Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.65 KB, 59 trang )

Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

PHẦN MỞ ĐẦU
---  --1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh các nền kinh tế trên thế giới ngày càng hội nhập mạnh mẽ,
thúc đẩy sự phát triển thương mại và đầu tư quốc tế, pháp luật về phá sản doanh
nghiệp ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự an toàn của các
nhà đầu tư trong và ngoài nước, góp phần đảm bảo sự tăng trưởng bền vững của
mỗi quốc gia.
Kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới và hội nhập quốc tế, chính sách pháp
luật về doanh nghiệp có những điều chỉnh phù hợp với những thay đổi của môi
trường kinh tế trong và ngoài nước. Trong đó, pháp luật về phá sản doanh nghiệp
dần dần được xây dựng và hoàn thiện theo định hướng thị trường có sự quản lý của
Nhà nước. Có thể khẳng định rằng, khung pháp lý cơ bản về phá sản doanh nghiệp
đã hình thành tương đối đồng bộ, góp phần kiểm soát, quản trị ảnh hưởng tích cực
cũng như tiêu cực của loại quan hệ pháp luật này trong đời sống kinh tế cũng như
đời sống xã hội.
Tuy nhiên, sự khủng hoảng tài chính toàn cầu, khu vực và những khó khăn
trong quá trình điều hành kinh tế vĩ mô của nước ta trong thời gian gần đây đã đòi
hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, đặc biệt
là các vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp tại Việt
Nam phù hợp với tình hình mới.
Góp phần vào việc tìm hiểu, một phần mang tầm quan trọng như đã nêu trên,
trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp người viết sẽ tìm hiểu về “Một số vấn đề pháp
lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản
về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp. Tổng kết, phân tích, đánh giá
thực trạng việc áp dụng pháp luật phá sản năm 2004, để từ đó tìm hiểu những điểm
mới của luật phá sản năm 2014.
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu nói trên, Luận văn có các nhiệm vụ cụ thể


sau:

1


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

- Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về phá sản doanh
nghiệp;
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về bảo vệ chủ nợ trong
thủ tục phá sản doanh nghiệp hiện nay cũng như nêu ra những thực tế trong việc áp
dụng quy định của pháp luật về vấn đề này;
- So sánh một số điểm mới của phá sản năm 2014 với luật phá sản năm 2004.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Đánh giá về pháp luật phá
sản doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, phương pháp
phân tích luật viết để làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành, phương pháp
phân tích đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá
sản doanh nghiệp. Phương pháp tổng hợp nhằm nhìn nhận vấn đề một cách toàn
diện. Phương pháp so sánh để thấy được những điểm mới so với luật phá sản năm
2004.
4. Bố cục của Luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
kết cấu bởi 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chủ nợ trong pháp luật về phá sản doanh
nghiệp.
Chương 2: Một số quy định pháp luật về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản
doanh nghiệp.
Chương 3: Một số bất cập trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về
bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản năm 2004 và những điểm mới nổi bật của luật

phá sản năm 2014.

2


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỦ NỢ TRONG PHÁP LUẬT
VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát chung về phá sản doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm
Hiện tượng phá sản phát sinh từ rất sớm. Về phương diện ngôn ngữ, hiện có
nhiều thuật ngữ dùng để thể hiện khái niệm về phá sản. Trong tiếng La tinh phá sản
được biểu đạt bằng hai từ: Ruin (sự khánh tận) và Banca Rotta (hình ảnh quầy hàng
của thương nhân bị thu mất khi phá sản), trong tiếng Anh có các từ như Insolvency,
Bankruptcy, trong tiếng Pháp là Baqueroute. Còn trong từ điển tiếng Việt, phá sản
là "lâm vào tình trạng khánh kiệt tài sản, bị phá sản, do kinh doanh thua lỗ" 1. Mặc
dù có sự khác nhau trong việc sử dụng thuật ngữ để chỉ khái niệm phá sản nhưng
tựu chung lại thì bản chất của vấn đề đều nói về tình trạng không trả được nợ, mất
khả năng thanh toán nợ đến hạn của con nợ.
Khái niệm về phá sản là vấn đề cực kỳ quan trọng và bất kỳ luật phá sản
nước nào cũng phải quan tâm hàng đầu để giải quyết. Khi bàn về vấn đề này, một số
người viết đã cho rằng định nghĩa phá sản có lẽ là khó nhất đối với các nhà lập
pháp. Vì tùy thuộc vào định nghĩa này trong pháp luật phá sản của mỗi quốc gia mà
sự can thiệp của nhà nước vào hiện tượng phá sản sớm hay muộn, lập trường của
nhà nước nghiêng về bảo vệ lợi ích của chủ nợ hay con nợ nhiều hơn 2. Để hiểu và
nhìn nhận đúng hơn về khái niệm phá sản, chúng ta phải xem xét khái niệm này ở
nhiều bình diện và góc độ khác nhau.
Dưới góc độ kinh tế, phá sản theo nghĩa rộng đề cập đến thất bại kinh tế

mang tính quyết định của con nợ. Ở Anh và Đức trước đây mục tiêu chủ yếu của
luật phá sản đã hướng vào chủ nợ mà chống lại việc tổ chức lại. Do có nhiều phê
phán nên luật phá sản của Anh năm 1986 và Đức năm 1994 đã được sửa đổi theo
hướng tăng cường khả năng tổ chức lại và nâng cao khả năng tồn tại của những
doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính. Ngược lại ở Mỹ, Pháp và
1

Đại Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa Thông tin, 1999.
Nguyễn Thái Phúc, Luật phá sản 2004 – Những tiến bộ và hạn chế, Tạp chí khoa học pháp lý, số 6
(31)/2005, tr. 38.
2

3


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

Nhật Bản luật phá sản lại bị phê phán vì mục tiêu chủ yếu hướng vào con nợ, quá
nghiêng về biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp mà chèn ép quyền lợi của các chủ
nợ. Luật phá sản sửa đổi ở Mỹ, Pháp năm 1994 và Luật phục hồi dân sự của Nhật
Bản năm 1999 đã có một số quy định nhằm tăng cường vị trí của chủ nợ. Tuy nhiên,
hai xu hướng này của luật phá sản ngày càng xích lại gần nhau.
Xu hướng chung, pháp luật phá sản trên thế giới ngày nay bên cạnh việc
quan tâm đến bảo vệ quyền lợi chủ nợ còn chú ý tới việc phục hồi hoạt động sản
xuất kinh doanh cho con nợ. Luật phá sản không đồng nghĩa với doanh nghiệp và
phát mại sản nghiệp của người mắc nợ mà còn trở thành công cụ tái tổ chức kinh
doanh.
Dưới góc độ tài chính, phá sản là tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến
hạn của chủ thể kinh doanh. Tình trạng mất khả năng thanh toán được biểu hiện ở
hai trường hợp. Với khái niệm này thì sẽ đi theo một chiều là phá sản sẽ là lâm vào

tình trạng phá sản, còn doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì có
khả năng doanh nghiệp sẽ không phá sản. Và thuật ngữ lâm vào tình trạng phá sản
dưới góc độ tài chính sẽ được hiểu trong hai trường hợp sau đây:
Thứ nhất, khi chủ thể kinh doanh không trả được nợ đến hạn, không thực hiện
được nghĩa vụ tài sản – trả tiền. Đây chỉ là sự phá sản thực tế, là một biểu hiện bên
ngoài về tình hình tài chính không lành mạnh của doanh nghiệp. Con nợ có thể có
những khó khăn tạm thời do thiếu tiền mặt như chưa bán được hàng, chưa thu được
tiền hàng hoặc không đủ các tài sản có khả năng thanh toán nhanh, hoặc do doanh
nghiệp đầu tư quá lớn vào máy móc thiết bị, bất động sản... Khi cân đối giữa tổng
tài sản của con nợ với các khoản nợ thì giá trị trong tổng tài sản lớn hơn giá trị các
khoản nợ. Do vậy, nếu có thời gian hoặc nếu áp dụng các biện pháp tài chính cần
thiết thì con nợ có thể vượt qua khó khăn tài chính đó và khôi phục lại được khả
năng thanh toán của mình3.
Thứ hai, là trường hợp cân đối giữa tổng giá trị tài sản và tổng giá trị các
khoản nợ, con nợ có số nợ phải trả vượt quá tổng giá trị tài sản. Trong trường hợp
này thì tình trạng mất khả năng thanh toán có tính chất tuyệt đối, không còn khả
năng cứu vãn. Nếu có cho thêm thời gian hoặc áp dụng các biện pháp tài chính cần

3

Dương Đăng Huệ - Nguyễn Thanh Tịnh, Thực trạng pháp luật về phá sản và việc hoàn thiện môi trường
pháp luật kinh doanh tại Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, tr15.

