Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.65 KB, 43 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN VƢƠNG CƢỜNG

VAI TRÕ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH
ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2009

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-

NGUYỄN VƢƠNG CƢỜNG

VAI TRÕ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH
ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Chuyên ngành: Triết học


Mã số:

60 22 80

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. ĐOÀN QUANG THỌ

HÀ NỘI - 2009

2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS, TS. Đoàn
Quang Thọ.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều
trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2009.

Tác giả luận văn

Nguyễn Vương Cường

3



MỤC LỤC
Mở đầu ....................................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và Vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ................................................................... 5
1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta ...... 5
1.1.1. Khái quát về công nghiệp hoá, hiện đại hoá .................................................................... 5
1.1.2. Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta......................................................................................................................... 8
1.2. Vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ........ 12
1.2.1. Chính quyền cấp tỉnh với việc xây dựng chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa .... 12
1.2.2. Chính quyền cấp tỉnh với việc tổ chức thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện
đại hóa .......................................................................................................................... 20
Chƣơng 2 . Thực trạng về vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và những vấn đề đặt ra hiện nay ở tỉnh Bắc Ninh ........ 34
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh ................ 34
2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên của tỉnh Bắc Ninh ....................................................... 34
2.1.2. Khái quát về đặc điểm kinh tế- xã hội ở tỉnh Bắc Ninh ................................................. 39
2.2. Thực trạng về vai trò chính quyền tỉnh trong việc xây dựng chiến lược công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh ................................................................................ 42
2.3. Thực trạng về vai trò chính quyền tỉnh trong việc tổ chức thực hiện chiến lược công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh .................................................................... 53
2.3.1. Về việc xây dựng cơ sở hạ tầng để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh
Bắc Ninh ...................................................................................................................... 53
2.3.2. Về việc đề ra các chính sách nhằm thu hút công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc
Ninh .............................................................................................................................. 59
2.3.3. Về việc tạo ra môi trường xã hội thuận lợi để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở tỉnh Bắc Ninh ..................................................................................................... 68
2.4. Những vấn đề đặt ra về việc nâng cao vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh ............................................... 76

2.4.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với những hạn
chế về mặt quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh ............................... 77
2.4.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với những hạn
chế trong cơ chế, chính sách ở tỉnh Bắc Ninh .............................................................. 78
2.4.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với trình độ đội
ngũ cán bộ ở tỉnh Bắc Ninh.......................................................................................... 80
Chƣơng 3. phƣơng hƣớng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của chính
quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc
Ninh ............................................................................................................................. 82

4


3.1. Phương hướng chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh ............................................... 82
3.1.1. Hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh ........................................................... 82
3.1.2. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh ................................................................................ 84
3.1.3. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh ................................................................................. 93
3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh ............................................... 95
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tổ chức chính quyền cấp tỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh ............................................... 95
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tuyển dụng cán bộ, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ
đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh ............... 98
3.2.3. Đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo nhằm đảm bảo yêu cầu nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh .................... 101
3.2.4. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ các cấp ở địa phương đối với sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh .................................................................. 103
Kết luận ................................................................................................................................. 106
Danh mục tài liệu tham khảo .............................................................................................. 108
Phụ lục .................................................................................................................................. 111

5


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ
quá độ tiến lên CNXH ở nước ta. Tất cả các ngành, các địa phương đều phải
tập trung vào sự nghiệp đó. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là không
thể tách rời vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò tổ chức quản lý của chính
quyền Nhà nước.
Tỉnh Bắc Ninh có vị trí thuận lợi về địa lý, nằm trong vùng tam giác
kinh tế quan trọng nối các trung tâm kinh tế, văn hoá, du lịch, thương mại lớn
giữa Nà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và nhiều tỉnh phía Bắc
Theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII đã xác định:
“Khai thác và phát huy hơn nữa tiềm năng, thế mạnh của địa phương,
huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tăng cường sức mạnh đoàn
kết toàn dân, đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao
và bền vững hơn. Phấn đấu đến năm 2015 là tỉnh phát triển khá trong cả nước,
và cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, tạo tiền đề đến năm
2020 là một trong những tỉnh dẫn đầu trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ”[15, tr 39 - 40].
Để đạt được mục tiêu trên đòi hỏi phải có sự phấn đấu của toàn đảng,
toàn dân, trong đó đặc biệt phải phát huy vai trò của chính quyền địa phương.
Trong thời gian qua dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền địa phương đã

có vai trò tích cực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên
cũng còn nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu giải quyết nhằm nâng cao
vai trò của chính quyền cấp tỉnh để thực hiện mục tiêu Đại hội Đảng bộ đề ra.
Với tinh thần đó, để góp phần nhỏ bé của mình vào vấn đề đó tôi chọn đề tài:

6


“Vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Bắc
Ninh".
2. Tình hình nghiên cứu
Xung quanh vấn đề vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp
CNH, HĐH đã có những công trình nghiên cứu có liên quan với những hình
thức, mức độ khác nhau và đã được công bố trên các phương tiện thông tin
đại chúng, những tạp chí chuyên ngành và những sách chuyên khảo khác như:
Luận văn ThS Triết học, Phạm Quốc Việt “Vai trò quản lý của nhà nước đối
với nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay’’; Luận văn ThS Triết học,
Lương Thị Hải Thảo “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ trong sự
nghiệp CNH - HĐH ở tỉnh Bình Dương”; Luận văn ThS Triết học, Trần Thị
Chiều “Nâng cao chất lượng nguồn lực lao động trong quá trình thực hiện
CNH - HĐH ở tỉnh Thái Bình”; Luận văn ThS Kinh tế, Ngô Thị Thu Hà
“CNH - HĐH Nông nghiệp, nông thôn ở Nghệ An”; Nguyễn Việt Bách “Vai
trò của chính phủ Nhật Bản trong quá trình CNH - HĐH và một số kinh
nghiệm ở Việt Nam”; Bùi Xuân Tùng “Vai trò của nhà nước trong việc hỗ
trợ, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam”; Trần Anh Tài, Luận
án PTS, Kinh tế chính trị XHCN “Vai trò quản lý nhà nước trong quá trình
chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”; Bùi Văn Sỹ, Luận văn ThS
Luật “Quản lý nhà nước về hoạt động khoa học và công nghệ trong thời kỳ
CNH - HĐH”; Luận văn ThS khoa học Triết học, Ngô Chí Nguyện “Phát huy
vai trò nhà nước trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định

hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay’’; Nguyễn Sỹ, luận án tiến sĩ kinh
tế “Quá trình CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ 1986 đến
nay“...
Mặc dù các công trình trên đã giải quyết được nhiều mặt ở các địa
phương khác nhau tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu ở tỉnh Bắc
Ninh. Do vậy, vấn đề tôi lựa chọn là chưa có một công trình nào nghiên cứu.

7


Vì vậy với hình thức là một luận văn thạc sỹ, tôi xin chọn đề tài này để nghiên
cứu nhằm đáp ứng sự đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn đặt ra góp phần thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVII.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ vai trò chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp CNH,
HĐH và thực trạng về vai trò chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp CNH,
HĐH ở tỉnh Bắc Ninh. Luận văn đề ra các phương hướng và giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao vai trò chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp CNH HĐH ở tỉnh Bắc Ninh.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện 3 nhiệm vụ cơ bản sau:
- Làm rõ vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra về vai trò của chính
quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bắc
Ninh.
- Đề ra các phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò
của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
tỉnh Bắc Ninh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vai trò của chính quyền cấp tỉnh
đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

8


Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng ta về vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Luận văn sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lôgíc lịch sử, phương pháp tiếp cận
hệ thống, phương pháp trừu tượng hoá, khái quát hoá, phương pháp điều tra,
khảo sát thực tiễn, phân tích xử lý số liệu…
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn làm rõ vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp
CNH, HĐH.
- Góp phần làm rõ thực trạng về vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối
với công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh.
- Bước đầu đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bắc Ninh.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết:
Chƣơng 1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và vai trò của chính quyền
cấp tỉnh đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chƣơng 2. Thực trạng về vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự
nghiệp CNH, HĐH và những vấn đề đang đặt ra hiện nay ở tỉnh Bắc Ninh.
Chƣơng 3. Các phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai

trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp CNH, HĐH tỉnh Bắc Ninh.

9


Chƣơng 1
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
VÀ VAI TRÕ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH
ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nƣớc ta
1.1.1. Khái quát về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Công nghiệp hóa đã có chiều dài lịch sử trên 200 năm, đến nay vẫn còn
là vấn đề thời sự và là vấn đề bức xúc đối với các nước đang phát triển.
Tất cả các nước từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn, từ một nước nông
nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp hiện đại, đều phải trải qua
công nghiệp hoá. Đó là con đường xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền
sản xuất lớn, hiện đại. Đây là quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các
nước.
Như vậy, “sự nghiệp CNH vừa là quá trình kinh tế - kỹ thuật, vừa là
quá trình kinh tế - xã hội. Việc thực hiện thành công CNH sẽ xây dựng được
một nền kinh tế công nghiệp có trình độ phát triển cao, khoa học công nghệ
tiên tiến, cơ cấu kinh tế hợp lý. Điều đó dẫn đến sự biến đổi về cơ cấu xã hội dân cư rất khác so với nền kinh tế nông nghiệp. Đó là xuất hiện nhiều khu
công nghiệp lớn, nhiều thành phố lớn, người dân sống rất tập trung, trong đó
dân cư công nghiệp và lực lượng lao động trong công nghiệp chiếm đa số; có
cơ cấu giai cấp rất khác so với trước; trình độ của người lao động cũng như
dân trí và chất lượng cuộc sống của nhân dân nâng cao; làm thay đổi nếp
nghĩ, cách làm của người dân” [ 29, tr 4-5].
Qua đó có thể hiểu khái quát CNH là quá trình chuyển một xã hội nông

