Liên hiệp quốc UNDP (1999) thì đây là những hoạt động sản xuất nông nghiệp
ở trung tâm, ngoại ô và khu vực lân cận đô thị, có chức năng trồng trọt, chăn nuôi,
chế biến và phân phối các loại thực phẩm, lương thực và các sản phẩm khác, sử
dụng các nguồn lực tự nhiên và nhân văn, các sản phẩm cùng các dịch vụ ở đô thị
và vùng lân cận đô thị để cung cấp trở lại cho đô thị các sản phẩm và dịch vụ cao
cấp. NNĐT bao gồm nông nghiệp nội thị và nông nghiệp ngoại thị với các hoạt
động chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản [27].
Theo tác giả Phạm Sỹ Liêm: “ NNĐT là ngành kinh tế trong đô thị và ven đô, sản
xuất, chế biến, cung ứng cho người dân đô thị lương thực, thực phẩm tươi sống, hoa, sin
vật cảnh; dùng phương pháp canh tác hữu cơ và công nghệ cao không cần nhiều đất,

12


không gây ô nhiễm môi trường, sử dụng và tái sử dụng tài nguyên và chất thải đô thị;
tăng thêm không gian xanh và cơ hội thư giãn cho người dân đô thị”.[8]
Tác giả Lê Văn Trường định nghĩa: “NNĐT là một ngành sản xuất ở trung
tâm, ngoại ô và vùng lân cận đô thị, có chức năng trồng trọt, chăn nuôi, chế biến và
phân phối các laoij thực phẩm, lương thực và các sản phẩm khác, sử dụng các
nguồn lực tự nhiên và nhân văn, các sản phẩm cùng các dịch vụ ở đô thị và vùng lân
cận đô thị để cung cấp trở lại cho đô thị các sản phẩm và dịch vụ cao cấp” [8].
Tác giả Nguyễn Đăng Nghĩa quan niệm: “NNĐT là sự thống nhất của hai bộ
phận cấu thành: nông nghiệp nội thị và nông nghiệp ngoại thị. Nông nghiệp nội thị ám
chỉ các diện tích nhỏ (các lô đất trống, sân vườn, thảm cỏ, ban công, sân thượng) trong
các thành phố lớn, được sử dụng để trồng cây hoặc chăn nuôi gia súc nhỏ, bò sữa nhằm
tự tiêu thụ hoặc bán cho các chợ lân cận . Nông nghiệp ngoại thị để chỉ những đơn vị
nông nghiệp ở gần thành phố, sản xuất theo hình thức thâm canh, cung cấp cho thị

trường đô thị các sản phẩm tươi sống như rau, hoa, quả, thịt, trứng, sữa” [27].
Tóm lại, có rất nhiều khái niệm khác nhau về NNĐT. Ở điều kiện cụ thể của
Việt Nam, có thể hiểu: NNĐT là ngành kinh tế trong đô thị và ven đô thị; vừa cung
cấp lương thực, thực phẩm tươi sống, hoa, sinh vật cảnh; vừa tạo thêm không gian
xanh và cơ hội thư giãn cho người dân đô thị; sử dụng và tái sử dụng tài nguyên
thiên nhiên và chất thải đô thị; áp dụng kĩ thuật tham canh cao và thương mang lại
hiệu quả kinh tế cao.
1.1.2. Vai trò của nông nghiệp đô thị
1.1.2.1. Cung cấp lương thực, thực phẩm tươi sống, tại chỗ cho dân cư đô thị
An ninh lương thực và an toàn vệ sinh thực phẩm là vấn đề đã và đang rất
được quan tâm hiện nay tại các đô thị, đặc biệt là những người có thu nhập thấp tại
các đô thị của các nước đang phát triển như nước ta. Quy mô dân số đô thị không
ngừng gia tăng trong quá trình đô thị hóa, quá trình này cũng đồng thời đẩy các hộ
dân nghèo ven đô vào tình thế mất tư liệu sản xuất chính và vấn đề gia tăng các hộ
khó khăn, hộ thu nhập thấp ở khu vực đô thị càng ngày càng khó kiểm soát. Vì vậy
nguy cơ thiếu hụt nguồn lương thực cơ bản đáp ứng cho các hộ khó khăn ngày càng

