ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
LƢU DANH BÌNH
MỘT SỐ MÂU THUẪN NẢY SINH
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2009
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
LƢU DANH BÌNH
MỘT SỐ MÂU THUẪN NẢY SINH
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành:
Mã số:
Triết học
60 22 80
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. PHẠM VĂN ĐỨC
HÀ NỘI - 2009
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS, TS. Phạm Văn Đức
Các số liệu, tài liệu nêu ra trong luận văn là trung thực, đảm bảo
tính khách quan, khoa học. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ
rõ ràng.
Hà Nội, ngày 28 tháng 10 năm 2009
Tác giả luận văn
Lưu Danh Bình
3
MỤC LỤC
Mở đầu ....................................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. Mâu thuẫn, các phƣơng thức giải quyết mâu thuẫn và một số vấn đề về
nhận thức phƣơng pháp luận kết hợp các mặt đối lập trong quá trình phát
triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay ............................................................................... 7
1.1.
Vài nét khái quát về mâu thuẫn ...................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm mâu thuẫn ........................................................................................................ 7
1.1.2. Mặt đối lập ........................................................................................................................ 7
1.1.3. Mối quan hệ giữa các mặt đối lập ..................................................................................... 9
1.1.4. Mâu thuẫn trong xã hội ................................................................................................... 13
1.2.
Các phương thức giải quyết mâu thuẫn ........................................................................ 17
1.2.1. Vai trò động lực của việc giải quyết mâu thuẫn ............................................................. 17
1.2.1. Các cách thức, hình thức giải quyết mâu thuẫn .............................................................. 18
1.3.
Một số vấn đề về nhận thức phương pháp luận kết hợp các mặt đối lập trong quá
trình phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay ................................................................ 25
Chƣơng 2. Thực trạng một số mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát
triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay ......................................................... 29
2.1.
Mâu thuẫn trong quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với ổn định chính trị .................... 29
2.1.1. Quan hệ giữa kinh tế và chính trị .................................................................................... 29
2.1.2. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị và mâu thuẫn nảy sinh .............. 34
2.2.
Mâu thuẫn trong quan hệ giữa tăng trưởng tế với công bằng xã hội ............ 41
2.2.1. Quan hệ giữa phát triển kinh tế và công bằng xã hội .................................................... 41
2.2.2. Mâu thuẫn nảy sinh trong quan hệ giữa phát triển kinh tế và công bằng xã hội ........... 43
2.3. Mâu thuẫn trong quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc ........................................................................................ 48
2.3.1. Bản sắc văn hóa và vai trò vị trí của nó trong bối cảnh hiện nay ............ 48
2.3.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bản sắc văn hóa dân tộc và mâu thuẫn
phát sinh ....................................................................................................................... 51
4
Chƣơng 3. Một số giải pháp nhằm góp phần giải quyết một số mâu
thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nạm
hiện nay ................................................................................................... 58
3.1. Một số giải pháp chung nhằm giải quyết một số mâu thuẫn nảy sinh
trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay ........................... 58
3.1.1. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh
tế
58
3.1.2. Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện phẩm chất
đạo đức cho chủ thể cách mạng ............................................................... 61
3.1.3. Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn phục vụ cho việc kết hợp các
mặt đối lập ................................................................................................ 62
3.2. Một số giải pháp cụ thể giải quyết mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình
phát triển kinh tế hiện nay ........................................................................ 64
3.2.1. Giải pháp nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế gắn với giữ vững ổn
định chính trị ............................................................................................ 64
3.2.2. Giải pháp nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội ......... 75
3.2.3. Giải pháp nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế đi liền với giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc .......................................................................................................................... 76
Kết luận ................................................................................................................................... 78
Danh mục tài liệu tham khảo ................................................................................................ 80
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc sống tiến lên thông qua những mâu thuẫn, “mâu thuẫn là nguồn gốc
của tất cả mọi sự vận động và sự sống”, nhà triết học Hêghen đã khẳng định như
vậy khi bàn đến vai trò của mâu thuẫn trong quá trình vận động và phát triển.
Trên cơ sở kế thừa những thành quả tư tưởng biện chứng của các nhà triết
học tiền bối, đồng thời, thông qua việc tổng kết thực tiễn lịch sử loài người. Các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: giải quyết mâu thuẫn là
động lực cho sự vận động phát triển của sự vật hiện tượng. Và chính việc giải
quyết những mâu thuẫn cơ bản như mâu thuẫn giữa QHSX với trình độ của
LLSX; mâu thuẫn giữa CSHT với KTTT mà xã hội phát triển qua các hình thái
kinh tế xã hội khác nhau, từ thấp lên cao.
Vận dụng quan điểm về mâu thuẫn của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng CSVN và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát hiện
và giải quyết tốt những mâu thuẫn đặt ra với cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn đấu tranh giành độc lập dân tộc, đó là, xác định và đặt mâu thuẫn giữa dân
tộc với chủ nghĩa đế quốc lên hàng đầu; thực thiện khẩu hiệu “dân cày có ruộng”
khi giải quyết mâu thuẫn giữa lợi ích nhân dân lao động với chế độ phong kiến.
Do đó, Đảng CSVN đã quy tụ được sức mạnh toàn dân, thực hiện thắng lợi cuộc
cách mạng dân tộc - dân chủ tiến tới dành độc lập và thống nhất đất nước.
