Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

lý thuyết phát triển xã hội hài hòa và sự vận dụng của đảng cộng sản trung quốc trong công cuộc xây dựng đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.97 KB, 49 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với những thành công từ công cuộc cải cách, mở cửa, nền kinh tế
Trung Quốc đã có những biến đổi sâu sắc. Trung Quốc được cả thế giới nhìn
nhận “…là quốc gia đã từng ở đỉnh cao của văn minh thời cổ đại, đã giậm
chân tại chỗ trong thời kỳ trung cổ đã rơi xuống đáy vực của sự xa sút trong
thời kỳ cận đại, nay đang vươn lên, đạt sức mạnh cạnh tranh với nhiều cường
quốc trên thế giới” [5]. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu Trung Quốc đã trở
thành một cường quốc trên thế giới và có vai trò đặc biệt trong khu vực. Sự
lớn mạnh cả về kinh tế, chính trị, quân sự của Trung Quốc không thể không
khiến cả thế giới phải quan tâm nghiên cứu. Trung Quốc với sức mạnh đó đã
và đang xác lập vị trí của mình trong trường quốc tế và mong muốn khẳng
định mình trở thành một cực trong thế giới đa cực. Trung Hoa đang trở thành
một thực thể lớn mạnh có tầm ảnh hưởng quốc tế to lớn nhất là trong số các
nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Đó cũng là một minh chứng cho sự tồn tại lớn
mạnh của chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI.
Tuy nhiên, sự tăng trường thần kỳ của nền kinh tế Trung Quốc cũng ẩn
chứa trong đó rất nhiều nguy cơ bất ổn xã hội như: sự phát triển không cân
đối giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền; sự trả giá quá lớn đối
với tài nguyên thiên nhiên và môi trường, vấn đề việc làm…Hơn thế nữa, sự
chênh lệch trong phát triển kinh tế - xã hội không đơn thuần là sự đói nghèo,
lạc hậu của một khu vực mà còn là nguyên nhân sâu xa của mọi sự rạn nứt
trong quan hệ xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng. Điều đó đòi hỏi phải có những giải pháp điều hòa lợi ích, giải quyết
mâu thuẫn, ngăn chặn xung đột trong xã hội, đặc biệt giải quyết những vấn đề
liên quan đến lợi ích thiết thực của của nhân dân. Trước thực tế này, trên tinh
thần kế thừa và phát huy tư tưởng “hài hòa” và những chuẩn mực đạo đức
trong xã hội truyền thống, kết hợp với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin với thực tiễn cải cách mở cửa và xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc
1



sắc Trung Quốc, thế hệ lãnh đạo thứ tư của Đảng Cộng sản Trung Quốc hạt
nhân là Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào đã đưa ra mục tiêu “Xây dựng xã hội hài
hòa XHCN” nhằm mục đích tìm ra cách ứng xử phù hợp với con đường hòa
bình cùng tồn tại, đưa đất nước phát triển hài hòa bền vững trên mọi lĩnh vực:
kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội.
“xây dựng xã hội hài hòa XHCN” đã trở thành đề tài nóng bỏng được
thảo luận sôi nổi trong đời sống chính trị của đất nước đông dân nhất thế giới
này. Quá trình xây dựng xã hội hài hòa XHCN của Trung Quốc với những
thành tựu cũng như những tồn tại của nó sẽ là tư liệu có giá trị đối với những
nước khác, trong đó có Việt Nam.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, núi liền núi, sông liền
sông. Trong tiến trình lịch sử đã có nhiều điểm tương đồng về kinh tế - xã hội.
Trong sự nghiệp xây dựng CNXH và công cuộc cải cách, đổi mới hiện nay, cả
hai nước Việt Nam và Trung Quốc đều có thể và nên nghiên cứu, học tập kinh
nghiệm lẫn nhau để cùng xây dựng, phát triển một xã hội phát triển bền vững
trong tương lai tiến lên CNXH và CNCS.
Nhận thức được điều này, bằng việc đọc, tìm hiểu và nghiên cứu tài
liệu, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “lý thuyết phát triển xã hội hài hòa và
sự vận dụng của Đảng Cộng Sản Trung Quốc trong công cuộc xây dựng
đất nước” làm đề tài tiểu luận môn Chính Trị Học Phát Triển. Với tinh thần
nghiên cứu khoa học nghiêm túc và thực sự cầu thị, tiểu luận sẽ góp phần vào
việc tìm hiểu vấn đề rất quan trọng trong nghiên cứu Trung Quốc đương đại là
xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, các sách, các bài viết
về công cuộc cải cách, mở cửa, về chủ nghĩa xã hội hài hòa mang màu sắc
Trung Quốc. Trong đó, đặc biệt là các học giả Trung Quốc và Việt Nam như:
- Luận văn Thạc sĩ: “Xây dựng xã hội hài hoà XHCN ở Trung Quốc một số vấn đề lí luận và thực tiễn” - Nguyễn Thị Yến, bảo vệ năm 2005. Luận
2



văn chủ yếu đi sâu phân tích những đặc trưng cơ bản, mục tiêu, nguyên tắc,
giải pháp, những cơ sở dẫn đến sự hình thành và quá trình triển khai lí luận
“xã hội hài hoà XHCN” ở Trung Quốc. Trong đó, luận văn căn cứ vào những
mục tiêu xây dựng “Xã hội hài hoà XHCN” mà Trung Quốc đã đề ra cho 14
năm (kể từ năm 2006 đến năm 2020), để đưa ra những nhận định về những
thành tựu, cũng như những tồn tại tương ứng ban đầu mà Trung Quốc đã đạt
được. Đồng thời, luận văn bước đầu đã đưa ra một số bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam trong quá trình xây dựng và phát triển xã hội hài hoà, bền vững.
- Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên: “Tìm hiểu tư tưởng cải cách,
mở cửa của Đảng cộng sản Trung Quốc quan các kỳ đại hội XIII, XIV, XV,
XVI”, Phạm Đức Cường (sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền) bảo vệ
năm 2003. Đề tài này cho ta thấy cái nhìn tổng quan và có hệ thống về những
quan điểm của Đảng cộng sản Trung Quốc trong quá trình thực hiện công
cuộc cải cách và mở cửa thông qua việc nghiên cứu và tìm hiểu các văn kiện
Đảng cộng sản Trung Quốc.
- Cuốn “Vấn đề sở hữu và phát triển bền vững ở Việt Nam và Trung
Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI” do PGS.TS Lương Việt Hải (chủ
biên), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008. Nội dung của cuốn sách đề cập
đến những vấn đề lý luận quan trọng trong xây dựng CNXH ở Trung Quốc và
Việt Nam, đó là vấn đề sở hữu và vấn đề phát triển bền vững, trong đó nhiều
vấn đề của CNXH mang đặc sắc Trung Quốc đã được đề cập đến, như lý luận
về kinh tế thị trường XHCN, vấn đề xây dựng xã hội hài hòa, quan điểm phát
triển khoa học
- Cuốn “Chủ nghĩa xã hội từ lý luận đến thực tiễn - những bài học kinh
nghiệm chủ yếu” - Lê Hữu Tầng (chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2003. Đây là công trình có ý nghĩa quan trọng trong việc làm sáng tỏ hơn lý
luận về CNXH, về con đường đi lên CNXH của Việt Nam, cũng như những
vấn đề lý luận đang đặt ra trong thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện

nay. Đặc biệt, cuốn sách đã dành toàn bộ phần thứ hai - “Thực tiễn hiện thực
3


hóa lý luận Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội” - để trình bày sự vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin ở Liên Xô, ở các nước Đông Âu và Trung Quốc trong
khoảng thời gian gần một thế kỷ.
- Gần đây nhất, Viện Nghiên cứu Trung Quốc, thuộc Viện Khoa học xã
hội Việt Nam đã cho xuất bản cuốn “Vấn đề xây dựng xã hội hài hòa xã hội
chủ nghĩa của Trung Quốc” do TS. Hoàng Thế Anh (chủ biên), NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2009. Cuốn sách đã đề cập một cách khá toàn diện về
các nội dung của xã hội hài hòa của Trung Quốc. Trên cơ sở nghiên cứu các
quan điểm đồng thuận và không đồng thuận của các học giả Việt Nam và thế
giới đối với xã hội hài hòa, cuốn sách cũng đưa ra những đánh giá ban đầu về
việc xây dựng xã hội hài hòa của Trung Quốc, về những khó khăn và thuận
lợi của Trung Quốc khi tiến hành xây dựng xã hội hài hòa.
Các công trình nghiên cứu trên là kết quả của tinh thần nghiên cứu
khoa học nghiêm túc và thực sự cầu thị của các học giả trong và ngoài nước
đây được coi là nguồn tài liệu phong phú cho tác giả trong quá trình nghiên
cứu, Tuy nhiên, các công trình, bài viết trên mới chỉ nghiên cứu ở một khía
cạnh nhất định của xã hội hài hòa XHCN. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “lý
thuyết phát triển xã hội hài hòa và sự vận dụng của Đảng Cộng Sản Trung
Quốc trong công cuộc xây dựng đất nước”, nhằm làm rõ cơ sở hình thành
quan niệm cơ bản về xã hội hài hòa, bước đầu hệ thống hóa lý luận và tổng
kết thực tiễn. Từ đó rút ra cái nhìn tổng quát nhất về công cuộc xây dựng xã
hội hài hòa XHCN ở Trung Quốc
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở quan điểm cơ bản của Đảng cộng sản Trung Quốc về xã
dựng xã hội hài hòa XHCN. Đề tài bước đầu cố gắng luận chứng, làm rõ
yếu tố “hài hòa” trong “xã hội hài hòa XHCN”. Từ đó, hệ thống hóa về

mặt lý luận và tổng kết về mặt thực tiễn của việc xây dựng xã hội hài hòa
ở Trung Quốc.
Để đạt được mục tiêu này, tác giả xác định cần thực hiện những nhiệm
vụ nghiên cứu dưới đây:
4


- Tìm hiểu và làm rõ cơ sở hình thành lý thuyết phát triển xã hội hài
hòa XHCN ở Trung Quốc
-Phân tích nội dung cơ bản của lý thuyết phát triển xã hội hài hòa
-Tìm hiểu sự vận dụng lý thuyết phát triển xã hội hài hòa của ĐCS
Trung Quốc trong công cuộc xây dựng đất nước. Từ đó, rút ra ý nghĩa của
việc nghiên cứu.
4. ý nghĩa thực tiễn của tiểu luận
Tiểu luận góp phần phân tích, làm rõ những quan điểm cơ bản về xã hội
hài hòa XHCN. Bước đầu hệ thống hóa về mặt lý luận và thực tiễn của việc
xây dựng xã hội hài hòa XHCN ở Trung Quốc
Đề tài cũng cấp tư liệu tham khảo cho người nghiên cứu chính trị nói
chung và cho những sinh viên chuyên ngành Chính Trị Học nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Tiểu luận sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin: chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử,
đồng thời sử dụng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm của Đảng
Cộng sản Trung Quốc về chủ nghĩa xã hội đặc sắc và xây dựng xã hội hài hòa
xã hội chủ nghĩa.
- Phươg pháp nghiên cứu chung: Vì giới hạn nghiên cứu là những sự
kiện, quá trình diễn ra trong quá khứ - hiện tại – tương lại nên tác giả sử dụng
phương pháp nghiên cứu như: phương pháp logic - lịch sử. Trong quá trình
triển khai tác giả cũng coi trọng sử dụng một cách hợp lý các phương pháp;
phân tích – tổng hợp, trừu tượng hóa…

- Phương pháp cụ thể: Sử dụng phương pháp thu thập, nghiên cứu và
phân tích tài liệu, sắp xếp và tóm tắt tài liệu…Ngoài ra, tác giả còn tiến hành
trao đổi, thảo luận với các thầy cô và các học viên cùng lớp để củng cố, bổ
sung thêm những trí thức quý báu cho việc hoàn thiện tiểu luận của mình.
6. Kết cấu nội dung tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phần phụ lục, tiểu luận có kết cấu gồm 3 chương 8 tiết
5