4


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

thiết như tìm nguồn tín dụng mới, tìm người bảo lãnh nợ mới thì cũng không khắc
phục được tình trạng này và tiếp tục rơi vào tình trạng nợ nần mới4.

Dưới góc độ pháp lý, Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất
khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản. Từ việc
tìm hiểu tình trạng lâm vào tình trạng phá sản để có một góc nhìn chính xác hơn về
khái niệm Khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản năm 2014 định nghĩa rằng “Doanh nghiệp,
hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực
hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến
hạn thanh toán.”
Khác với luật Phá sản năm 2004 chỉ quy định chung chung “Doanh nghiệp,
hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ
nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản”.
Như vậy, Luật Phá sản 2014 đã đưa ra một khoảng thời hạn “03 tháng” để
doanh nghiệp, hợp tác xã khi không có khả năng thanh toán có thể tìm các phương
án khác để thanh toán nợ đến hạn trước khi bị coi là lâm vào tình trạng phá sản.
Quy định này phù hợp với kinh nghiệm lập pháp của một số nước khi cho phép con
nợ có thời hạn trễ hạn thanh toán sau khi chủ nợ có yêu cầu đòi nợ, đồng thời khắc
phục tình trạng lạm dụng quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ phía các chủ
nợ như quy định cũ. Từ quy định này, luật cho phép các chủ thể có quyền nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng, kể từ ngày khoản nợ đến hạn
mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán, thanh lý tài sản,
các khoản nợ. Như vậy, phá sản là tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
của con nợ và thẩm phán sẽ quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản.
1.1.2. Phân loại phá sản
Phân loại phá sản có vai trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết phá sản.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ, việc phân loại thể hiện rõ thái độ
của nhà nước đối với doanh nghiệp phá sản. Có nhiều cách phân loại phá sản dựa
vào các căn cứ khác nhau, cụ thể như sau:
Căn cứ vào đối tượng và phạm vi điều chỉnh của luật phá sản, phá sản được
chia thành phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

4


Dương Đăng Huệ - Nguyễn Thanh Tịnh, Thực trạng pháp luật về phá sản và việc hoàn thiện môi trường
pháp luật kinh doanh tại Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, tr20.

5


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

Cách phân chia này phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
Ở nhiều nước trên thế giới không có sự phân chia này mà bất kể doanh nghiệp hay
cá nhân khi lâm vào tình trạng phá sản đều bị xử lý theo luật phá sản. Ở Trung
Quốc luật phá sản chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp nhà nước. Nước ta luật phá sản
được áp dụng đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và hợp tác xã,
còn đối với các cá nhân nếu lâm vào tình trạng phá sản thì được xử lý theo thủ tục
tụng dân sự.
Căn cứ vào đối tượng yêu cầu tuyên bố phá sản, phá sản có thể chia ra phá
sản tự nguyện và phá sản bắt buộc.
Phá sản tự nguyện là phá sản do chính con nợ yêu cầu khi thấy mình lâm vào
tình trạng phá sản. Tuy nhiên không phải bất kỳ con nợ nào nộp đơn xin phá sản thì
đương nhiên phá sản mà phụ thuộc vào sự xem xét của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Quy định như vậy nhằm tránh việc con nợ lợi dụng thủ tục phá sản để chiếm
đoạt tài sản của chủ nợ. Ở Việt Nam việc phân định phá sản tự nguyện và phá sản
bắt buộc được phân biệt trong các trường hợp khác nhau giữa quyền hoặc nghĩa vụ
nộp đơn. Nếu gọi là tự nguyện tất nhiên điều này phải xuất phát từ ý chí của con nợ,
việc luật không bắt buộc họ mà chỉ khuyến khích, điều này được nhìn nhận ở Luật
Phá sản năm 2014 với quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán (Điều 28). Chủ doanh nghiệp hoặc đại
diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã trong thời hạn ba tháng kể từ khi nhận
thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản nếu không nộp đơn yêu

cầu mở thủ tục phá sản thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Tuy
nhiên, xét ở một khía cạnh khác, các cổ đông hoặc nhóm cổ đông của công ty cổ
phần, thành viên hợp tác xã hoặc hợp tác xã thành viên của liên hiệp hợp tác xã,
Luật Phá sản năm 2014 quy định họ được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản, như vậy việc quy định theo hướng mở như trên vừa đảm bảo được quyền cũng
như quy định rõ nghĩa vụ và trách nhiệm của con nợ.
Phá sản bắt buộc là phá sản được thực hiện theo yêu cầu của chủ nợ hoặc của
đại diện chủ sở hữu một số loại hình doanh nghiệp.
Việc phân loại này có ý nghĩa rất quan trọng khi xây dựng hồ sơ và việc lựa
chọn thủ tục phá sản của thẩm phán trong quá trình giải quyết phá sản. Khi con nợ
tự nguyện nộp đơn yêu cầu giải quyết phá sản vào thời điểm chưa quá muộn sẽ là
một khởi đầu thuận lợi để việc áp dụng thủ tục phục hồi có kết quả. Do đó, pháp
luật của các nước đều dành cho con nợ quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản.
6


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

Bởi hơn ai hết, con nợ là người biết rất rõ về tình trạng tài chính và tình hình sản
xuất kinh doanh của mình. Nhưng trên thực tế không phải con nợ nào cũng dễ dàng
ý thức được việc làm này mà thường tìm cách né tránh việc yêu cầu giải quyết phá
sản. Bởi họ có một tâm lý chung cho rằng doanh nghiệp của mình bị phá sản là nỗi
ô nhục lớn, ảnh hưởng đến uy tín thanh danh của họ. Do đó, họ thường hy vọng với
quan niệm ”còn nước còn tát”, một ngày nào đó sẽ khôi phục lại được doanh
nghiệp. Đặc biệt ở Việt Nam số lượng đơn tự nguyện yêu cầu giải quyết phá sản rất
ít, không phản ánh đúng tình trạng tài chính của các doanh nghiệp. Nhất là đối với
những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ nhưng những nhà quản lý điều hành
doanh nghiệp vẫn tìm mọi cách duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp do lo sợ bị mất
đi chức danh, vị trí lãnh đạo của mình. Hiện nay, xu hướng chung của pháp luật phá
sản thế giới là tạo điều kiện để khuyến khích doanh nghiệp nộp đơn phá sản nên tự

nguyện đang dần trở nên phổ biến.
Căn cứ vào tính chất của sự phá sản thì phá sản được chia thành phá sản
trung thực và phá sản gian dối.
Phá sản trung thực là sự phá sản do những nguyên nhân có thực gây ra. Những
nguyên nhân này có thể là do chủ quan cũng có thể là do khách quan mang lại.
Nguyên nhân chủ quan có thể là:
Sự yếu kém về năng lực tổ chức, quản lý hoạt động kinh doanh của người kinh
doanh;
Do những rủi ro từ những biến động trên thương trường như sự biến động tỷ
giá hối đoái, lãi suất, vấn đề lạm phát... gây ra sự biến động giá cả hàng hóa. Người
kinh doanh không có khả năng thích ứng với những biến động trên thương trường
đó, không nắm bắt kịp thời nhu cầu của thị trường và thị hiếu của khách hàng sẽ
dẫn tới thua lỗ;
Sự liều lĩnh, mạo hiểm của người kinh doanh khi chưa cân nhắc và tính toán
kỹ kế hoạch kinh doanh.
Nguyên nhân khách quan có thể là:
Những rủi ro từ thiên tai, địch họa, chiến tranh và các cuộc khủng hoảng tài
chính;
Những rủi ro xuất phát từ sự thay đổi chính sách pháp luật của nhà nước. Đặc
biệt là chính sách pháp luật về kinh tế của một quốc gia quyết định quan trọng đến
quá trình kinh doanh. Những chính sách phù hợp với các quy luật của nền kinh tế
7


