Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Giá trị đạo đức truyền thống của gia đình việt nam và sự kế thừa nó trong xây dựng gia đình văn hóa mới hiện nay (qua khảo sát ở hưng yên)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.15 KB, 42 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



BÙI THỊ DUYÊN

GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM VÀ SỰ KẾ THỪA NÓ
TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA MỚI HIỆN NAY
(QUA KHẢO SÁT Ở HƯNG YÊN)

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2009

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

-
BÙI THỊ DUYÊN

GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM VÀ SỰ KẾ THỪA NÓ
TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA MỚI HIỆN NAY
(QUA KHẢO SÁT Ở HƯNG YÊN)

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Chuyên ngành: Triết học
Mã số:

60 22 80

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. HOÀNG ĐÌNH CÚC

HÀ NỘI - 2009

2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS,
TS. Hoàng Đình Cúc.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn
đều trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2009.

Tác giả luận văn

Bùi Thị Duyên


3


MỤC LỤC
Mở đầu ................................................................................................................. 1
Chương 1. Giá trị đạo đức của gia đình Việt Nam ......................................... 6
1.1. Cơ sở hình thành giá trị đạo đức truyền thống của gia đình Việt Nam ........ 6
1.1.1. Những khái niệm cơ sở .............................................................................. 6
1.1.2. Những cơ sở hình thành nên giá trị đạo đức truyền thống của gia đình
Việt Nam .................................................................................................. 11
1.2. Hệ giá trị đạo đức truyền thống của gia đình Việt Nam ............................. 23
1.2.1. Giá trị đạo đức trong quan hệ vợ chồng ................................................... 23
1.2.2. Giá trị đạo đức trong quan hệ cha mẹ và con cái ..................................... 25
1.2.3. Giá trị đạo đức truyền thống trong quan hệ giữa anh chị em ruột ........... 28
1.2.4. Giá trị đạo đức truyền thống của gia đình trong quan hệ với dòng họ .... 30
1.2.5. Giá trị đạo đức truyền thống của gia đình trong quan hệ làng xã ............ 32
Chương 2. Những yêu cầu khách quan của việc kế thừa giá trị đạo đức
truyền thống của gia đình Việt Nam trong xây dựng gia đình văn
hoá ở Hưng Yên hiện nay ...................................................................... 35
2.1. Yêu cầu khách quan của việc kế thừa giá trị đạo đức truyền thống ...................... 35
2.1.1. Cơ sở khách quan phủ nhận những giá trị đạo đức truyền thống ....................... 35
2.1.2. Những biến đổi trong nội dung giáo dục đạo đức trong gia đình Việt
Nam .......................................................................................................... 38
2.1.3. Những yêu cầu ......................................................................................... 47
2.2. Gia đình văn hoá và việc kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống
trong việc xây dựng gia đình văn hoá ở Hưng Yên hiện nay .................. 50
2.2.1. Gia đình văn hoá và phong trào xây dựng gia đình văn hoá ................... 50

4



2.2.2. Kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng gia
đình văn hoá ở Hưng Yên hiện nay ......................................................... 53
Chương 3. Gia đình Hưng Yên và giải pháp kế thừa giá trị đạo đức
truyền thống trong xây dựng gia đình văn hoá ở Hưng Yên .............. 57
3.1. Gia đình Hưng Yên trong nền kinh tế thị trường ........................................ 57
3.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội Hưng Yên hiện nay ........................................ 57
3.1.2. Thực trạng gia đình Hưng Yên hiện nay.................................................. 60
3.2. Giải pháp kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng gia
đình văn hoá ở Hưng Yên hiện nay ......................................................... 67
3.2.1. Những khó khăn cơ bản với vấn đề giáo dục gia đình Hưng Yên hiện
nay ............................................................................................................ 67
3.2.2. Những giải pháp ....................................................................................... 69
Kết luận ............................................................................................................. 80
Danh mục tài liệu tham khảo .......................................................................... 82

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc Việt Nam đã trải qua 4000 năm dựng nước và giữ nước. Quá
trình tồn tại và phát triển của dân tộc đã hình thành nên một hệ thống các giá
trị đạo đức của gia đình truyền thống. Những giá trị ấy đã có vai trò quan

5


trọng trong giáo dục con người, duy trì trật tự xã hội Việt Nam trước đây và
ngày nay chúng ta phải biết kế thừa vào việc xây dựng gia đình văn hoá mới
hiện nay.
Gia đình, tế bào của xã hội và chất lượng gia đình là nhân tố quan trọng
đảm bảo sự phát triển và bền vững của xã hội.

Gia đình ở nước ta hiện nay đang có những biến đổi mạnh mẽ và phức
tạp do tác động của kinh tế hàng hoá và cơ chế thị trường do những biến đổi
của xã hội đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đang chuyển từ mô hình phát
triển cũ sang mô hình phát triển mới cùng với sự tác động của thế giới hiện
nay. Mặc dù vậy, những nền tảng tinh thần, đạo lý của gia đình truyền thống
vẫn phát huy tác dụng và có ảnh hưởng tích cực trong đời sống gia đình Việt
Nam.
Tuy nhiên, sự phát triển của kinh tế thị trường cùng với những mặt trái
của nó đang tác động tiêu cực tới sự phát triển văn hoá và con người Việt
Nam. Một trong những biểu hiện rõ nét của xu hướng dẫn tới sự suy giảm
nhân cách con người Việt Nam hiện nay là đời sống gia đình, chất lượng gia
đình, đặc biệt là giá trị đạo đức và lối sống gia đình, ở nhà trường và xã hội.
Nếu không đặt vấn đề giáo dục truyền thống, giáo dục lối sống một cách đúng
mực, đúng với tầm quan trọng của nó đối với tồn tại xã hội thì sự suy thoái
đạo đức của con người từ trong gia đình, nhà trường, xã hội tiếp tục gia tăng.
Vì vậy, để đáp ứng được đòi hỏi của đất nước trong thời kỳ hội nhập, Đảng ta
chủ trương: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị nhân cách con người Việt Nam,
bảo vệ phát triển bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá”. “Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam,
thích ứng với những đòi hỏi của gia đình công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [5,
tr.104-106].
Như thế việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống của gia đình là việc
làm không thể thiếu trong việc xây dựng một chiến lược gia đình hiện nay.