nghiệp với lao động thủ công là chủ yếu sang một xã hội công nghiệp với lao

10


động bằng máy móc với công nghệ hiện đại trong tất cả các lĩnh vực kinh tế,
xã hội, tạo ra năng suất lao động cao.
Công nghiệp hóa có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội:
- Đây là quá trình phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao
động, nâng cao chất lượng sản phẩm, do đó làm tăng tính cạnh tranh của hàng
hoá trên thị trường, góp phần rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các nước
đang phát triển với các nước phát triển.
- Làm củng cố và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước, nâng cao
khả năng tích luỹ của nền kinh tế, từ đó thúc đẩy nhanh tăng trưởng và phát
triển kinh tế, tạo công ăn việc làm, khuyến khích sự phát triển tự do và toàn
diện của mỗi cá nhân.
- Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ,
đủ sức tham gia có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế.
-Tạo điều kiện vật chất cho việc tăng cường củng cố an ninh quốc
phòng.
Trong thời đại ngày nay, với sự bùng nổ của khoa học - công nghệ, các
nước phát triển đã lợi dụng sự phát triển đó để phát triển kinh tế, tạo ra
khoảng cách ngày càng lớn với các nước đang phát triển. Do vậy, khoảng
cách đó, suy cho đến cùng, đó là khoảng cách về phát triển khoa học - công
nghệ. ở các nước đang phát triển, dường như để đạt tới trình độ hiện đại nhất
ngày càng trở nên một thách thức khó vượt qua. Điều đó buộc các nước ĐPT
phải thực hiện CNH gắn liền với HĐH để tiến lên, rút ngắn khoảng cách với
các nước phát triển.
Điều đó đã khẳng định, các nước đang phát triển phải đẩy nhanh quá
trình phát triển kinh tế mới rút ngắn được khoảng cách với các nước phát

triển, việc CNH phải gắn liền với HĐH là tất yếu lịch sử. Xu thế kinh tế và

11


chính trị thế giới hiện nay đã tạo điều kiện các nước đang phát triển thực hiện
mục tiêu đó.
“Kinh nghiệm về CNH của các nước đi trước và qua thực tiễn kiểm
nghiệm, kết hợp với sự phát triển mạnh của khoa học công nghệ và quan hệ
kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng, quan niệm về CNH, HĐH được hiểu
như sau: CNH chính là một cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất, làm thay
đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ, sản xuất, tăng năng xuất lao động. HĐH là
quá trình thường xuyên cập nhật và nâng cấp những công nghệ hiện đại nhất,
mới nhất trong quá trình CNH” [25, tr 9].
Trong thời đại ngày nay, CNH luôn phải gắn liền với HĐH có nghĩa là
phải tiếp cận với công nghệ hiện đại do cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
hiện nay mang lại. Nếu CNH không gắn với HĐH thì chính là tiếp cận với
những công nghệ lạc hậu trên thế giới, đã bị thế giới loại thải và thực chất sẽ
là bãi rác của thế giới. Do vậy, đối với những nước lạc hậu thì CNH phải gắn
với HĐH.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình trang bị kỹ thuật và công
nghệ hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành giữ vị trí quan
trọng, biến một nước có nền kinh tế kém phát triển thành một nước có nền
kinh tế phát triển, thành một nước công nghiệp hiện đại.
Ở Việt Nam, tại Nghị quyết hội nghị Trung ương 7 khóa VII của Đảng
ta (1994) chỉ rõ “công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn
bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế,
xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động cùng với cộng nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện
đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ,

tạo ra năng suất lao động xã hội cao”[ 2, tr 323 - 324].

12


Quan niệm này nói lên phạm vi và vai trò đặc biệt quan trọng của
CNH, HĐH trong phát triển kinh tế xã hội, gắn liền được hai phạm trù, không
thể tách rời là CNH và HĐH. Có thể thấy rằng, quan niệm về CNH này phù
hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và bối cảnh thế giới ngày nay. Đó là
nhấn mạnh hơn yếu tố khoa học - công nghệ bằng việc gắn CNH với HĐH để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
1.1.2. Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta phụ thuộc rất lớn
vào việc xác định đúng nội dung cụ thể cho từng thời kỳ. Theo tinh thần của
hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX thì CNH, HĐH ở nước ta
đến năm 2010 cần giải quyết tốt những nội dung sau:
Thứ nhất, Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH dựa trên cơ sở
những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết là quá trình cải biến
lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng máy móc, tức là phải cơ
khí hóa nền kinh tế quốc dân. Đó là bước chuyển đổi rất căn bản từ nền kinh
tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp.
Đi liền với cơ khí là hiện đại hóa và tự động hóa sản xuất từng bước và
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đòi hỏi phải xây dựng và phát triển mạnh
mẽ các ngành công nghiệp, trong đó chủ yếu là ngành chế tạo tư liệu sản xuất.
Sự phát triển của các ngành chế tạo ra tư liệu sản xuất là cơ sở để cải tạo, phát
triển nền kinh tế quốc dân , phát triển khu vực nông - lâm - ngư nghiệp. Sự
phân tích trên cho ta thấy đối tượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tất cả
ngành kinh tế quốc dân nhưng trước hết và quan trọng nhất là ngành công

nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất.