13


trở nên hiện hữu, phát triển NNĐT là cứu cánh duy nhất cho vấn đề này. Người dân
nông thôn có thể tự sản xuất được các nhu cầu lương thực, thực phẩm để đáp ứng
nhu cầu trong ngày còn người dân nghèo đô thị thì không thể mua được lương thực
thực phẩm nếu không có tiền. Do vậy nguy cơ thiếu lương thực, dinh dưỡng ở
người dân thành thị lớn hơn so với nông thôn, nhất là trong điều kiện giá cả các mặt
hàng thiết yếu gia tăng mạnh như hiện nay. Để đảm bảo phát triển bền vững, giảm
khoảng cách quá xa trong nhu cầu dinh dưỡng thiết yếu của người dân đô thị, phát
triển nông nghiệp đô thị thực sự là một giải pháp quan trọng hiện nay. Nếu tổ chức
tốt việc sản xuất được quy hoạch hợp lý, nông nghiệp đô thị có thể tạo ra nguồn
lương thực, thực phẩm tươi sống và an toàn, tại chỗ góp phần to lớn vào việc đáp

ứng nhu cầu tiêu dùng của cư dân đô thị.
Trong điều kiện quỹ đất đô thị và vùng ven bị hạn chế, việc áp dụng công
nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp để tăng sản lượng cây trồng vật nuôi là vấn đề
mang tính tất yếu và cấp bách. Trong khi một bộ phận khá lớn nông dân ở khu vực
nông thôn chưa có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ khoa học và công nghệ, còn tổ
chức sản xuất sản xuất nông nghiệp theo lối quảng canh, truyền thống thì nông
nghiệp đô thị có rất nhiều thuận lợi trong việc vận dụng những dịch vụ khoa học,
công nghệ vào sản xuất. Bên cạnh đó, nông nghiệp đô thị còn có khả năng phát triển
theo các mô hình chuyên biệt để cung ứng nhiều dịch vụ cho đô thị như cung cấp
cây xanh, hoa tươi và thực phẩm cho khách sạn, cung ứng dịch vụ du lịch, dịch vụ
an dưỡng,...
1.1.2.2. Tạo việc làm và tăng thu nhập cho một bộ phận dân cư đô thị
Nông nghiệp đô thị tạo việc làm và thu nhập cho một bộ phận dân cư ở đô thị.
Trong tiến trình đô thị hóa, vì các mục tiêu chung của các đô thị mà vấn đề
thu hẹp diện tích đất nông nghiệp của nông dân ven đô diễn ra phổ biến. Người dân
mất tư liệu sản xuất, buộc phải chuyển đổi nghề nghiệp trong điều kiện không có
trình độ, vốn hạn chế, kinh nghiệm thích ứng với lối sống và tác phong công nghiệp
rất thấp vì vậy vấn đề việc làm cho người lao động, nhất là những gia đình ven đô
càng trở nên cấp thiết. Bên cạnh đó, làn sóng di chuyển dân cư từ nông thôn về

14


thành thị để tìm kiếm việc làm cũng gia tăng nhanh chóng. Trong vấn đề này với
NNĐT, nếu được quan tâm và có quy hoạch, có chiến lược phù hợp để tận dụng quỹ
đất đô thị và sức lao động dôi dư để góp phần quan trọng vào việc giải quyết bài
toán việc làm và thu nhập trong tiến trình đô thị hóa.
1.1.2.3. Quản lí và sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên
Nông nghiệp đô thị có thể tái sử dụng chất thải đô thị để làm phân bón, nước
tưới,...cho sản xuất nông nghiệp, góp phần quan trọng việc làm giảm ô nhiễm môi

trường, phục vụ sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất sạch, an toàn và hiệu
quả. Điều này thật sự có ý nghĩa trong việc cải thiện môi trường, nâng cao chất
lượng cuộc sống. Nông nghiệp là ngành sản xuất yếu cầu một lượng nước rất lớn
tuy nhiên với nông nghiệp đô thị bằng cách tái sử dụng nguồn nước thải nó có thể
cải thiện công tác quản lý tài nguyên nước hướng tới mục tiêu phát triển bền vững
cho các đô thị.
Tại các đô thị, tình trạng đất đai bị bẩn hóa, suy thoái, thiếu màu mỡ cũng
được quan tâm không kém so với việc ô nhiễm và thiếu nguồn nước. Phần lớn đất
đai kém phì nhiêu, bị nhiễm bẩn do các hóa chất công nghiệp, do bị ảnh hưởng bởi
hoạt động xây dựng…Một trong những nhiệm vụ quan trọng của nông nghiệp đô thị
là tái tạo chất dinh dưỡng cho đất thông qua tái sử dụng các chất thải hữu cơ từ các
hoạt động của đô thị. Điều này vừa góp phần giảm ô nhiễm môi trường cho các đô
thị vừa giảm các hóa chất khi đưa phân bón hóa học vào đất dễ gây ô nhiễm, lại vừa
giảm được chi phí mua phân bón. Nông nghiệp đô thị được sản xuất tại chỗ ven các
đô thị nên sau thu hoạch, chi phí đóng gói, vận chuyển và bảo quản bằng kho lạnh
được bỏ qua nên góp phần giảm giá thành đến mức tối đa. Chất lượng các sản phẩm
được đảm bảo an toàn đồng thời góp phần giảm lượng xe cộ trọng tải lớn vào ra các
đô thị, giảm tai nạn và ô nhiễm đáng kể cho khu vực đô thị.
1.1.2.4. Tạo cảnh quan đô thị và cải thiện sức khỏe cộng đồng
Phát triển “đô thị sinh thái” hay “đô thị xanh” là những cụm từ đang trở nên
phổ biến tại các diễn đàn về phát triển đô thị hiện nay. Mục tiêu hướng tới là quy
hoạch và xây dựng các đô thị có môi trường và cảnh quan thân thiện với thiên