6


Hưng Yên hiện nay đang trong quá trình đô thị hoá cả chiều rộng lẫn
chiều sâu với tốc độ ngày càng gia tăng. Sự chuyển đổi từ xã hội nông nghiệp
truyền thống sang xã hội công nghiệp đô thị đã tác động đến toàn bộ đời sống

các thành viên trong gia đình. Do đó, việc kế thừa những giá trị đạo đức của
gia đình truyền thống để xây dựng gia đình văn hoá mới hiện nay ở Hưng Yên
là vô cùng cần thiết. Xuất phát từ yêu cầu ấy, tôi chọn đề tài: “Giá trị đạo đức
truyền thống của gia đình Việt Nam và sự kế thừa nó trong xây dựng gia đình
văn hoá mới hiện nay (qua khảo sát ở Hưng Yên)”.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, vấn đề gia đình và giáo dục gia đình ở nước
ta ngày càng được quan tâm, chú ý từ nhiều ngành, nhiều giới: Từ các bậc cha
mẹ đến các nhà giáo, từ cơ quan chính quyền tới các tổ chức đoàn thể xã hội,
từ các nhà khoa học, nhà giáo dục học, đến các cơ quan thông tin đại chúng.
Đặc biệt, từ năm 1994 khi Liên hợp quốc chọn là năm quốc tế gia đình thì
việc nghiên cứu này mới thực sự bùng nổ, cho đến nay hàng loạt các cuộc hội
thảo, các báo cáo khoa học, các công trình nghiên cứu về gia đình được công
bố, trong đó đề cập rất nhiều về vấn đề gia đình truyền thống: Nhìn một cách
khái quát, các công trình nghiên cứu liên quan có thể chia thành các nhóm chủ
yếu sau:
- Nhóm thứ nhất: Những quan điểm, chủ chương, chính sách về xây
dựng gia đình văn hóa. Sự tổng kết đánh giá đó được phản ánh trong các Văn
kiện Đại hội của Đảng VI, VII, VIII, IX, X. Nó phản ánh nhận thức lý luận và
thực tiễn của Đảng về vai trò của những giá trị đạo đức truyền thống trong
quá trình giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
- Nhóm thứ 2: Một số công trình nghiên cứu chuyên khảo đã được xuất
bản.
+ Lê Thi (chủ nhiệm): Vai trò của gia đình trong sự hình thành và phát
triển nhân cách của Việt Nam, đã trình bày một cách hệ thống sự phát triển

7


gia đình Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử khác nhau và chỉ ra một số giá trị

tích cực trong quan hệ gia đình với những hạn chế của nó.
+ Nguyễn Đình Hựu: Gia đình truyền thống với ảnh hưởng của nho
giáo, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội 1991; “Gia đình truyền thống và
chuyển đổi đã thích ứng với thời đại”, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1994.
+ Trần Thùy Anh: “Thế ứng xử trong xã hội cổ truyền”, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội, 2000.
+ Nguyễn Minh Hoà: Hôn nhân và gia đình trong xã hội hiện nay, NXB
trẻ, 2000.
+ Nguyễn Linh Khiều: Gia đình và phụ nữ trong những biến đổi văn
hoá xã hội nông thôn, NXB. Khoa học Xã hội, 2001.
+ Nguyễn Trọng Chuẩn: Tìm hiểu giá trị văn hoá truyền thống trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB. Chính trị quốc gia, 2001.
Ngoài ra còn có nhiều bài báo đăng trên các tạp chí đã đề cập tới vấn đề
Tất cả các công trình trên đã phác họa nên chân dung một mô hình gia
đình truyền thống Việt Nam khá thống nhất và chỉ ra một số giá trị đạo đức cơ
bản trong gia đình.
Tuy nhiên trong các công trình ấy chưa có công trình nào đề cập đến
việc kế thừa các giá trị ấy trong xây dựng gia đình văn hoá Việt Nam nói
chung và Hưng Yên nói riêng như là một tất yếu khách quan và cần thiết
trong nền kinh tế thị trường.
Luận văn này nhằm mục đích làm sáng tỏ vấn đề trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở, hệ giá trị đạo đức của gia đình truyền thống Việt Nam, luận
văn khẳng định sự cần thiết phải kế thừa những giá trị đạo đức tốt đẹp đó.

8


Đồng thời chỉ ra giải pháp kế thừa những giá trị ấy trong xây dựng gia đình

Hưng Yên đáp ứng được yêu cầu thời kỳ phát triển mới của đất nước.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Luận văn phải giải quyết được những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Thứ nhất, làm rõ các giá trị đạo đức truyền thống của gia đình Việt
Nam.
Thứ hai, yêu cầu khách quan của việc kế thừa những giá trị đạo đức
truyền thống của gia đình Việt Nam trong xây dựng gia đình văn hoá (qua
khảo sát ở Hưng Yên hiện nay).
Thứ ba, luận văn chỉ ra một số giải pháp kế thừa những giá trị đó để
xây dựng gia đình văn hoá ở Hưng Yên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
* Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu các giá trị đạo đức truyền thống cuả gia đình Việt
Nam và việc kế thừa các giá trị đạo đức ấy vào việc xây dựng gia đình văn
hoá ở Hưng Yên hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn này chỉ đề cập đến những giá trị đạo đức truyền thống tích
cực của gia đình và sự kế thừa những giá trị ấy trong việc xây dựng gia đình
văn hoá ở Hưng Yên.