Bước vào thời kỳ xây dựng CNXH với tư thế là những người vừa bước ra
khỏi cuộc chiến tranh, chưa có nhiều kinh nghiệm trong xây dựng xã hội mới
cộng thêm vào đó là tư tưởng chủ quan nóng vội đã dẫn đến những sai lầm của
Đảng CSVN trong nhận thức và giải quyết những mâu thuẫn giữa QHSX với
trình độ của LLSX; mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể... Hậu quả
6
là, sức sản xuất bị kìm hãm, xã hội lâm vào khủng hoảng trong một thời gian dài,
quần chúng nhân dân mất niềm tin vào Đảng và xã hội mới...
Từ những đòi hỏi mới của thực tiễn xây dựng đất nước, Đảng CSVN trên
tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đã mạnh dạn thừa nhận sai lầm và tiến thành đổi
mới toàn diện đất nước mà trước hết là đổi mới trong tư duy chính trị và đặc biệt
là tư duy phát triển kinh tế nhằm giải quyết mâu thuẫn trong quá trình xây dựng
CNXH, giải phóng sức sản xuất đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội.
Hơn 20 năm qua, sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo đã và đang thu được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử - đó là công cuộc đổi mới toàn diện đất nước từ kinh tế, xã hội đến chính
trị và đặc biệt là trong lĩnh vực đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Về kinh tế, ở Việt Nam GDP các năm (2001 - 2005) tăng bình quân 7,5%
năm, bình quân đầu người 640 USD tăng 12,1% năm, tạo việc làm mới cho 7,5
triệu người; giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 85% năm 1993 xuống còn 19,5% năm 2004
[52], về đích trước 10 năm so với mục tiêu xoá đói, giảm nghèo trong thực hiện
mục tiêu thiên niên kỷ. Chính trị - xã hội của Việt Nam ổn định, an ninh quốc
phòng được củng cố, tăng cường, quan hệ đối ngoại được mở rộng. Vai trò, vị
thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế được nâng lên. Các nhà
bình luận phương tây coi Việt Nam là “con rồng trẻ của khu vực, đang vươn lên
chiếm lĩnh đỉnh cao mới trong phát triển kinh tế”.
Sự kiện Việt Nam ra nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO ngày
7/11/2006, hội nhập sâu và rộng vào đời sống kinh tế quốc tế đã và đang tạo ra
những cơ hội to lớn để phát triển kinh tế, đất nước... Song, cùng với việc phát
triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, thực đó cũng là nguyên nhân dẫn
đến nảy sinh những mâu thuẫn trong quá trình phát triển của nước ta, tạo ra
7
những quy cơ làm chệch định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã lựa chọn
như: Mâu thuẫn nảy sinh giữa tăng trưởng kinh tế với ổn định chính trị: Mâu
thuẫn phát sinh giữa tăng trưởng kinh tế với đảm bảo công bằng xã hội; Mâu
thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với yêu cầu giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống
dân tộc...
Những vấn đề trên cần phải được nghiên cứu và làm rõ để từ đó có những
giải pháp thực tiễn góp phần vào việc phát triển đất nước một cách bền vững và
hiệu quả hơn.
Xuất phát từ lí do đó, tôi chọn đề tài nghiên cứu “một số mâu thuẫn nảy
sinh trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn
tốt nghiệp thạc sỹ chuyên ngành triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Xung quanh vấn đề mâu thuẫn trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đã có
những công trình nghiên cứu có liên quan với những hình thức mức độ khác
nhau và đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng, các tạp chí
chuyên ngành và các sách chuyên khảo có thể kể tên một số tác giả sau: Nguyễn
Đức Bình, Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Phạm Minh Hạc, Hữu Thọ,
Hoàng Xuân Long, Vũ Minh Giang, Hoàng Kim Giao, Nguyễn Thế Phấn, Phạm
Văn Nghiên... Trong đó về mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đáng chú
ý nhất là công trình nghiên cứu của Phạm Ngọc Quang, thử vận dụng lý luận về
mâu thuẫn vào thời kỳ quá độ ở nước ta, (1991), đề tài KHXH 01- 06 cũng do
Phạm Ngọc Quang làm chủ nhiệm đề tài mang tên: “Về những mâu thuẫn cơ
bản, mâu thuẫn chủ yếu và cách giải quyết mâu thuẫn trên con đường phát triển
đất nước”; Nguyễn Tấn Hùng: “Mâu thuẫn một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
(2005); luận án tiến sĩ triết học của Trần Nguyên ký: “Sự kết hợp các mặt đối lập
trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay (từ kinh nghiệm NEP)”
8
bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002)... Nhìn chung các
công trình trên đây đã giải quyết nhiều mặt khác nhau đối với yêu cầu của việc
nhận diện và giải quyết mâu thuẫn trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Tuy nhiên,
cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống về
“Một số mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện
nay” dưới góc độ giải quyết mâu thuẫn bằng con đường kết hợp các mặt đối lập
từ các mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với chính trị, tăng trưởng kinh tế với
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tăng trưởng kinh tế với đảm bảo công bằng xã
hội. Do đó, theo chúng tôi vấn đề này vẫn cần được nghiên cứu, phân tích nhằm
góp phần giải quyết những thách thức đang đặt ra đối với quá trình phát triển
kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích của đề tài:
Luận văn góp phần làm rõ thực trạng một số mâu thuẫn nảy sinh trong
quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, đề xuất những giải pháp
cơ bản góp phần giải quyết những mâu thuẫn ở Việt Nam nhằm thúc đẩy kinh tế
xã hội phát triển.
