Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Khai thác sản phẩm du lịch văn hóa vùng việt bắc (qua nghiên cứu ở bắc cạn, thái nguyên)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.58 KB, 42 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LƢƠNG THỊ THU HÀ

KHAI THÁC SẢN PHẨM DU LỊCH VĂN HÓA VÙNG VIỆT BẮC
(QUA NGHIÊN CỨU Ở BẮC CẠN, THÁI NGUYÊN)

Chuyên ngành: Du lịch học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Phạm Hùng

HÀ NỘI 2009


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................... 4
CHƢƠNG 1: TÀI NGUYÊN DU LỊCH VĂN HÓA VÙNG VIỆT BẮC
....................................................................................................................... 8
1.1 Một số khái niệm ................................................................................ 8
1.1.1 Vùng Việt Bắc ............................................................................... 8
1.1.1.1 Khái niệm vùng Việt Bắc ........................................................ 8
1.1.1.2 Điều kiện tự nhiên vùng Việt Bắc ......................................... 10
1.1.1.3 Điều kiện lịch sử, xã hội vùng Việt Bắc ................................ 11
1.1.1.4 Đặc điểm văn hóa vùng Việt Bắc.......................................... 13
1.1.2 Tài nguyên du lịch văn hóa ....................................................... 17
1.1.2.1 Khái niệm tài nguyên du lịch văn hóa .................................. 17
1.1.2.2 Các loại tài nguyên du lịch văn hóa ..................................... 18
1.1.3 Sản phẩm du lịch văn hoá ......................................................... 20
1.1.3.1 Khái niệm sản phẩm du lịch ................................................. 20
1.1.3.2 Khái niệm sản phẩm du lịch văn hóa ................................... 21
1.1.3.3 Các loại sản phẩm du lịch văn hóa ...................................... 21


1.2 Giới thiệu khái quát Thái Nguyên, Bắ c Ka ̣n................................. 23
1.2.1 Điều kiện tự nhiên ...................................................................... 23
1.2.2 Điều kiện xã hội, nhân văn ........................................................ 25
1.2.3 Lịch sử hình thành và phát triển Thái Nguyên, Bắ c Kaṇ ........ 27
1.2.3.1 Thái Nguyên .......................................................................... 27
1.2.3.2 Bắc Cạn................................................................................. 28
1.3 Tài nguyên du lịch văn hóa tiêu biểu của Thái Nguyên và Bắc
Cạn .......................................................................................................... 30
1.3.1 Tài nguyên du lịch văn hóa vật thể ........................................... 30
1.3.1.1 Thái Nguyên .......................................................................... 30
1.3.1.2 Bắc Cạn................................................................................. 35

1


1.3.2 Tài nguyên du lịch văn hoá phi vật thểError!

Bookmark

not

defined.
1.3.2.1 Phong tục, tập quán tiêu biểu: Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG KHAI THÁC SẢN PHẨM DU LỊCH
VĂN HÓA TẠI HAI TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ BẮC CẠN ..... Error!
Bookmark not defined.
2.1 Công tác tổ chức, quản lý kinh doanh sản phẩm du lịch văn hóa
của Thái Nguyên và Bắc Cạn.................... Error! Bookmark not defined.
2.2 Nhân lực ngành du lịch Thái Nguyên và Bắc CạnError! Bookmark
not defined.

2.3 Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịchError!

Bookmark

not

defined.
2.4 Quảng bá và xúc tiến du lịch .............. Error! Bookmark not defined.
2.4.1 Các hoạt động xúc tiến như năm du lịch, lễ hội du lịch ....Error!
Bookmark not defined.
2.5 Các sản phẩm du lịch văn hóa ............ Error! Bookmark not defined.
2.5.1 Các sản phẩm du lịch đã được khai thácError! Bookmark not
defined.
2.5.2 Các sản phẩm du lịch văn hóa đã được khai thác tại Thái
Nguyên và Bắc Cạn ................................. Error! Bookmark not defined.
2.6 Thị trƣờng khách và kết quả khai thácError!

Bookmark

not

defined.
Lƣợt ............................................................. Error! Bookmark not defined.
“”.................................................................. Error! Bookmark not defined.
“”.................................................................. Error! Bookmark not defined.
2.7 Nhận xét và đánh giá ........................... Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 3: ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
KHAI THÁC SẢN PHẨM DU LỊCH VĂN HÓA VÙNG VIỆT BẮC
......................................................................... Error! Bookmark not defined.
2



3.1 Những căn cứ, cơ sở đề xuất ............... Error! Bookmark not defined.
3.1.1 Cơ sở lý luận ................................... Error! Bookmark not defined.
3.1.2 Quan điểm, đường lối chính sách chiến lược phát triển ...Error!
Bookmark not defined.
3.1.2.1 Quan điểm bảo tồn và khai thác các tài nguyên du lịch nhân
văn ....................................................... Error! Bookmark not defined.
3.1.2.2 Quan điểm phát triển sản phẩm du lịch văn hoá ........... Error!
Bookmark not defined.
3.1.3 Cơ sở thực tiễn................................ Error! Bookmark not defined.
3.2 Đề xuất giải pháp khai thác sản phẩm du lịch văn hóa vùng Việt
Bắc ............................................................... Error! Bookmark not defined.
3.2.1 Giải pháp xây dựng sản phẩm du lịch văn hoá vùng Việt Bắc
.................................................................. Error! Bookmark not defined.
3.2.1.1 Chun mơn hóa trong nghiên cứu, xây dựng sản phẩm
............................................................. Error! Bookmark not defined.
3.2.1.2 Thúc đẩy hiệu quả của hoạt động triển khai sản phẩm Error!
Bookmark not defined.
3.2.1.3 Đẩy mạnh hoạt động quảng bá xúc tiến bán sản phẩm Error!
Bookmark not defined.
3.2.1.4. Kiểm soát chặt chẽ hoạt động quản lý và khai thác sản phẩm
du lịch văn hoá vùng Việt Bắc ............ Error! Bookmark not defined.
3.2.2 Đầu tư nâng cao chất lượng của cơ sở vật chất kỹ thuật phục
vụ du lịch vùng Việt Bắc ......................... Error! Bookmark not defined.
3.2.2.1 Các khách sạn, nhà nghỉ ......... Error! Bookmark not defined.
3.2.2.2 Các loại hình dịch vụ .............. Error! Bookmark not defined.
3.2.3 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lựcError!