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

thị trường sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh phát triển và ngược lại nó
sẽ là những rào cản cho các nhà kinh doanh.
Phá sản gian dối là sự phá sản do con nợ sắp đặt trước bằng những thủ đoạn
gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của các chủ nợ. Ví dụ như để chiếm đoạt tài sản,

con nợ đã gian lận trong khi ký hợp đồng, tẩu tán tài sản, cố tình lạm dụng vốn, cố
tình báo cáo sai tài chính của doanh nghiệp, qua đó tạo ra lý do phá sản không đúng
sự thật.
Luật phá sản, của Liên bang Nga (Điều 10) còn đưa ra khái niệm phá sản giả
tạo và phá sản cố ý. Phá sản giả tạo theo luật được hiểu là việc đệ trình đơn về phá
sản của con nợ lên tòa án trọng tài trong trường hợp không thỏa mãn các điều kiện
để xác định con nợ không có khả năng thanh toán. Trong trường hợp này khi xem
xét tài sản của con nợ thì vẫn còn để thỏa mãn đầy đủ đòi hỏi của các chủ nợ. Còn
phá sản cố ý trong trường hợp con nợ bị phá sản do lỗi của những người sáng lập
(thành viên) hay của những người quản lý. Những người có quyền và trách nhiệm
quyết định đối với hoạt động của pháp nhân thông qua hành vi cố ý của những
người này dẫn đến việc phá sản của pháp nhân5.
Việc phân loại này có ý nghĩa khi xác định thái độ đối xử của pháp luật đối với
con nợ, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ. Đối với phá sản trung
thực, pháp luật chỉ tập trung giải quyết liên quan đến xử lý tài sản. Còn đối với phá
sản gian trá, để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ pháp luật không chỉ giải quyết liên
quan đến xử lý tài sản mà còn có thể giải quyết các vấn đề liên quan đến nhân thân
của chủ doanh nghiệp và có các hình thức xử lý thích đáng kể cả truy cứu trách
nhiệm hình sự6
Căn cứ vào hình thức biểu hiện, phá sản có thể phân biệt thành phá sản thực
tế và phá sản tuyệt đối.
Phá sản thực tế: Là trường hợp con nợ không thể thanh toán được nợ đến hạn
khi chủ nợ yêu cầu nhưng cân đối giữa tổng tài sản và tổng nợ thì số tài sản lớn hơn
số nợ. Đối với một số nước áp dụng định lượng về tài sản như Nga, các nước thuộc
SNG thì trường hợp này chưa được xem là phá sản. Tuy nhiên, đối với một số nước
ngay cả đối với Việt Nam thì trường hợp phá sản này cũng có thể xảy ra.
5

Nguyễn Thành Đức, Luật vỡ nợ Liên bang Nga, kỷ yếu đề tài NCKH cấp Bộ: Một số định hướng hoàn
thiện pháp luật phá sản DN, Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, tr50.

6
Nguyễn Thành Đức, Luật vỡ nợ Liên bang Nga, kỷ yếu đề tài NCKH cấp Bộ: Một số định hướng hoàn
thiện pháp luật phá sản DN, Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, tr52.

8


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

Phá sản tuyệt đối: Là tình trạng con nợ thực sự mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn một cách tuyệt đối khi cân đối giữa tài sản của con nợ trong số nợ thì tổng
số nợ lớn hơn tổng tài sản của con nợ trong thời điểm không thanh toán được nợ
đến hạn.
Việc phân biệt này có vai trò rất quan trọng đối với tòa án trong quá trình
giải quyết phá sản. Đối với phá sản thực tế, tòa án có thể áp dụng thủ tục phục hồi
giúp con nợ có khả năng phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác phá sản
thực tế sẽ giúp con nợ an tâm để áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết khắc
phục tình trạng khó khăn tạm thời này, tránh được sự quấy rầy của các chủ nợ.
Đồng thời, nó còn có ý nghĩa khuyến khích con nợ tự nguyện nộp đơn yêu cầu
tuyên bố phá sản. Còn đối với phá sản tuyệt đối tòa án có căn cứ lựa chọn thủ tục áp
ụng cho phù hợp. Nếu xét thấy con nợ không còn khả năng phục hồi tòa án có thể
tuyên bố phá sản ngay. Áp dụng thủ tục này sẽ đỡ tốn kém về thời gian, công sức,
tiền bạc cho chủ nợ, tòa án và các chủ thể có liên quan.
1.1.3. Lịch sử hình thành pháp luật phá sản
Trước năm 1986 đất nước ta thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung,
bao cấp, chủ thể kinh tế chủ yếu là doanh nghiệp quốc doanh, hợp tác xã và do nhà
nước thành lập, tài sản thuộc sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể. Các doanh nghiệp,
hợp tác xã không có quyền hoặc ít có quyền chủ động trong hoạt động kinh doanh,
mọi hoạt động trong quá trình kinh doanh từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm đều
theo kế hoạch của nhà nước và cũng không có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.

Hoạt động doanh nghiệp, hợp tác xã nếu có lãi thì nộp vào ngân sách nhà nước, nếu
thua lỗ thì được nhà nước bù lỗ. Do vậy hoạt động của các xí nghiệp, doanh nghiệp,
hợp tác xã thời kỳ này thường kém hiệu quả, lãi giả, lỗ thật, nợ nần chồng chất nhà
nước phải luôn giúp đỡ các doanh nghiệp bằng cách khoanh nợ, giãn nợ, hoãn nợ,
xoá nợ hoặc dùng các giải pháp mang tính chất hành chính như sáp nhập, giải thể để
chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy cùng với nền kinh tế tự cấp tự túc
không có hoạt động thương mại nên không có phá sản thì hoạt động của doanh
nghiệp quốc doanh, hợp tác xã trong nền kinh tế tập trung, bao cấp không thể bị mất
khả năng thanh toán và do đó không có hiện tượng phá sản. Không có hiện tượng
phá sản nên không có pháp luật, luật về phá sản. Tuy nhiên nếu đặt vấn đề phá sản
và pháp luật phá sản ở Việt Nam thời kỳ đó và trước năm 1945 ta thấy có một số
vấn đề sau:

9


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

Pháp luật phá sản đã có và được biết đến ở Việt Nam trước năm 1945 là một
luật được đưa ra trong thời kỳ luật thuộc địa của Pháp, nhưng luật này phần lớn
được áp dụng ở miền Nam và ít được áp dụng (theo khảo sát và đánh giá của Văn
phòng Hội đồng tư vấn chung - Ngân hàng phát triển châu á).
Pháp luật phá sản đã được xây dựng và thực hiện ở miền Nam dưới chế độ
Việt Nam cộng hoà (Nguỵ, Sài Gòn, Chính phủ do Mỹ lập nên và bảo trợ). Tuy
nhiên nó được coi như là một bộ phận của Luật thương mại năm 1972.
Ở miền Bắc nước ta từ 1945 - 1975 và cả nước từ 1975 - 1985 vì là nền kinh
tế thời chiến, thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp nên không có hiện
tượng phá sản và không có pháp luật về phá sản.
Bước vào sự nghiệp đổi mới đất nước kể từ Đại hội 6 của Đảng (năm 1986),
nước ta thừa nhận nền kinh tế thị trường, nhiều thành phần kinh tế và hình thức sở

hữu, tăng trách nhiệm và tính chủ động cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, thực hiện
tự chủ, tự hạch toán và tự chịu trách nhiệm do đó đã tạo ra sự năng động của nền
kinh tế, dần dần đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên giai
đoạn 1986 - 1992 là giai đoạn kinh tế thị trường sơ khai, nhiều vấn đề chúng ta vừa
làm, vừa thử nghiệm rút kinh nghiệm do đó một số vấn đề về thể chế, chính sách,
pháp luật chưa được đầy đủ, hoàn thiện.
Xuất phát từ lý luận cơ cấu kinh tế, hệ thống kinh tế quyết định cơ cấu của hệ
thống pháp luật; tính chất của các quan hệ kinh tế, của cơ chế kinh tế quyết định
tính chất của các quan hệ pháp luật, mức độ và phương pháp điều chỉnh pháp luật.
Ta thấy sự khác biệt của pháp luật kinh tế thời kỳ trước đổi mới và thời kỳ đổi mới
cũng như thấy được tính tất yếu khách quan của hiện tượng phá sản và pháp luật
phá sản trong nền kinh tế thị trường.
Từ năm 1986 đến trước khi Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 ra đời,
pháp luật nước ta chưa có quy định về phá sản (như đã trình bày ở trên) do vậy việc
xử lý những doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản gặp rất nhiều khó khăn, mặc
dù nhà nước có ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật như: Quyết định 315 HĐBT ngày 01/9/1990, Quyết định 330-HĐBT ngày 23/10/1991 của Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng; Nghị định 388-HĐBT ngày 20/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng
về việc giải thể các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế quốc doanh. Theo đó việc
tiến hành thủ tục giải thể doanh nghiệp thuộc thẩm quyền của trọng tài kinh tế nhà
nước. Tuy vậy khi thực hiện việc giải thể đã nảy sinh những hiện tượng tiêu cực
như: doanh nghiệp tìm mọi cách xoá nợ để lẩn tránh trách nhiệm, gây tổn hại
10