* Nhiệm vụ của đề tài:
Để đạt mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ
yếu sau đây:
- Làm rõ các khái niệm mâu thuẫn và mặt đối lập, sự chuyển hóa giữa các
mặt đối lập; cách thức và vai trò của giải quyết mâu thuẫn với tư cách là điểm
xuất phát cho quá trình nghiên cứu đề tài.
- Chỉ ra thực trạng của một số mâu thuẫn (nổi bật) nảy sinh trong quá trình
phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
9
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần giải quyết một số mâu thuẫn
nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn khảo sát một số mâu thuẫn nổi bật nảy sinh trong quá trình phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Trong giới hạn của một luận văn, luận văn tập trung nghiên cứu những
mâu thuẫn có ảnh hưởng lớn tới định hướng xã hội chủ nghĩa như: Mâu thuẫn
trong quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với ổn định chính trị; mâu thuẫn trong
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội; mâu thuẫn trong quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
- Về thời gian, luận văn chủ yếu khảo sát từ giai đoạn nước ta bước vào
thời kỳ đổi mới cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận, phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm và đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về vấn
đề nghiên cứu.
- Luận văn tham khảo và kế thừa có chọn lọc những thành quả của các tác
giả và các nhà khoa học đi trước về những vấn đề có liên quan.
- Để thực hiện luận văn, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp những tài liệu có được gắn với thống kê, so sánh, đối chiếu làm rõ thực
trạng một số mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam
10
hiện nay. Ngoài ra, tác giả luận văn còn sử dụng phương pháp lịch sử - lôgíc để
làm rõ vấn đề nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn
* Đóng góp về mặt khoa học:
- Góp phần làm rõ thực trạng một số mâu thuẫn một số mâu thuẫn nảy
sinh trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần giải quyết các mâu thuẫn nói trên
trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
* Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
- Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn đem lại một tài
liệu tham khảo cho giảng dạy và học tập của bộ môn triết học Mác - Lênin về
các chuyên đề: Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong xây dựng đất nước
và hội nhập kinh tế quốc tế; sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
- Bên cạnh đó, luận văn còn có thể sử dụng làm một tài liệu tham khảo cho
việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế một cách bền vững ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1. Mâu thuẫn, các phương thức giải quyết mâu thuẫn và một số
vấn đề về nhận thức phương pháp luận kết hợp các mặt đối lập trong quá trình
phát triển kinh tế ở việt nam hiện nay
Chương 2. Thực trạng một số mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát
triển kinh tế ở Việt Nạm hiện nay.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm góp phần giải quyết một số mâu thuẫn
nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nạm hiện nay.
11
Chƣơng 1
MÂU THUẪN, CÁC PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ NHẬN THỨC PHƢƠNG PHÁP LUẬN KẾT HỢP
CÁC MẶT ĐỐI LẬP TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Vài nét khái quát về mâu thuẫn
1.1.1. Khái niệm mâu thuẫn
Từ điển bách khoa triết học định nghĩa: “Mâu thuẫn biện chứng là sự tác
động lẫn nhau của các mặt, các khuynh hướng đối lập và bài trừ lẫn nhau, vừa
nằm trong sự thống nhất nội tại và xâm nhập lẫn nhau, là nguồn gốc của sự vận
động và phát triển của thế giới khách quan và nhận thức” [50, tr.545].
Như vậy, mâu thuẫn ở đây được hiểu là mối quan hệ tác động lẫn nhau
giữa hai mặt đối lập chứ không phải là tổng hợp các mặt đối lập. Sự thống nhất
và đấu tranh giữa hai mặt đối lập là mối quan hệ cơ bản của chúng. Điều này thật
dễ hiểu khi một số người định nghĩa mâu thuẫn biện chứng là sự thống nhất và
đấu tranh giữa hai mặt đối lập. Song, để hiểu được đầy đủ về vấn đề này điều
quan trọng là cần xác định thế nào là mặt đối lập và mối quan hệ giữa chúng,
điều đó cũng có nghĩa là phải xem xét cấu trúc của mâu thuẫn.
1.1.2. Mặt đối lập
Trong giáo trình triết học Mác-Lênin viết: “khi nói tới những nhân tố cấu
thành mâu thuẫn biện chứng, “đối lập”, “mặt đối lập” là phạm trù dùng để chỉ
những mặt, có những đặc điểm, những thuộc tính, những quy định có khuynh
hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã
12
hội và tư duy. Chính những mặt như vậy nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại
với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng” [18, tr.321]..
Mặt đối lập thường được hiểu là những thuộc tính, khuynh hướng vận
động trái ngược nhau như lương thiện và ác độc, bóc lột và bị bóc lột,... có khi
được hiểu là những mặt trong đó có những thuộc tính những khuynh hướng đối
lập (như mặt phải và mặt trái trong nền kinh tế thị trường); cũng có khi được
xem như là những yếu tố, bộ phận nằm trong một sự vật, hiện tượng hay trong
các sự vật, hiện tượng khác nhau (giai cấp vô sản và giai cấp tư sản), thậm chí có
khi hai bản thân sự vật, hiện tương, hệ thống cũng được xem là mặt đối lập (như
hệ thống xã hội chủ nghĩa và hệ thống tư bản chủ nghĩa), trong phần lớn trường
hợp khác, mặt đối lập là những thuộc tính bài trừ nhau, vừa tồn tại gắn bó, xâm
nhập lẫn nhau trong cùng một sự vật. Chẳng hạn, hai thuộc tính giá trị và giá trị
sử dụng tồn tại trong một hàng hóa, cái tốt và cái xấu, cái thiện và cái ác, cái
đúng và cái sai...có thể cùng tồn tại đấu tranh với nhau trong cùng một con
người. Trong trường hợp này mặt đối lập phải được hiểu là những thuộc tính,
khuynh hướng đối lập, chứ không thể hiểu là những bộ phận hay sự vật đối lập.