Bookmark


not

defined.
3.2.3.1 Xây dựng chương trình phát triển nguồn nhân lực du lịch
trong doanh nghiệp ............................. Error! Bookmark not defined.
3


3.2.3.2 Hồn thiện cơng tác tuyển dụngError!

Bookmark

not

defined.
3.2.3.3 Nâng cao cơng tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực ......................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN .................................................... Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

4


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Có nhiều định nghĩa về du lịch song nếu quan niệm đi du lịch là đi
để thưởng thức những gì khác biệt với nơi mình sinh sống và làm việc thì
quả thực du lịch văn hóa có vai trị vơ cùng quan trọng. Trong nhiều năm

trở lại đây, khi du lịch ngày càng phát triển, yêu cầu với các sản phẩm du
lịch ngày càng cao thì du lịch văn hóa đã khẳng định sức hút của nó trong
việc đem lại những cảm nhận chân thực nhất về văn hóa vùng miền cho
khách du lịch trên mỗi chặng đường họ đi qua.
Với du khách ở các nước phát triển, khi mọi nhu cầu của họ về vật
chất và giải trí gần như bị bão hịa bởi hệ thống những dịch vụ và tiện ích
của xã hội hiện đại, họ sẽ hướng tới những loại hình giải trí có tính nhân
văn và sâu lắng hơn, trong đó có du lịch văn hóa.
Với các nước đang phát triển, đây là cơ hội cho họ khai thác các tiềm
năng sẵn có để phát triển ngành dịch vụ đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn
trong điều kiện khó cạnh tranh với các nước phát triển về các loại hình du
lịch với xã hội hiện đại như du lịch mua sắm, du lịch giải trí... Ở một mặt
nào đó, phát triển du lịch văn hóa địa phương cịn là điều kiện thúc đẩy
kinh tế địa phương đó phát triển, tạo công ăn việc làm và đảm bảo an sinh
xã hội cho người dân bản địa.
Có thể nói du lịch văn hóa đã và đang là xu hướng kinh doanh cũng
như tiêu dùng của những nhà kinh doanh du lịch và khách du lịch trên toàn
thế giới. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu và cho ra đời những sản phẩm du
lịch văn hóa độc đáo đặc sắc đang trở thành nhiệm vụ trọng tâm của không
chỉ các nhà kinh doanh du lịch, nhà quản lý du lịch mà còn của các nhà
nghiên cứu du lịch.

5


Ở Việt Nam với tài nguyên du lịch nhân văn và tự nhiên vô cùng đa
dạng, bất cứ một loại hình du lịch nào, nếu biết khai thác thì đều có thể trở
thành thế mạnh. Tuy nhiên, nếu xét đến nền văn hóa đậm đà bản sắc của
dân tộc ta thì có thể thấy đây mới chính là nguồn tài nguyên cần đặc biệt
chú trọng khai thác trong bối cảnh như trên.

Nhắc đến Việt Bắc là người ta nghĩ ngay đến một địa danh gắn liền
với những dấu tích đi cùng những chiến công hào hùng của dân tộc trong
lịch sử dựng nước. Vùng Việt Bắc cũng còn là nơi sinh sống của nhiều tộc
người với những sắc thái văn hóa đa dạng mà giàu bản sắc. Đó là những
điều kiện vô cùng thuận lợi cho Việt Bắc phát triển du lịch văn hóa. Trong
phạm vi nghiên cứu giới hạn của Luận văn Thạc sỹ, tác giả đã chọn hai tỉnh
Thái Nguyên và Bắc Cạn.
Bắc Cạn và Thái Nguyên từng được hợp nhất với tên gọi Bắc Thái một tỉnh ở phía đơng bắc Việt Nam, được thành lập từ ngày 21 tháng 4 năm
1965, do hợp nhất hai tỉnh Bắc Cạn với Thái Ngun. Bắc Thái có diện tích
6.503 km² với dân số 1.143.404 người (1993). Từ 6 tháng 11 năm 1996
chia trở lại thành hai tỉnh cũ. Đây là hai tỉnh trung tâm của vùng Việt Bắc.
Hai tỉnh này là nơi còn bảo tồn được nhiều giá trị văn hóa đặc trưng của
Vùng. Hai tỉnh cũng là địa phương có tiếp biến văn hóa vùng và quốc gia
tạo nên những sắc thái văn hóa vừa đa dạng vừa đặc sắc. Riêng Thái
Ngun được coi là Thủ đơ gió ngàn của Chiến Khu Việt Bắc. Nơi đây còn
ghi lại nhiều dấu tích lịch sử gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp của
dân tộc. Thái Nguyên cũng là nơi có Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt
Nam, là điểm lựa chọn tham quan của nhiều khách du lịch khi đến với Việt
Bắc. Trong khi đó Bắc Cạn là một tỉnh giáp với Thái Nguyên, giáp với
nhiều vùng văn hóa và cịn bảo tồn được gần như tồn bộ những nét văn
hóa đặc trưng của các dân tộc tại địa phương nên có những điều kiện giao
lưu, tiếp biến để tạo nên những giá trị văn hóa đặc sắc.

6


Dù có tiềm năng du lịch nhân văn để phát triển các sản phẩm du lịch
văn hóa độc đáo và có sức hút. Tuy nhiên hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Cạn
nói riêng và Việt Bắc nói chung chưa khai thác hết tiềm năng của loại sản
phẩm này. Các sản phẩm du lịch văn hóa đến hai địa phương này rất ít,

kém đa dạng. Thậm chí, những sản phẩm hiện có cũng nghèo nàn, chưa
thực sự đặc sắc và có sức hút. Có nhiều ngun nhân giải thích cho thực
trạng đó mà trước hết đó là do cơ sở hạ tầng chưa cao, nguồn nhân lực chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển của vùng. Bên cạnh đó là rất nhiều nguyên nhân
khác khiến cho những sản phẩm du lịch văn hóa lẽ ra phải là thế mạnh của
vùng Việt Bắc nói chung và hai tỉnh Thái Nguyên, Bắc Cạn nói chung chưa
thực sự phát triển tương xứng.
Để nâng cao hiệu quả sản phẩm du lịch văn hóa vùng Việt Bắc, cho
nên tác giả đã chọn đề tài “Khai thác sản phẩm du lịch văn hóa vùng Việt
Bắc (qua nghiên cứu ở Bắc Cạn, Thái Nguyên)” làm luận văn thạc sĩ của
mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hố các tài nguyên có thể khai thác để phát triển sản
phẩm du lịch văn hoá vùng Việt Bắc
- Đánh giá thực trạng khai thác sản phẩm du lịch văn hoá vùng Việt
Bắc
- Đưa ra một số đề xuất, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả khai
thác sản phẩm du lịch văn hoá vùng Việt Bắc
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Tài nguyên du lịch nhân văn và sản phẩm du lịch văn
hoá vùng Việt Bắc
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu thực tế họat động khai thác sản
phẩm du lịch văn hóa trên địa bàn hai tỉnh Thái Nguyên, Bắc Cạn và tại các
doanh nghiệp lữ hành tại hai tỉnh nói trên và Hà Nội.