9


5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và logic kết hợp với phương
pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, đồng thời sử dụng một số kết quả điều tra
xã hội học hoặc các số liệu thống kê của các cơ quan nghiên cứu đã công bố.
6. Đóng góp của luận văn

Nêu lên hệ các giá trị đạo đức truyền thống của gia đình Việt Nam và
khẳng định vai trò của đạo đức truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa
ở Hưng Yên.
Nêu ra những thách thức, yêu cầu trong giáo dục gia đình Hưng Yên
hiện nay và đề xuất một số giải pháp để kế thừa, phát huy những giá trị đạo
đức truyền thống trong nền kinh tế thị trường.
Luận văn bảo vệ thành công sẽ là tài liệu tham khảo cho những ai quan
tâm và giảng dậy môn giáo dục gia đình ở Hưng Yên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1. Giá trị đạo đức của gia đình Việt Nam.
Chương 2. Những yêu cầu khách quan của việc kế thừa giá trị đạo đức
truyền thống của gia đình Việt Nam trong xây dựng gia đình văn hoá ở Hưng
Yên hiện nay.
Chương 3. Gia đình Hưng Yên và giải pháp kế thừa giá trị đạo đức
truyền thống trong xây dựng gia đình văn hoá ở Hưng Yên.

10


Chương 1
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM
1.1. Cơ sở hình thành giá trị đạo đức truyền thống của gia đình
Việt Nam
1.1.1. Những khái niệm cơ sở
Để nghiên cứu đề tài cần làm sáng tỏ một số khái niêm sau đây:
- Gia đình và gia đình truyền thống.
- Đạo đức, giá tri đạo đức truyền thống của gia đình.
1.1.1.1. Gia đình và gia đình truyền thống

Khi nói về gia đình, C.Mác viết “Hàng ngày khi tái tạo ra đời sống bản
thân mình, con người bắt đầu tái tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [20,
tr.288].
Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, từ xã hội còn lạc hậu đến xã hội
văn minh, mỗi cá nhân đều được sinh ra, trưởng thành, cho đến khi từ biệt cõi
đời đều gắn bó với gia đình. Gia đình là tổ chức cơ sở, đầu tiên, đối với mỗi
cá nhân, là tế bào hợp thành đời sống xã hội. Không có gia đình để tái tạo ra
con người, ra sức lao động thì xã hội không thể tồn tại và phát triển được.
Trên thế giới tồn tại rất nhiều hình thức gia đình với cấu trúc khác
nhau. Vì vậy khó có thể đưa ra một định nghĩa chung và khoa học về gia đình.
Liên hợp quốc đã đặc biệt nhấn mạnh tính đa dạng của gia đình trong một thế
giới có nhiều lối sống, nhiều nền văn hoá khác nhau.
Nên khi bàn về khái niệm gia đình, văn bản liên hợp quốc có lưu ý
rằng: Gia đình là một thể chế có tính toàn cầu nhưng lại có những hình thức,
vai trò khác nhau thay đổi từ nền văn minh này sang nền văn minh khác, dân

11


tộc này so với dân tộc kia. Do đó, không thể đưa ra một định nghĩa chung áp
dụng cho toàn cầu.
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về gia đình, mỗi khái niệm đều nhằm
mục đích khái quát lên những yếu tố cơ bản, đặc thù. Sau đây là một số khái
niệm:
a. Gia đình là tập hợp những người cùng chung sống thành một đơn vị
nhỏ nhất trong xã hội, họ gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng
máu, thường gồm vợ chồng, cha mẹ và con cái.
b. Gia đình là nhóm người chung sống với nhau dưới một mái nhà có
quan hệ hôn nhân huyết thống và nền kinh tế chung.
c. Theo Levi strauss thì gia đình là một nhóm xã hội được quy định bởi

ba đặc điểm nổi bật là: bắt nguồn từ hôn nhân bao gồm vợ chồng, con cái phát
sinh từ sự hôn phối của đôi nam nữ, tuy nhiên trong gia đình có mặt của
những người họ hàng, bà con hoặc con nuôi, họ gắn bó với nhau bởi các
nghĩa vụ và quyền lợi có tính chất kinh tế và về sự cấm đoán tình dục giữa các
thành viên.
Ở Việt Nam, từ xưa đến nay gia đình luôn luôn là một hình thức cộng
đồng xã hội đặc biệt, gia đình được coi là tế bào của xã hội. Căn cứ vào tình
hình chung của hôn nhân và gia đình nước ta thì: Khái niệm gia đình được sử
dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan
hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó (cha mẹ, con cái, ông bà, họ
hàng nội ngoại) cùng chung sống. Đồng thời gia đình có thể gồm một số
người được gia đình nuôi dưỡng, tuy không có quan hệ máu mủ. Các thành
viên gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm, quyền lợi (kinh tế, văn hoá,
tình cảm), giữa họ có những điều kiện rằng buộc có tính pháp lý, được nhà
nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong luật hôn nhân và gia đình nước
ta). Đồng thời trong gia đình có những quy định rõ ràng về quyền được phép
và cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành viên [27, tr.16-17].

12


Như vậy, dù gia đình được định nghĩa ở khía cạnh nào thì trong đời
sống hàng ngày, khi nói đến gia đình thì điều chủ yếu là nói đến một nhóm
người cùng chung sống trong một mái nhà và giữa họ có mối quan hệ với
nhau bởi quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống, đó là quan hệ giữa vợ và
chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em ruột với nhau và giữa ông bà
(nội, ngoại) với các cháu.
Nếu như khái niệm gia đình khó xác định trên diện rộng thì khái niệm
“gia đình truyền thống” cũng là một khái niệm khó xác định không kém.
Gia đình truyền thống là một khái niệm mà các nhà nghiên cứu dùng để