Ngoài ra, theo TS. Nguyễn Tấn Hùng thì “những yếu tố, bộ phận, sự vật,
quá trình, hệ thống,... đều có thể được xem là những mặt đối lập. Tuy nhiên, dù
thế nào đi nữa bản chất của sự đối lập bao giờ cũng quy định những thuộc tính
và khuynh hướng đối lập” [19, tr.37].
Từ những quan điểm trên đây về mặt đối lập chúng ta có thể rút ra một số
điểm cần lưu ý như sau:
Thứ nhất, khi nhìn mặt đối lập ở góc độ trong một hệ thống, không phải
toàn bộ, mà chỉ có một số thuộc tính trong các bộ phận, sự vật trong hệ thống đó
đối lập với nhau. Ví như, khi nhắc tới mâu thuẫn giữa hai giai cấp hay hai nhà
13
nước thì không có nghĩa là tất cả những gì giữa hai giai cấp hay hai nhà nước đó
đều đối lập với nhau.
Thứ hai, sự đối lập giữa hai bộ phận, hai sự vật, hai hệ thống có thể là sự
đối lập giữa các thuộc tính cơ bản, cũng có thể là sự đối lập giữa các thuộc tính
không cơ bản. Ví như việc người ta xác định mâu thuẫn đối kháng hay không đối
kháng trên cơ sở căn cứ vào sự đối lập giữa lợi ích cơ bản hay không cơ bản của
các giai cấp, các lực lượng xã hội.
Thứ ba, tất cả các mặt đối lập dù là đối lập giữa những sự vật, giữa những
sự vật hay hệ thống,... đều xuất phát từ những thuộc tính nhất định. Bản chất của
một mâu thuẫn được quy định bởi sự đối lập của những thuộc tính tất nhiên, ở
các mặt hợp thành mâu thuẫn ấy. Ví dụ, từ những sự đối lập giữa các thuộc tính:
chiếm hữu tư liệu sản xuất và không có tư liệu sản xuất, làm chủ và làm thuê,
bóc lột và bị bóc lột, áp bức và bị áp bức, thống trị và bị thống trị đã tạo thành sự
đối lập giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
1.1.3. Mối quan hệ giữa các mặt đối lập
* Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Ở đây, chúng tôi nhấn mạnh lại rằng, khi nói tới sự đồng nhất, xâm nhập
lẫn nhau, phù hợp với nhau làm tiền đề cho nhau... là khía cạnh thuộc về mối
quan hệ thống nhất của các mặt đối lập. Ngược lại sự đối lập, sự mất cân đối, địa
vị không ngang nhau, sự tác động ngược chiều, kìm hãm bài trừ, phủ định, chống
đối lẫn nhau, thuộc về khái niệm đấu tranh giữa các mặt đối lập, trong đó sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập thực chất là sự bài trừ, chống đối, phủ định lẫn nhau
giữa chúng.
14
* Sự chuyển hóa của các mặt đối lập
Ngoài quan hệ thống nhất và đấu tranh, sự chuyển hóa của các mặt đối lập
cũng là một trong những nét đặc trưng của mâu thuẫn. Sự chuyển hóa của các
mặt đối lập bao gồm sự chuyển hóa từ mặt này sang mặt khác và chuyển hóa về
địa vị của các mặt đối lập. Về vấn đề này trong tác phẩm bút ký triết học
V.I.Lênin viết: “phép biện chứng là học thuyết vạch ra rằng những mặt đối lập
làm thế nào mà có thể và thường là (trở thành) đồng nhất, - trong những điều
kiện nào chúng đồng nhất, bằng cách chuyển hóa lẫn nhau, - tại sao lý trí con
người không nên xem những mặt đối lập ấy là chết, cứng đờ mà là sinh động, có
điều kiện, sinh động, chuyển hóa lẫn nhau” [24, tr.116-117].
Sự chuyển hóa từ mặt này sang mặt khác của các mặt đối lập trong mỗi
trường hợp cụ thể cần được hiểu một cách khác nhau, không được đồng nhất
khái niệm trừu tượng này với sự trực tiếp biến đổi từ mặt này sang mặt kia.
Chẳng hạn sự chuyển hóa giữa nguyên nhân và kết quả là, nguyên nhân
sinh ra kết quả, kết quả được sinh ra lại tác động với sự vật, hiện tượng khác trở
thành nguyên nhân của một kết quả khác.
Trong quá trình nhận thức, sự chuyển hóa giữa bản chất và hiện tượng có
nghĩa là bản chất được biểu hiện ra ở các hiện tượng và từ chỗ phân tích các hiện
tượng con người dần dần tiếp cận và tìm ra bản chất của sự vật.
Sự chuyển hóa về địa của các mặt đối lập cũng tùy từng trường hợp mà có
cách hiểu khác nhau và được áp dụng trong những mâu thuẫn cụ thể. Quan hệ
địa vị các mặt đối lập cũng có sự thay đổi trong những giai đoạn khác nhau của
mâu thuẫn đó; nếu ở giai đoạn này, mặt này giữ vai trò chủ đạo, quyết định xu
thế, chiều hướng vận động, phát triển của sự vật, thì trong giai đoạn khác, vai trò
đó lại chuyển sang mặt đối lập khác.