7


Phạm vi về thời gian: Số liệu, tài liệu sẽ thu thập từ thời điểm 2005 –
7/2009. Các định hướng phát triển sản phẩm du lịch văn hóa hai tỉnh Thái

Nguyên, Bắc Cạn giai đoạn 2005-2010 và các giải pháp được đưa ra trong
giai đoạn 2005-2010
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp sưu tầm, tổng hợp, phân tích tài liệu
- Phương pháp điền dã
- Phương pháp phỏng vấn
5. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia làm 3 chương.
Chương 1: TÀI NGUYÊN DU LỊCH VĂN HÓA VÙNG VIỆT BẮC
Chương 2: THỰC TRẠNG KHAI THÁC SẢN PHẨM DU LỊCH
VĂN HÓA TẠI HAI TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ BẮC CẠN
Chương 3: ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ KHAI THÁC SẢN PHẨM DU LỊCH VĂN HÓA VÙNG VIỆT BẮC

8


CHƢƠNG 1: TÀI NGUYÊN DU LỊCH VĂN HÓA VÙNG
VIỆT BẮC
1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Vùng Việt Bắc
1.1.1.1 Khái niệm vùng Việt Bắc
Trong tâm thức người dân Việt Nam, Việt Bắc là tên gọi một vùng
đất gắn bó với một thời gian khổ mà oanh liệt của quân và dân ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng: là quê hương cách mạng, là chiến khu, là nơi ghi dấu
bao chiến công anh hùng của quân dân ta. v.v..., như bài thơ Việt Bắc của
nhà thơ Tố Hữu đã mô tả. Việt Bắc là một vùng phía Bắc Hà Nội thời
kháng chiến chống Pháp (1945-1954) bao trùm nhiều tỉnh ở Bắc Bộ. Việt
Bắc cịn được gọi một cách văn hoa là Thủ đơ kháng chiến, bởi đây là nơi

trú đóng của đầu não Đảng Cộng sản Việt Nam thời trước khi khởi nghĩa
năm 1945, và là nơi trú đóng của đầu não Chính phủ Việt Minh trong thời
kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954). Liên khu Việt Bắc là một cấp
hành chính và quân sự, được thành lập ngày 4-11-1949, trên cơ sở hợp nhất
Liên khu 1 và Liên khu 10.
Liên khu Việt Bắc gồm 17 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái
Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Lai Châu,
Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Quảng Yên, Hải
Ninh, Đặc khu Hồng Gai và huyện Mai Đà của tỉnh Hịa Bình. Trung tâm
của vùng là Tuyên Quang. Khi vùng Tây Bắc mới được giải phóng, khu
Tây Bắc được thành lập ngày 28-1-1953, gồm 4 tỉnh Lai Châu, Lào Cai,
Yên Bái và Sơn La, tách khỏi Liên khu Việt Bắc.Với việc thành lập Khu tự
trị Việt Bắc ngày 1-7-1956, Liên khu Việt Bắc chấm dứt sự tồn tại với tư
cách là một đơn vị hành chính. Tuy nhiên, về mặt quân sự, đến tháng 61957, Liên khu Việt Bắc mới được thay thế bằng Quân khu Việt Bắc. Khu
tự trị Việt Bắc ban đầu có 5 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên
9


Quang, Thái Nguyên, sau thêm tỉnh Hà Giang. Khu tự trị Việt Bắc cùng với
khu tự trị Tây Bắc là hai khu vực có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, với
những chính sách đối xử và ưu tiên phát triển riêng cho vùng này.
Khu tự trị Việt Bắc là một đơn vị hành chính cũ của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, tồn tại từ năm 1956 đến năm 1975. Khu tự trị Việt Bắc
được thành lập ngày 1 tháng 7 năm 1956 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hịa. Trước đó, từ năm 1948 đã tồn tại Liên khu Việt Bắc. Khu tự
trị Việt Bắc bao gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên
Quang (trừ huyện Yên Bình), Thái Nguyên (trừ hai huyện Phổ Yên, Phú
Bình) và huyện Hữu Lũng của tỉnh Bắc Giang (nhập vào tỉnh Lạng Sơn).
Huyện Phổ Yên nhập vào tỉnh Vĩnh Phúc, đến 15-6-1957 lại trả về tỉnh
Thái Nguyên (trừ xóm Thơng, xã Thuận Thành nhập vào xã Hồng Kỳ,

huyện Đa Phúc, tỉnh Vĩnh Phúc). Huyện Phú Bình nhập vào tỉnh Bắc
Giang, đến 15-6-1957 lại trả về tỉnh Thái Nguyên. Tỉnh Hà Giang sáp nhập
vào Khu tự trị Việt Bắc ngày 23-3-1959 theo sắc lệnh của Chủ tịch nước.
Hệ thống tổ chức chính quyền Khu tự trị Việt Bắc có 4 cấp: khu, tỉnh, châu,
xã. Xã là đơn vị hành chính cơ sở. Bộ máy chính quyền Khu tự trị gồm có:
Hội đồng nhân dân và Ủy ban Hành chính. Thành phần Hội đồng nhân dân
phải có đủ đại biểu các dân tộc.
Năm 1947, danh từ Việt Bắc xuất hiện để chỉ chung vùng căn cứ
cách mạng, tháng 10-1954, danh từ này lại được dùng để chỉ chung toàn
căn cứ địa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Năm 1956, khu tự
trị Việt Bắc được thành lập gồm 6 tỉnh : Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà
Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Sau này, khu tự trị Việt Bắc giải thể,
danh từ này vẫn tồn tại. Hiện nay, nói tới Việt Bắc là nói tới địa bàn của
sáu tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà
Giang. Tuy nhiên, ranh giới vùng văn hóa Việt Bắc sẽ rộng hơn địa bàn
này. Nghĩa là, nó bao gồm cả phần đồi núi của các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh
Phúc, Bắc Giang và tỉnh Quảng Ninh.
10


Vùng văn hoá Việt Bắc bao gồm địa phận các tỉnh Lạng Sơn, Cao
Bằng, Quảng Ninh, một phần Bắc Thái và phía đơng tỉnh Hồng Liên Sơn.
Các nhà địa lý chia vùng này thành Việt Bắc và Đông Bắc. Tuy nhiên, xem
xét kiến tạo địa chất, cảnh quan địa lý, thế giới động thực vật thì giữa
chúng có sự tương đồng và phần nào đó gần gũi với vùng lưỡng Quảng
nam Trung Quốc. Tuy là vùng đồi núi, kiến tạo địa chất cổ và địa hình ít bị
chia cắt so với vùng Tây Bắc nên từ xưa, giao thông đi lại tương đối thuận
lợi, là vùng cửa ngõ giao lưu giữa đồng bằng Bắc Bộ với Nam Trung Quốc.
Chịu ảnh hưởng rõ rệt của khí hậu gió mùa nên vùng này lạnh nhất nước ta
về mùa đông. Cư dân sinh sống tại vùng Việt Bắc là Tày, Nùng, H’mong,