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH LÝ THUYẾT PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HÀI
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Cơ sở lý luận
Một xã hội hài hòa là mơ ước của nhân loại. Vì vậy, ngay từ xa xưa,
các nhà tư tưởng đã đưa ra rất nhiều quan điểm về “xã hội hài hòa” được biểu
hiện ở những khía cạnh và những hình thức khác nhau. Khi đề xuất tư tưởng
xã hội hài hòa, Đảng cộng sản Trung Quốc đã tiếp thu và kế thừa truyền
thống văn hóa tư tưởng ưu tú của dân tộc Trung Hoa, tiếp thu những thành
quả lý luận trong lịch sử tư tưởng nhân loại, đặc biệt là những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và kết hợp sâu sắc với thực tiễn cải cách mở
cửa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc.
Quan niệm xã hội hài hòa trong văn hóa tư tưởng Trung Quốc
Tiêu biểu là hai học phái tư tưởng lớn trong văn hóa truyền thống
Trung Quốc là Nho gia và Đạo gia đã có không ít những tư tưởng có liên quan
đến “hài hòa xã hội”. Nho gia coi trong xã hội, đề cao đạo đức nhân sinh với
những quy phạm đạo đức “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”, đề xướng khoan hòa
trong xử thế để điều chỉnh quan hệ giữa người với người sao cho con người
và xã hội hài hòa. Khổng tử - người thầy của Nho giáo từng có một câu nổi

tiếng “Quân tử hòa nhi đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa”, được coi là tiêu
chí chuẩn tắc ứng xử của người quân tử, “hòa có nghĩa là hòa hợp trong ứng
xử, đối với mọi người vui vẻ, hòa nhã”. Rộng hơn nữa, Khổng Tử cũng đã
miêu tả một xã hội “đại đồng” mà ở đó đạo lý về công bằng chính nghĩa được
mọi người nghiêm chỉnh chấp hành, đều một lòng vì mục đích chung, chú
trọng tuyển chọn nhân tài, coi trọng chữ tín và hòa mục, xã hội đó, con người
không chỉ phụng dưỡng, thương yêu cha mẹ và người thân của mình, mà còn
quan tâm tới tất cả mọi người trong xã hội.

6


Trong khi đó, Đạo gia coi trọng tự nhiên, đề cao quy luật của tự nhiên
và vũ trụ, hướng tới sự hài hòa giữa con người và tự nhiên. Đạo gia đưa ra
những tư tưởng có giá trị như: “Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp
đạo, đạo pháp tự nhiên” – (Người học ở đất, đất học ở trời, trời học ở đạo,
đạo học ở tự nhiên). Đạo gia yêu cầu con người cần tôn trọng những quy luật
tự nhiên vì đó là những chuẩn mực cao nhất [14]. Như vậy có thể thấy, nếu
Nho gia lấy con người làm trung tâm, yêu cầu con người và xã hội hài hòa thì
Đạo gia lại lấy tự nhiên làm trung tâm, đòi hỏi con người và tự nhiên phải hài
hòa. Hai học phái này kết hợp lại bổ sung cho nhau tạo thành quan điểm phát
triển đặc trưng của văn hóa truyền thống Trung Hoa, bao quát mối quan hệ
giữa người với người và giữa người với tự nhiên [15]. Ngoài ra, Mặc Tử từng
đề xuất một xã hội “kiêm ái”, xã hội mà tình thương bình đẳng và phổ cập.
Người lãnh đạo phong trào Thái Bình Thiên Quốc – Hồng Tú Toàn đã từng
muốn thiết lập một xã hội “Thiên hạ cộng hưởng”, xã hội “có ruộng cùng
cày, có cơm cùng ăn, có áo cùng mặc, có tiền cùng dùng, không ai không no
ấm”, hay Khang Hữu Vi trong “Đại đồng thư” cũng đề xuất một xã hội lý
tưởng “người người ai cũng yêu thương nhau, ai cũng bình đẳng, thiên hạ
công bằng”.

Hài hòa theo quan niệm của chủ nghĩa xã hội không tưởng
Khái niệm “xã hội hài hòa” do các nhà tư tưởng của chủ nghĩa không
tưởng Pháp đưa ra hồi thế kỷ thứ XIX. Đ.Xanh Xi Mông và S.Phu Ri Ê đã
nói tới “chế độ hài hòa” để phê phán “chế độ văn minh” TBCN. Trong bối
cảnh xã hội đang phải đối mặt với những mâu thuẫn và bất ổn nảy sinh từ quá
trình tích lũy tư bản, các nhà tư tưởng này đã đưa ra ý tưởng về một “chế độ
xã hội hài hòa nhất, hòa mỹ nhất”. Đ. Xanh Xi Mông chủ trương xây dựng xã
hội mới. Xã hội mới theo quan điểm của ông có những đặc trưng sau: Xã hội
được tổ chức như thế nào để mang lại lợi ích cho đa số, muốn vậy phải giải
quyết được vấn đề sở hữu, chế độ sở hữu phải được tổ chức như thế nào để có
lợi nhất cho toàn xã hội về mặt tự nhiên và mặt của cải. Trong xã hội mới mọi
7


người đều phải lao động, lao động được tổ chức thành “hội liên hiệp” nhằm
duy trì sự hoạt động của mọi người một cách có lợi nhất, mọi nhu cầu vật chất
và tinh thần của công dân được thỏa mãn. Trong xã hội mọi người phải đối xử
với nhau như anh em. Còn S.Phu Ri Ê chủ trương xây dựng một xã hội mới –
xã hội hài hòa. Xã hội hài hòa, theo S.Phu Ri Ê có những đặc trưng cơ bản
sau: sản xuất tập thể trong các hiệp hội, tình trạng manh mún bị thủ tiêu, mọi
người trong xã hội đều có quyền lao động, quyền có tư liệu sản xuất để sinh
sống, tình trạng lao động làm thuê bị thủ tiêu, mọi người được tự do và tự
nguyện lao động. Về phân phối sẽ thực hiện phân phối một cách công bằng,
đó là phân phối được kết hợp hài hòa thỏa đáng theo ba yếu tố sản xuất của
mỗi người: tư bản, lao động và tài năng [18]
Xã hội hài hòa trong lý luận Mác–Ăngghen
Xã hội XHCN là một chế độ và hình thái xã hội hoàn toàn mới trong
lịch sử loài người, “hài hòa” là trạng thái xã hội và đặc tính bản chất của xã
hội XHCN, chứ không phải là một chế độ xã hội.
Mặc dù trong hệ thống lý luận Mác – Lênin, các ông không trực tiếp