13


Mục tiêu của CNH, HĐH còn là sử dụng kỹ thuật, công nghệ ngày càng
tiên tiến hiện đại nhằm đạt năng suất lao động xã hôi cao.Tất cả những điều
đó chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở một nền khoa học - công nghệ phát
triển đến một trình độ nhất định.
Hiện nay nền khoa học của thế giới đang có sự phát triển mạnh mẽ,
khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp; khi mà công nghệ đang
trở thành nhân tố quyết định chát lượng sản phẩm, chi phí sản xuất... tức là
đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa, hiệu quả của sản xuất, kinh doanh, thì
khoa học - công nghệ phải là động lực của CNH, HĐH. Bởi vậy, phát triển
khoa học - công nghệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp CNH,
HĐH.
Phát triển khoa học - công nghệ trong điều kiện Việt Nam hiện nay cần
chú ý tới những vấn đề sau đây:
Phải xác định được phương hướng đúng đắn cho sự phát triển khoa học
- công nghệ. Khoa học - công nghệ là lĩnh vực hết sức rộng lớn; trong khi đó
đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ nước ta còn nhỏ bé, chất lượng thấp; khả
năng của đất nước ta về vốn, phương tiện nghiên cứu... rất hạn hẹp. Do đó,
chúng ta không thể cùng một lúc đầu tư để phát triển tất cả các lĩnh vực khoa
học - công nghệ, mà phải lựa chọn những lĩnh vực nhất định để đầu tư. Nếu
việc lựa chọn đúng sẽ tạo điều kiện cho khoa học - công nghệ phát triển và
ngược lại, nếu việc lựa chọn không đúng thì không những ảnh hưởng tới xấu
tới sự phát triển của khoa học - công nghệ mà còn ảnh hưởng không tốt đến
CNH, HĐH. Phương pháp chung cho sự phát triển khoa học - công nghệ ở
nước ta: “Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt
trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh

học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến
nhiều hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát
triển kinh tế tri thức” [2, tr 333].

14


Phải tạo dựng được những điều kiện cần thiết cho sự phát triển khoa
học - công nghệ. Việc xác định phương hướng đúng cho sự phát triển khoa
học - công nghệ là cần thiết nhưng chưa đủ, mà khoa học - công nghệ chỉ phát
triển khi được đảm bảo những điều kiện kinh tế - xã hội cần thiết. Những điều
kiện đó là: đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ có số lượng đủ lớn, chất
lượng cao; đầu tư ở mức cần thiết; các chính sách kinh tế - xã hội phù hợp...
Trong sự nghiệp CNH, HĐH, người lao động - lực lượng sản xuất thứ
nhất - không những phải được nâng trình độ văn hóa và khoa học - công nghệ
mà còn phải được trang bị cả cơ sở vật chất - kỹ thuật tiên tiến. Họ vừa là kết
quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, vừa là người tạo ra sự phát triển đó.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hiện đại
Quá trình CNH, HĐH cũng là quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Cơ
cấu của nền kinh tế quốc dân là cấu tạo hay cấu trúc của nền kinh tế bao gồm
các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế... và mối quan hệ
hữu cơ giữa chúng. Trong cơ cấu của nền kinh tế, cơ cấu các ngành kinh tế là
quan trọng nhất, quyết định các hình thức cơ cấu kinh tế khác. Cơ cấu kinh tế
hợp lý là điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng, phát triển. Vì vậy CNH, HĐH
đòi hỏi phải xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại.
Cơ cấu kinh tế không ngừng vận động, biến đổi do sự vận động, biến
đổi của lực lượng sản xuất. Xu hướng chuyển dịch cơ cơ cấu kinh tế được coi
là hợp lý, tiến bộ là tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng, đặc biệt là tỷ
trọng khu vực dịch vụ ngày càng tăng; tỷ trọng khu vực nông, lâm, ngư
nghiệp và khai khoáng ngày càng giảm trong tổng giá trị sản phẩm xã hội.

Quá trình hình thành và phát triển các ngành kinh tế, nhất là những
ngành có hàm lượng khoa học cao; sự xuất hiện các vùng sản xuất chuyên
canh tập trung... không chỉ là biểu hiện của sự phát triển của lực lượng sản
xuất, phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật trong tiến trình CNH, HĐH mà còn
làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi tiến độ.

15


Cơ cấu kinh tế hợp lý trong một nền kinh tế thị trường hiện đại đòi hỏi
công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ phát triển mạnh mẽ, hợp lý và đồng bộ..
Mạng lưới dịch vụ với tư cách là một ngành kinh tế phát triển mới có thể phục
vụ tốt cho sự phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp và nông nghiệp.
Đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Phát triển
toàn diện, nông, lâm, ngư nghiệp gần với công nghiệp chế biến nông, lâm,
thủy sản nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng của nông, lâm, ngư
nghiệp, bảo đảm vững chắc yêu cầu an toàn lương thực cho xã hội; tạo nguồn
nguyên liệu có khối lượng lớn, chất lượng cao, giá thành hạ, đủ tiêu chuẩn
đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến; tăng giá trị và khối lượng hàng
xuất khẩu; tăng thêm việc làm và thu nhập cho người lao động; phân công lại
lao động xã hội, hình thành các điểm công nghiệp gắn liền với đô thị hóa tại
chỗ, mở mang thị trường sản phẩm và dịch vụ cho công nghiệp.
Để thực hiện nhiệm vụ CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn cần phải
chú trọng đến các vấn đề thủy lợi hóa, áp dụng công nghệ tiến bộ, nhất là
công nghệ sinh học, cơ giới hóa, điện khí hóa; phát triển mạnh công, thương
nghiệp, dịch vụ, du lịch...; tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng...
Xây dựng cơ cấu kinh tế cần thiết là yêu cầu khách quan của mỗi nước
trong thời kỳ CNH. Vấn đề quan trọng là tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý.
Một cơ cấu kinh tế được gọi là hợp lý khi nó đáp ứng được các yêu cầu sau
đây:

- Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng; công nghiệp, xây dựng và
dịch vụ phải tăng dần về tỷ trọng.
- Trình độ kỹ thuật của nền kinh tế không ngừng tiến bộ và công nghệ
đã và đang diễn ra rất mạnh mẽ trên thế giới.
- Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của các ngành,
các địa phương, các thành phần kinh tế.
- Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu thế toàn cầu hóa
kinh tế, do vậy cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là “cơ cấu mở”.