Dao, Hoa…trong đó người Tày là cư dân bản địa lâu đời, có dân số đơng,
trình độ phát triển kinh tế-xã hội cao, có ảnh hưởng lớn tới các q trình xã
hội, văn hố của các dân tộc ít người khác trong vùng.
1.1.1.2 Điều kiện tự nhiên vùng Việt Bắc
Trên bản đồ, vùng đất này nằm ở những vĩ độ cao nhất, trong các vĩ
tuyến từ 21 độ đến 23 độ vĩ bắc, vì thế, đây là vùng có mơi trường tự nhiên
với dấu hiệu chuyển tiếp từ tự nhiên nhiệt đới sang á nhiệt đới.Thực tế
vùng Việt Bắc, do nằm ở vị trí địa đầu đất nước về phía Đơng Bắc nên Việt
Bắc là vùng đón nhận đầu tiên gió mùa đơng bắc và chịu ảnh hưởng sâu sắc
nhất của nó. Địa hình Việt Bắc có cấu trúc theo kiểu cánh cung tụ lại ở
Tam Đảo, các cánh cung này mở ra ở phía Bắc và đơng Bắc và phần hướng
lồi quay ra biển, thứ tự từ trong ra biển là các cánh cung: sông Gâm, Ngân
Sơn, Yên Lạc, Bắc Sơn và Đơng Triều. Các dãy núi đều thuộc loại có độ
cao trung bình và thấp. Một số núi có độ cao là Tây Côn Lĩnh (2431m),
Kiều Liên Ti (2403m) và Pu Ta Ca (2274m).Tồn vùng có 5 hệ thống sơng
chính : sông Thao, sông Lô, hệ thống các sông Cầu, sông Thương, Lục
Nam; hệ thống các sông này chảy vào Tây Giang và các sông ở miền duyên
hải. Nét đặc trưng của hệ thống sông ở đây là độ dốc lịng sơng lớn, mùa lũ

11


là thời gian dòng chảy mạnh nhất. Mặt khác, trong vùng cịn có nhiều hồ
như hồ Ba Bể, hồ Thang Hen v.v...
1.1.1.3 Điều kiện lịch sử, xã hội vùng Việt Bắc
Cư dân chủ yếu của vùng Việt Bắc là người Tày và Nùng. Ngồi ra
cịn có một số dân tộc ít người khác như Dao, H'mông, Lô Lô, Sán Chay.
Người Tày và người Nùng, thực ra xưa kia là những tộc người có chung
một nguồn gốc lịch sử, cùng thuộc khối Bách Việt. Tên gọi Tày xuất hiện
có thể vào nửa cuối thiên niên kỉ thứ nhất sau công nguyên. Thời các vua

Hùng, liên minh giữa người Âu Việt – tổ tiên của người Tày với người Việt
- những cư dân Lạc Việt cổ là có thực. Thời nước Âu Lạc, liên minh ấy
càng bền chặt hơn. Sự phát triển của liên minh này càng về sau càng gắn bó
chặt chẽ với sự phát triển của nhà nước Đại Việt. Và người dân vùng Việt
Bắc : Tày và Nùng, càng có vai trị quan trọng trong việc gìn giữ biên
cương. Khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đầu công nguyên, người Tày,
Nùng có tham gia vào cuộc khởi nghĩa này. Truyền thuyết và kí ức của cư
dân Việt Bắc còn ghi khá kĩ về tổ tiên họ tham gia khởi nghĩa Hai Bà
Trưng Năm 548, cư dân Việt Bắc lại ủng hộ cuộc khởi nghĩa của Lý Bôn
chống quân nhà Lương.Trong thời tự chủ, vai trò của cư dân Việt Bắc đối
với cuộc chống xâm lược nhà Tống rất quan trọng. Các đội quân của các
thủ lĩnh địa phương tham gia đánh quân xâm lược Tống Trong ba lần
kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông, nhân dân vùng Việt
Bắc lại tích cực tham gia sức người sức của, góp phần vào sự đại thắng của
quân dân Đại Việt. Trong 10 năm kháng chiến chống quân Minh, nhân dân
Tày Nùng đã tham gia rất đông đảo dưới sự lãnh đạo của các thủ lĩnh như
Nơng Văn Lịch, Hồng Thiên Hữu, Nguyễn Văn Hách, Dương Thế Châu
.v..v...Nhà Mạc giành ngôi của nhà Lê, thất thủ ở đống bằng, kéo quân lên
miền núi xây thành, đắp lũy để chống lại nhà Lê. Một số tù trưởng đã đứng
về phía nhà Lê chống lại nhà Mạc. Khi vua Quang Trung chống quân xâm
lược Thanh, người dân Tày - Nùng đã hưởng ứng lời kêu gọi của Quang
12


Trung đứng lên đánh giặc. Người Pháp thiết lập ách cai trị trên đất nước ta,
đồng bào Tày - Nùng đã có những cuộc vận động, tổ chức đánh giặc. Từ
phong trào Cần Vương đến phong trào Việt Nam Quang Phục Hội, người
dân ở đây đều tham gia khá tích cực. Từ sau năm 1940, sau cuộc khởi
nghĩa Bắc Sơn, Việt Bắc đã trở thành khu căn cứ địa của cách mạng Việt
Nam. Thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, Việt Bắc lại trở thành căn

cứ địa kháng chiến chống Pháp ở cả nước.Những năm cả nước chống giặc
Mỹ, người Tày - Nùng lại có những đóng góp rất lớn. Như vậy, trong diễn
trình lịch sử, cư dân Việt Bắc, và chủ yếu là cư dân Tày - Nùng cùng gắn
bó số phận với các dân tộc ở vùng xi. Thời phong kiến, các vương triều
đều có ý thức vun đắp cho sự gắn bó này.Dù hiện tại là hai dân tộc, nhưng
người Tày và người Nùng lại có những nét gần gũi, sự gần gũi giữa họ là
tương đối. Trong quan hệ với văn hóa Hán, người Nùng chịu nhiều ảnh
hưởng của Hán tộc nhiều hơn người Tày, người Tày chịu ảnh hưởng của
văn hóa Việt nhiều hơn. Về phương diện tổ chức xã hội, cư dân Tày - Nùng
chủ yếu sống trong các bản ven đường, cạnh sông suối hay thung lũng. Bản
là đơn vị cơ sở nhỏ nhất. Các gia đình trong bản và các thành viên hợp lại
thành một cộng đồng dân cư và có tổ chức. Nói cách khác, bản là một cơng
xã nông thôn độc lập, lấy đơn vị nhà làm cơ sở. Nét đáng chú ý, bản của
người Tày - Nùng không làm chức năng của một đơn vị sản xuất, mà nó chỉ
là một cộng đồng về mặt xã hội. Sự gắn bó con người và con người về cuộc
sống kinh tế, đời sống văn hóa .v.v... cũng chỉ tồn tại trên ranh giới của
bản. Mọi tổ chức xã hội cao hơn bản đã mất. Từ lâu rồi, trên bản chỉ còn
những thiết chế xã hội như xã, tổng, châu hay huyện, những thiết chế này
thay đổi theo các thể chế chính trị, nhưng bản thì khơng bao giờ thay đổi.
Thành tố cấu thành các bản của người Tày hay người Nùng là những gia
đình phụ quyền thuộc các dịng họ khác nhau, có bản gồm 2,3 họ, có bản
trên dưới 10 họ. Thiết chế dòng họ, với tư cách là lực vận hành xã hội, có
nơi chặt chẽ, có nơi lại lỏng lẻo, nhưng quan hệ giữa những người trong họ
13