chỉ loại gia đình đã hình thành và tồn tại trong quá khứ mà trong đó chứa
đựng nhiều yếu tố vững bền, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác,
những yếu tố đó phản ánh nền văn hóa bản địa và tạo nên nét đặc sắc của văn
hóa dân tộc. Ở Việt Nam, gia đình truyền thống được coi là một khái niệm
mang nhiều nghĩa khác nhau và thực tế khái niệm này thường được hiểu chỉ là
một phần trong các nghĩa của nó. Ví dụ: người ta có thể hiểu gia đình truyền
thống là một gia đình nho giáo hoặc gia đình phong kiến. Một số khác muốn
nhấn mạnh đến yếu tố lịch sử 4000 năm của dân tộc Việt Nam lại có ý đò gạt
yếu tố “Nho giáo” hoặc “Phong kiến” ra khỏi khái niệm và muốn đồng nhất
khái niệm gia đình truyền thống với hình thái gia đình Việt Nam cổ xưa, trước
khi nho giáo xâm nhập, khi ấy gia đình được coi là tổ ấm của mỗi người,
trong đó sự thủy chung, lòng yêu thương và ý thức trách nhiệm là những giá
trị cơ bản. Có lẽ chúng ta cũng sẽ nhất trí của giáo sư Đỗ Thái Đồng: “Gia
đình truyền thống chắc hẳn là hình thái gia đình ở nông thôn, là gia đình ở
những xã hội nông nghiệp Á Đông đã tồn tại lâu đời và gần như bất biến trên
nhiều khía cạnh. Như vậy, đó cũng là kiểu gia đình nông nghiệp, là một định
chế gắn liền với nền nông nghiệp cổ truyền, sự nhất trí về khái niệm gia đình
truyền thống có lẽ chỉ giới hạn đến đó ” [5, tr.72].

13


Có thể còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu thêm nhưng với điều kiện cụ
thể ở Việt Nam, gia đình truyền thống có thể được hiểu là loại hình gia đình
gắn liền với nền kinh tế nông nghiệp tiểu nông với đặc trưng sản xuất lúa
nước, ít biến đổi qua những thay đổi của lịch sử, tồn tại cho đến thế kỷ XIX
(trước khi tiếp xúc với phương Tây), đó là một loại gia đình hạt nhân và nửa
hạt nhân hóa (gia đình mở rộng ba thế hệ), gia đình này gắn chặt với nền kinh
tế cộng đòng làng xã, với chế độ ruộng công phân chia định kỳ, là một đơn vị
sản xuất nông nghiệp kết hợp với sản xuất thủ công và tiểu thương nghiệp, tự

thỏa mãn các nhu cầu sống của các thành viên. Đó là gia đình phụ hệ, coi
trọng thờ cúng tổ tiên và chịu ảnh hưởng rất lớn của nho giáo, dù vậy trong
gia đình, người phụ nữ vẫn được tôn trọng, đây là sự chi phối của văn hóa bản
địa và tác động của Phật giáo, Đạo giáo và những tác động này đã làm mền
hóa các nguyên tắc cứng nhắc của nho giáo trong gia đình.
1.1.1.2. Đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống của gia đình Việt Nam
Đạo đức là một hiện tượng xã hội phản ánh những quan hệ xã hội hiện
thực, hình thành từ trong cuộc sống nhằm điều chỉnh hành vi của con người
trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng
đồng xã hội sao cho phù hợp với yêu cầu của sự phát triển. Đạo đức là một
phạm trù thuộc về đời sống tinh thần. Trong triết học, đạo đức được coi là
một trong những hình thái ý thức xã hội.
Trong hiện thực, hành vi đạo đức của con người chỉ có thể diễn ra trong
các mối quan hệ cụ thể khi các chủ thể đạo đức ý thức một cách đầy đủ về
mối quan hệ ấy và tự nguyện hành động vì lợi ích và hạnh phúc chân chính
của con người vì yêu cầu của tiến bộ xã hội. G.Bandzeladze - một nhà đạo
đức học Xô viết trước đây cho rằng: “Đạo đức là một hệ thống những chuẩn
mực biểu hiện sự quan tâm tự nguyện, tự giác của những con người trong
quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội nói chung. Bản chất của đạo

14


đức là sự quan tâm tự giác của những con người đến lợi ích của nhau, đến lợi
ích của xã hội”.
Hiện nay, khái niệm đạo đức thường được sử dụng là khái niệm của
nhà nghiên cứu đạo đức học Trần Hậu Kiêm: “Đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội đặc biệt bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm,
những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Nhờ đó con người tự giác điều
chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và

sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa
cá nhân với xã hội” [15, tr.6].
Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức phản ánh tồn tại xã hội, phản
ánh các quan hệ kinh tế, quan hệ giai cấp nhất định. Vì vậy, với mỗi giai đoạn
lịch sử, mỗi phương thức sản xuất khác nhau sẽ tương ứng với một nền đạo
đức khác nhau. Tuy nhiên, cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, đạo đức
không chỉ mang tính lịch sử, tính giai cấp mà còn mang tính kế thừa trong sự
phát triển của ý thức xã hội. Tức là, bên cạnh bộ phận đạo đức đặc trưng của
mỗi thời đại, phản ánh quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội đương thời còn một bộ
phận đạo đức truyền thống của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, được lưu truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác, góp phần làm nên bản sắc độc đáo của mỗi dân
tộc trong quá trình phát triển.
Đạo đức truyền thống được thể hiện trong nhiều lĩnh vực, môi trường
khác nhau trong đó đạo đức truyền thống của gia đình có nhiều nét đặc sắc mà
ngày nay cần phải có thái độ trân trọng.
Đạo đức truyền thống của gia đình là hệ thống những quan niệm, chuẩn
mực đạo đức về hôn nhân và gia đình được lưu truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác.
Đạo đức truyền thống của gia đình là những quan niệm, chuẩn mực đạo
đức có từ xa xưa và hiện đang tồn tại trong xã hội hiện đại, nó có thể còn phù
hợp hoặc không phù hợp với xã hội mới. Do đó, khi sử dụng khái niệm giá trị

15


đạo đức truyền thống của gia đình là nói đến quan niệm, qui tắc, chuẩn mực
đạo đức truyền thống của gia đình vẫn còn phù hợp với ngày nay và là các giá
trị đạo đức cần phải kế thừa, phát huy.
1.1.2. Những cơ sở hình thành nên giá trị đạo đức truyền thống của
gia đình Việt Nam