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

nghiêm trọng đến lợi ích của nhà nước và các chủ thể khác tham gia thủ tục giải thể
doanh nghiệp (tất nhiên là có chủ thể được lợi). Mặt khác trong khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh chưa có các quy định của pháp luật về phá sản điều chỉnh nên
nhiều doanh nghiệp khi lâm vào tình trạng phá sản bị xử lý theo nhiều cách khác

nhau thậm chí có trường hợp cac bên tự xử lý lẫn nhau làm mất trật tự an toàn xã
hội, tạo ra sự bất bình đẳng giữa các bên, các doanh nghiệp làm tổn hại đến hoạt
động kinh tế chung của đất nước. Điều này cũng ảnh hưởng đến nguyên tắc, pháp
chế của pháp luật XHCN. Làm nảy sinh tình trạng vô chính phủ trong xử lý phá sản
của các doanh nghiệp. Thực trạng của các doanh nghiệp quốc doanh, ngoài quốc
doanh, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản như "chết mà không được chôn" vậy.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, ngày 30/12/1993 tại hỳ họp thứ IV Quốc
hội khoá IX Việt Nam đã ban hành Luật phá sản doanh nghiệp và có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01/7/1994. Đạo luật này ra đời có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc
thúc đẩy hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đồng thời cũng bảo đảm được
trật tự, kỷ cương xã hội trong những năm đầu của tiến trình đổi mới đất nước.
Tuy nhiên với sự phát triển của nền kinh tế thị trường qua hơn 10 năm thực
hiện, Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 đã bộc lộ những điểm hạn chế, bất cập
và không còn phù hợp, đáp ứng được yêu cầu phát triển của kinh tế, xã hội trong
nước cũng như xu thế mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Đòi hỏi pháp
luật phá sản phải tiếp tục được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để đáp ứng được yêu
cầu trong thời kỳ mới. Ngày 15/6/2004, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XI đã
thông qua Luật phá sản thay thế Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 và có hiệu
lực thi hành từ ngày 15/10/2004. Luật phá sản 2004 ra đời có các văn bản dưới luật
như Nghị quyết số 03/2005/HĐTP ngày 28/4/2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân Tối cao được ban hành "Hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật
phá sản"; Nghị định 94/2005/NĐ-CP ngày 15/7/2005 của Chính phủ "Hướng dẫn về
giải quyết quyền lợi của người lao động ở doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản;
Quyết định số 01/2005/QĐ-TANDTC ngày 27/4/2005 của Chánh án Toà án NDTC
về "Quy chế lam việc của tổ chức Thẩm phán phụ trách tiến hành thủ tục phá sản"...
Luật Phá sản năm 2004 được ban hành nhằm để xử lý tình trạng doanh nghiệp,
hợp tác xã làm ăn thua lỗ trầm trọng, mất khả năng thanh toán, không còn khả năng
hoạt động, được chấm dứt tồn tại về mặt pháp lý và xử lý hậu quả theo quy định
pháp luật, tránh tình trạng tẩu tán tài sản hoặc xiết nợ, bảo đảm quyền lợi cho các
chủ nợ, người lao động và những cá nhân, tổ chức có liên quan, quản lý việc phá


11


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

sản diễn ra trong trật tự có sự kiểm soát của Nhà nước. Mặt khác, Luật Phá sản cũng
nhằm giúp cho doanh nghiệp có phương án phục hồi sản xuất, kinh doanh.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành cho thấy Luật Phá sản năm 2004 chưa đạt được
hiệu quả như mong muốn. Theo Báo cáo tổng kết thi hành Luật Phá sản năm 2004
của Tòa án nhân dân tối cao số 04/BC – TANDTC ngày 09 tháng 9 năm 2013 trình
Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì sau 09 năm áp dụng Luật này đã bộc lộ một số hạn
chế, tác động tiêu cực đến việc thúc đẩy sự phát triển kinh doanh của doanh nghiệp,
hợp tác xã; có những quy định còn mâu thuẫn, chưa tương thích với các văn bản
quy phạm pháp luật khác; có những quy định chưa phù hợp hoặc không còn phù
hợp, chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có những cách hiểu khác nhau nhưng chưa
được hướng dẫn kịp thời; có những quy định chưa đảm bảo được quyền và lợi ích
hợp pháp của người yêu cầu mở thủ tục phá sản, chưa tương thích với pháp luật
quốc tế; chưa phù hợp với tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế gắn liền với chuyển đổi
mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp, hợp tác xã... dẫn đến hiệu quả áp dụng quy định Luật Phá
sản vào thực tiễn không cao.
Vì vậy, ngày 16/9/2014, Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
khóa XIII thông qua Luật Phá sản¸ thay thế Luật Phá sản năm 2004, luật này có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/5/2015.
1.2. Khái quát chung về chủ nợ trong phá sản doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm chủ nợ
1.2.1.1 Định nghĩa chủ nợ
Theo từ điển tiếng Việt7 thì chủ nợ được hiểu là người cho vay nợ trong quan
hệ với người vay nợ. Đây là khái niệm chủ nợ được hiểu theo nghĩa chung. Trong

quan hệ vay nợ này thì chủ nợ là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào mà có tài sản cho tổ
chức, cá nhân khác vay đều được gọi là chủ nợ. Các khoản nợ ở đây có thể là nợ
tiêu dùng, nợ kinh doanh.
Nhưng trong quan hệ phá sản thì chủ nợ được hiểu theo nghĩa riêng và ở
phạm vi hẹp hơn. Pháp luật phá sản nước ta được áp dụng đối với doanh nghiệp,
hợp tác xã thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam. Khác với một số nước
như Úc, Mỹ, Thái Lan, Singapore pháp luật phá sản được áp dụng cho tất cả các
con nợ không phân biệt họ là ai (là cá nhân hay pháp nhân, là thương nhân hay
7

Đại Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa Thông tin, 1999, tr. 102.

12


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

không phải là thương nhân) và tính chất của nợ không trả được là nợ thương mại
hay nợ dân sự8. Trong luật phá sản của nhiều nước, chủ nợ được hiểu là các đối
tượng (pháp nhân hay thể nhân) có các khoản nợ không được đảm bảo trả đúng hạn,
kể cả chủ nợ có bảo đảm, nhưng chỉ đối với phần nợ vượt quá giá trị vật chất bảo
đảm đang nằm trong tay mình (tay chủ nợ) 9. Còn con nợ trong pháp luật phá sản
nước ta có thể là các doanh nghiệp, hợp tác xã và khoản nợ ở đây là nợ kinh doanh.
Do đó, chủ nợ trong thủ tục phá sản nước ta có thể được hiểu là những cá nhân, tổ
chức mà các doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ trả tiền.
Theo cách hiểu này thì chủ nợ ở đây, ngoài những chủ nợ trong quan hệ
thương mại còn có các chủ nợ đặc biệt khác như người lao động mà doanh nghiệp
nợ lương, nhà nước mà doanh nghiệp nợ thuế. Đây là cách hiểu dùng cho trường
hợp đặc biệt và nghĩa vụ trả tiền ở đây được áp dụng một cách phù hợp nhất.
1.2.1.2. Phân loại chủ nợ

Về nguyên tắc các chủ nợ đều bình đẳng khi tham gia quan hệ phá sản. Tuy
nhiên, mỗi loại chủ nợ có những quyền và nghĩa vụ khác nhau. Do vậy, việc phân
loại chủ nợ có vai trò rất quan trọng trong thủ tục giải quyết phá sản. Nếu phân loại
không chính xác sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của các chủ nợ, làm mất đi tính
công bằng của luật pháp.
Vì như Luật vỡ nợ (phá sản) Liên bang Nga thì tất cả các chủ nợ chỉ có "chủ
nợ lựa chọn" mới có quyền yêu cầu tòa án trọng tài công nhận con nợ bị phá sản.
Chủ nợ lựa chọn: bao gồm thể nhân hay pháp nhân, Liên bang Nga và các chủ thể là
các cơ quan nhà nước khác. Đối với chủ nợ là các cơ quan nhà nước thi được thực
hiện theo cơ chế đại diện ủy quyền đệ đơn lên tòa án trọng tài. Có hai loại chủ nợ
không được tham gia với chất lượng là "chủ nợ lựa chọn" đó là:
- Các sáng lập viên của pháp nhân là con nợ;
- Các chủ nợ mà con nợ phải có nghĩa vụ thanh toán do xâm phạm đến tính
mạng và sức khỏe.
Đối với chủ nợ là thành viên của con nợ thì hoàn toàn bị tước đi quyền đòi
hỏi bất cứ quyền lợi gì đối với con nợ trong quá trình giải quyết phá sản con nợ; các
chủ nợ này chỉ có quyền đối với tài sản còn lại của chủ nợ, sau khi đã thanh toán
8

Cải tổ Luật phá sản ở những nước có nền kinh tế đang chuyển đổi – một khung cảnh của luật so sánh, Viện
khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao, Thông tin khoa học xét xử số 2/2003.
9
Cải tổ Luật phá sản ở những nước có nền kinh tế đang chuyển đổi – một khung cảnh của luật so sánh, Viện
khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao, Thông tin khoa học xét xử số 2/2003.