15


nhiên, đảm bảo các tiêu chuẩn tốt cho sức khỏe cộng đồng. Đối với mục tiêu này
trong tiến trình đô thị hóa và phát triển của các đô thị, phát triển nông nghiệp đô hị
thực sự là một giải pháp hiệu quả nhất. Ngoài các ý nghĩa như trên, nông nghiệp đô
thị sẽ tạo ra hệ thống cảnh quan, các vành đai xanh rất ý nghĩa cho các đô thị (cây

xanh, công viên, mảng xanh trên các ban công, hay các vành đai xanh bao quanh
ven đô… là những hình thức và sản phẩm của nông nghiệp đô thị). Sản xuất nông
nghiệp đô thị một mặt vừa đảm bảo các nhu cầu về dinh dưỡng, mặt khác nó cũng
chính là một hình thức lao động, giải trí góp phần nâng cao thể lực, trí lực cho cư
dân đô thị.
1.1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp theo hướng nông
nghiệp đô thị
1.1.3.1. Vị trí địa lí
Vị trí địa lí có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của
một lãnh thổ và vị trí địa lí như một yếu tố khác biệt có tác động đến hướng chuyên
môn hóa, trình độ và quy mô sản xuất nông nghiệp trên một lãnh thổ nhất định, đặc
biệt là tại các đô thị.
Chỉ xét riêng tác động của vị trí địa lí tới nông nghiệp của đô thị, có thể thấy:
vị trí địa – chính trị của đô thị đó so với lãnh thổ xung quanh sẽ ảnh hưởng tới sự
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển theo
chiều sâu, gắn với công nghiệp chế biến và nông nghiệp đô thị, nông nghiệp sinh
thái. Hơn nữa, các yếu tố thuộc vị trí địa lí như giao thông, đô thị trung tâm và đô
thị vệ tinh, các trung tâm công nghiệp, khu công nghiệp…có ảnh hưởng to lớn đến
việc lựa chọn và hình thành cơ cấu các ngành nông nghiệp, tính hàng hóa của sản
phẩm nông nghiệp, hình thành nên các lãnh thổ sản xuất nông nghiệp với quy mô
như thế nào. Vị trí địa lí của các vùng nông nghiệp ven các đô thị lớn tạo nên sức
hấp dẫn về thị trường tiêu thụ, về khả năng thu hút lao động, khoa học kĩ thuật, vốn
đầu tư, trao đổi các dịch vụ, hàng hóa…nên sẽ thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp
theo hướng hàng hóa với các nông phẩm chủ yếu là rau quả, thực phẩm…với năng
suất, chất lượng cao. Đồng thời, sự khác nhau về vị trí đất đai xa hay gần trung tâm

16


đôt hị cũng có thể dẫn đến lợi nhuận thu được khác nhau.

Do đó, khi muốn phát triển nông nghiệp một cách hiệu quả tại các đô thị cần
xem xét đầy đủ, toàn diện các yếu tố do vị trí địa lí đem lại. Và trong điều kiện kinh
tế thị trường, xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, yếu tố vị trí địa lí càng được đánh giá
cao khi lựa chọn các địa bàn để đầu tư, phát triển các lãnh thổ trọng điểm và tạo ra
các mối liên kết liên vùng, liên khu vực cho sản xuất nông nghiệp.
1.1.4.2. Kinh tế - xã hội
a. Dân cư và nguồn lao động

Dân cư và nguồn lao động có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động sản xuất nông
nghiệp nói chung và tại các đô thị nói riêng, dưới hai góc độ: là lực lượng sản xuất
trực tiếp và là nguồn tiêu thụ các nông sản.
-