đưa ra khái niệm “xã hội hài hòa”, nhưng những gì mà các ông miêu tả về
một xã hội chủ nghĩa cộng sản tương lai thì chính là xã hội hài hòa mà Trung
Quốc đang hướng tới.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác và Ph.Ăngghen không trực
tiếp đưa ra thuật ngữ “xã hội hài hài” mà các ông đã sử dụng thuật ngữ “trạng
thái xã hội” để diễn tả sự biến đổi của xã hội. Các ông nói “Sự phát triển của
xã hội loài người là sự phát triển của các “trạng thái xã hội” nói tiếp nhau”.
Đến tác phẩm “Phê phán cương lĩnh GôTa” C.Mác và Ph. Ăngghen một lần
nữa lại bàn về xã hội tương lai. Các ông đã chỉ ra hai giai đoạn (thấp và cao)
và những đặc trưng của xã hội XHCN và XHCS. Theo ý tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen, xã hội tương lai sẽ đập tan bộ máy nhà nước cũ, xóa bỏ chế độ
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, xóa bỏ sự đối lập giai cấp và chênh
lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay,
8


làm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, con người được
phát huy sức sáng tạo và được phát triển toàn diện, hình thành quan hệ hài hòa
giữa con người với con người, con người với tự nhiên. Theo bản thảo viết tay
“Kinh tế học” năm 1884, Mác đã miêu tả về xã hội cộng sản tương lai “ là xã
hội thực sự giải quyết được những mâu thuẫn giữa con người với thế giới tự
nhiên, con người với con người”.
C. Mác và Ph.Ăngghen nhiều lần nhất mạnh, xã hội tương lai là xã hội
phát triển toàn diện tự do của con người, là liên hiệp của những người tự do,
trên thực tế đó chính là mô hình mục tiêu của xã hội hài hòa, bởi lẽ có thể
thúc đẩy sự phát triển toàn diện loài người thực chất chính là một xã hội hài
hòa, tương hỗ và bình đẳng.
Có thể nói trên đây là các bình diện lý luận tạo nên ngọn nguồn tư
tưởng xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Trung
Quốc. Đương nhiên trong các bình diện lý luận này thì quan trọng nhất vẫn là

tư tưởng xã hội hài hòa của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Chủ nghĩa xã hội hài hòa trong tư duy của Đảng Cộng Sản
Trung Quốc
Hội nghị TW 6 khóa XVI của Đảng cộng sản Trung Quốc đã chỉ rõ:
“Hài hòa xã hội là thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc’’ [12]. Đây là sự phát triển và nâng cao nhận thức của ĐCS Trung Quốc
về bản chất của CNXH, cho thấy nhận thức của Trung Quốc về quy luật xây
dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc đã đạt tới tầm cao mới.
Xây dựng xã hội hài hòa là yêu cầu tất yếu của thực tiễn tư tưởng quan
trọng “ba đại diện” và quan điểm phát triển khoa học của ĐCS Trung Quốc.
Hiện nay, xã hội Trung Quốc nhìn tổng thể là hài hòa, nhưng cũng tồn tài
không ít những mâu thuẫn ảnh hưởng đến sự hài hòa xã hội. Những nhân tố
không hài hòa này, hầu hết là những vấn đề liên quan thiết thân đến lợi ích
đông đảo của quần chúng nhân dân, cũng là những vấn đề nổi cộm ảnh hưởng
trực tiếp đến mối quan hệ giữa Đảng và dân. Giải quyết kịp thời và thỏa đáng
9


những vấn đề này, chính là thực hiện tư tưởng quan trọng “ba đại diện” và
quan điểm phát triển khoa học.
Xây dựng xã hội hài hòa XHCN là con đường để củng cố cơ sở xã hội
của Đảng cầm quyền đồng thời để thực hiện những yêu cầu tất yếu của nhiệm
vụ lịch sử của Đảng cầm quyền. Xây dựng xã hội hài hòa XHCN chính là
thực hiện yêu cầu tất yếu của Đảng “cầm quyền vì nhân dân”, là thực hiện tốt,
duy trì tốt, phát triển tốt những lợi ích căn bản của quản đại quần chúng nhân
dân, đó chính là điều kiện để thực hiện nhiệm vụ lịch sử của Đảng.
Quan điểm phát triển khoa học nhấn mạnh phát triển vì con người, toàn
diện, nhịp nhàng và bền vững, đó cũng chính là quy luật cơ bản cần tuân theo
trong xây dựng xã hội hài hòa XHCN. Muốn xây dựng xã hội hài hòa XHCN
cần phải quán triệt thực hiện quan điểm phát triển khoa học, vì mục tiêu của

sự phát triển khoa học là thực hiện sự phát triển hài hòa giữa con người, xã
hội và tự nhiên.
Tóm lại, từ sự kế thừa và phát huy tư tưởng “hài hòa” và những chuẩn
tắc đạo đức trong văn hóa truyền thống, kết hợp nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Trung Quốc trong xây
dựng CNXH và cải cách mở cửa là cơ sở lý luận vững chắc để ĐCS Trung
Quốc đề ra chủ trương “xây dựng xã hội hài hòa XHCN”.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Bối cảnh quốc tế
Dựa trên phân tích bối cảnh quốc tế các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho
rằng những thập niên đầu thế kỷ XXI là thời cơ quan trọng mà Trung Quốc
cần nắm bắt để đẩy nhanh công cuộc hiện đại hóa đất nước, xây dựng CNXH
đặc sắc Trung Quốc, trong đó xây dựng xã hội hài hòa là một nội dung quan
trọng. Nhận định về bối cảnh quốc tế của Trung Quốc dựa trên những cơ sở
sau đây:
Thứ nhất, hòa bình và phát triển vẫn là dòng chảy chủ đạo của thời đại,
song hiện nay thế giới vẫn chưa yên ổn bởi những nhân tố không ổn định vẫn
10


không ngừng tăng lên. Tuy nhiên, chiến tranh thế giới không có khả năng
bùng nổ trong một thời gian dài có thể dự báo được, do đó Trung quốc có
những môi trường quốc tế hòa bình và ổn định để tập trung xây dựng kinh tế,
hiện đại hóa đất nước
Thứ hai, toàn cầu hóa là xu thế tất yếu không thể cưỡng lại. Tuy nhiên
xu thế này diễn ra khá phức tạp. Khoảng cách giữa các quốc gia phát triển và
các quốc gia đang phát triển tiếp tục mở rộng. Trung Quốc đã ra nhập WTO,
tạo điều kiện cho Trung Quốc vốn ngoại tệ, khoa học công nghệ cao và kinh
nghiệm quản lý tiên tiến của các nước phát triển để tiến hành hiện đại hóa đất
nước. Trung Quốc cho rằng, toàn cầu hóa “vừa có họa vừa có phúc” nhưng