13


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp


cho các chủ nợ khác. Đối với các chủ nợ liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ của
con nợ thông qua hành vi xâm hại đến tính mạng và sức khỏe thì những đòi hỏi của
họ được ưu tiên công nhận và giải quyết (được thanh toán vào hàng thứ nhất bằng
tài sản của con nợ) và không thuộc diện chủ nợ bị hoãn thanh toán trong trường hợp
áp dụng thủ tục điều hành từ bên ngoài.10
Khác với Luật vỡ nợ (phá sản) Liên bang Nga, luật phá sản nước ta lại chia
chủ nợ thành ba loại: Chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ
không bảo đảm.
Thứ nhất: Chủ nợ có bảo đảm là là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu
cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được bảo
đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba.
Theo Luật phá sản của nhiều nước thì chủ nợ có bảo đảm được hiểu là chủ
nợ giữ vật cầm cố (hoặc tài sản thế chấp) của doanh nghiệp hoặc (của con nợ) hoặc
có các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của người đi vay (doanh nghiệp). Giá
trị tài sản thế chấp ở các nước đều được tính theo giá thị trường. Như vậy, luật phá
sản của các nước đã quy định về tài sản bảo đảm rất cụ thể, rõ ràng nhằm bảo vệ
quyền lợi của các chủ nợ.
Thứ hai: Chủ nợ có bảo đảm một phần là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền
yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được
bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba mà giá trị
tài sản bảo đảm thấp hơn khoản nợ đó. Định nghĩa trên quy định rõ từng loại chủ nợ
hơn so với luật phá sản năm 2004, trong khi luật phá sản năm 2004 chỉ nêu một
cách chung chung là chủ nợ.
Tuy nhiên, định nghĩa như trên của chúng ta lại khác xa với luật phá sản của
các nước trên thế giới. Pháp luật phá sản của họ không phân biệt giữa chủ nợ có bảo
đảm một phần và chủ nợ có bảo đảm mà hầu như chỉ có chủ nợ bảo đảm và chủ nợ
không có bảo đảm.
Thứ ba: Chủ nợ không có bảo đảm là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu
cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ không
được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba.


10

Nguyễn Thành Đức, Luật vỡ nợ Liên bang Nga, kỷ yếu đề tài NCKH cấp Bộ: Một số định hướng hoàn
thiện pháp luật phá sản DN, Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, tr42

14


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

Nếu như Luật vỡ nợ (phá sản) của Nga dành cho "chủ nợ lựa chọn" quyền ưu
ái nhất thì luật phá sản nước ta cũng dành quyền ưu tiên hơn hẳn cho chủ nợ không
có bảo đảm. Luật phá sản nước ta chỉ cho phép chủ nợ có bảo đảm một phần và các
chủ nợ không có bảo đảm mới có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, chủ
nợ không có bảo đảm mới có quyền biểu quyết tại hội nghị chủ nợ. Đặc biệt, để bảo
vệ tốt hơn quyền lợi của người lao động, luật đã coi người lao động như là một chủ
nợ. Khoản 4 Điều 14 Luật phá sản năm 2004 quy định: Sau khi nộp đơn, đại diện
cho người lao động hoặc đại diện công đoàn được coi là chủ nợ.
So với luật cũ, Luật Phá sản 2014 quy định theo hướng mở rộng phạm vi và
tạo điều kiện cho các chủ thể thực hiện quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
để đảm bảo quyền lợi của mình. Trước đây trong Luật Phá sản 2004, người lao động
phải nộp đơn thông qua đại diện, thì trong luật mới, người lao động có quyền tự
mình nộp đơn mà không cần phải thông qua đại diện.
Người lao động, công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở những
nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa vụ trả lương, các khoản
nợ khác đến hạn đối với người lao động mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực
hiện nghĩa vụ thanh toán.11
Đối với công ty cổ phần, Luật Phá sản 2004 quy định cổ đông hoặc nhóm cổ

đông sở hữu trên 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng
có quyền nộp đơn, trong Luật Phá sản mới vẫn giữ nguyên quy định này, đồng thời
cũng cho phép cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu dưới 20% số cổ phần phổ thông
trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng có quyền nộp đơn nếu điều lệ công ty có quy
định.12
Trong hội nghị chủ nợ, người lao động cũng có quyền và nghĩa vụ như chủ nợ.
"Đại diện cho người lao động, đại diện công đoàn được người lao động ủy quyền.
Trong trường hợp này đại diện cho người lao động, đại diện công đoàn có quyền,
nghĩa vụ như chủ nợ (Khoản 2 Điều 62 Luật phá sản năm 2004 giống như khoản 2
Điều 77 Luật phá sản 2014). Về thực chất, đối với doanh nghiệp mắc nợ thì người
lao động là một chủ nợ đặc biệt và không có bảo đảm. Họ chỉ khác với các chủ nợ
là nhà kinh doanh, quan hệ nợ nần không phải là tài sản thông thường mà là giá trị
sức lao động. Với họ, tiền lương là nguồn sống chính của bản thân gia đình họ.
11
12

Khoản 2 Điều 5 Luật phá sản 2014.
Khoản 5 Điều 5 Luật phá sản 2014.

15


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

Chính vì thế, pháp luật phá sản đã đối xử rất công bằng và nhân đạo với người lao
động.
Bên cạnh đó, luật phá sản nước ta cũng coi người bảo lãnh sau khi đã trả nợ
thay cho doanh nghiệp mắc nợ cũng có quyền tham gia hội nghị chủ nợ và họ được
coi là chủ nợ không có bảo đảm. Khoản 3 Điều 77 Luật phá sản năm 2014 quy định
không khác gì khoản 3 Điều 62 Luật phá sản năm 2004 "Người bảo lãnh sau khi đã

trả nợ thay cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Trong trường
hợp này họ trở thành chủ nợ không có bảo đảm".
1.2.2. Khái quát về quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ
Về quyền, từ điển tiếng Việt định nghĩa "quyền là điều mà pháp luật hoặc xã
hội công nhận cho phép được hưởng, được làm và được đòi hỏi" 13. Trong quan hệ
pháp luật thì quyền chủ thể là khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định
được pháp luật cho phép14. Khả năng ở đây có nghĩa là chủ thể có thể lựa chọn giữa
việc xử sự theo cách thức mà nó được phép tiến hành hoặc không xử sự như vậy.
Quyền chủ thể có những đặc tính sau:
Khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định mà pháp luật cho phép;
Khả năng yêu cầu các chủ thể khác chấm dứt các hành động cản trở nó thực
hiện quyền và nghĩa vụ hoặc yêu cầu chúng tôn trọng các nghĩa vụ tương ứng phát
sinh từ quyền và nghĩa vụ này;
Khả năng của chủ thể yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ
lợi ích của mình15.
Các thuộc tính kể trên của quyền chủ thể là thống nhất, không thể tách rời.
Trong quan hệ pháp luật phá sản chủ nợ là một chủ thể pháp lý độc lập với con nợ
nên quyền của chủ nợ cũng thỏa mãn như những thuộc tính trên. Do đó, có thể hiểu
quyền của chủ nợ là khả năng của chủ nợ xử sự theo cách thức nhất định được pháp
luật cho phép tiến hành.
Quyền chủ nợ là phạm trù pháp lý có giới hạn. Không phải chủ nợ được
quyền làm tất cả những gì họ muốn mà những quyền đó phải trong khuôn khổ pháp
luật. Lênin đã khẳng định "Sống trong một xã hội mà lại thoát khỏi xã hội ấy để
13

Đại Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa Thông tin, 1999, tr521.