Dưới góc độ là lực lượng sản xuất trực tiếp tạo ra các sản phẩm nông nghiệp, nguồn
lao động được coi là nhân tố quan trọng để phát triển nông nghiệp đô thị. Số lượng
và chất lượng của lao động có ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp cả theo chiều
rộng (mở rộng diện tích, quy mô sản xuất) và chiều sâu (thâm canh, xen canh, tăng
vụ). Ở các đô thị, đặc biệt là các đô thị lớn lực lượng sản xuất có chất lượng cao hơn
vùng nông thôn. Trình độ văn hóa, chuyên môn kĩ thuật cao, tiếp cận nhanh với tiến
bộ kĩ thuật và công nghệ, năng động trong cơ chế thị trường… sẽ tạo điều kiện phát
triển nông nghiệp có hiệu quả. Tuy nhiên, lao động nông nghiệp thường thiếu hụt do
bị cạnh tranh bởi các hoạt động kinh tế khác. Vì vậy, việc bố trí, triển khai sản xuất
sẽ gặp nhiều khó khăn.

-

Dưới góc độ là nguồn tiêu thụ nông sản thì các yếu tố cơ bản như: quy mô dân số,
gia tăng dân số, phân bố dân cư, mức sống dân cư, thị hiếu và tập quán tiêu dùng
của dân cư có ảnh hưởng lớn đến phát triển NNĐT.
Quy mô dân số có ý nghĩa quyết định đến quy mô của hoạt động sản xuất

nông nghiệp. Ở các đô thị, quy mô dân số đông, tốc độ gia tăng dân số nhanh (đặc
biệt là gia tăng cơ học do nhập cư vào các đô thị), mức sống dân cư ngày càng được
cải thiện thì nhu cầu về lương thực – thực phẩm (như rau, hoa, quả, thịt , trứng, sữa)
của đô thị ngày càng đa dạng, phong phú về số lượng, chủng loại và sạch, an toàn

17


về chất lượng. Từ đó đòi hỏi nông nghiệp ở đô thị phải phát triển nhanh, có chất
lượng và hiệu quả, hình thành loại hình nông nghiệp đặc trưng: nông nghiệp đô thị
với quy mô, cơ cấu cây trồng, vật nuôi đặc trưng.
Vì vậy, nguồn lao động trở thành nhân tố thúc đẩy sự phát triển của NNĐT.
b. Thị trường tiêu thụ

Thị trường là yếu tố rất quan trọng, có tác động lớn đối với sản xuất nông
nghiệp. Thông qua nhu cầu tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, giá cả nông sản của thị
trường có tác dụng điều tiết đối với sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất
nông nghiệp tại các đô thị nói riêng.
Nhu cầu của thị trường phụ thuộc vào thu nhập của người tiêu dùng và cơ
cấu dân cư của từng vùng, từng khu vực. Thông thường thu nhập tăng tỉ lệ thuận với
nhu cầu tiêu dùng. Đối với các sản phẩm nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu thiết yếu có
xu hướng giảm, ngược lại nhu cầu về sản phẩm cao cấp đã qua chế biến tăng lên
mạnh trong giai đoạn hiện nay. Điều đó kích thích sản xuất nông nghiệp nâng cao
chất lượng sản phẩm, phát triển theo hướng chuyên môn hóa, làm cơ sở cho nền sản
xuất nông nghiệp hiện đại, tiên tiến ra đời.
Trong nền kinh tế thị trường, yếu tố thị trường càng có vai trò quyết định đến
sự phát triển nền nông nghiệp hàng hóa. Các yếu tố về tự nhiên, lao động, tiến bộ
khoa học kĩ thuật, cơ sở vật chất,…được xem là yếu tố đầu vào, thì thị trường chính
là yếu tố đầu ra, tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp.
Trong trường hợp tại các đô thị, sản xuất nông nghiệp có một thị trường lớn

và tiềm năng với mạng lưới giao thông, bưu chính-viễn thông, hệ thống phân phối
hàng hóa (mạng lưới chợ , siêu thị, hệ thống cửa hàng tiện lợi…) hiện đại, tương
đối đồng bộ; các cơ sở chế biến phát triển rộng khắp; dân đông, lượng khách vãng
lai nhiều, thu nhập của người dân có xu hướng ngày càng cao, sức tiêu thụ hang hóa
lớn. Tuy nhiên, những yêu cầu về chất lượng cũng như vệ sinh an toàn thực phẩm
cũng khắt khe hơn. Chính vì vậy, thị trường tại các đô thị vừa tạo ra cơ hội, vừa
mang đến những thách thức cho sản xuất NNĐT.