“phúc” lớn hơn “họa” và nếu biết cách thì có thể “biến họa thành phúc”
Thứ ba, xu thế đa cực hóa thế giới đã ngày càng rõ nét. Sự nổi lên của
Trung Quốc trong những năm gần đây có ảnh hưởng lớn tới khu vực và thế
giới. Hiện nay Trung Quốc đã có quan hệ đối tác chiến lược với tất cả các
nước lớn trên thế giới, hòa nhập sâu hơn vào hệ thống quốc tế trên các lĩnh
vực an ninh, chính trị, kinh tế…
Thứ tư, khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ. Cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật thế kỷ 20 mà đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin và
công nghệ sinh học có sự phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng sâu sắc hơn bất
cứ cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nào trước đây. Với tính chất toàn cầu
hóa, những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật này đã chắp cánh
cho nhiều thành tựu Trung Quốc trong quá trình cải tiến sức sản xuất, nâng
cao trình độ phát triển
Xuất phát từ nhận định chiếc lược đó, Trung Quốc đã đề ra một kế
hoạch phát triển dài hạn, trong 20 năm đầu thế kỷ XXI “xây dựng toàn
diện xã hội khá giả”, trong đó “xây dựng xã hội hài hòa XHCN” là một
nội dung quan trọng trên con đường xây dựng CNXH đặc sắc Trung
Quốc, nhằm xây dựng Trung Quốc thành một nước XHCN giàu mạnh, dân
chủ, văn minh và hài hòa.
11


Tình hình trong nước
Cùng với quá trình tổng kết kinh nghiệm thực tế từ sau khi cải cách mở
cửa thì nhận thức của ĐCS Trung Quốc về quy luật cầm quyền của Đảng, về
quy luật xây dựng XHCN, quy luật về sự phát triển chung của xã hội loài
người cũng ngày càng thêm sâu sắc, đồng thời lý luận xây dựng CNXH đặc
sắc Trung Quốc cũng không ngừng được hoàn thiện. Đến nay Trung Quốc đã
thực hiện thắng lợi bước thứ nhất là bước thứ hai của chiến lược “ba bước”.
Sức sản xuất, sức mạnh tổng hợp của đất nước, mức sống của người dân đã có

sự tăng trưởng vượt bậc. Bênh cạnh đó bước vào thế kỷ mới, Trung Quốc đã
đạt được những bước đột phá mang tính lịch sử trong sự nghiệp cải cách mở
cửa, bước đầu hình thành thể chế KTTT xã hội chủ nghĩa, cơ bản hình thành
mở cửa đối ngoại với khu vực và thế giới. Những thành tựu đạt được trong
những năm cải cách và phát triển đã tạo ra cơ sở vững vàng về kinh tế, chính
trị và tinh thần để Trung Quốc có thể đẩy nhanh nhịp độ cải cách, hiện đại hóa
đất nước trong bối cảnh quốc tế mới.
Tuy nhiên, quá trình cải cách và phát triển đã dẫn tới sự phân tầng xã
hội và hình thành quan hệ lợi ích giữa các giai tầng xã hội, đòi hỏi phải có
những giải pháp điều hòa lợi ích, giải quyết mâu thuẫn, ngăn chặn xung đột
trong xã hội. Qua quá trình tìm hiểu tư liệu về Trung Quốc từ sau khi cải cách
mở cửa, có thể thấy một số “nhân tố không hài hòa”, đây chính là nguyên
nhân trực tiếp dẫn sự ra đời của lý luận “xã hội hòa hòa XHCN” Trung Quốc,
cụ thể như sau:
- Sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, miền ở Trung Quốc và
chênh lệch lớn trong phân phối thu nhập giữa các tầng lớp dân cư.
+ Sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, miền ở Trung Quốc
Sau cải cách mở cửa, cùng với sự tăng trưởng thần kỳ của nền kinh tế,
Trung Quốc cũng phải đối mặt với một số khó khăn hết sức nan giải, đó là
tình trạng phát triển không cân đối diễn ra giữa các vùng, đặc biệt là sự cách
biệt giữa đồng bằng và miền núi, giữa miền Đông với miền Tây.
12


Từ năm 1980 đến năm 2003, tỷ trọng kinh tế khu vực miền Đông trong
tổng lượng kinh tế của toàn quốc đã tăng từ 50% đến 59%. Khoảng cách
chênh lệch giữa các khu vực hiện vẫn đang mở rộng.
+ Sự chênh lệch lớn trong phân phối thu nhập giữa các tầng lớp dân cư.
Khoảng cách về thu nhập giữa các thành viên trong xã hội liên tục mở
rộng. Trước khi cải cách, tồn tại chủ yếu trong vấn đề phân phối thu nhập của

Trung Quốc là chủ nghĩa bình quân. Trong thời kỳ cải cách, tồn tại này đã bị
phá bỏ, sự thay đổi thu nhập đã kích thích tính tích cực của người dân. Tuy
nhiên, cùng với việc phá bỏ chủ nghĩa bình quân thì lại xuất hiện khoảng cách
về chênh lệch giàu nghèo, đặc biệt là giữa dân cư thành thị và nông thôn.
Ngoài khoảng cách về thu nhập giữa cư dân thành thị và cư dân nông thôn;
giữa cư dân các khu vực khác nhau; giữ người lao động trí óc và lao động
chân tay; giữa các ngành về và các lĩnh vực khác nhau cũng liên tục mở rộng.
Thu nhập giữa các thành viên trong xã hội liên tục mở rộng kéo theo đó
là sự phân cực giàu nghèo giữa các thành viên trong xã hội ngày càng dãn xa.
Trung Quốc là nước có diện tích lớn, dân số đông nền kinh tế phát triển không
đồng đều, do số lượng người nghèo đói còn tương đối lớn. Người nghèo
Trung Quốc chủ yếu bao gồm: người dân ở các vùng ven và người thất
nghiệp, những người nông dân do điều kiện sinh sống sản xuất kém, mỗi khi
gặp thiên tai hoặc tai nạn thì dễ rơi vào tình trạng khó khăn; những người tàn
tật sống dựa vào chính sách hỗ trợ của nhà nước hoặc gia đình, duy trì cuộc
sống ở mức thấp.
- Mâu thuẫn xã hội ngày càng gia tăng.
Cùng với quá trình cải cách mở cửa, các mâu thuẫn lợi ích ngày càng
nổi cộm. Những mâu thuẫn xã hội đa phần là liên quan đến những lợi ích thiết
thân của người dân không được giải quyết hợp lý. Ví dụ như: vấn đề di dời
nhà, trưng dụng đất đai, việc làm, an sinh xã hội…
13