14

, Từ điển Luật

học, tr395.
15
Trường Đại học Luật Hà Nội 2004, Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, NXB Tư Pháp, tr. 454
16


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

được tự do, đó là điều không thể được" 16. Quyền chủ nợ có thể được cụ thể hóa
thành các quyền cơ bản như sau:
Quyền tự định đoạt đối với các khoản nợ của mình như: chủ nợ có thể
thương lượng với con nợ để xóa nợ, giảm nợ, hoãn nợ, giãn nợ, ...
Quyền yêu cầu con nợ thanh toán nợ cho mình đúng thời hạn, yêu cầu con
nợ chấm dứt hành vi làm hại đến lợi ích chính đáng của mình, tôn trọng các nghĩa
vụ cam kết trong hợp đồng.
Quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đảm bảo những lợi ích hợp
pháp của mình như: quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, quyền yêu cầu tòa
án ra các quyết định cần thiết nhằm bảo toàn tài sản của con nợ...
Về lợi ích hợp pháp, từ điển tiếng Việt có giải thích: "lợi ích là cái có tác
dụng tốt đáp ứng một nhu cầu nào đó của con người, điều có lợi cho tập thể hay
một cá nhân..."17
Còn theo từ điển triết học "Lợi ích là khái niệm nói lên đặc điểm của cái có ý
nghĩa khách quan, cần thiết cho cá nhân, gia đình, tập thể, giai cấp, dân tộc, xã hội
nói chung"18.
Theo nghĩa pháp lý, lợi ích hợp pháp là những lợi ích vật chất hoặc tinh thần
phù hợp với quy định của pháp luật. Trong quan hệ pháp luật phá sản, các chủ nợ
đều mong muốn đạt được những lợi ích nhất định. Điều mà các chủ nợ mong muốn
nhất ở quan hệ này là thu hồi được khoản nợ của mình.
Từ những lý luận trên, có thể hiểu lợi ích hợp pháp của chủ nợ như sau: Lợi
ích hợp pháp của chủ nợ là tất cả những giá trị vật chất hoặc tinh thần phát sinh từ

quyền của chủ nợ do pháp luật quy định.
Đó là những điều có lợi đối với chủ nợ mà pháp luật cho phép họ được
hưởng. Lợi ích quan trọng nhất là giá trị của các khoản nợ mà chủ nợ có thể nhận
lại một cách tối đa từ tài sản của chủ thể mắc nợ.
Tóm lại, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ là những hành vi, những điều
có lợi cho chủ nợ mà pháp luật cho phép chủ nợ được hưởng. Khi quyền của chủ nợ
được bảo đảm và thực hiện thì lợi ích của họ cũng đựợc bảo đảm. Quyền và lợi ích

16

Từ điển luật học trang 398
Đại Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa Thông tin, 1999.
18
Từ điển Triết học, NXB Văn hóa Thông tin, 2010, tr126
17

17


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

là hai phạm trù pháp lý có mối quan hệ mật thiết với nhau. Pháp luật phá sản là
công cụ đòi nợ đặc biệt đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ.
Pháp luật phá sản là một bộ phận không thể thiếu của hệ thống pháp luật kinh
tế, đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý nợ và cơ cấu lại con nợ lâm vào tình
trạng khó khăn về tài chính. Khi một con nợ không thực hiện được việc thanh toán
các khoản nợ thì các chủ nợ có hai phương thức đòi nợ: Đòi nợ bằng biện pháp
thông thường (thương lượng, thỏa thuận hoặc thông qua việc đưa đơn kiện ra tòa án
theo thủ tục giải quyết vụ án dân sự, kinh tế) và đòi nợ bằng một cơ chế đặc biệt
(thông qua thủ tục nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với con nợ). Tính chất

đặc biệt của thủ tục này thể hiện ở chỗ, để giúp các chủ nợ thu hồi được các món nợ
của mình, Tòa án phải ra quyết định tuyên bố con nợ bị phá sản và tiến hành thủ tục
bán toàn bộ tài sản của con nợ để phân chia cho các chủ nợ. Khác với thủ tục đòi nợ
thông thường, việc thanh toán nợ cho các chủ nợ theo thủ tục phá sản mang tính tập
thể, tất cả các khoản nợ được tòa án phân loại và thực hiện việc thanh toán theo một
thứ tự nhất định, trên cơ sở đảm bảo công bằng.
Trong thời gian tiến hành thủ tục phá sản, các chủ nợ không được thực hiện
bất kỳ hành vi pháp lý nào khác chống lại con nợ bị mở thủ tục phá sản mà chỉ có
quyền yêu cầu phải chia số tài sản còn lại của con nợ để thu hồi nợ. Hay nói cách
khác, trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản, các chủ nợ không thể
xé lẻ đòi nợ riêng cho mình mà tất cả họ đều phải được tập hợp lại thành một chủ
thể pháp lý gọi là hội nghị chủ nợ. Hội nghị chủ nợ đại diện cho tất cả chủ nợ tham
gia giải quyết việc phá sản để bảo vệ lợi ích cho họ. Toàn bộ tài sản của con nợ
được đưa vào một quỹ chung để trả cho các yêu cầu thanh toán của chủ nợ theo một
thứ tự ưu tiên nhất định. Nếu tài sản của con nợ không đủ thanh toán tất cả các
khoản nợ thì các chủ nợ được thanh toán theo tỷ lệ giữa khoản nợ mà con nợ phá
sản còn thiếu với số tài sản còn lại của chủ nợ.
Pháp luật phá sản các nước đều coi trọng vai trò của các chủ nợ trong quá
trình tiến hành thủ tục phá sản, có hiệu quả hay không thể hiện ở việc bảo vệ được
lợi ích của chủ nợ. Hơn ai hết, việc quyết định thanh lý con nợ hay cho phép con nợ
được tiến hành phục hồi cần phải dựa trên tiêu chí khả năng thu hồi nợ tối đa cho
các chủ nợ và phải có ý kiến của các chủ nợ. Pháp luật các nước đều có quy định
hội nghị chủ nợ là cơ quan đại diện cao nhất cho ý chí của các chủ nợ, có quyền
quyết định những vấn đề quan trọng liên quan đến chủ nợ cũng như việc giải quyết
phá sản. Hội nghị chủ nợ thường do tòa án hoặc người quản lý tài sản triệu tập và

18


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp


chủ trì, có sự tham gia của tất cả các chủ nợ. Bên cạnh đó, pháp luật phá sản của
một số nước còn quy định một cơ quan khác đại diện cho chủ nợ là ủy ban chủ nợ
(hội đồng chủ nợ) gồm một số chủ nợ lớn hoặc chủ nợ được bầu là cơ quan đại diện
thường trực của hội nghị chủ nợ19.
Về cơ bản, địa vị pháp lý của các chủ nợ trong pháp luật phá sản các nước
không có sự khác biệt lớn. Trong quá trình tố tụng phá sản, các chủ nợ tham gia vào
hầu hết các giai đoạn từ khởi kiện đến thi hành tuyên bố phá sản con nợ nhằm góp
phần vào hoạt động xét xử, bảo vệ lợi ích của các chủ nợ một cách tốt nhất. Chủ nợ
có quyền tham gia ý kiến trước khi người quản lý tài sản quyết định những vấn đề
có liên quan đến tài sản của con nợ, có quyền đệ trình kế hoạch tổ chức lại hoạt
động của con nợ20.
Pháp luật phá sản của Việt Nam được xây dựng và hình thành trong điều
kiện nước ta chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế, việc phá sản và giải quyết phá sản
hầu như chưa xảy ra. Do đó, nhiều quy định của pháp luật về phá sản đã bộc lộ
những điểm yếu, không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn giải quyết đặt ra, đòi
hỏi phải được sửa đổi, bổ sung. Chính vì vậy, Luật Phá sản năm 2014 ra đời trên cơ
sở kế thừa quy định của Luật phá năm 2004, đã hoàn thiện thêm một bước các quy
định về phạm vi áp dụng của luật phá sản, định nghĩa rõ ràng tình trạng “Doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán” và thời điểm nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản, về các chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, thay
thế chế định tổ quản lý, thanh lý tài sản bằng một chế định hoàn toàn mới là Quản
tài viên và Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, kéo dài thời gian quy định về
giao dịch bị coi là vô hiệu đối với DN, HTX mất khả năng thanh toán. Tuy nhiên,
tùy thuộc vào từng loại chủ nợ mà có những quyền, nghĩa vụ khác nhau. Đó là các
nhóm chủ nợ:
Nhóm 1: Chủ nợ không có bảo đảm là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu
cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ không
được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba.
Nhóm 2: Chủ nợ có bảo đảm một phần là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền

yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được
bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba mà giá trị
tài sản bảo đảm thấp hơn khoản nợ đó. Đối với nhóm chủ nợ này thì pháp luật phá
19
20

Viện khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao, Thông tin khoa học xét xử số 2/2003, tr25.
Viện khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao, Thông tin khoa học xét xử số 2/2003, tr55.