15
Ở những góc độ tiếp cận khác nhau, tùy vào vai trò, vị trí của mâu thuẫn
trong hệ thống mâu thuẫn của sự vật, người ta phân ra các loại mâu thuẫn cơ bản
và mâu thuẫn không cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu,
mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản (được xác định dựa trên ý
nghĩa đối với suốt quá trình tồn tại và phát triển của sự vật).
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, hiện tượng.
Nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng. Nó là cơ sở nảy
sinh và quyết định các mâu thuẫn không cơ bản khác - khi mâu thuẫn cơ bản
được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi căn bản về chất. Mâu thuẫn không cơ bản
là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó không
quy định bản chất của sự vật - không quyết định sự vận động, phát triển của toàn
bộ sự vật hiện tượng - mâu thuẫn đó nảy sinh hay được giải quyết không làm cho
sự vật hiện tượng thay đổi căn bản về chất.
Việc xác định được mâu thuẫn cơ bản có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
hoạt động cải tao thực tiễn. Ví dụ: Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là chủ
tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở xác định đúng hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt
Nam trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ (là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt
Nam yêu nước đang đấu tranh với chủ nghĩa thực dân, để quốc; mâu thuẫn giữa
giai cấp nông dân và nhân dân lao động với giai cấp địa chủ Phong kiến) để từ
đó đề ra đường lối đúng đắn cho cách mạng nước ta (đánh đuổi bọn thực dân đế
quốc giành độc lập dân tộc; đánh đổ và xóa bỏ giai cấp địa chủ phong kiến đem
lại ruộng đất cho nông dân).
Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự
vật, hiện tượng trong một giai đoạn nhất định, người ta chia các mâu thuẫn
thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
16
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát
triển nhất định của sự vật. Giải quyết mâu thuẫn chủ yếu sẽ tạo điều kiện để giải
quyết các mâu thuẫn thứ yếu ở cùng một giai đoạn. Việc xác định mâu thuẫn chủ
yếu của sự vật hiện tượng là cơ sở để xác định các nhiệm vụ trung tâm trước mắt
cần tập trung giải quyết. Sự phát triển hơn nữa của sự vật, sự chuyển hóa sang
giai đoạn tồn tại khác của nó tùy thuộc vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn cơ bản có quan hệ chặt chẽ với nhau,
trong đó, mâu thuẫn chủ yếu có thể là một hình thức biểu hiện của mâu thuẫn cơ
bản hay kết quả vận động tổng hợp của các mâu thuẫn cơ bản trong một giai
đoạn nhất định, việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu sẽ góp phần từng bước giải
quyết mâu thuẫn cơ bản.
Xét về vị trí các mặt đối lập đối với sự vật được xem xét, người ta phân
chia mâu thuẫn biện chứng thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong của sự vật là mâu thuẫn mà hai mặt đối lập đều nằm
trong sự vật đó. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa sự vật đó với sự vật
khác. Ví dụ như mâu thuẫn giữa các giai cấp trong một xã hội là mâu thuẫn bên
trong. Còn mâu thuẫn giữa các quốc gia, các nhà nước là mâu thuẫn bên ngoài.
Tuy nhiên, không nên hiểu mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn của toàn bộ
sự vật đó với sự vật khác mà chỉ là mâu thuẫn giữa một mặt của sự vật đó với
một mặt của sự vật khác. Ví như, mâu thuẫn trong cách mạng dân tộc dân chủ ở
nước ta không nên hiểu là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với nhân
dân Pháp mà phải được hiểu một cách chính xác là mâu thuẫn giữa nhân dân
Việt Nam đấu tranh cho độc lập, tự do của Tổ quốc với bọn thực dân Pháp.
Sự phân biệt giữa mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là
tương đối, tùy theo phạm vi xem xét của chủ thể. Chẳng hạn, nếu đứng trên
phạm vi quốc gia mà xem xét thì mâu thuẫn giữa nước đó và nước khác là mâu
17
thuẫn bên ngoài; còn nếu xem xét là cả xã hội loài người trong chỉnh thể thì
những mâu thuẫn giữa các nước là mâu thuẫn bên trong của xã hội loài người.
Trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn bên trong giữ
vai trò quyết định còn mâu thuẫn bên ngoài tuy cũng rất quan trọng nhưng không
giữ vai trò quyết định. Ví dụ, mâu thuẫn giữa sinh vật với môi trường tuy có vai
trò quan trọng, chẳng hạn, thiếu phân bón, thiếu nước, hoặc sâu bệnh phá hoại có
thể làm cho cây không phát triển hoặc chết đi, tuy nhiên yếu tố quyết định sự
phát triển của sinh vật lại thuộc về sự tác động giữa các mặt đồng hóa - dị hóa, di
truyền - biến dị bên trong sinh vật đó.
Tương tự như vậy, sự vận động, phát triển của một dân tộc, về lâu về dài
do mâu thuẫn bên trong, lực lượng bên trong của dân đó quyết định; còn sự tác
động, hỗ trợ từ bên ngoài nhiều khi cũng rất quan trọng trong những thời điểm
nhất định, nhưng không giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ quá trình phát
triển của dân tộc đó.