- Môi trường sinh thái ô nhiễm nghiêm trọng
Một trong những mặt trái của phát triển kinh tế thần kỳ Trung Quốc với
mức tăng trưởng xấp xỉ 10%/năm là vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng
nặng nề, ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân và hậu quả tiềm tàng cho nền
kinh tế sau này. Tính trạng ô nhiễm không khí và sự thoái hóa môi trường ở
Trung Quốc đang ngày càng trầm trọng hơn. Nạn ô nhiễm không khí ở đất

nước đông dân nhất hành tinh là nguyên nhân dẫn đến cái chết của 400.000
người mỗi năm tại đây. Còn tình trạng ô nhiễm nước đã khiến mùa màng thất
bát nghiêm trọng. Mỗi năm phí tổn do tình trạng ô nhiễm gây ra chiếm tới 8 –
12% tổng sản phẩm quốc nội của nước này [17].
- Tình trạng tham nhũng.
Hầu hết những vấn đề “không hài hòa” nói trên cho là do sự bất công
của xã hội với nguồn gốc sâu xa xuất phát từ nạn tham nhũng của các quan
chức. Vì vậy, chìa khóa để xây dựng một xã hội hài hòa là khôi phục công
bằng xã hội. Nhưng công bằng xã hội sẽ không thể được khôi phục nếu không
triệt tận gốc nạn tham nhũng. Điều này có ý nghĩa quyết định đối với sự lãnh
đạo của ĐCS Trung Quốc. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào từng nói, Đảng và Nhà
nước chúng ta sẽ diệt vong nếu nạn tham nhũng trong các quan chức không
được ngăn chặn có hiệu quả.
Tại Trung Quốc, tham nhũng hiện đang là vấn đề hết sức nóng bỏng,
trở thành nỗi nhức nhối của toàn xã hội, khi không ít cán bộ tìm cách làm giàu
cho bản thân bằng những biện pháp bất chính trong quá trình cải cách mở cửa
gần 30 năm qua. Các nhà nghiên cứu thuộc Bộ Thương mại Trung Quốc ước
tính trong vòng 10 năm qua có khoảng 4.000 quan chức của Trung Quốc
trong các doanh nghiệp nhà nước có liên quan đến các vụ tham nhũng và
chuyển 50 triệu USD ra khỏi nước này.
Tham nhũng diễn ra ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề, đặc biệt là trong
ngành xây dựng cơ bản. Nó cũng xuất hiện trong mọi cấp lãnh đạo, mọi tổ
chức cá nhân quyền lực và tài chính, từ cán bộ TW đến cán bộ làng xã, đặc
14


biệt là những người làm công tác pháp luật, lĩnh vực được coi là thành trì bảo
vệ luật pháp và công bằng xã hội. Nguyên nhân của những vụ tham nhũng ở
Trung Quốc ngày càng đa dạng phức tạp, liên quan đến tiền bạc chức quyền,
đạo đức với những thủ đoạn ngày càng tinh vi.

Tóm lại, Xây dựng xã hội hài hòa XHCN, là sự phát triển và nâng cao
nhận thức của Đảng cộng sản Trung Quốc về bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Là sản phẩm của sự kết hợp giữa những quan điểm của các nhà tư tưởng đông
tây với quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và hoàn cảnh thực tiễn cụ thể của
Trung Quốc. Cũng cần nhấn mạnh rằng, xây dựng xã hội hài hòa XHCN là một
phần trong quá trình xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc, xây dựng xã hội toàn
diện khá giả. Chủ trương xây dựng “xã hội hài hòa” là hoàn toàn phù hợp với sự
phát triển của lịch sử và nguyện vọng của nhân dân Trung Quốc.

15


Chương 2
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LÝ THUYẾT PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HÀI HÒA
2.1. Khái niệm “Xã hội hài hòa”
Theo Đại từ điển Tiếng Việt (Nguyễn Như Ý – chủ biên): “Hài hòa là
tính từ chỉ sự cân đối, đồng đều”
Có tác giả cho rằng, “hài hoà” ở đây là chỉ các sự vật khác nhau, các
bộ phận khác nhau của sự vật, các thành phần khác nhau cùng tồn tại cộng
sinh bên cạnh nhau một cách hoà bình, nhịp nhàng
Xét từ khía cạnh triết học, xã hội hài hoà là xã hội ở trạng thái tồn tại
và phát triển cân đối, điều hòa giữa các mặt của đời sống xã hội, giữa các cộng
đồng dân cư, giữa con người với tự nhiên, là giai đoạn lý tưởng và hình thức
hoàn mỹ của sự phát triển trong sự thống nhất của các mặt đối lập.
Tác giả Trung Quốc Dương Quốc Học đã viết: ““Hài hoà” trong xã
hội hài hoà là sự phát triển kết hợp của nhiều nhân tố xã hội, nó biểu hiện ở
kinh tế, chính trị, văn hoá... Xã hội hài hoà là xã hội ổn định có trật tự...
Nhưng ổn định ở đây là một loại ổn định tương đối và một loại ổn định không
ngừng phát triển” [6]. Như vậy, hài hoà trước hết là sự ổn định, song không
phải là sự ổn định chết cứng mà là ổn định để phát triển.

Về “Xã hội hài hòa XHCN” là một khái niệm hoàn toàn mới, có nội
hàm khoa học hết sức phong phú. Đề tài này, đã thu hút sự quan tâm của các
nhà nghiên cứu, các nhà khoa học nhằm tìm ra những điểm mới và đặc sắc về
xã hội hài hòa.
Trong bài “Về công cuộc xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa ở
Trung Quốc” tác giả Van Sjao Vet đã bước đầu tìm hiểu và đưa ra khái niệm
về “Xã hội hài hòa XHCN”. Theo tác giả khái niệm “xã hội hài hòa XHCN”
bao gồm: Thứ nhất, các quan hệ hài hòa giữa thành thị và nông thôn; Thứ
hai,các quan hệ hài hòa giữa các vùng; Thứ ba, các quan hệ hài hòa giữa các
giai cấp, các tầng lớp xã hội và các nhóm dân cư; Thứ tư, các quan hệ hài hòa
trong lĩnh vực bố trí công việc; Thứ năm, sự hài hòa trong cơ cấu dân số theo
16