Các quan hệ đạo đức của gia đình truyền thống là một bộ phận của
truyền thống Việt Nam. Các giá trị ấy không phải tự nhiên mà có, nó là sản
phẩm của các điều kiện tự nhiên, xã hội và đặc điểm của gia đình truyền
thống.
1.1.2.1. Những điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội tác động đến sự
hình thành truyền thống đạo đức của gia đình Việt Nam
Sự tác động của điều kiện tự nhiên và điệu kiện địa lý. Địa bàn cư trú
của tổ tiên người Việt là một vùng đất bồi lấp của phù sa, nằm giữa núi và
biển cả. Môi trường sông nước ảnh hưởng rất lớn đến truyền thống của
người Việt và dấu ấn của nó in đậm lên tư duy, thói quen của con người. Vì
lẽ đó các nhà nghiên cứu đã kết luận “người Việt có một truyền thống với
sông nước và quen với sông nước, thạo nghề sông nước, có tư duy của một
cư dân sông nước” [6, tr.17]. Chính yếu tố địa lý và điều kiện tự nhiên đã
tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển trồng lúa nước nhờ khí hậu nhiệt
đới gió mùa: Nóng, ấm, mưa nhiều. Trong quá khứ người Việt đã từng tạo
dựng nên một nền văn minh lúa nước nổi tiếng ở Đông Nam Á. Tuy nhiên,
thiên nhiên Việt Nam lại vô cùng khắc nghiệt với nhiều thiên tai như lũ lụt,
bão tố, hạn hán, sâu bệnh phá hoại mùa màng. Chính điều này đã rèn luyện
cho con người Việt Nam những phẩm chất đặc biệt để có thể tồn tại và phát
triển.
Một điểm đặc biệt nữa ảnh hưởng đến truyền thống Việt Nam là do vị
trí địa lý chiến lược Việt Nam trong qúa khứ cũng như hiện tại luôn là miếng
mồi hấp dẫn đối với những kẻ xâm lược nói chung cũng như đế chế. Trung

16


Hoa láng giềng hùng mạnh nói riêng. Theo dòng lịch sử từ đế chế Tần đến
Mãn Thanh không một triều đại Trung Hoa nào mà không có một vài lần xâm
lược nước ta. Có những thời kỳ đô hộ kéo dài mà điển hình là thời kỳ Bắc

thuộc hơn ngàn năm. Tính từ thế kỷ thứ 3 trước công nguyên với sự xâm lược
của quân Tần đến khi đánh thắng đế quốc Mỹ ở thế kỷ thứ 20 người Việt có
thời gian chống ngoại xâm lên đến 12 thế kỷ, chiếm hơn nửa thời gian của
lịch sử. Một đặc điểm đáng lưu ý là không chỉ nhiều lần có chiến tranh mà
còn ở chỗ các cuộc chiến tranh thường không cân sức, cân lực, lực lượng
nghiêng về phía kẻ xâm lược do đó các cuộc chiến tranh giành hoặc bảo vệ
độc lập của nhân dân Việt Nam thường diễn ra rất ác liệt phải huy động tối đa
sức mạnh vật chất và tinh thần của cả dân tộc. Người đàn ông không chỉ là
một người lao động chính mà còn là những chiến binh, thậm chí phụ nữ cũng
tham gia đánh giặc. Vì vậy người Việt có câu “giặc đến nhà đàn bà cũng
đánh”. Điều này làm nên một đặc điểm đặc sắc trong lịch sử dân tộc Việt
Nam.
Một yếu tố ảnh hưởng đến truyền thống Việt Nam là tác động của môi
trường văn hóa của khu vực và thế giới: Việt Nam ở khu vực Đông Nam Á,
đây là khu vực tuy mỗi nước có một sắc thái riêng nhưng có mẫu số chung về
văn hóa. Đây là khu vực tiếp xúc giữa hải đảo và đại lục, là nơi gặp gỡ của
nhiều tộc người, là nơi giao lưu rộng rãi của nhiều nền văn hóa lớn của thế
giới như Trung Quốc, Ấn Độ.
Ở Việt Nam, ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa rõ ràng và đậm nét
nhất là nho giáo. Có thể nói các quan niệm của nho giáo chi phối rất lớn đến
đời sống văn hoá tinh thần của người Việt. Tuy nhiên người Việt theo nho
nhưng không sùng nho vì vậy các chuẩn mực của nho giáo khi du nhập đã
được pha trộn điều chỉnh lại bởi các giá trị vốn có của văn hoá bản địa.
Bên cạnh ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa là văn minh Ấn Độ mà
chủ yếu là sự du nhập của Phật giáo, tuy nhiên Phật giáo Việt Nam khác với

17


phật giáo Ấn Độ. Sự truyền bá rộng rãi tư tưởng phật giáo đã góp phần làm

nên những truyền thống quý báu của người Việt như lòng nhân ái vị tha và
bao dung độ lượng.
Có thể nói môi trường thiên nhiên, tập quán sản xuất cùng với ảnh
hưởng của văn hóa khu vực đó tạo lờn đạo đức truyền thống quý báu của gia
đình Việt Nam. Các giá trị đạo đức truyền thống ấy đó tạo nên con người Việt
Nam, dân tộc Việt Nam, bản sắc Việt Nam.
1.1.2.2. Đặc điểm của gia đình truyền thống
Đạo đức truyền thống của gia đình được hình thành và chịu sự quy định
trực tiếp từ những đặc điểm của gia đình truyền thống, đó là đặc điểm về kinh
tế xã hội, văn hoá gia đình và bản sắc văn hoá gia đình truyền thống.
Trước hết là đặc điểm kinh tế xã hội của gia đình.
Gia đình truyền thống là một đơn vị sản xuất nông nghiệp tự cung tự
cấp. Các hộ gia đình tự sản xuất những sản phẩm tiêu dùng cho gia đình
mình. Có thể nói, gia đình truyền thống là một hộ nông - công - thương kết
hợp trong đó nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo. Ngoài công việc cày cấy ra mỗi
gia đình làm thêm một số nghề thủ công như đan lát, trồng dâu, nuôi tằm, dệt
vải để tạo ra sản phẩm tiêu dùng cho cả gia đình.
Trong sản xuất nông nghiệp, điều kiện sản xuất lạc hậu, công cụ thô sơ,
với chế độ ruộng công phân chia theo định kỳ. Với đặc thù sản xuất lúa nước,
có sự phân công lao động cụ thể giữa đàn ông và đàn bà, thể hiện qua câu ca
dao sau:
“Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy con trâu đi bừa”.
Công lao đóng góp của cả đàn ông và đàn bà là như nhau trong việc tạo
ra sản phẩm nuôi sống cả gia đình. Điều này dẫn đến một hệ quả kinh tế là
việc quản lý các sản phẩm ấy nằm trong tay người vợ. Người đàn ông trong