16


Ở nước ta, kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, dưới ánh
sáng của đường lối đổi mới, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đạt được
những thành tựu quan trọng.
Thông qua cách mạng khoa học - công nghệ và phân công lại lao động
với những tính quy luật vốn có của nó, thích ứng với điều kiện nước ta, Đảng
ta đã xác định một cơ cấu kinh tế hợp lý mà “bộ xương” của nó là cơ cấu kinh
tế công - nông nghiệp - dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu
rộng. Mục tiêu phấn đấu của nước ta đến năm 2010 là tỷ trọng GDP của nông
nghiệp 16 - 17%; công nghiệp 40 - 41%, dịch vụ 42 - 43%.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được thực hiện theo phương châm: kết hợp công nghệ với nhiều
trình độ, tranh thủ công nghệ mũi nhọn tiên tiến vừa tận dụng được nguồn lao
động dồi dào, vùa cho phép rút ngắn khoảng cách lạc hậu, vừa phù hợp với
nguồn vốn có hạn ở trong nước; lấy quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, có tính
đến quy mô lớn nhưng phải là quy mô hợp lý và có điều kiện; giữ được tốc độ
tăng trưởng hợp lý tạo ra sự cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế và
các vùng trong nền kinh tế... chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trong
những năm trước mắt cần thực hiện theo định hướng chung sau đây: chuyển

dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và
các lợi thế so sánh của đất nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị
trường trong nước và ngoài nước, nhu cầu đời sống nhân dân và quốc phòng,
an ninh. Tạo thêm sức mua của thị trường trong nước và mở rộng thị trường
ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu.
1.2. Vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá
Ở nước ta từ trước đến nay thuật ngữ “chính quyền cấp tỉnh„ được sử
dụng tương đối rộng rãi và phổ biến, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có một văn
bản pháp luật nào định nghĩa khái niệm chính quyền cấp tỉnh. Xuất phát từ

17


góc độ nghiên cứu lý luận, từ góc độ thực tiễn có thể thấy rằng: chính quyền
cấp tỉnh là một bộ phận nằm trong khái niệm chính quyền địa phương.
Chính quyền địa phương là khái niệm dùng chung để chỉ tất cả các cơ
quan nhà nước (mang quyền lực nhà nước) đứng trên địa bàn địa phương.
Theo quy định của Hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 chính quyền địa phương được tổ chức ở 3
cấp; cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Cấp tỉnh bao gồm: tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh).
Do vậy, chính quyền cấp tỉnh chính là khâu trung gian nối liền giữa
chính quyền trung ương với chính quyền các cấp huyện, xã nhằm tổ chức
quản lý nhà nước về mặt kinh tế - xã hội trên phạm vi tỉnh.
Chính quyền cấp tỉnh bao gồm HĐND (cơ quan quyền lực nhà nước),
UBND (cơ quan hành chính nhà nước), Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân dân.
Để xây dựng thành công sự nghiệp CNH, HĐH thì vai trò của chính
quyền cấp tỉnh là rất quan trọng. Đó là; xây dựng chiến lược CNH, HĐH, xây

dựng môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi để thực hiện CNH, HĐH.
1.2.1. Chính quyền cấp tỉnh với việc xây dựng chiến lược công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Xây dựng chiến lược CNH, HĐH ở cấp tỉnh có vai trò sau:
Trong CNH, HĐH xây dựng chiến lược là xác định những mục tiêu đạt
tới của trình độ khoa học - công nghệ, của chuyển dịch cơ cấu kinh tế; các
bước đi giải quyết mục tiêu đó, đồng thời xác định hệ thống những tiền đề
đảm bảo thực hiện mục tiêu, phù hợp với mỗi bước đi của quá trình CNH,
HĐH. “Thực chất của xây dựng chiến lược CNH, HĐH là, trên cơ sở phân
tích và dự báo đúng đắn, đưa ra được những định hướng hành động, giải
pháp phù hợp để thực hiện thành công CNH, HĐH’’ [29, tr 16].
+ Định hướng hoạt động dài hạn và là cơ sở cho việc thực hiện CNH,
HĐH. Nếu không có chiến lược hay chiến lược không phù hợp, tức là chiến