vẫn đậm nét. Trong khi đó, quan hệ cộng đồng lại có vai trị quan trọng.
Các bản, dù mới lập hay có từ lâu đều có miếu thờ thổ cơng, mà nhiều nơi
gọi là thổ địa (thổ tị), thành hoàng (thâm trong). Tổ chức xã hội được coi là
chặt chẽ trong các bản của người Tày hay người Nùng là phường, đám ma

mà họ gọi là phe.Đơn vị xã hội nhỏ nhất của người Tày - Nùng là gia đình,
lại là gia đình phụ hệ, chủ gia đình vẫn thường là người cha hay người
chồng, làm chủ toàn bộ tài sản và quyết định mọi cơng việc trong nhà,
ngồi làng. Do vậy, ý thức trọng nam khinh nữ khá đậm trong cộng đồng,
sự phân biệt đối xử còn thấy rõ trong việc phân chia mặt bằng sinh hoạt
trong nhà. Nhà ngồi bao giờ cũng dành riêng cho đàn ơng. Trừ các bà già,
phụ nữ không bao giờ được ở nhà ngồi.
1.1.1.4 Đặc điểm văn hóa vùng Việt Bắc
Tất cả những đặc điểm trên về điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội của
vùng Việt Bắc sẽ tác động đến văn hoá của vùng này. Trước tiên là văn
hoá vật vật thể. Người Tày- Nùng có hai loại nhà chính : nhà sàn và nhà
đất. Nhà sàn là dạng nhà phổ biến, có hai loại nhà sàn, sàn hai mái và sàn
bốn mái. Nêú là nhà sàn bốn mái, hai mái đầu hồi bao giờ cũng thấp hơn
hai mái chính. Cửa có thể mở ở mặt trước hoặc đầu hồi, cầu thang lên
xuống bằng tre, gỗ, nhưng số bực bao giờ cũng lẻ, không dùng bậc chẵn.
Nhà đất là loại nhà xuất hiện ngày càng nhiều, nhưng cũng có rất nhiều
thay đổi so với ngôi nhà sàn về quy mô, kết cấu, bố cục bên trong. ở một số
vùng cịn có loại nhà nửa sàn nửa đất, đây là một loại nhà đặc biệt, vừa
mang tính chất nhà đất vừa mang tính chất nhà sàn. Trang phục của người
Tày- Nùng có tính thống nhất, được phân biệt theo giới tính, địa vị, lứa
tuổi, theo nhóm địa phương. Y phục của nam giới người Tày theo một kiểu,
gồm có áo cánh 4 thân, áo dài 5 thân, khăn đội đầu và giày vải. Chiếc áo 4
thân được cắt may theo kiểu xẻ cao, có hàng cúc vải ở trước ngực, cùng hai
túi. Hàng cúc của áo này bao giờ cũng là 7 cái. Quần của nam giới được
may theo kiểu đũng chéo, cả quần lẫn áo của nam giới Tày được may bằng
14


vải chàm. Về đồ trang sức, họ ít dùng đồ trang sức. Vì vậy, trang phục của
người đàn ơng Tày khá giản dị, khơng có sự trang trí bằng hoa văn. Giữa

nam giới Tày và nam giới Nùng chỉ khác nhau đơi chút về kích thước trong
trang phục. Trong khi đó, trang phục của nữ giới lại đa dạng và phong phú.
Người phụ nữ Nùng chỉ mặc một màu chàm, khác với người phụ nữ Tày
mặc chiếc áo lót trong màu trắng. Y phục nữ Tày - Nùng gồm có áo cánh,
áo dài 5 thân, quấn, thắt lưng, khăn đội đấu, hài vải. Đồ trang sức cũng đơn
giản, ngày trước chị em thường đeo vòng cổ, vòng tay, vòng chân và xà
tích bằng bạc. Chiếc khăn của phụ nữ Tày là khăn vuông, khi lễ tết, họ
buộc thêm chỉ đỏ, xanh quanh vành khăn rồi thắt nút ra phía sau. Phụ nữ
người Nùng có khác đơi chút là họ thường bịt răng vàng, ưa thích đồ trang
sức bằng bạc như vòng chân, vòng tay, vòng cổ, khuyên tai, hoa tai v.v...
Về mặt ăn uống, tùy theo từng tộc người mà cách thức chế biến thức ăn và
khẩu vị của cư dân Việt Bắc có hương vị riêng. Việc chế biến món ăn của
cư dân Tày - Nùng, một mặt có những sáng tạo, một mặt tiếp thu kĩ thuật
chế biến của các tộc lân cận như Hoa, Việt v.v.... Họ chế biến ngô một cách
tinh tế, ngô được giã, hay xay nhỏ để nấu với cơm, làm các loại bánh. Thức
ăn chính là gạo tẻ, nhưng việc chế biến các món ăn từ gạo nếp lại càng
được chú trọng. Trong ngày tết, cốm là món đặc biệt hấp dẫn. Các loại xơi
màu hấp dẫn thường có mặt trong ngày lễ tết của cư dân Tày - Nùng. Thịt
lợn, thịt vịt quay thường được làm cầu kì như thịt lợn quay Lạng Sơn, vịt
quay Thất Khê. Bữa ăn của cư dân Việt Bắc, mang tính bình đẳng, nhân ái.
Tất cả các thành viên trong nhà ăn chung một mâm, khách đến nhà rất được
ưu ái, nể trọng. Điều đáng chú ý là tầng lớp trí thức Tày - Nùng hình thành
từ rất sớm. Đầu tiên là các trí thức dân gian dưới lớp vỏ nghề nghiệp như
thày Mo, Then, Tào, Pụt. Trong thời kì tự chủ, triều đình có quan tâm đến
việc học hành của cư dân Việt Bắc. Nhà Mạc khi chạy lên đóng đơ ở Cao
Bằng ra sức đào tạo tầng lớp nho sĩ, quan lại người Việt chạy lên đây bị
Tày hóa. Do vậy tầng lớp trí thức nho học hình thành, có một số đạt tới
15