18


c. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật

Cơ sở hạ tầng bao gồm đường giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống điện
nước ảnh hưởng rõ rệt tới việc hình thành và phát triển nông nghiệp nói chung và
các hình thức sản xuất nông nghiệp nói riêng. Để có thể phát triển nông nghiệp tại
các đô thị, thì một trong những điều kiện quan trọng đầu tiên là cơ sở hạ tầng. Thực
tiễn cho ta thấy, cơ sở hạ tầng giao thông và dịch vụ yếu kém ở nông thôn, làm tăng
chi phí marketing, hạn chế thị trường địa phương và xuất khẩu. Ngược lại, tại các
đô thị, cơ sở hạ tầng được trang bị hiện đại, đồng bộ, được xây dựng và phân bố
hợp lí sẽ giúp giảm thiểu chi phí sản xuất, giao dịch; thúc đẩy lưu thông, mở rộng
thị trường tiêu thụ; tạo điều kiện ứng dụng hiệu quả các biện pháp thâm canh và
hình thành các vùng chuyên môn hóa nông nghiệp, thúc đẩy NNĐT phát triển. Ở
Việt Nam, việc nâng cấp đường giao thông đã làm tăng chủng loại hàng hóa mà các
hộ gia đình bán ra thị trường, chủ yếu là: rau, quả, hoa, thịt, khuyến khích họ tham
gia mạnh mẽ hơn vào thương mại và dịch vụ.
Hệ thống thông tin thị trường đóng vai trò quan trọng thúc đẩy nông nghiệp
phát triển, đặc biệt là tại các đô thị. Thông tin thị trường làm cho nông dân và
thương nhân nắm được nhu cầu và thị hiếu thay đổi của người tiêu dùng, giúp
hướng dẫn canh tác, tiếp thị và đầu tư. Thông tin thị trường bao gồm giá cả chính

xác, kịp thời, thông tin liên lạc của người mua, các kênh phân phối và xu hướng của
người mua và người sản xuất…
Cơ sở vật chất kĩ thuật là nền tảng cho việc phát triển nền nông nghiệp tại
các đô thị. Nơi nào có cơ sở vật chất kĩ thuật tốt (hệ thống thủy nông, các trạm
giống, thú y, các xí nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp, các cơ sở thu gom nông
sản…) thì ở đó hoạt động sản xuất nông nghiệp sẽ đạt hiệu quả cao, NNĐT phát
triển ở trình độ cao, hướng về sản xuất hàng hóa. Và ngược lại, khi mà hệ thống cơ
sở vật chất kĩ thuật kém hoặc thiếu thì sẽ khó có thể hình thành và phát triển NNĐT
một cách hiệu quả.
d. Đô thị hóa và công nghiệp hóa

Ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam và nhất là ở các thành phố

19


lớn, quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng.
Quá trình CNH và HĐH biểu hiện ở sự gia tăng dân số đô thị; phát triển các công
trình công nghiệp, khu chế xuất, khu dịch vụ và các công trình hạ tầng cơ sở của đô
thị; mở rộng diện tích các đô thị và xây dựng các khu đô thị mới. Quá trình này tác
động đến phát triển nông nghiệp ở thành phố trên hai phương diện:
Thứ nhất, diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp do chuyển đổi mục đích sử
dụng để xây dựng các khu công nghiệp, các khu đô thị mới và mở rộng không gian
đô thị ra các vùng ngoại thành, thành lập các quận mới…vì thế đòi hỏi phải thay đổi
cơ cấu nông nghiệp cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại.
Thứ hai, đô thị hóa và công nghiệp hóa sẽ thu hút lao động nông nghiệp
chuyển sang các ngành công nghiệp và dịch vụ, thu hút cả dòng người nhập cư từ
các vùng nông thôn vào các khu công nghiệp và nội thành làm cho quy mô dân số
tăng nhanh và như vậy nhu cầu về lương thực, thưc phẩm ngày càng tăng. Vì thế,
việc phát triển nông nghiệp ở các thành phố phải có chiến lược và phương hướng