19


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

sản quy định cho họ thẩm quyền khá rộng rãi, có quyền quyết định những vấn đề
quan trọng ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ nợ.
Nhóm 3: Chủ nợ có bảo đảm là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu
doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được bảo
đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba. So với chủ
nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần thì nhóm chủ nợ này bị hạn chế
một số quyền nhất định như không có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản,
không có quyền biểu quyết thông qua nghị quyết hội nghị chủ nợ thông qua phương
án phục hồi hoạt động kinh doanh.... Quy định này của pháp luật Việt Nam xuất
phát từ quan điểm cho rằng: đối với chủ nợ có bảo đảm thì lợi ích của họ đã được
bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố của doanh nghiệp hay của người thứ ba. Vì
vậy, việc doanh nghiệp có bị tuyên bố phá sản hay không thì lợi ích của họ cũng
không bị thiệt hại.
1.3. Sự cần thiết bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong thủ tục phá sản
Để ổn định nền kinh tế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân, Việt Nam cũng như đa số các nước khác đều quan tâm

đến xây dựng chế định pháp luật về phá sản với mục tiêu hạn chế thấp nhất những
hậu quả do phá sản gây ra.
Trong thời đại ngày nay, với sự đề cao nhân quyền, dân chủ, tự do, bình
đẳng, pháp luật phá sản hiện đại đã có cách nhìn và xử sự khoan dung hơn đối với
những người bị lâm vào tình trạng phá sản. Nó trái ngược với thời trung cổ, trung
đại và nơi không có pháp luật, ở đó pháp luật phá sản đều mang nặng tính trừng
phạt nặng nề. Khi không trả được nợ không chỉ tài sản của con nợ bị đưa ra thanh lý
ngay mà thân nhân của họ cũng phải chịu những chế tài hình sự nghiêm khắc hoặc
chịu sự hành xử theo "luật rừng".
Hoạt động kinh doanh là một lĩnh vực đầy khó khăn và rủi ro, mặt khác hậu
quả của phá sản rất lớn. Thực tế người tự sát, phát điên, bỏ đi biệt tích do phá sản
khá phổ biến trong xã hội ở nhiều quốc gia, và ở cả Việt Nam, người kinh doanh
kém may mắn, thất thế cần phải được bảo vệ. Do đó, pháp luật phá sản không chỉ
bảo vệ lợi ích cho chủ nợ mà còn quan tâm bảo vệ lợi ích của cả con nợ.

20


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ CHỦ NỢ TRONG THỦ
TỤC PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
Thủ tục phá sản là con đường cuối cùng mà các chủ nợ bắt buộc phải đi để đòi
được các món nợ của mình. Pháp luật phá sản Việt Nam đã thể hiện rất rõ sự quan
tâm của Nhà nước đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Kế
thừa những tư tưởng tiến bộ của pháp luật phá sản thế giới và các quy định trước
đây, pháp luật về phá sản và doanh nghiệp hiện tại đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc
cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Điều này, trước tiên
được thể hiện qua hàng loạt các quy định pháp luật liên quan đến quyền năng của

chủ nợ. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật về phá sản doanh nghiệp cũng
gặp nhiều vướng mắc, một phần do quy định pháp luật, mặt khác do nhận thức
pháp luật của một bộ phận người dân còn hạn chế. Do đó cần phải có những
phương hướng và bước đi phù hợp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về
phá sản và doanh nghiệp nhằm bảo vệ tối đa và hài hòa lợi ích của các bên có liên
quan trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ.
2.1. Các nguyên tắc cơ bản đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ nợ trong quá trình giải quyết phá sản
Để đảm bảo tốt quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ, pháp luật về phá sản
không chỉ chú ý tới quyền lợi riêng của các chủ nợ mà còn phải xét chúng trong mối
quan hệ với lợi ích chung của xã hội và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên
quan. Bởi xã hội là một tổng thể các quan hệ phức tạp, đa dạng, đan xen và ảnh
hưởng lẫn nhau. Do đó, các quy định pháp luật phá sản phải được đặt trong tính
thống nhất và đồng bộ của cả hệ thống pháp luật, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn.
Quyền tự định đoạt của chủ nợ trong luật phá sản phải dựa trên cơ sở tôn trọng các
lợi ích mà các quy phạm pháp luật khác cho phép chủ thể có liên quan được hưởng.
Nói như vậy có nghĩa là các quy định về việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của chủ nợ trong thủ tục phá sản phải rõ ràng, hợp lý và tuân theo các nguyên tắc
nhất định.
Các nguyên tắc cơ bản đó sẽ là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt cho quá trình
xây dựng, ban hành, hoàn thiện và áp dụng luật vào thực tiễn cuộc sống. Định
hướng đúng các nguyên tắc cơ bản tạo điều kiện cho các chủ nợ thu hồi được các

21


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

khoản nợ một cách hiệu quả, nhanh chóng, trên tinh thần nhân đạo, công bằng của
pháp luật.

2.1.1. Nguyên tắc pháp chế
Pháp luật là công cụ quan trọng nhất để nhà nước quản lý xã hội. Nguyên tắc
pháp chế là nguyên tắc cơ bản nhất của quá trình điều chỉnh pháp luật. Trong đó,
mọi chủ thể pháp luật đều phải nghiêm chỉnh và triệt để tôn trọng pháp luật. Thực
hiện tốt nguyên tắc pháp chế là có cơ sở đảm bảo công bằng xã hội và bình đẳng
giữa các chủ thể pháp luật. Trong quá trình giải quyết phá sản đảm bảo nguyên tắc
pháp chế còn là đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ.
Pháp luật phá sản phải quy định chặt chẽ các bước trong trình tự giải quyết
phá sản doanh nghiệp. Thủ tục phá sản là một thủ tục đòi nợ đặc biệt không chỉ xét
về quy mô, về tính chất mà còn về cả thành phần chủ thể tham gia. Do đó, luật phải
quy định về các chủ thể đó có quyền, nghĩa vụ như thế nào, được làm gì, phải làm
gì, mối quan hệ giữa họ với nhau ra sao để tránh tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn
hoặc bỏ sót công việc.
Thẩm phán phụ trách, chấp hành viên, người quản lý tài sản cũng phải chấp
hành đúng pháp luật và chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Mọi hành vi vi phạm
pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tùy mức độ nặng nhẹ mà áp dụng các
hình thức xử lý khác nhau. Đặc biệt, pháp luật phải có các chế tài nghiêm khắc để
hạn chế sự lạm quyền, trốn tránh nghĩa vụ của các chủ thể công quyền làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của các chủ nợ, con nợ, của nhà nước và toàn xã hội. Để
bảo vệ lợi ích của các chủ nợ, pháp luật nên hạn chế tối đa sự tham gia của các cơ
quan công quyền vào quá trình tham gia giải quyết phá sản mà tăng cường sự tự
định đoạt của các chủ nợ.
Các chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ có nghĩa vụ cung cấp các giấy tờ, sổ
sách cần thiết theo yêu cầu của tòa án. Những người này phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về tính xác thực của các tài liệu mà mình cung cấp.
Như vậy, các chủ thể tham gia trong thủ tục phá sản đều phải nghiêm chỉnh
chấp hành đúng quy định của pháp luật. Nguyên tắc pháp chế sẽ bảo đảm được tối
ưu quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ cũng như các chủ thể có liên quan, đảm
bảo trật tự kỷ cương của nhà nước và xã hội.