18


lược thiếu căn cứ khoa học sẽ làm cho hoạt động mất phương hướng, chỉ thấy
trước mắt không thấy lâu dài, chỉ thấy cục bộ mà không thấy toàn cục. Điều
đó dẫn đến sự nghiệp CNH, HĐH rất khó thành công.
+ Tạo ra cơ sở để huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả nhằm
đẩy nhanh CNH, HĐH. Trong thực tế, phần lớn các sai lầm về đầu tư, về
nghiên cứu triển khai công nghệ, phát triển các nguồn lực… đều có nguồn gốc
từ chỗ thiếu vắng hoặc sai lệch trong việc xác định chiến lược CNH, HĐH.
Với vai trò như vậy, việc xác định chiến lược CNH, HĐH rất quan
trọng.. Xác định chiến lược CNH, HĐH đúng đắn giúp ta định hướng, bước đi
đúng đắn, phát huy và sử dụng các nguồn lực trong và ngoài nước có hiệu quả
nhất, qua đó thúc đẩy nhanh được tiến trình CNH, HĐH.
- Xây dựng chiến lược CNH, HĐH ở cấp tỉnh đặt ra một số yêu cầu
sau:

+ Xác định chiến lược CNH, HĐH phải phù hợp với điều kiện trong
tỉnh.
Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đòi hỏi phải xác định rõ
CNH, HĐH bằng những nguồn lực nào? Như đã biết, các yếu tố quyết định
đến thành bại của CNH, HĐH mỗi tỉnh về cơ bản bao gồm: nguồn vốn, nguồn
nhân lực và tiềm lực khoa học - công nghệ, trong đó nguồn nhân lực trong
tỉnh là yếu tố quyết định nhất. Nguồn nhân lực đó sẽ quyết định phương
hướng, nội dung, bước đi và biện pháp CNH, HĐH; quyết định lựa chọn các
yếu tố đầu vào, các nguồn lực khác để thực hiện; quyết định việc tổ chức và
thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH. Bởi vì, trong sự nghiệp CNH, HĐH nếu
không có đội ngũ đông đảo những người công nhân lành nghề, những nhà
khoa học tài năng, những nhà doanh nghiệp năng động, những nhà lãnh đạo,
quản lý tận tuỵ, biết nhìn xa trông rộng thì sự nghiệp CNH, HĐH khó có thể

19


thành công. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao trình độ nguồn nhân lực trong
nước, đáp ứng được yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH.
Đối với nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp CNH, HĐH cũng vậy. Các
nguồn đầu tư bên ngoài đóng vai trò quan trọng, thậm chí có ý nghĩa quyết
định đến mức độ nào đó trong những giai đoạn đầu của CNH, HĐH, đặc biệt
đối với những tỉnh mà nguồn tích lũy ban đầu khi bước vào CNH, HĐH gần
như con số không. Nhưng không thể coi những nguồn đầu tư bên ngoài là
nguồn vốn quyết định cho sự thành công của CNH, HĐH. Bởi vì, những
nguồn đầu tư từ bên ngoài không được kết hợp với những nguồn đầu tư ngày
càng quan trọng bên trong thì khó lòng nói tới thành công của CNH, HĐH.
Về trình độ khoa học - công nghệ, các tỉnh không thể có ngay được
trình độ khoa học - công nghệ cao nhất, mà phải trải qua nhiều trình tự để
nâng dần, bằng cách cải tiến và phát triển công nghệ trong tỉnh, nhận chuyển

giao khoa học - công nghệ nước ngoài: cải tiến, đổi mới những công nghệ này
càng hoàn thiện hơn. Điều đó đòi hỏi tiềm lực khoa học - công nghệ trong
nước, trong tỉnh đạt trình độ nhất định mới có thể "Tiêu hoá" được khoa học công nghệ hiện đại nhận chuyển giao từ nước ngoài.
Như vậy, xác định chiến lược CNH, HĐH phải căn cứ vào các nguồn
nội lực và phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá của từng tỉnh. Có
vậy mới phát huy được các nguồn nội lực để đẩy nhanh sự nghiệp CNH,
HĐH.
+ Xác định chiến lược CNH, HĐH phải phù hợp với điều kiện trong
nước.
Mỗi tỉnh là một bộ phận của quốc gia, do đó không thể tách khỏi những
tác động của điều kiện trong nước. Khi nói về mối quan hệ "cái riêng" và "cái
chung", Lênin đã chỉ ra rằng: Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến
cái chung. Mỗi một tỉnh là “cái riêng”, quốc gia là “cái chung”. Như vậy mỗi

20


tỉnh đều tồn tại độc lập, nhưng sự độc lập đó không có nghĩa hoàn toàn biệt
lập với cả nước. Ngược lại bất cứ tỉnh nào cũng tồn tại trong môi trường,
hoàn cảnh trong nước nhất định, chịu sự tác động của môi trường, hoàn cảnh
trong nước đó, do đó, đều tham gia vào các mối liên hệ qua lại giữa các tỉnh
thành cả nước hết sức đa dạng. Vì vậy, trong việc lựa chọn chiến lược CNH,
HĐH không chỉ căn cứ vào điều kiện trong tỉnh mà còn phải căn cứ vào tinh
hình trong nước và phải phù hợp với tình hình trong nước đó. Có vậy mới hạn
chế được những tác động tiêu cực và lợi dụng được những thuận lợi do điều
kiện trong nước mang lại, tức là lợi dụng các nguồn lực bên ngoài như vốn,
công nghệ, thị trường… để thực hiện CNH, HĐH.
Sự nghiệp CNH, HĐH phải dựa vào nguồn lực trong tỉnh là chính, điều
đó không có nghĩa là không cần đến nguồn lực bên ngoài. Nguồn lực bên
ngoài sẽ bổ sung và khắc phục được tình trạng khan hiếm nguồn lực trong