18



chế độ phụ hệ - Gia trưởng là người chủ gia đình về hình thức nhưng lại
không am hiểu tình hình kinh tế của gia đình bằng người vợ. Vì thế, người
đàn bà (người mẹ, người vợ) là người quyết định mọi thứ chi tiêu và quản lí
tiền bạc, tài sản trong nhà.
Những công việc tiểu thủ công như đan lát, dệt vải, xe sợi, trồng dâu,
nuôi tằm thường được tiến hành trong những ngày nông nhàn để tạo ra các
sản phẩm tiêu dùng cho cả gia đình. Việc trao đổi mua bán chỉ diễn ra ở địa
phương, qua các chợ phiên.
Về cơ cấu gia đình truyền thống Việt Nam là gia đình hạt nhân và bán
hạt nhân hoá (gia đình mở rộng ba thế hệ). Cơ cấu nhỏ của gia đình là do đặc
điểm loại hình sản xuất nông nghiệp lúa nước quy định. Trong gia đình truyền
thống phần lớn bao gồm một cặp vợ chồng và con cái của họ. Các con lớn lên
lập gia đình thì con gái sẽ về nhà chồng, con trai thứ chỉ ở trong nhà ít lâu là
ra ở riêng (thành một gia đình mới), và theo thông lệ sẽ được chia một phần
tài sản gồm cả ruộng đất gọi là để làm vốn. Con trai cả ở lại trong gia đình với
cha mẹ già, thừa hưởng ngôi nhà và phần tài sản lớn nhất. Gia đình người con
trai cả không phải là gia đình hạt nhân nhưng vẫn mang tính hạt nhân (vì thế
gọi là bán hạt nhân hoá). Tức là, ngoài vợ chồng con cái người con cả còn có
cha mẹ già với một vài người em (trai và gái) chưa lập gia đình và gia đình
này trở thành hạt nhân khi cha mẹ qua đời, các em đã yên bề gia thất.
Đặc điểm thứ 2 của gia đình truyền thống là phong tục thờ cúng tổ tiên.
Việc thờ cúng này chủ yếu được thực hiện ở nhà người con trai cả và nhằm
vào tổ tiên trực tiếp về phía cha (nội) trong phạm vi 5 đời trở lại, những người
con thứ cũng thờ cúng ông bà nhưng đơn giản theo kiểu “thờ vong”, thờ từ
xa.
Việc thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt rất quan trọng, một số
nhà nghiên cứu đã cho rằng việc thờ cúng tổ tiên là một chức năng của gia
đình truyền thống. Để làm tốt nhiệm vụ này dẫn đến một yêu cầu tất yếu là

19



việc nối dõi tông đường. Tức là chỉ thực hiện được khi có con trai nên trong
nội bộ gia đình con trai được quý hơn con gái. Người cha, người con trai cả,
cháu đích tôn, giữ vị trí quan trọng hơn các thành viên khác, con gái sẽ về nhà
chồng nên coi là “ngoại tộc”, nếu như họ ngoại có giúp đỡ và quan hệ mật
thiết hơn thì kết quả vẫn là “ăn bên ngoại, vải bên nội”. Con dâu, đặc biệt là
dâu trưởng có vị trí cao, nhưng địa vị này chỉ được xác định khi đã sinh được
con trai nối dõi.
Phong tục thờ cúng tổ tiên có tác động rất lớn đến đời sống tinh thần
của mỗi cá nhân. Đồng thời nó là sợi dây nối kết các thành viên trong gia đình
qua các thế hệ khác nhau với ý nghĩa thâm thuý là nhớ ơn sinh thành của tổ
tiên, lưu truyền nòi giống và làm cho tổ tiên khỏi khổ, mong cho tổ tiên phù
hộ cho con cháu.
Thứ 3, chi phối trực tiếp đến đạo đức truyền thống của gia đình là văn hoá
gia đình. Văn hoá gia đình truyền thống được thể hiện qua các hình thức sau:
Gia giáo là giáo dục gia đình. Đây là hình thức giáo dục, của gia đình
đối với các thành viên. Nội dung chủ yếu là giáo dục đạo đức, phẩm hạnh của
con người trong quan hệ với gia đình, xã hội. Đối với nam giới, gia giáo đặc
biệt chú ý đến giáo dục đạo lý luân thường. Luân có ngũ luân, đó là năm mối
quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè và trong đó, nhấn mạnh
tam cương là vua tôi, cha con, chồng vợ. Thường nghĩa là ngũ thường, là năm
đức tính cơ bản của con người gồm nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đối với nữ giới,
thì gia giáo giáo dục đạo lý tam tòng, tứ đức. Tam tòng, đòi hỏi sự ngoan
ngoãn phục tùng từ lúc mới sinh ra cho tới lúc chết “tại gia tòng phụ, xuất giá
tòng phu, phu tử tòng tử”. Còn tứ đức là bốn phẩm chất cần có của phụ nữ,
công, dung, ngôn, hạnh.
Nhìn chung, gia giáo có nhiệm vụ giáo dục cá nhân ngay từ trong gia
đình để hình thành con người phù hợp với xã hội truyền thống trong đó đạo