1.1.4. Mâu thuẫn trong xã hội
Mâu thuẫn xã hội “là sự thống nhất và đấu tranh giữa những con người
(tồn tại dưới nhiều cấp độ khác nhau, giữa các khuynh hướng các lực lượng và
các thực thể - thiết chế xã hội tưng ứng) có lợi ích đối lập nhau tạo thành nguồn
gốc phát triển của xã hội” [46, tr.44].
Xã hội ra đời từ tự nhiên, là giai đoạn phát triển cao của tự nhiên. Chính vì
thế quy luật mâu thuẫn - quy luật phổ biến của thế giới vật chất - cũng là quy luật
phổ biến trong lĩnh vực xã hội. Sự tồn tại, phát triển và giải quyết mâu thuẫn
trong xã hội cũng có tính khách quan như mâu thuẫn trong tự nhiên. Song bên
cạnh đó, mâu thuẫn xã hội có một số đặc điểm khác với mâu thuẫn trong tự
nhiên cụ thể:
18
Trước hết là quan hệ chủ thể - khách thể: Khác với mâu thuẫn trong tự
nhiên không có quan hệ chủ thể - khách thể, mâu thuẫn xã hội là biểu hiện của
những mối quan hệ xã hội nhất định và do đó luôn liên hệ bằng cách này hay
cách khác với những chủ thể nhất định. Chủ thể của mâu thuẫn xã hội có thể là
trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong trường hợp một trong những mặt đối lập là cá
nhân, nhóm xã hội, giai cấp, dân tộc, quốc gia, v.v., còn mặt kia là tự nhiên, là
khách thể thì người ta coi chủ thể là trực tiếp hoặc trong trường hợp cả hai mặt
đối lập là con người - mỗi mặt đối lập vừa là khách thể vừa là chủ thể so với mặt
kia. Ví dụ, trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, nếu đứng
về phía giai cấp vô sản thì giai cấp vô sản là chủ thể so với giai cấp tư sản là
khách thể; còn ngược lại nếu đứng về phía giai cấp tư sản thì giai cấp tư sản là
chủ thể so với giai cấp vô sản - lúc này đóng vai trò là khách thể. Người ta gọi
chủ thể của mâu thuẫn xã hội là gián tiếp khi những mặt đối lập của nó không
phải là con người mà thay vào đó là những vật, những thuộc tính của những sự
vật với tính cách là kết quả lao động của con người. Ví như mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất cũ lỗi thời. Tuy nhiên, đằng sau mâu
thuẫn của những sự vật, những thuộc tính của sự vật ấy là biểu hiện mâu thuẫn
giữa con người với con người.
Ở đặc điểm này của mâu thuẫn xã hội, điều cần lưu tâm là mâu thuẫn xã
hội không thể tồn tại bên ngoài những con người cụ thể. Không thể hình dung
được một mâu thuẫn xã hội nào mà lại có thể thiếu đi bóng dáng của con người.
Và khi phân tích mâu thuẫn xã hội ngoài việc chỉ ra những tính chất, khuynh
hướng trái ngược nhau chủ thể cần gắn những tính chất, khuynh hướng đó với
những con người nhất định hay nói rõ hơn là chỉ ra mối liên quan như thế nào
của chúng tới những con người nhất định.
19
Thứ hai, mâu thuẫn xã hội là mâu thuẫn về lợi ích: Thực chất của mâu
thuẫn xã hội là mâu thuẫn về những lợi ích ngược chiều nhau của những con
người nhất định (ở đây có thể là lợi ích của cá nhân, nhóm xã hội,...). Ở những
nhóm xã hội có lợi ích ngược chiều nhau tức là nhóm xã hội này xâm phạm lợi
ích của nhóm xã hội khác, thì giữa họ sẽ xuất hiện sự đấu tranh nhằm đảm bảo
lợi ích của mình.
Cũng cần nói thêm là, nhu cầu và lợi ích của con người rất đa dạng và
phong phú, nhu cầu đó xét ở những lĩnh vực khác nhau của xã hội thì bao gồm:
kinh tế, chính trị, văn hóa, tinh thần, trong đó lợi ích kinh tế là lợi ích căn bản
nhất. Một khi những nhóm xã hội có sự đối lập về lợi ích căn bản có tính chất
sống còn thì giữa họ có mâu thuẫn đối kháng với nhau.
Thứ ba, mâu thuẫn xã hội có tính khách quan - chủ quan: Xét về bản chất
mâu thuẫn xã hội là sự thống nhất và đấu tranh của những tính chất, những
khuynh hướng khách quan. Tính khách quan của nó biểu hiện ở chỗ: sự ra đời và
tồn tại của nó không phụ thuộc vào ý thức của bất kỳ cá nhân nào, giai cấp nào;
trong những điều kiện nhất định mâu thuẫn đó là không tránh khỏi, không thể
xóa bỏ được. Thí dụ, trong mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa - mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất và tính chất tư bản chủ
nghĩa của sự chiếm hữu, ta thấy hai mặt đó đều có tính khách quan không phụ
thuộc vào ý thức của giai cấp vô sản hay giai cấp tư sản. Mâu thuẫn này biểu
hiện thành sự đối kháng về lợi ích giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản; sự đối
kháng này cũng có tính tất yếu, khách quan. Tuy nhiên, sự đối lập giữa vô sản và
tư sản, biểu hiện thành sự đấu tranh giữa giữa hai giai cấp, phải thông qua sự
nhận thức của những cá nhân nhất định của những cá nhân trong hai giai cấp đó,
và ở góc độ này, mâu thuẫn xã hội đã bao hàm tính chủ quan của nó.