tỉnh. Các dòng chảy vốn, công nghệ… trong từng giai đoạn cụ thể bị phụ
thuộc vào điều kiện tình hình chính trị, kinh tế - xã hội.
Hiện nay, khi thế giới đã chuyển sang xu thế hội nhập thì càng tạo điều
kiện và thúc đẩy "mở cửa", phát triển quan hệ kinh tế, thương mại giữa các
tỉnh, tạo điều kiện để tham gia đầy đủ hơn vào hệ thống phân công lao động
trong nước. Bởi vậy một tỉnh tách mình khỏi cả nước, tự ép mình vào con
đường tự lực cánh sinh thực hiện CNH, HĐH hậu quả chắc chắn sẽ là tụt hậu
xa hơn. Khi một tỉnh không tham gia vào các định chế tài chính quốc gia như
ngân hàng nhà nước của quỹ tiền tệ quốc gia… thì tỉnh đó khó có thể vay vốn
của họ để CNH, HĐH. Về mặt thương mại, càng khó hơn, nếu phần lớn các
tỉnh cam kết với nhau thực hiện các quan hệ thương mại theo nguyên tắc tự
do hoá, thì một tỉnh đứng ngoài những cam kết đó khó có thể len chân vào thị
trường tự do đó được. Trong một thế giới toàn cầu hoá một quốc gia hội nhập
tình trạng cô lập sẽ dẫn tới tụt hậu xa hơn và sự tụt hậu trong tình trạng cô lập

21


sẽ là một nguy cơ tai hại nhất. Thực tế cho thấy, những tỉnh còn nghèo chính
là những tỉnh ở xa trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của đất nước.
Trong thời kỳ hiện đại, cấp tỉnh xác định chiến lược CNH, HĐH phù
hợp điều kiện quốc gia, huy động và sử dụng tốt được nguồn lực bên ngoài,
tận dụng được phân công lao động quốc gia thì tỉnh đó sẽ đẩy nhanh được sự
nghiệp CNH, HĐH cũng như phát triển kinh tế - xã hội.
+ Đảm bảo tính kế thừa và liên tục của chiến lược CNH, HĐH.
Để xác định chiến lược CNH, HĐH đúng đắn đòi hỏi phải tuân theo
quy luật trên. Bởi, mỗi chiến lược chỉ phù hợp với một giai đoạn của sự
nghiệp CNH, HĐH. Khi điều kiện trong nước và trong tỉnh thay đổi, đòi hỏi
chiến lược cũng phải thay đổi cho phù hợp, điều đó không có nghĩa là, chiến
lược CNH, HĐH sau phủ định sạch trơn chiến lược trước. Trái lại chiến lược

sau còn kế thừa những thành tựu, những nhân tố tích cực và khắc phục được
những tồn tại của chiến lược trước. Điều đó sẽ đảm bảo cho sự thắng lợi của
sự nghiệp CNH, HĐH.
- Xây dựng chiến lược CNH, HĐH ở cấp tỉnh có một số nội dung sau:
+ Xác định giải pháp, bước đi phát triển khoa học - công nghệ và mức
độ trang bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại cho nền kinh tế.
Để thực hiện CNH, HĐH mỗi tỉnh đều có chiến lược ưu tiên lựa chọn
bước đi khoa học - công nghệ của mình và nhờ vào đó mà họ đi nhanh trên
con đường CNH, HĐH.
Như vậy, trong những điều kiện khác nhau, các tỉnh lựa chọn bước đi
khác nhau để đẩy nhanh CNH, HĐH. Trong bối cảnh hiện nay, để đẩy nhanh
CNH, HĐH nên lựa chọn bước đi như thế nào để phát triển khoa học - công
nghệ?
Trong điều kiện đó, các tỉnh tiến hành CNH, HĐH bước đi để phát triển
khoa học - công nghệ để thực hiện quá trình đẩy nhanh CNH, HĐH. Một mặt

22


thực hiện bước đi tuần tự trong phát triển công nghệ. Đó là, chuyển từ thủ
công lên bán cơ khí rồi lên cơ khí. Mặt khác, “áp dụng những thành tựu của
cách mạng khoa học - công nghệ để thực hiện quá trình "đi tắt, nhảy vọt"
trong phát triển khoa học - công nghệ” [29, tr 22]. Đó là từ thủ công lên
thẳng cơ khí, từ đó thực hiện sự nghiệp HĐH là bán tự động và tự động hoá
nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển kinh tế tri thức, bước đi tuần tự của
CNH vẫn có thể nhanh hơn các nước đi trước. Bước đi này vẫn có thể rút
ngắn được nếu biết dựa vào những tiến bộ của cách mạng khoa học - công
nghệ. Điều này đòi hỏi trong chiến lược phát triển khoa học - công nghệ của
từng ngành, từng lĩnh vực phải có bước đi đúng và phải có sự lựa chọn công