thích hợp.
e. Đường lối chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn

Đường lối chính sách có tác dụng rất mạnh đến sự phát triển nông nghiệp. Sự
điều hành vĩ mô của Nhà nước với các chính sách, chế độ, biện pháp đúng đắn sẽ
thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp. Và ngược lại nếu hệ thống chính sách không
phù hợp sẽ kìm hãm, thậm chí đẩy lùi quá trình phát triển nông nghiệp. NNĐT là
loại hình sản xuất mới, mang tính đặc thù của từng đô thị nên rất cần có những
chính sách tạo đà, tạo thế cho NNĐT hình thành và phát triển.
Môi trường chính sách đóng vai trò quan trọng đối với sự thành công hay
thất bại của việc phát triển NNĐT. Nếu môi trường chính sách thích hợp sẽ phát huy
tính năng động của các chủ thể sản xuất – kinh doanh, khai thác tốt nhất mọi tiềm
năng thế mạnh của khu vực đô thị, thúc đẩy phát triển NNĐT theo hướng hang hóa.
Như vậy, Chính sách kinh tế và cơ chế quản lí của Nhà nước có thể tạo ra sự tiến bộ
hay không tiến bộ của sản xuất nông nghiệp.
Việc đảm bảo sự phát triển hài hòa, cân đối của nông nghiệp trong cơ cấu

20


nền kinh tế quốc dân, cũng như thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, tại các đô thị đòi hỏi Nhà nước phải xác định mục tiêu chiến lược cho
từng giai đoạn cụ thể. Đây cũng là cơ sở để Nhà nước đề ra các chính sách kinh tế xã hội, dẫn dắt hoạt động của các chủ thể kinh tế NNĐT vận hành phù hợp với lợi
ích chung của xã hội.
f.

Khoa học và công nghệ
Khoa học kĩ thuật và công nghệ thực sự là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của
NNĐT. Nhờ nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, con người hạn chế
được những ảnh hưởng của tự nhiên, chủ động hơn trong sản xuất nông nghiệp, tạo

ra nhiều giống cây, con mới có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất cao, chất
lượng tốt, đáp ứng được nhu cầu ngày càng lớn về số lượng và ngày càng cao về
chất lượng của con người. Khoa học kĩ thuật tạo ra những khả năng sản xuất mới
trong NNĐT, cho phép tạo ra sản phẩm nông sản với sản lượng lớn, chất lượng cao
hơn đồng thời lại giảm được chi phí sản xuất. Khoa học công nghệ còn thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa
qua việc làm nông nghiệp tại các đô thị chuyển từ cung cấp các sản phẩm thô sang
cung cấp các sản phẩm đã qua chế biến.
Các thành phố thường là nơi tập trung các cơ quan nghiên cứu khoa học, các
trường đại học nên dễ dàng tiếp cận và triển khai những thành tựu khoa học và công
nghệ vào sản xuất nông nghiệp, sử dụng các dịch vụ khoa học, công nghệ để phát
triển sản xuất. Đồng thời, ở các thành phố, nhờ dịch vụ khoa học và công nghệ mà
khả năng phát triển các mô hình nông nghiệp công nghệ cao dễ dàng hơn và từ đó
khả năng cung ứng sản phẩm nông nghiệp cao cấp như cây xanh, hoa tươi và thực
phẩm cho khách sạn, dịch vụ du lịch phát triển.
Như vậy, khoa học – công nghệ thực sự là đòn bẩy, thúc đẩy sự tăng trưởng
và phát triển của NNĐT.

g. Nguồn vốn đầu tư

Nguồn vốn có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển và phân bố NNĐT.
Nguồn vốn tăng nhanh, được phân bố và sử dụng một cách có hiệu quả sẽ tác động đến

21


tăng trưởng và mở rộng sản xuất, đáp ứng các chương trình phát triển nông nghiệp, đưa
tiến bộ khoa học - công nghệ vào nông nghiệp…thúc đẩy NNĐT phát triển.
Đối với nông nghiệp, vấn đề thu hút vốn đầu tư rất khó khăn. So với các
ngành kinh tế khác thì nông nghiệp là ngành nhận được ít đầu tư nhất do nông