22


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

2.1.2. Nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ nợ
Mục đích quan trọng của luật phá sản là bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ. Để
đảm bảo tốt được quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì điều kiện quan trọng là pháp
luật phá sản phải đảm bảo được tính công bằng. Xuất phát từ nguyên tắc ''mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật'' 21, nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ nợ là một
trong những nguyên tắc cơ bản trong thủ tục phá sản. Mỗi chủ nợ tham gia quan hệ
pháp luật phá sản có quyền đòi hỏi được đối xử như nhau không phân biệt nó là
thành phần kinh tế tư nhân hay là thành phần kinh tế quốc doanh, có số nợ ít hay số
nợ nhiều, tình trạng tài sản ra sao và bất luận là nhà nước hay là những thương nhân
bình thường.
Đối với phá sản luật pháp nước ta không thừa nhận bất kỳ sự đặc quyền, đặc
lợi của bất kỳ đối tượng, tầng lớp nào. Các chủ nợ đều bình đẳng về quyền đòi nợ
và cung cấp giấy tờ tài liệu liên quan đến khoản nợ của mình. Họ đều có quyền
khiếu nại đối với các quyết định của tòa án, tổ quản lý thanh toán tài sản. Tại hội
nghị chủ nợ, các chủ nợ đều có quyền tham gia thảo luận các phương án, giải pháp
tổ chức, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mắc nợ. Do đặc điểm khó thu hồi
nợ nên các chủ nợ không có bảo đảm có quyền bình đẳng trong việc biểu quyết,
thông qua phương án hòa giải, các giải pháp tổ chức kinh doanh hoặc phân chia giá
trị tài sản của doanh nghiệp mắc nợ.
Khác với thủ tục đòi nợ thông thường, việc thanh toán nợ cho các chủ nợ
theo thủ tục phá sản mang tính tập thể, tất cả các khoản nợ được thanh toán trên cơ
sở đảm bảo công bằng. Các chủ nợ không thể đòi nợ riêng cho mình mà tất cả họ
đều phải được tập hợp lại thành một tập thể pháp lý gọi là hội nghị chủ nợ 22. Hội
nghị chủ nợ đại diện cho tất cả chủ nợ tham gia giải quyết việc phá sản để bảo vệ
lợi ích cho họ. Toàn bộ tài sản của con nợ được đặt vào một quỹ chung, dùng để trả

cho các yêu cầu thanh toán của chủ nợ theo một thứ tự ưu tiên nhất định. Nếu tài
sản của con nợ không đủ thanh toán tất cả các khoản nợ thì các chủ nợ được thanh
toán theo tỷ lệ giữa các khoản nợ mà doanh nghiệp phá sản còn thiếu với số tài sản
còn lại của doanh nghiệp.
Các chủ nợ bình đẳng trước pháp luật còn có nghĩa là các chủ nợ đều phải
tôn trọng và tuân thủ hiến pháp, pháp luật và các quy định phạm pháp luật phá sản,
nói riêng. Bất kỳ chủ nợ nào vi phạm pháp luật đều bị xử lý theo pháp luật như
21
22

Điều 52 Hiến pháp năm 1992
Điều 63 Luật Phá sản năm 2004

23


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

nhau. Mọi hành vi câu kết giữa một chủ nợ nào đó với doanh nghiệp mắc nợ để tẩu
tán tài sản đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Sự bình đẳng trước pháp luật không có nghĩa là tất cả các chủ nợ đều được
đối xử giống nhau một cách máy móc. Trong thực tiễn bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ nợ phải chú ý tới sự khác biệt của mỗi chủ nợ về điều kiện xã hội
và cá nhân cụ thể. Đặc biệt trong trình tự phân chia tài sản của doanh nghiệp mắc
nợ, chúng ta phải tránh được sự áp dụng pháp luật giống nhau một cách hình thức
đối với mọi chủ nợ. Người lao động là lực lượng chính trong xã hội, họ sẽ gặp
nhiều khó khăn khi không có tiền lương – nguồn sống của họ. Vị trí xã hội và vai
trò của họ khác với các chủ nợ khác nên họ phải đứng ở hàng ưu tiên thanh toán
khác với các chủ nợ khác. Đối với các chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm
một phần, chủ nợ không có bảo đảm có địa vị pháp lý khác nhau nên cũng cần có sự

ưu tiên khác nhau.
Trong doanh nghiệp, không nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của người lao
động, các khoản nợ của doanh nghiệp được thanh toán theo thứ tự, đầu tiên là các
khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định pháp luật và các
quyền lợi khác của người lao động theo thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao
động đã ký kết, sau đó là nợ thuế và các khoản nợ khác. Sau khi đã thanh toán hết
các khoản nợ và chi phí doanh nghiệp, phần còn lại thuộc về chủ doanh nghiệp tư
nhân, các thành viên, cổ đông hoặc chủ sở hữu công ty.
2.1.3. Nguyên tắc hòa giải
Trong pháp luật phá sản của nhiều nước trên thế giới, hòa giải được coi là
một bước bắt buộc trong thủ tục giải quyết phá sản. Hòa giải có thể được tiến hành
trước khi tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản.
Hòa giải thực chất là một quá trình thương lượng, là việc thống nhất ý chí
giữa con nợ với các chủ nợ để tìm ra phương án tối ưu nhất đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp giữa các bên.
Trước đây, theo quy định của Luật Phá sản Doanh nghiệp thì hòa giải được
tiến hành ngoài tố tụng và trong tố tụng (hòa giải tại tòa án). Khoản 2 Điều 3 Nghị
định 189-CP ngày 23/12/1994 hướng dẫn đã cho phép các bên được hòa giải với
nhau trước khi đưa ra tòa án: Con nợ phải thực hiện biện pháp tài chính cần thiết
trong đó có biện pháp thương lượng với các chủ nợ để hoãn nợ, mua nợ, giảm nợ,
bảo lãnh nợ, xóa nợ...Việc hòa giải tự nguyện này được ưu tiên giải quyết cho đến

24


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp

trước ngày tòa án mở thủ tục phá sản. Khi những thỏa thuận giữa hai bên không đạt
được hội nghị chủ nợ trở thành bước hòa giải trong tố tụng và được coi là một giai
đoạn bắt buộc trong tố tụng phá sản. Luật đã quy định một thủ tục áp dụng đối với

doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo các bước: Mở thủ tục phá sản, tiến
hành hòa giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và
sau đó nếu biện pháp này bị thất bại mới ra quyết định bị tuyết bố phá sản. Đây là
một thủ tục cứng nhắc gây lãng phí thời gian, tiền bạc và hạn chế quyền quyết
định của các thẩm phán trong việc giải quyết vụ phá sản. Nhưng trên thực tế
không những doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đã không còn tài sản gì
đáng kể, khả năng phục hồi hầu như không có. Tòa án đã biết trước việc tổ chức
hội nghị chủ nợ để xem xét, thông qua phương án hòa giải không thể đem lại kết
quả nhưng vẫn phải tiến hành đầy đủ các giai đoạn theo quy định của pháp luật.
Luật Phá sản năm 2004 đã khắc phục được hạn chế đó và đi theo hướng quy
định nhiều thủ tục khắc phục trong thủ tục phá sản. Sau khi quyết định mở thủ tục
phá sản, căn cứ vào tình trạng thực tế của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản, tòa án sẽ quyết định áp dụng thủ tục nào cho phù hợp. Đối với những
doanh nghiệp không còn khả năng phục hồi thì tòa án có thể tuyên bố phá sản ngay
mà không cần triệu tập hội nghị chủ nợ để xem xét áp dụng thủ tục phục hồi. Quy
định như vậy đã tạo điều kiện chấm dứt nhanh chóng sự tồn tại của những doanh
nghiệp trong tình trạng chết "lâm sàng" và giảm thiểu đến mức tối đa chi phí cho
việc tiến hành thủ tục phá sản, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của các chủ nợ.
Còn đối với những doanh nghiệp có khả năng phục hồi thì việc tiến hành hòa
giải về giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh lại là giải pháp tối ưu để bảo vệ
tốt hơn quyền và lợi ích của các chủ nợ, con nợ. Tại hội nghị chủ nợ các bên có thể
chấp nhận hoặc không chấp nhận kế hoạch tổ chức lại hoạt động kinh doanh của
con nợ. Hòa giải sẽ giải quyết được xung đột pháp lý giữa các bên. Mặt khác, trên
thực tế không phải khi nào đóng cửa doanh nghiệp mắc nợ cũng đảm bảo được trả
nợ một cách hợp pháp của chủ nợ và thể hiện đầy đủ ý chí của chủ nợ. Do vậy, chỉ
có thông qua hòa giải các bên sẽ cân nhắc lợi thiệt đối với mình để bảo vệ tốt hơn
quyền và lợi ích của mình nhưng vẫn đáp ứng quyền và lợi ích chính đáng của bên
kia. Hòa giải là giải pháp nhằm tìm ra cơ hội để doanh nghiệp mắc nợ khôi phục lại
hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo dung hòa lợi ích của chủ nợ và doanh
nghiệp mắc nợ trên cơ sở tôn trọng lợi ích chung của xã hội. Như vậy, hòa giải được

coi là nguyên tắc chủ đạo trong quá trình giải quyết phá sản.

25


×