trình độ học vấn cao như Bế Văn Phúng, Nơng Quỳnh Văn, Hoàng Đức
Hậu. Khi thực dân Pháp đặt ách cai trị lên toàn quốc, sau này khai thác
thuộc địa lần 1, lần 2, tầng lớp trí thức nho học ít dần, tầng lớp trí thức mới
được đào tạo trong các nhà trường thực dân như các ơng thơng, kí, thầu
phán, giáo học. Một số có lịng u nước, được người dân kính trọng về sau
đã đi theo ánh sáng của Đảng để cứu nước như Hoàng Văn Thụ, Lương
Văn Chi v.v... Trong kháng chiến chống Pháp, nhất là sau ngày hịa bình
lập lại, giáo dục ở Việt Bắc được chú trọng phát triển. Số trường học các
cấp có ở các địa phương ngày càng nhiều. Trong đào tạo, bên cạnh chữ
Quốc ngữ, một số tộc như Tày, H'mông cũng có chữ viết xây dựng trên cơ
sở mẫu chữ Latinh.
Văn hóa phi vật thể: Đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Việt
Bắc có những nét cơ bản giống với các khu vực khác.Về tín ngưỡng tơn
giáo, tín ngưỡng dân gian của cư dân Tày - Nùng hướng niềm tin của con
người tới thần bản mệnh, trời - đất, tổ tiên. Các thần linh của họ rất đa
dạng, có khác là nhiều thần như thần núi, thần sông, thần đất. Ngồi ra lại
có các vua, có Giàng Then, ý thức cộng đồng được củng cố thông qua việc
thờ thần bản mệnh của mường hay của bản. ý thức về gia đình, dịng họ
được, củng cố thơng qua việc thờ phụng tổ tiên. Mỗi gia đình có một bàn
thờ tổ tiên đặt ở vị trí trạng trọng nhất trong nhà. Ngồi ra, trong nhà họ
cịn thờ vua bếp. Diện mạo tơn giáo Việt bắc cũng có những nét khác biệt.
Các tôn giáo như Khổng giáo, Phật giáo, Đạo giáo đều có ảnh hưởng đến
đời sống tâm linh của người dân ở Việt Bắc, chùa thờ Phật ít hơn dưới
đồng bằng, nhưng cũng có những chùa đáng lưu ý, như chùa Hang, chùa úc
Kỳ ở Bắc Thái, chùa Diên Khánh, chùa Vinh Quang, chùa Nhị Thanh, chùa
Tam Thanh ở Lạng Sơn. Tam giáo được cư dân Tày tiếp thu gần giống với
người Việt, nhưng ở mức độ thấp, trong sự kết hợp với các tín ngưỡng vật
linh vốn có từ lâu đời trong dân gian.

16



Về chữ viết, vùng Việt Bắc với người Tày - Nùng, chữ viết trải qua
các giai đoạn: Giai đoạn cổ đại khơng có chữ viết, giai đoạn cận đại có chữ
Nơm, giai đoạn hiện đại, vừa có chữ Nơm, vừa có chữ Latinh. Năm 1960,
Đảng và Nhà nước ta đã giúp người Tày - Nùng xây dựng hệ thống chữ
viết theo lối chữ Quốc ngữ, bằng chữ cái Latinh. Cũng chính vì vậy, nét
đáng chú ý là cư dân Tày - Nùng ở Việt Bắc đã có những nhà văn viết văn
bằng chữ viết dân tộc. Đáng kể là các tác giả như Hồng Đức Hậu, Nơng
Quốc Chấn, Bàn Tài Đồn v.v... Trong khi đó, văn học dân gian Việt Bắc
khá đa dạng về thể loại, phong phú về số lượng tác phẩm, như thành ngữ,
tục ngữ, truyện cổ tích, nói ví, câu đố và đồng dao, dân ca. Riêng dân ca,
loại phong phú là loại khá riêng biệt được viết trên nền giấy vải khá công
phu. Đặc biệt, lời ca giao duyên : lượn coi và lượn lương, là những thể loại
tiêu biểu được các thế hệ trẻ Tày - Nùng ưa chuộng. Lễ hội của cư dân Tày
- Nùng rất phong phú. Ngày hội của toàn cộng đồng là hội Lồng tồng (hội
xuống đồng), diễn ra gồm hai phần: Lễ và hội. Nghi lễ chính là rước thần
đình và thần nơng ra nơi mở hội ở ngồi đồng. Một bữa ăn được tổ chức
ngay tại đây. Phần hội căn bản là các trò chơi như đánh quay, đánh yến,
tung còn, ảo thuật v.v...Như vậy, về bản chất, hội lồng tồng là một sinh
hoạt văn hóa. Nói đến sinh hoạt văn hóa của cư dân vùng Việt Bắc, khơng
thể khơng nói đến sinh hoạt hội chợ ở đây là nơi để trao đổi hàng hóa,
nhưng lại cũng là nơi để nam nữ thanh niên trao duyên, tỏ tình. Người ta đã
từng nói đến một loại sinh hoạt văn hóa hội chợ ở vùng này, và có thể coi
như một sinh hoạt vãn hóa đặc thù của vùng Việt Bắc. Tóm lại, Việt Bắc là
một vùng văn hóa có nhiều đặc thù. Tộc người chủ thể : Tày-Nùng với lịch
sử và văn hóa của họ tạo ra nét đặc thù này. Tuy nhiên, những đặc thù này
khơng phá vỡ tính thống nhất của văn hóa Việt Bắc và văn hố cả nước.
Có rất nhiều quan niệm về vùng văn hóa Việt Bắc và cách xác định
ranh giới vùng văn hóa này. Trong phạm vi đề tài cũng như những tài

liệu mà tác giả thu thập được thì bài viết chỉ tập trung nghiên cứu vùng
17


Việt Bắc với giới hạn là 6 tỉnh: Cao Bằng – Bắc Cạn – Lạng Sơn – Hà
Giang – Tuyên Quang – Thái Nguyên. Trên cơ sở đó Thái Nguyên và
Bắc Cạn được coi là hạt nhân, là trung tâm, cái nôi của chiến khu xưa
với rất nhiều tài nguyên du lịch văn hóa lịch sử cần khai thác như là sản
phẩm đặc trưng của vùng.
1.1.2 Tài nguyên du lịch văn hóa
1.1.2.1 Khái niệm tài nguyên du lịch văn hóa
Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên, văn hoá-lịch sử cùng các
thành phần của chúng được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp hay gián tiếp
hoặc cho việc tạo ra các dịch vụ du lịch, nhằm góp phần khơi phục, phát
triển thể lực, trí lực cũng như khả năng lao động và sức khoẻ con người.
Tài nguyên du lịch nhân văn được hiểu là loại tài nguyên do con người
tạo ra hay có thể hiểu nó là những đối tượng, hiện tượng được tạo ra bởi
con người. Tuy nhiên chỉ có những tài nguyên nhân văn có sức hấp dẫn với
du khách và có thể khai thác phát triển du lịch để tạo ra hiệu quả xã hội,
kinh tế, môi trường mới được gọi là tài nguyên du lịch nhân văn.
Tài nguyên du lịch nhân văn có các đặc điểm sau: Có tác dụng nhận
thức nhiều hơn. Tác dụng giải trí khơng điển hình hoặc chỉ có ý nghĩa thứ
yếu. Việc tìm hiểu các đối tượng nhân tạo thường diễn ra trong thời gian
ngắn. Số người quan tâm tới Tài ngun du lịch nhân văn thường có văn
hố cao hơn, thu nhập và yêu cầu cao hơn. Tài nguyên du lịch nhân văn
thường tập trung ở các điểm quần cư và thành phố lớn. Ưu thế của Tài
nguyên du lịch nhân văn là đại bộ phận khơng có tính mùa vụ (trừ các lễ
hội), không bị phụ thuộc nhiều vào các điều kiện khí hậu và các điều kiện
tự nhiên khác. Sở thích của những người tìm đến Tài nguyên du lịch nhân
văn rất phức tạp và rất khác nhau...