lứa tuổi và giới tính. Cùng với đó, tác giả đã chỉ ra sự hài hòa về mặt xã hội
đặc trưng bởi các đặc điểm: Sự hài hòa về mặt xã hội dựa trên sự sung túc vật
chất; Xã hội hài hòa phải kích thích phát triển tất cả các mặt của đời sống con
người; Xã hội hài hòa đặc trưng không chỉ bởi sự hài hòa bên ngoài trong lợi
ích của các tầng lớp xã hội khác nhau mà cả sự hài hòa sâu sắc trong các giá
trị cuộc sống [19]
Bên cạnh đó, còn rất nhiều những quan điểm khác nhau của các học giả
khác về xã hội hài hòa. Nhưng tựu chung tại, chúng ta có thể hiểu khái niệm
“Xã hội hài hòa XHCN” bao gồm có hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng, Xã hội hài hòa là xã hội có kết cấu giữa các bộ phận,
các yếu tố gắn kết làm một, cùng vận hành nhịp nhàng. Thực ra, hài hòa trên
những phương diện lớn bao gồm bốn mặt, đó là: hài hòa trong bản thân con
người, hài hòa giữa con người với tự nhiên, hài hòa giữa con người với xã hội
và hài hòa giữa các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Theo nghĩa hẹp, xã hội hài hòa chỉ là sự hài hòa trong bản thân các tầng
diện xã hội, nghĩa là sự hài hòa phải hiện diện trong từng lĩnh vực của đời

sống cũng như trong mỗi con người và sự hài hòa đó phải mang tính chất
XHCN. Ví dụ như trong phát triển kinh tế phải hưởng tới phát triển hài hòa
giữa thành thị và nông thôn, rút ngắn khoảng cách phân hóa giàu nghèo, giải
quyết công bằng xã hội và tạo thêm việc làm, tăng cường chống tham nhũng,
phát triển hài hòa mới môi trường, tự nhiên và tài nguyên
Hiện nay “Xã hội hài hòa XHCN” mà Đảng cộng sản Trung Quốc đề
ra và theo đuổi là một xã hội hài hòa XHCN theo nghĩa hẹp.
Thuật ngữ “xã hội hài hòa XHCN” chính thức xuất hiện lần đầu tiên tại
Hội nghị TW 4 khóa XVI ngày 19 tháng 9 năm 2004 mà người nêu ra là Tổng
bí thư, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Hồ Cẩm Đào. Với việc đi sâu nghiên
cứu cấu trúc xã hội của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, cả ba mặt kinh tế, chính trị,
văn hóa là “thể thống nhất ba mặt” (tam vị nhất thể) trước đây, nay lại có
thêm xã hội hài hòa tạo thành “thể thống nhất bốn mặt” (tứ vị nhất thể). Các
17


mặt này có quan hệ tổng thể điều chỉnh hài hòa đồng bộ. Ý tưởng xây dựng “xã
hội hài hòa XHCN” mà Tổng bí thư, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đưa ra ngay lập tức
nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ của các giới trong xã hội Trung Quốc.
2.2. Nội dung cơ bản của phát triển xã hội hài hòa ở Trung Quốc
Ngày 19/02/2005, trong bài phát biểu chính thức tại Hội nghị các lãnh
đạo chủ chốt cấp tỉnh với chủ đề “Nâng cao năng lực xây dựng xã hội hài hòa
XHCN” tổ chức tại trường Đảng TW, Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào lần đầu tiên
trình bày một cách có hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây
dựng xã hội hài hòa XHCN Trung Quốc. Theo đó có thể hình dung xã hội hài
hòa XHCN là một xã hội đạt tới 6 mục tiêu, hay nói cách khác, đó là 6 nội
dung cơ bản của phát triển xã hội hài hòa: Nền chính trị dựa trên pháp luật
dân chủ; Quan hệ xã hội dựa trên nguyên tắc công bằng, bình đẳng; Quan hệ
con người dựa trên tình cảm chân thành hữu ái; Một xã hội tràn đầy sức
sống; Một xã hội ổn định và trật tự; con người và thiên nhiên sống hài hòa.

2.2.1. Dân chủ pháp trị
Dân chủ pháp trị là phát huy dân chủ XHCN, thực hiện quản lý đất
nước theo pháp luật, điều động rộng rãi các nhân tố tích cực [16]
Dân chủ pháp trị được coi là cơ sở và đảm bảo chính trị của xây dựng
xã hội hài hòa XHCN, nói cách khác đây chính là phương châm cơ bản: dựa
vào pháp luật để trị nước, phát huy dân chủ XHCN. Nguồn gốc của từ “dân
chủ” là “sự thống trị của đại đa số người”. Tất nhiên không thể hiểu “sự thống
trị của đại đa số người” là ai cũng thống trị, nhưng “dân chủ” là nhất thiết
phải tôn trọng và thể hiện ý nguyện của đại đa số người dân. Chỉ có như vậy
mới phát huy được tính tích cực, tính chủ động và tính sáng tạo của quần
chúng nhân dân trên tất cả các phương diện và dân chủ XHCN là thể hiện ý
chí của tuyệt đại đa số nhân dân. Hội nghị TW 4 ĐCS Trung Quốc khóa XVI
cũng lại nhấn mạnh, cần thúc đẩy chế độ hóa, quy phạm hóa và trình tự hóa
dân chủ XHCN, đảm bảo người dân được làm chủ đất nước.

18


Để thực hiện được điều này cần: phát huy cao độ dân chủ XHCN bởi
dân chủ là yêu cầu bản chất của CNXH; thực hiện quản lý đất nước theo phát
luật; kiên trì và hoàn thiện các chế độ của dân chủ XHCN, làm phong phú các
hình thức dân chủ, mở rộng sự tham gia có trật tự của công dân trong lĩnh vực
chính trị, bảo đảm những người thực hiện quyền tuyển cử, quyết sách, quản
lý và giám sát theo phát luật, khiến cho người dân càng ngày có tiếng nói
trong xã hội.
“Dân chủ pháp trị” được coi là cơ sở chính trị của xã hội hài hòa
XHCN. Nếu không có dân chủ sẽ không có hài hòa, có dân chủ mới làm cho
mọi người thoải mái, thúc đẩy tính tích cực của mọi người, để thực hiện xã
hội hài hòa. Chức năng của pháp luật là bảo vệ và thúc đẩy dân chủ, không có
pháp trị sẽ không có hài hòa.