20
Thứ tư, mâu thuẫn xã hội có tính lịch sử: Tính lịch sử của mâu thuẫn xã
hội biểu hiện ở chỗ, các hiện tượng xã hội thường biến đổi nhanh hơn so với các
hiện tượng tự nhiên. Càng dần về sau, xã hội biến đổi với tốc độ ngày càng
nhanh hơn. Khi một hình thái kinh tế - xã hội này được thay bằng hình thái kinh
tế - xã hội khác thì mâu thuẫn cơ bản của nó và những mâu thuẫn nảy sinh từ
mâu thuẫn cơ bản đó cũng mất theo. Bên cạnh đó, cũng cần thấy rằng mỗi một
hình thái - kinh tế xã hội nhất định cũng có những biểu hiện đặc thù của chúng
chẳng hạn sự biểu hiện khác nhau của mâu thuẫn giai cấp trong xã hội chiếm hữu
nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản chủ nghĩa và sự biểu hiện khác nhau
trong xã hội tư bản chủ nghĩa và trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một
ví dụ về tính lịch sử của mâu thuẫn xã hội.
Một đặc điểm khác của mâu thuẫn xã hội là sự đấu tranh của các mặt đối
lập trong xã hội là hoạt động có tổ chức: Sự nhận thức và giải quyết mâu thuẫn
xã hội dù là mâu thuẫn giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội, giữa
những nhóm xã hội hay mâu thuẫn giữa những tổ chức xã hội ít nhiều đều phải
thông qua những tổ chức xã hội nhất định (Trong xã hội có giai cấp, các tổ chức
xã hội ít nhiều mang tính giai cấp, là đại diện cho lợi ích và quyền lực của một
giai cấp nhất định). Vì lẽ đó, sự can thiệp cải các tổ chức xã hội vào mâu thuẫn
xã hội là điều không tránh khỏi mà thậm chí là cần thiết được xem như là yếu tố
tất yếu của quá trình vận động và giải quyết mâu thuẫn xã hội.
Cũng cần thấy rằng việc can thiệp của các tổ chức xã hội vào giải quyết
mâu thuẫn xã hội dù là tất yếu nhưng không phải lúc nào sự can thiệp ấy cũng
đúng mà còn có cả những trường hợp can thiệp không đúng với bản chất của
mâu thuẫn khách quan. Sự sai lầm trong nhận thức và giải quyết mâu thuẫn xã
hội bên cạnh nguyên nhân giai cấp, còn có thể xuất phát từ trình độ nhận thức và
21
tổ chức thực hiện của các tổ chức xã hội, nhất là tổ chức nhà nước - tổ chức xã
hội quan trọng nhất trong xã hội có giai cấp.
Như vậy, có thể nói sự can thiệp của các tổ chức xã hội, tổ chức nhà nước
vào quá trình nhận thức và giải quyết mâu thuẫn xã hội là điều cần thiết. Tuy
nhiên, cần có tư tưởng tránh can thiệp một cách chủ quan, thô bạo vào quá trình
khách quan của mâu thuẫn xã hội.
1.2. Các phƣơng thức giải quyết mâu thuẫn
1.2.1. Vai trò động lực của việc giải quyết mâu thuẫn
Trước hết cần khẳng định rằng mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự
phát triển. Bởi lẽ, mâu thuẫn bao hàm cả sự thống nhất và đấu tranh lẫn nhau của
các mặt đối lập. Trong đó, sự thống nhất của các mặt đối lập là tạm thời, thoáng
qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối.
Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối
lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động làm cho
mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng
theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó ngày càng phát triển và đi
đến đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ
chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ
được thay thế bằng thể thống nhất mới, sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay
thế. Chính ở nghĩa này V.I.Lênin đã viết: “sự phát triển là một cuộc đấu tranh
giữa các mặt đối lập” [24, tr.379]. Tuy nhiên, nếu không có sự thống nhất của
các mặt đối lập thì cũng không có sự đấu tranh giữa chúng. Thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện
chứng. Hơn nữa sự vận động, phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính
ổn định và tính thay đổi. Trong khi đó, thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do đó, ta có thể khẳng
22
định, mâu thuẫn (thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập) vừa là nguồn gốc
vừa là động lực của vận động và phát triển.
Tuy nhiên, nếu xem xét mâu thuẫn ở từng khâu, từng giai đoạn nhất định
của nó chúng ta sẽ thấy sự khác nhau trong vai trò động lực của các mặt (thống
nhất và đấu tranh) đó đối với mâu thuẫn. Chẳng hạn, khi mâu thuẫn chưa phát
triển đến giai đoạn chín muồi thì sự thống nhất của các mặt đối lập có vai trò rất
quan trọng, lúc này đấu tranh phải phục tùng sự thống nhất. Nhưng, khi mâu
thuẫn đã phát triển lên giai đoạn “chóp đỉnh” thì sự đấu tranh giữa các mặt đối
lập để phá vỡ thống nhất cũ, thiết lập thể thống nhất mới có vai trò quan trọng
hơn.
Tất cả các mặt các khâu, của mâu thuẫn đều có vai trò đối với quá trình
phát triển của sự vật. Tuy nhiên, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập nếu không
gắn liền với việc giải quyết đúng quy luật, nghĩa là mâu thuẫn không được giải
quyết thường xuyên và kịp thời, hoặc chỉ được giải quyết một cách chủ quan tùy
tiện, thì mâu thuẫn sẽ tích tụ lại, sự phát triển bị chặn lại và sự vật bị biến dạng.