nghiệp phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, tiềm ẩn nhiều rủi ro, cũng như tốc độ tăng
trưởng của nông nghiệp thường thấp hơn nhiều so với công nghiệp và dịch vụ. Vì
vậy, để sản xuất nông nghiệp tại các đô thị mang lại hiệu quả kinh tế cao, một trong
những vấn đề quan trọng nhất là làm sao thu hút được vốn đầu tư, thì mới có thể sản
xuất lớn, cũng như áp dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật trong sản xuất nông
nghiệp: thay đổi giống cây trồng, vật nuôi; hiện đại hóa công cụ lao động và nâng
cao trình độ sản xuất…
1.1.4.3. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
Các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên thường được coi là yếu tố
tiền đề, có tính vật chất để phát triển lãnh thổ. Điều này càng đặc biệt quan trọng
đối với vấn đề phát triển NNĐT, bởi vì đất đai là tư liệu sản xuất của nông nghiệp
và nông nghiệp là ngành phụ thuộc nhiều vào tự nhiên: các nhân tố tự nhiên trực
tiếp quy định sự hình thành, quy mô, tính chất cũng như phương hướng phát triển
của sản xuất NNĐT.
Chính vì vậy, việc phân tích những khác biệt về tự nhiên là bước cần thiết để
đánh giá trạng thái phát triển và phân bố NNĐT. Các nhân tố tự nhiên có vai trò đặc
biệt quan trọng, trong đó nổi lên hàng đầu là đất, nước, khí hậu.
a. Địa hình và đất

Địa hình có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất nông nghiệp tại các đô
thị. Đô thị nào có địa hình bằng phẳng tạo điều kiện cho canh tác, áp dụng cơ giới
hóa trong nông nghiệp, giữ được độ ẩm cho đất, hình thành các vùng sản xuất tập
trung. Ngược lại, các đô thị có địa hình dốc, việc làm đất, làm thủy lợi đều gặp khó
khăn, tốn kém trong công tác chống xói mòn, rửa trôi… Đô thị nào có địa hình đa
dạng sẽ tạo nên cơ cấu sản xuất đa dạng và ngược lại. Ngoài ra, địa hình cũng có
ảnh hưởng tới việc lựa chọn cơ cấu cây trồng, vật nuôi.

22



Đất được coi là tư liệu sản xuất quan trọng nhất của NNĐT, cơ sở để tiến
hành trồng trọt và chăn nuôi tại các đô thị. Sản xuất NNĐT không thể diễn ra nếu
không có đất. Quy mô sản xuất, trình độ phát triển, mức độ thâm canh, phương
hướng sản xuất lệ thuộc vào số lượng và chất lượng của đất.
Nhìn chung, tài nguyên đất nông nghiệp tại các đô thị rất hạn chế, chỉ chiếm
dưới 10% diện tích tự nhiên của toàn thế giới. Xu hướng bình quân đất nông nghiệp
đô thị trên đầu người ngày một giảm do gia tăng dân số, do chuyển đổi mục đích
sang công nghiệp, đất đô thị và đất cho cơ sở hạ tầng. Đặc biệt, trong quá trình đô
thị hóa và mở rộng không gian đô thị, vấn đề thu hẹp diện tích đất nông nghiệp ở
vùng ven đô diễn ra rất phổ biến. Thực tế này tạo nên sự cản trở khi thực hiện tích
tụ, đầu tư trên đất; cản trở việc lựa chọn, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và
ứng dụng công nghệ, kĩ thuật canh tác hiện đại.
Sự chênh lệch giữa giá đất nông nghiệp và đất ở, giữa giá đất nông nghiệp ở
các huyện ven đô và xa đô là rất lớn. Cho nên việc duy trì và tận dụng quỹ đất nông
nghiệp đô thị trong phát triển sản xuất nông nghiệp có ý nghĩa quan trọng, làm giảm
khoảng cách quá xa trong nhu cầu về lương thực, thực phẩm tươi sống, nhu cầu
dinh dưỡng thiết yếu của vùng dân đô thị. Đồng thời, nền nông nghiệp thành phố
phải chọn lọc các nông phẩm có giá trị cao để có thu nhập ổn định…, thực hiện
thâm canh tăng vụ, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ.
b. Khí hậu

Khí hậu với các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa, ánh sáng, độ ẩm, chế độ gió và
cả những bất thường của thời tiết như bão, lũ lụt, hạn hán, gió nóng… có ảnh hưởng
rất lớn với việc xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu mùa vụ, khả năng xen
canh, tăng vụ và hiệu quả sản xuất nông nghiệp tại các đô thị. Tính mùa của khí hậu
quy định tính mùa trong sản xuất và cả trong tiêu thụ sản phẩm. Mỗi loại cây trồng,
vật nuôi chỉ thích hợp với những điều kiện khí hậu nhất định, nghĩa là trong giới
hạn cho phép.
Những đô thị có sự dồi dào của khí hậu về: độ ẩm và lượng mưa phong phú,
thời gian có ánh nắng mặt trời nhiều, cường độ bức xạ lớn…sẽ cho phép trồng