20


đức là yếu tố đặc biệt được nhấn mạnh. Đạo đức được coi là cái gốc của con
người, là biểu thị giá trị xã hội của con người.
Gia lễ là lễ nghi gia đình. Gia lễ là sự quy định cách thức, nề nếp để
đảm bảo cho gia đình sinh hoạt theo đúng phép tắc, có lễ nghĩa phân minh
trên dưới rõ ràng. Lễ thường được diễn ra ở các hình thức sau: quan, hôn,
tang, lễ. Quan là, lễ để trân trọng sự ra đời và trưởng thành của con người.
Hôn lễ là sự cưới vợ gả chồng. Tang là việc ma chay. Tế là việc cúng bái, thờ
phụng. Gia lễ không chỉ là nghi thức theo thói quen, phong tục mà gia lễ còn
được ghi chép thành sách để mọi người cùng xem và thực hiện.
Gia pháp là phép tắc (mang tính luật lệ) trong gia đình. Gia pháp là
những qui định nhằm ngăn ngừa, uốn nắn, trừng phạt những hành vi sai trái
của các thành viên trong gia đình. Đồng thời gia pháp cũng nhằm mục đích
bảo vệ và đề cao uy thế của gia trưởng, gìn giữ sự đoàn kết nhất trí trong nội
bộ gia đình hoặc để giữ những bí mật gia truyền. Gia pháp khẳng định sự
nghiêm khắc của cha đối với con, của anh đối với em. Gia pháp luôn được giữ
nghiêm, nếu không sẽ bị thiên hạ chê cười, phê phán. Gia pháp là một thứ luật
lệ bất thành văn, ai cũng phải biết, tôn trọng và tự giác tuân theo.
Gia phong là phong cách gia đình. Đây là nề nếp, lề thói mà người
trong gia đình đều phải noi theo trong lời ăn, tiếng nói, hành vi ứng xử trong
gia đình cũng như ngoài xã hội. Gia phong thể hiện bản sắc văn hoá của từng
gia đình và do gia giáo chi phối, nói đến gia phong là nói đến trật tự, kỷ
cương của gia đình, nói đến những tính chất đặc biệt của quan hệ gia đình với
nhiều thói quen, tập tục sinh hoạt. Một gia đình có gia phong lành mạnh là
con cháu phải giữ gìn được nề nếp của cha ông “giấy rách phải giữ lấy lề”
hoặc giữ tư cách gia đình “đói cho sạch, rách cho thơm” hoặc “trai thì trung
hiếu làm đầu, gái thì tiết hạnh làm câu sửa mình”. Làm nhục gia phong là
phạm vào gia pháp và có thể bị trừng phạt nặng nề. Gia phong là nếp sống, là

niềm tự hào và lẽ sống của con người trong gia đình truyền thống. Một gia

21


phong thanh bạch đáng tự hào hơn gia phong kiểu phú trọc giàu có nhưng vô
học, vô gia giáo, vô lễ.
Thứ 4, gia đình truyền thống Việt Nam rất coi trọng tình nghĩa.
Trọng tình nghĩa được thể hiện ở cách ứng xử đặt tình cảm lên trên
trong ứng xử ở gia đình cũng như ngoài xã hội. Đối với người Việt, gia đình
không phải là nơi của công bằng và sòng phẳng. Cha có thể ghét con, đối xử
không công bằng với con nhưng con không vì thế mà không yêu kính cha mẹ,
đạo làm con là phải tôn thờ cha mẹ, không dùng lẽ phải để phán xét các bậc
sinh thành, dưỡng dục mình. Trong quan hệ anh chị em phải thương yêu đùm
bọc lẫn nhau và không chỉ có sự tính toán thiệt hơn mà còn có sự vừa phải, sự
tương ứng. Đó là sự hết lòng, sự tận tâm tận lực. Trong tình cảm gia đình, sự
yêu thương, bao bọc không bao giờ được coi là đủ. Nội bộ gia đình nếu có gì
sai trái, không vừa lòng thì “đóng cửa bảo nhau” không nói với người ngoài,
không bao giờ “vạch áo cho người xem lưng”. Tình nghĩa là đặc điểm bao
trùm lên gia đình người Việt.
Thứ năm, gia đình Việt Nam tôn trọng phụ nữ (người vợ, người mẹ).
Mặc dù gia đình Việt Nam chịu ảnh hưởng rất lớn của nho giáo, nhưng
trong gia đình, người phụ nữ vẫn có một vị trí đáng kể. Người Việt vốn có
truyền thống tôn trọng phụ nữ từ trong nhà ra đến ngoài ngõ. Trong cuộc sống
đời thường (trong nhà đàn bà được coi là nội tướng), đến đời sống tâm linh
(quan niệm “phúc đức tại mẫu”) và tín ngưỡng tôn giáo thờ mẫu.
Tôn trọng phụ nữ không phải là quan niệm tự thân mà xuất phát từ đời
sống cộng đồng của người Việt, từ điều kiện sản xuất nông nghiệp trồng lúa
nước đòi hỏi sự phân công lao động giữa vợ và chồng đến vai trò “tề gia nội
trợ” của người phụ nữ và cả do hoàn cảnh thường xuyên xảy ra chiến tranh

đàn ông ra trận, đàn bà lo toan việc nhà. Chính vai trò của người phụ nữ trong
gia đình đã làm cho gia đình Việt Nam chính thống khác với gia đình nho
giáo chính thống. Gia đình nho giáo khẳng định quyền uy của người chồng,