Có thể coi các tài nguyên du lịch nhân văn cũng chính là tài ngun du
lịch văn hóa. Bời về bản chất, tất cả những loại tài nguyên du lịch nhân văn
đều có thể được khai thác cho phát triển du lịch văn hóa. Nếu quan niệm
18


như vậy chúng ta có khái niệm tài nguyên du lịch văn hóa được hiểu như
sau: Tài nguyên du lịch văn hóa gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn
hóa, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các
cơng trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật thể
và phi vật thể khác có thể sử dụng phục vụ mục đích du lịch.
1.1.2.2 Các loại tài nguyên du lịch văn hóa
Di tích lịch sử - văn hố
Di tích lịch sử - văn hóa vẫn thường được quan niệm là tài sản văn hóa
q giá của mỗi đại phương, mỗi dân tộc, mỗi đất nước và của cả nhân loại.
Nó là bằng chứng trung thành, xác thực, cụ thể nhất về đặc điểm văn hóa
của mỗi nước. Ở đó chứa đựng những gì thuộc về truyền thống văn hóa tốt
đẹp, những tinh hoa trí tuệ tài năng, văn hóa nghệ thuật của mỗi quốc gia.
Di tích lịch sử – văn hóa được coi là bộ mặt quá khứ của mỗi dân tộc, mỗi
đất nước.
Còn theo các tác giả trong cuốn Địa lý du lịch, nhà xuất bản Thành
phố Hồ Chí Minh: "Di tích lịch sử – văn hóa là những không gian vật chất
cụ thể, khách thể, trong đó chứa đựng các giá trị điển hình lịch sử, do tập
thể hoặc cá nhân con người hoạt động sáng tạo ra trong lịch sử để lại”.
Theo Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng Di tích lịch sử văn hóa và danh lam
thắng cảnh cơng bố ngày 4/4/1984, Di tích lịch sử văn hóa được quan niệm
như sau: “Di tích lịch sử văn hóa là những cơng trình xây dựng địa điểm,
đồ vật, tài liệu và các tác phẩm nghệ thuật, cũng như có giá trị văn hóa
khác, hoặc liên quan đến các sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hóa –
xã hội”.

Các di tích lịch sử văn hóa được coi là một trong những nguồn tài nguyên
du lịch quan trọng. Đây là nguồn lực hàng đầu để phát triển và mở rộng
hoạt động du lịch văn hóa. Các di tích lịch sử-văn hóa gắn liền với mơi
trường xung quanh đảm bảo sự có mặt sinh động của quá khứ đã nhào nặn
nên chúng và đảm bảo cho khung cảnh cuộc sống sự đa dạng của xã hội.
19


Qua các thời đại, các di tích lịch sử-văn hóa đã chứng minh cho những sáng
tạo to lớn về mặt văn hóa, tơn giáo và xã hội lồi người...
Theo luật Di sản văn hóa của Việt Nam năm 2003:“Di tích lịch sử văn
hóa là những cơng trình xây dựng và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia
thuộc công trình, địa điểm có giá trị – văn hóa và khoa học”
Nghề, làng nghề thủ công truyền thống
Nghề và các làng nghề thủ công truyền thống từ lâu đã trở thành đối
tượng của hoạt động du lịch – nơi người ta hướng tới để khám phá, tìm
hiểu và chiêm nghiệm sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những giá trị vật chất
và giá trị tinh thần một cách hài hòa và sinh động nhất.
Làng nghề được quan niệm: “Làng nghề nông thơn Việt Nam là làng
nghề có trên 30% tổng số dân tham gia sản xuất các sản phẩm phi nông
nghiệp, tổng doanh thu do hoạt động sản xuất các sản phẩm phi nông
nghiệp, tổng doanh thu do hoạt động sản xuất này chiếm trên 50% tổng
doanh thu cả làng”.
Tuy nhiên làng nghề thủ cơng truyền thống có thể được quan niệm:
“Là những làng có các nghề sản xuất hàng hố bằng các công cụ thô sơ và
sức lao động của con người đã được hình thành một thời gian dài trong
lịch sử, nghệ thuật sản xuất hàng hoá được truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác ở trong làng”.
Sản phẩm hàng hố được sản xuất khơng chỉ đáp ứng nhu cầu ở
trong làng mà còn bán ở thị trường trong nước và quốc tế.

Phong tục, lễ hội truyền thống
Theo chúng ta hiểu: Phong tục là những tập quán đã đi đến sự công
nhận của xã hội, được chuẩn mực trong những mức độ nhất định, được coi
như là một phần của luật lệ. Nó ràng buộc hành vi và chi phối cuộc đời các
cá nhân hay cộng đồng, là sự biểu hiện cụ thể bản sắc văn hóa của cộng
đồng đó.

20


Theo từ điển tiếng Việt: “Phong tục là thói quen đã ăn sâu vào đời
sống xã hội, được mọi người cơng nhận và làm theo”.
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hoá tập thể của nhân dân sau
thời gian lao động vất vả. Lễ hội là dịp để mọi người thể hiện lòng nhớ ơn
tổ tiên, những người có cơng với địa phương và với đất nước, có liên quan
tới những nghi lễ tơn giáo, tín ngưỡng, ơn lại những giá trị văn hoá nghệ
thuật truyền thống hoặc hướng về một sự kiện lịch sử văn hoá, kinh tế
trọng đại của địa phương, của đất nước hoặc là những hoạt động vui chơi
giải trí là dịp để tăng thêm tinh thần đồn kết cộng đồng.
“Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng diễn ra trên địa
bàn dân cư trong thời gian và không gian xác định; nhằm nhắc lại một sự
kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại; đồng thời là dịp để biểu hiện cách
ứng xử văn hóa của con người với thiên nhiên – thần thánh và con người
trong xã hội”.
1.1.3 Sản phẩm du lịch văn hoá
1.1.3.1 Khái niệm sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch được hiểu là tập hợp các dịch vụ cần thiết như: lữ
hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thơng tin, hướng dẫn
và các dịch vụ khác thoả mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du
lịch.

Theo Gs.Ts Nguyễn Văn Đính: “Sản phẩm du lịch là các dịch vụ,
hàng hoá cung cấp cho du khách, được tạo nên bởi sự kết hợp của việc
khai thác các yêú tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn lực: cơ sở
vật chất ký thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào
đó”.
Theo Luật du lịch Việt Nam: “Sản phẩm du lịch là tập hợp các
dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi
du lịch” và “dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận

21


chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thơng tin, hướng dẫn và những
dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch”.
1.1.3.2 Khái niệm sản phẩm du lịch văn hóa
Sản phẩm du lịch văn hố là việc khai thác tài nguyên du lịch nhân
văn và các dịch vụ du lịch kèm theo để hình thành các chương trình du lịch,
các dịch vụ du lịch có dấu ấn văn hoá chủ đạo và cơ bản, phù hợp với việc
xây dựng loại hình du lịch văn hố và do đó là sản phẩm trực tiếp từ loại
hình du lịch văn hoá.
1.1.3.3 Các loại sản phẩm du lịch văn hóa
Du lịch tìm hiểu bản sắc văn hố: khách đi tìm hiểu các nền văn
hóa. Mục đích chuyến đi chủ yếu là tìm hiểu, nghiên cứu. Đối tượng khách
thường là các nhà nghiên cứu khoa học, học sinh, sinh viên. Đó là những
chương trình du lịch dã ngoại đến các bản làng dân tộc ít người để khách
tìm hiểu phong tục tập quán, lối sống văn hoá của các dân tộc. Khách sẽ đi
bộ khi tham quan các bản làng và thường nghỉ qua đêm ở địa phương.
Du lịch tham quan văn hố: Đây là loại hình du lịch kết hợp giữa tham
quan với nghiên cứu tìm hiểu văn hóa trong một chuyến đi. Đối tượng tham
gia phong phú gồm cả khách đi vừa để tham quan, vừa để nghiên cứu và

những khách chỉ đi để chiêm ngưỡng, để biết và thoả mãn sự tị mị có thể
theo trào lưu. Do vậy, trong một chuyến đi du khách thường đi đến những
điểm du lịch trong đó vừa có những điểm du lịch văn hố vừa có những
điều du lịch núi du lịch biển, du lịch dã ngoại, săn bắn... Đối tượng khách
là những người vừa phiêu lưu mạo hiểm thích tìm cảm giác mới và chủ yếu
là những người tuổi trẻ.
Du lịch kết hợp giữa tham quan văn hoá với các mục đích khác:
Mục đích chính của khách là đi cơng tác có kết hợp với tham quan văn
hố. Đối tượng là những người đi dự hội thảo, hội nghị, kỷ niệm những
ngày lễ lớn, các cuộc triển lãm...

22


Du lịch văn hố là loại hình du lịch tiềm năng bởi vì nó ít chịu sự phối hợp
của ú tố thời vụ (thời tiết, khí hậu) nhưng nó phụ thuộc vào đặc điểm
nhân khẩu học như giới tính, độ tuổi, trình độ văn hố, nghề nghiệp, tơn
giáo của du khách.
Loại hình du lịch lễ hội: Ở bất cứ thời đại nào, dân tộc nào, vào bất
cứ mùa nào cũng có những ngày lễ hội, lễ hội là tài nguyên có giá trị phục
vụ du lịch rất lớn. Các lễ hội đã tạo nên một môi trường mới, giúp cho
người tham dự có điều kiện tiếp xúc với bí ẩn nguồn khởi mọi sinh vật
sống. Lễ hội dân tộc trở thành dịp cho con người hành hương về với cội rễ,
bản thể của mình. Trong kho báu các di sản của quá khứ để lại cho hôm
nay, các lễ hội dân tộc lành mạng không bị mất đi mà ngày càng được nhân
rộng. phát triển cả về hình thức lẫn nội dung. Các lễ hội có sức hấp dẫn du
khách khơng kém gì các di tích lịch sử-văn hóa. Một số lễ hội thường được
tổ chức tại những di tích lịch sử văn hóa. Điều đó cho phép khai thác tốt
hơn cả di tích và lễ hội vào mục đích du lịch.
Du lịch văn hóa tộc người: Du lịch văn hóa tộc người (du lịch tìm

hiểu đặc trưng văn hóa của các dân tộc) được xác định là một loại hình của
du lịch văn hóa. Trên thế giới hiện nay có nhiều tộc người cùng sinh sống.
Mỗi dân tộc có những điều kiện sống, những đặc điểm văn hóa, phong tục
tập quán, hoạt động sản xuất mang những đặc thái riêng của mình và có địa
bàn cư trú nhất định. Những đặc thù của từng dân tộc có sức hấp dẫn riêng
với khách du lịch. Các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các dân tộc
(đặc biệt là dân tộc thiểu số) là những tài nguyên được khai thác để hoạt
động du lịch. Trong đó, phong tục, tập quán của các dân tộc rất có ý nghĩa
với hoạt động du lịch: các tập tục lạ về cư trú, về tổ chức xã hội, thói quen
ăn uống, cho đến đỉnh cao ẩm thực của mỗi dân tộc, sinh hoạt cộng đồng,
trang phục dân tộc, các nét truyền thống trong quy hoạch cư trú, kiến trúc
cổ. Ngoài ra những phong tục của người dân địa phương như: cưới xin, ma

23


chay, mừng thọ cũng được nhiều khách nước ngoài ưa thích và thật sự có
nhu cầu được hịa nhập.
1.2 Giới thiệu khái quát Thái Nguyên, Bắ c Ka ̣n
1.2.1 Điều kiện tự nhiên
Thái Nguyên là tỉnh miền núi trung du, nằm ở phía Đơng BắcViệt
Nam, cách thủ đơ Hà Nội 80 km và cách sân bay quốc tế Nội Bài 50 km về
phía Bắc. Thái Ngun có địa hình đặc trưng là đồi núi xen kẽ với ruộng
thấp, chủ yếu là núi đá vôi và đồi dạng bát úp. Được thiên nhiên ưu đãi về
khí hậu và đất đai, Thái Ngun có nhiều khả năng để phát triển nơng lâm,
cơng nghiệp, du lịch và các loại hình dịch vụ khác. Nơi đây có khí hậu
nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, được chia làm bốn mùa rõ rệt: xuân - hạ - thu đơng. Tỉnh cũng có hai con sơng chính chảy qua địa phận là sông Cầu ,
sông Công và chịu ảnh hưởng rất lớn về chế độ thuỷ văn của hai con sông
này. Thái Nguyên được đánh giá là tỉnh có trữ lượng than lớn thứ 2 trong
các cả tỉnh thành cả nước bao gồm than mỡ, than đá được phân bố tập trung

ở 2 huyện Đại từ và Phú Lương. Thiên nhiên còn ưu đãi ban tặng cho Thái
Nguyên nhiều phong cảnh, hang động, sông hồ... là những tài nguyên du
lịch sinh thái hấp dẫn khách du lịch như: Hồ Núi Cốc, Chùa Hang, suối
Tiên (Đồng Hỷ), hang Phượng Hoàng, suối Mỏ Gà, thắng cảnh thiên nhiên
Nậm Rứt (Võ Nhai)... nằm trong quần thể dãy núi đá vôi hùng vĩ với muôn
ngàn nhũ đá lung linh, kỳ ảo, hấp dẫn.
Tỉnh Bắc Cạn nằm ở phía bắc, cách thủ đơ Hà Nội 168kmm, là tỉnh
miền núi vùng cao, có diện tích tự nhiên là 4.795,54 km2, dân số 276, 689
người trong đó có 7 dân tộc anh em chung sống trên địa bàn 7 đơn vị hành
chính. Bắc Cạn nằm trên quốc lộ 3, tuyến đường Hà Nội- Cao Bằng, bao
bọc xung quanh Bắc Cạn là các địa phương có tiềm năng du lịch khá phong
phú: Phía Bắc giáp Cao Bằng, phía Đơng giáp Lạng Sơn, Tây giáp Tun
Quang, Nam giáp Thái Nguyên. Bắc Cạn chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới
gió mùa, có nhiệt độ trung bình hàng năm từ 20-22 độ C, trung bình cao
24


×