23


nhiều vụ trong năm với cơ cấu cây trồng, vật nuôi phong phú, đa dạng, có khả năng
xen canh gối vụ cao. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển cũng cần chú ý đến tính
chất biến động thất thường của khí hậu, thời tiết như bão, lũ lụt, hạn hán, sương
muối…để giảm thiểu những tác hại của chúng đến năng suất của cây trồng và vật
nuôi, tránh tác hại đến sản xuất nông nghiệp; tạo diều kiện cho NNĐT phát triển
bền vững.
c. Nguồn nước

Nước ngọt là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu của NNĐT vì
nước cần thiết cho sự sinh trưởng phát triển của cây trồng, vật nuôi. Nó ảnh hưởng
đến năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi và hiệu quả sản xuất nông nghiệp tại
các đô thị.
Hiện nay, các thành tựu khoa học kĩ thuật được áp dụng ngày càng nhiều vào
sản xuất nông nghiệp nhưng nước vẫn là vấn đề quan trọng đối với phát triển
NNĐT. Dưới tác động tiêu cực của quá trình CNH, ĐTH, nhiều khu vực ở đô thị,
nguồn nước bị ô nhiễm do phải tiếp nhận một lượng lớn chất thải sinh hoạt, y tế,
công nghiệp; làm cho nguồn nước ngọt tại các đô thị bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vì
vậy, để phát triển một nền NNĐT bền vững ngay từ bây giờ phải sử dụng hợp lí, tiết
kiệm và chú trọng bảo vệ nguồn nước.
Ngoài ra, tài nguyên nước ngầm cũng là phần quan trọng cho NNĐT, là
nguồn dự trữ quan trọng bổ sung cho nguồn nước mặt cho các đô thị, nhất là trong
mùa khô và một số nơi nguồn nước bị hạn chế về số lượng và chất lượng.
d. Sinh vật

Sinh vật là cơ sở để thuần dưỡng, tạo nên các giống cây trồng, vật nuôi. Sự
đa dạng về thảm thực vật và hệ động vật là tiền đề hình thành và phát triển và các

giống vật nuôi, cây trồng và tạo khả năng chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp phù hợp
với điều kiện tự nhiên và sinh thái.
Tại đô thị - nơi có tốc độ đô thị hóa nhanh, diện tích đất canh tác, đất giành
cho chăn nuôi ngày càng bị thu hẹp. Vì vậy, nhu cầu về giống cây trồng, vật nuôi có
phẩm chất tốt, cho năng suất cao, đảm bảo vệ sinh ngày càng trở nên bức thiết,

24


quyết định đến sự phát triển của NNĐT.
Tóm lại, mỗi nhân tố có mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với sản xuất nông
nghiệp tại các đô thị cả về mặt thuận lợi và khó khăn. Và sự phân bố các nhân tố ảnh
hưởng như đã đề cập ở mỗi đô thị là không giống nhau, phải có biện pháp khai thác và
sử dụng phù hợp mới có thể mang lại hiệu quả cao trong sản xuất NNĐT…
1.1.5. Một số hình thức tổ chức không gian sản xuất của nông nghiệp đô thị
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là một hình thức của tổ chức lãnh thổ KT-XH.
Tại đô thị tồn tại phổ biến một số hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp sau:
1.1.5.1. Hộ gia đình (nông hộ)
Hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp, có đất đai, tư liệu sản
xuất thuộc sở hữu của gia đình, sử dụng chủ yếu sức lao động của gia đình. Sản
xuất của hộ thường nằm trong hệ thống sản xuất lớn hơn và tham gia ở mức độ
không hoàn hảo vào hoạt động của thị trường [19].
Hình thức này có các đặc trưng cơ bản sau:
-

Về đất đai, quy mô canh tác nhỏ bé, biểu hiện rõ tính chất tiểu nông.

-

Về vốn, đại bộ phận rất ít, quy mô thu thập nhỏ, khả năng tích lũy thấp làm hạn chế

khả năng đầu tư tái sản xuất.

-

Về lao động, chủ yếu sử dụng lao động gia đình. Sức lao động của nông hộ không
phải hàng hóa mà là tự phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của gia đình.

-

Kĩ thuật canh tác và công cụ sản xuất ít biến đổi, mang nặng tính truyền thống.

-

Quy mô sản xuất (đất đai, vốn, lao động) rất nhỏ bé.
1.1.5.2. Trang trại
Trang trại là hình thưc tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm, ngư nghiệp có
mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hóa, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng của người chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng
đất và các yếu tố sản xuất được tập trung tương đối lớn, với cách thức tổ chức quản
lí tiến bộ và trình độ kĩ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường.
Hình thức này có các đặc trưng như sau [19]:
- Mục đích của trang trại là sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu của thị trường.

25


×