22


người cha. Người đàn ông gia trưởng là người chủ duy nhất trong nhà đồng
thời cũng là người đại diện cho gia đình trong quan hệ với xã hội. Còn gia
đình truyền thống Việt Nam, đặt địa vị chủ gia đình vào người chồng, người
cha nhưng chủ yếu trong quan hệ với dòng họ, làng xã, ở nhà người phụ nữ là
người quán xuyến, quyết định mọi việc. Người chồng chỉ là người quyết định
cuối cùng để giữ thể thống, nề nếp trong gia đình mà thôi: Điều này đã nâng
địa vị người phụ nữ trong gia đình cao hơn một bậc so với quan niệm của nho
giáo. Có thể hình dung sự khác biệt ấy như sau: nho giáo trọng chồng, trọng
cha còn người Việt cũng trọng chồng, trọng cha nhưng cũng trọng vợ, trọng
mẹ.
Như vậy, địa vị của người phụ nữ đã làm nên một bản sắc độc đáo của
gia đình truyền thống Việt Nam.
Thứ sáu, gia đình Việt Nam truyền thống đề cao tính cộng đồng.
Tinh thần cộng đồng thể hiện ở sự hoà tan của các cá nhân vào trong
gia đình, địa vị, uy tín cá nhân được quy định bởi địa vị, uy tín gia đình, do đó
trong xã hội không có con người cá nhân với nhân cách độc lập và càng
không thể có cá nhân đứng ngoài gia đình. Những cá nhân đứng ngoài gia
đình thường chỉ là những đứa con bất hiếu, bất trung hoặc làm những điều tổn
hại cho danh dự, gia phong và bị gia đình ruồng bỏ.
Cơ sở xuất phát của tính cộng đồng trong gia đình người Việt chính là
từ hôn nhân và từ tính cộng đồng làng xã mà nguồn gốc của nó là do tục thờ
thành hoàng (vị thần phù hộ cho cả làng, là biểu tượng sự thống nhất vận
mệnh cộng đồng) cùng với lợi ích kinh tế, tinh thần do làng xã mang lại (sự

phân chia ruộng công theo định kỳ, các nghĩa vụ cho làng nước, sự tương trợ
khi gặp khó khăn hoạn nạn).
Đối với người Việt, nói đến gia đình là nói ngay đến cộng đồng, và cái
cộng đồng ấy không chỉ bao gồm những người đang sống mà còn cả những

23


người đã chết và những người sẽ sinh ra. Chính vì lẽ đó, gia đình truyền thống
rất coi trọng thờ cúng tổ tiên và nối dõi tông đường.
Tính cộng đồng trong gia đình không chỉ là điều kiện để gia đình tồn tại
mà còn là phong cách sống của người Việt. Người Việt thích sống trong gia
đình và có gia đình, rất sợ sống xa gia đình, sợ sự chia ly. Sống xa nhà, xa quê
hương, bơ vơ đất khách quê người là một bất hạnh lớn. “Sẩy nhà ra thất
nghiệp” là quan niệm nẩy sinh từ tính cộng đồng đó.
Trên đây là một vài đặc điểm thể hiện bản sắc dân tộc đâm đà của gia
đình truyền thống. Bản sắc đó được hình thành từ thủa khai thiên lập địa và
được củng cố, ổn định, bền vững.
1.1.2.3. Sự phát triển gia đình Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử
Tìm hiểu, nghiên cứu vai trò, chức năng của gia đình Việt Nam trong
các giai đoạn lịch sử khác nhau là một hướng tiếp cận khoa học hết sức quan
trọng nhằm khai thác, kế thừa và phát huy những yếu tố truyền thống tích cực
của cha ông ta trước đây đối với việc rèn luyện, giáo dục thế hệ trẻ hiện nay.
Con người Việt Nam từ xưa đến nay có mối quan hệ chặt chẽ, lưu
thông giữa cá nhân - gia đình, làng, nước trong qúa trình phát triển của cá thể
và cộng đồng. Vì vậy, quan hệ tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, đã được
cha ông ta coi như là một nguyên tắc đối với sự phát triển và hoàn thiện nhân
cách. Tuy nhiên, trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước, vai trò và nội
dung giáo dục gia đình cũng có những đổi khác.
Giáo dục của gia đình Việt Nam truyền thống.

Xã hội Việt Nam truyền thống có sự tồn tại lâu dài của nền văn minh
nông nghiệp lúa nước - sự ổn định của tổ chức xã hội nông thôn và sản xuất
theo hộ gia đình mang tính chất tự cung, tự cấp là đặc điểm tồn tại rất lâu dài
trong lịch sử phát triển đất nước. Trong điều kiện đó hệ thống giáo dục của
nhà nước phong kiến chưa phát triển. Tổ chức văn hoá gia đình theo chế độ
gia trưởng phụ quyền chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng nho giáo và phật giáo:
24


Gia đình giữ vai trò chủ yếu, cơ bản trong việc hình thành nhân cách con
người ở trong tất cả mọi mặt tri thức, đạo đức và nghề nghiệp. Tất nhiên trừ
một số rất ít con em giai cấp thống trị đến trường học theo đòi bút nghiên
mong tiến thân bằng con đường hoan lộ, nhưng mấy ai thành đạt. Giáo dục
gia đình không ngoài việc hình thành nhân cách và phát triển người công dân
hiền lành, cần cù chất phát sống trong phương thức sản xuất xã hội tự cung, tự
cấp là chủ yếu “tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”. Con người đó đặt lợi
ích của gia đình, giáo dục theo gia phong, gia giáo, gia pháp của gia đình. Mặt
khác tham gia vào giáo dục con cái còn có ông bà nội ngoại, cô dì chú bác
ruột thịt sống gần gũi và còn có cả dân làng chòm xóm cũng có vai trò giám
sát đứa trẻ hỗ trợ cho gia đình. Các yếu tố cơ bản, cốt lõi và thang giá trị của
một nhân cách cũng không mấy phức tạp và không có sự đảo lộn, biến động
thường xuyên. Cho nên giáo dục gia đình cũng không gặp những trở ngại gì
lớn trong việc hình thành và phát triển những yếu tố nhân cách cơ bản theo
nội dung tam cương, ngũ thường, ngũ luân mà nổi bật lên là:
“Trai thì trung hiếu làm đầu
Gái thì tiết hạnh là câu sửa mình”.
Trong điều kiện lịch sử xã hội, không có những biến đổi cách mạng dữ
dội về một phương thức sản xuất, cứ vậy tồn tại hàng vạn năm, gia đình đã
giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người Việt
Nam đậm đà bản sắc dân tộc, nghĩa đồng bào, lòng bao dung độ lượng cặm

ghét tham lam, dối trá, dốc lòng bảo vệ xây dựng quê hương, xóm thôn, đất
nước.
Giáo dục gia đình và nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ
thuộc Pháp.
Từ khi thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam chúng tìm cách vơ vét tài
nguyên của nước ta bằng việc khai thác các hầm mỏ than, đồng sắt, thiếc, lập

25


×