nghệ phù hợp.
Mặt khác, để đi tắt trong phát triển khoa học - công nghệ cần lựa chọn
một số ngành mũi nhọn để tập trung đầu tư, tạo sự đột phá mạnh mẽ cho việc
rút ngắn CNH, HĐH. Một vấn đề quan trọng là chọn "ngành mũi nhọn" để
đầu tư. Nguyên tắc để chọn ngành kinh tế "mũi nhọn" trong điều kiện nền
kinh tế thị trường là phải lấy tính hiệu quả làm cơ bản nhất. Những ngành
được lựa chọn để đầu tư phải là những ngành có tác động cao đến sự phát
triển của nhiều ngành. Nói cách khác, sự phát triển khoa học - công nghệ của
ngành "mũi nhọn" sẽ kéo theo sự phát triển của nhiều ngành liên quan.
Xác định giải pháp, bước đi cho việc xây dựng một cơ cấu kinh tế theo
hướng hiện đại hợp lý.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có vai trò quan trọng trong phát triển kinh
tế - xã hội. Đó là, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phân phối lại tổng
sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
cũng là quá trình sắp xếp lại tỷ trọng các ngành, đảm bảo cho mọi thành phần
kinh tế phát huy được năng lực của mình, thực hiện được hiệu quả nói chung.

23


Mặt khác, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó sẽ phân bố lại lãnh thổ, đô
thị hoá nông thôn, tạo ra sự phát triển bình đẳng giữa các vùng, đồng thời qua
đó đẩy nhanh sự phát triển của toàn nền kinh tế - xã hội.
Trong điều kiện hiện nay, để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, HĐH phải quán triệt một số quan điểm sau:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi mục đích, có định hướng,
dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ căn cứ lý luận và thực tiễn cùng với việc áp
dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển cơ cấu kinh tế từ trạng thái
này sang trạng thái khác.
Hiện nay, khi kinh tế tri thức và toàn cầu hoá trở thành một xu thế thì

cơ cấu kinh tế phải là cơ cấu kinh tế mở. Đó là cơ cấu kinh tế có tính năng
động, linh hoạt cao, có khả năng thích ứng nhanh với các biến động của kinh
tế quốc tế, ứng phó một cách có hiệu quả với các chấn động bên ngoài. Cơ
cấu kinh tế đó có khả năng tận dụng tối ưu các nguồn lực bên trong, bên ngoài
cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế và tiếp nhận được những giá trị
của kinh tế tri thức, của quá trình toàn cầu hoá cũng như những nền văn hoá
tiêu biểu của các tỉnh.
Với quan điểm đó, nguyên tắc của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong điều kiện hiện nay là: trước hết là phải tận dụng tối đa lợi thế so sánh,
nâng cao dần khả năng cạnh tranh của các ngành hàng phù hợp với tiến trình
hội nhập. Thứ hai, cần phải lựa chọn hướng điều chỉnh cơ cấu kinh tế sao cho
nắm bắt được cơ hội, phát huy được vai trò của kinh tế tri thức, trước hết là
công nghệ thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập và đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng.
Từ những vấn đề đặt ra trên đây, có thể đưa ra tính quy luật cho việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện hiện
nay:

24


Hiện nay, ở các nước ĐPT cơ cấu kinh tế là nông nghiệp - công nghiệp
- dịch vụ. Xu hướng chuyển dịch của cơ cấu ngành trong sự nghiệp CNH,
HĐH ở các nước này là từ nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ lên công
nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Đó là xu hướng tỷ trọng giá trị sản phẩm công
nghiệp ngày càng tăng, nông nghiệp ngày càng giảm; tỷ trọng giá trị sản
phẩm dịch vụ ngày càng tăng, tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp
ngày càng giảm tương ứng. Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
đã tạo điều kiện thúc đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp nông nghiệp - dịch vụ lên cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp và cao
hơn nữa là cơ cấu dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Đây là cơ cấu kinh tế

hiện đại, phản ánh một nền kinh tế phát triển trong điều kiện hiện nay. Các
nước đi đầu trong CNH phải mất hơn 200 năm mới có được cơ cấu kinh tế đó.
Nếu các nước đang thực hiện CNH, HĐH cũng đi như vậy thì còn lâu mới có
cơ cấu kinh tế hiện đại. Để nhanh chóng chuyển dịch kinh tế truyền thống
nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang cơ cấu kinh tế hiện đại dịch vụ công nghiệp - nông nghiệp đòi hỏi phải có những bước đi, giải pháp thích
hợp. Tất nhiên, trước mắt các nước ĐPT phải chuyển từ cơ cấu nông nghiệp công nghiệp - dịch vụ lên cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ, nhưng
đồng thời cũng phải tạo những tiền đề để chuyển lên cơ cấu dịch vụ - công
nghiệp - nông nghiệp. Do vai trò quan trọng của khoa học - công nghệ sẽ giúp
các nước nói chung Việt Nam nói riêng thực hiện CNH, HĐH đẩy nhanh việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu vùng, lãnh thổ: Trong sự nghiệp CNH, HĐH cùng với sự
chuyển dịch của cơ cấu ngành thì cơ cấu vùng, lãnh thổ cũng chuyển dịch
theo. Cùng với sự phát triển của các vùng công nghiệp thì các khu đô thị, dân
cư tập trung cũng phát triển. Tương ứng với sự phát triển của công nghiệp và
dịch vụ là sự giảm xuống của khu vực nông thôn. Điều đó có nghĩa là, xu
hướng chuyển dịch của cơ cấu vùng lãnh thổ trong sự nghiệp CNH, HĐH là

25


×