Vì vậy, có thể nói việc giải quyết mâu thuẫn là khâu quan trọng nhất trong vai
trò động lực của mâu thuẫn đối với quá trình phát triển.
1.2.2. Các cách thức giải quyết mâu thuẫn
Tất cả các hình thức giải quyết mâu thuẫn đều có điểm chung là khi mâu
thuẫn được giải quyết thì sự xung đột giữa hai mặt đối lập vĩnh viễn mất đi hoặc
tạm thời lắng dịu. Chính trên cơ sở kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn này
(mâu thuẫn vĩnh viễn mất đi hay mâu thuẫn vẫn còn nhưng tạm thời lắng dịu) mà
người ta chia ra các cách giải quyết và hình thức giải quyết khác nhau.
Mâu thuẫn được giải quyết bằng nhiều cách và hình thức đa dạng, phong
phú. Tuy nhiên, về đại thể việc giải quyết mâu thuẫn có thế chia làm hai cách cơ
bản là loại trừ các mặt đối lập và kết hợp các mặt đối lập.
23
* Giải quyết mâu thuẫn bằng cong đường loại trừ giữa các mặt đối lập
Trong tư tưởng biện chứng của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin,
vai trò đấu tranh (loại trừ) giữa các mặt đối lập trong mâu thuẫn đối với sự vật
được thể hiện khá rõ nét. Khi nói về vai trò của đấu tranh giữa các mặt đối lập
trong quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong
tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” và “Tư bản” các ông đã chỉ rõ chính
giai cấp vô sản mới là đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ. Cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản chính là cuộc đấu tranh vì sự
phát triển, tiến bộ của xã hội.
Kế thừa và tiếp thu những tư tưởng đó, V.I.Lênin cũng đã nhận mạnh tới
vấn đề đấu tranh giữa các mặt đối lập và mối quan hệ giữa cuộc đấu tranh của
chúng đối với sự phát triển của sự vật, hiện tượng khách quan. Theo Người thì sự
phát triển chẳng qua “là một cuộc đấu tranh của các mặt đối lập” [24, tr.379].
V.I.Lênin viết: “... những khuynh hướng mâu thuẫn, bài trừ lẫn nhau; đối lập
trong tất cả các hiện tượng và quá trình của giới tự nhiên (kể cả tinh thần và xã
hội)” [24, tr.379].
Một trong những hình thức giải quyết mâu thuẫn bằng con đường loại trừ
các mặt đối lập là sự chuyển hoá cuối cùng của các mặt đối lập từ mặt này sang
mặt kia. Ph.Ăngghen viết: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn
bộ thế giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan tức là tư duy biện chứng, thì
chỉ phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ thế giới tự nhiên của toàn bộ sự vận động
thông qua những mặt đối lập, tức là những mặt, thông qua sự đấu tranh thường
xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành
mặt đối lập kia, sesp (tương tự) với những hình thức cao hơn, đã quy định sự
sống của giới tự nhiên” [32, tr.694].
24
Một số ví dụ cho hình thức giải quyết này như: giữa cái mới và cái cũ;
giữa các hình thái kinh tế - xã hội... Cái mới ra đời từ cái cũ, là mặt đối lập với
cái cũ, hợp thành với cái cũ thành một mâu thuẫn. Sự giải quyết mâu thuẫn này
chính là cái mới phủ định cái cũ, đưa sự vật tiến lên một trạng thái mới về chất.
Khi đó, cái mới không còn là một mặt nữa, mà trở thành một sự vật mới có mâu
thuẫn mới. Chẳng hạn, xem xét sự phủ định của chế độ tư bản chủ nghĩa đối với
chế độ phong kiến ta sẽ thấy rõ điều đó. Thoạt đầu những tiền đề của chủ nghĩa
tư bản xuất hiện trong lòng hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, là mặt đối lập
của chế độ phong kiến. Kết quả của cuộc đấu tranh giữa hai mặt đối lập này là
chế độ tư bản chủ nghĩa phủ định chế độ phong kiến - hay nói cách khác là sự
chuyển từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản chủ nghĩa. Chế độ tư bản chủ
nghĩa từ chỗ là mầm mống trong chế độ phong kiến đã trở thành một sự vật độc
lập.
Việc giải quyết mâu thuẫn bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập
còn được thực hiện bằng việc cả hai mặt của mâu thuẫn đều mất đi, sự vật
chuyển lên một chất mới, với mâu thuẫn mới. Ở đây, có thể xem việc mất đi của
cả hai giai cấp vô sản và tư sản khi mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và tư sản
được giải quyết một cách triệt để là một ví dụ như thế.
Cũng cần lưu ý thêm rằng, việc giải quyết hoàn toàn mâu thuẫn chỉ được
thực hiện khi mâu thuẫn đã phát triển lên đến chóp đỉnh của nó. V.I.Lênin viết:
“Chỉ khi nâng lên chóp đỉnh của mâu thuẫn thì những cái nhiều hình,
nhiều vẻ mới trở nên năng động và chống đối nhau, - và mới chứa đựng một tính
phủ định, tức là sự phốc động bên trong của sự tự vận động và của sức sống”
[24, tr.152].
Nói tóm lại, việc giải quyết mâu thuẫn thông qua con đường đấu tranh
(loại trừ) giữa các mặt đối lập xét đến cùng nhằm tạo ra sự chiến thắng của mặt
25