2.2.2. Công bằng chính nghĩa
Công bằng chính nghĩa là quan hệ lợi ích các mặt xã hội được xử lý hài
hòa, những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân và xã hội được xử lý thỏa đáng,
công bằng, chính nghĩa trong xã hội được bảo vệ và thực hiện [16].
Về vấn đề công bằng trong xã hội, trước đây Khổng Tử đã có luận điểm
nổi tiếng: “Không sợ nghèo mà chỉ lo không đều, không sợ ít mà chỉ sợ bất
ổn” [50]. Đến nay, trong thời đại kinh tế thị trường, luận điểm của ông vẫn
còn nguyên giá trị. “Công bằng chính nghĩa” được coi là mục tiêu giá trị của
xã hội hài hòa XHCN. Nếu TBCN đề cao hiệu quả, thì XHCN đề cao công bằng,
chưa có công bằng thì chưa bàn được về XHCN. Công bằng bao gồm: phân phối
kinh tế công bằng, đời sống xã hội công bằng, cơ hội cũng công bằng, quá trình
thực hiện phải công bằng, kết quả đánh giá cũng phải công bằng. Còn “chính
nghĩa” là một giá trị để định giá, để phán đoán. Nhận thức đúng được sự nghiệp
chính nghĩa, mọi người sẽ đem hết sức mình để phấn đấu [8].
Thúc đẩy công bằng chính nghĩa là cơ sở quan trọng để xây dựng xã
hội hài hòa XHCN. Nội dung cụ thể và nguyên tắc cơ bản của công bằng
chính nghĩa bao gồm 4 nguyên tắc liên hệ tương hỗ bổ sung cho nhau:
19


Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm quyền lợi cơ bản, đó là quyền được
sống, quyền được hưởng các quyền lợi đảm bảo xã hội, quyền được hưởng
thụ nền giáo dục…
Thứ hai, nguyên tắc cơ hội bình đẳng. Hay nói cách khác, đó là đảm
bảo mỗi thành viên trong xã hội có cơ hội phát triển bình đẳng, đó cũng là cơ
hội phát huy cao một cách tối đa năng lực của mỗi người.
Thứ ba, nguyên tắc phân phối thu nhập dựa trên cơ sở sự cống hiến của
mỗi cá nhân, hay nói cách khác là căn cứ vào sự cống hiến của mỗi cá nhân
để phân hóa thu nhập, từ đó điều động những nhân tố tích cực trong xã hội,
khơi dậy sự phát huy năng lực của mọi thành viên và của toàn xã hội.

Thứ tư, nguyên tắc điều tiết xã hội, đặc biệt là điều tiết trong phân phối,
làm cho các thành viên được hưởng thành quả phát triển của xã hội. Trung
Quốc hiện nay và trong một thời gian dài nữa vẫn ở giai đoạn đầu của CNXH,
tình trạng dân số đông, sự phát triển không công bằng giữa các khu vực vẫn
chưa có sự biến đổi căn bản. Do vậy, công bằng trong XHCN ở giai đoạn đầu
chỉ có thể là công bằng tương đối. Hiện nay, đời sống kinh tế xã hội Trung
Quốc nảy sinh nhiều vấn đề nổi cộm: tình trạng phân phối thu nhập không
đồng đều giữa các thành viên trong xã hội; quần chúng nhân dân (đặc biệt là
nông dân mất đất và công nhân thất nghiệp) là người phải gánh chịu những
hậu quả tiêu cực của cải cách mở cửa bởi những sự đền bù không thỏa đáng.
Đối với vấn đề công bằng, cần phải toàn diện phân tích khoa học và tổng hợp
vận dụng các biện pháp chính sách, luật pháp, kinh tế, hành chính đồng thời
kiên trì làm theo pháp luật, xử lý kịp thời, hợp lý, áp dụng các biện pháp giáo
dục, hiệp thương, điều hòa để giải quyết trên tất cả các tầng diện xã hội. Đối
với vấn đề khoảng cách thu nhập, cần dựa trên cơ sở phát triển kinh tế, thông
qua cải cách chế độ thuế, tăng cường chi phí công cộng hoặc các biện pháp
gia tăng chuyển dịch chi thu, điều chỉnh hợp lý phân phối thu nhập để giải
quyết, làm cho toàn thể nhân dân đều được hưởng thành quả của công cuộc
cải cách và xây dựng hiện đại hóa xã hội.
20


2.2.3. Tin tưởng và thương yêu lẫn nhau (Thành tín hữu ái)
Là tin tưởng, thương yêu lẫn nhau có nghĩa là hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau
trong toàn xã hội, giữ chữ tín, toàn thể nhân dân cùng chung sống bình đẳng,
thương yêu lẫn nhau [16]
Có thể thấy rằng, “Thành tín” là một quy phạm đạo đức quan trọng
trong văn hóa truyền thống Trung Hoa, đòi hỏi mọi người phải thành thật và
giữ chữ tín. Khổng Tử cho rằng, con người mà lời nói trung thành, giữ chưa
tín, hành vi trung hậu thận trọng, thì đi đâu cũng được và “làm người mà

không giữ chữ tín thì không biết người ấy có thể làm việc gì?” [10]. Trong
khi đó, “hữu ái” đòi hỏi mọi người phải có tình thương, giữa cộng đồng không
cùng lợi ích cũng phải cùng tồn tại, cùng chia sẻ và cùng có lợi. “Thành tín
hữu ái” yêu cầu các thành viên trong xã hội tự giác chấp hành những quy tắc
xã hội, những quy định và trật tự công cộng, đó là một đặc trưng quan trọng
và cũng là yêu cầu cơ bản của xã hội hài hòa XHCN.
Xây dựng thế chế đạo đức tư tưởng XHCN thích ứng với kinh tế thị
trường XHCN, hài hòa với pháp luật XHCN và kế thừa truyền thống đạo đức
tốt đẹp của dân tộc Trung Hoa, nhất thiết phải lấy “thành tín hữu ái” làm
trọng. Gần 30 năm cải cách, từng bước hoàn thiện nền KTTT, Trung Quốc đã
phát triển một cách vượt bậc nhưng trong điều kiện KTTT, một số người chạy
theo lợi ích, không từ một thủ đoạn nào, làm hàng giả, lừa đảo không thể gọi
là “thánh tín”. Tiền bạc và quyền lực được không ít người tôn sùng và coi là
nguyên tắc giá trị. Tình trạng tham nhũng trầm trọng dẫn đến những mâu
thuẫn sâu sắc trong xã hội, làm cho sự “thành tín” của chính quyền và xã hội
đều bị thiếu hụt, luân lý gia đình cũng như luân lý dân tộc truyền thống bị suy
thoái nghiêm trọng. Do vậy, trong xã hội hài hòa XHCN, “thành tín” phải là
nền tảng của mọi phạm trù đạo đức của con người, là quy phạm đạo đức cơ
bản của con người, cả trong kinh tế xã hội và trong cuộc sống, là quy phạm
hành xử quan trọng để điều tiết các mối quan hệ, quy phạm trật tự kinh tế xã
hội. Một xã hội không có thành tín, không có đạo đức thì không thể có mối
21


quan hệ hài hòa giữa con người với con người, không thể có trật tự xã hội tốt
đẹp, không thể có sự điều hòa và phát triển nhanh về kinh tế. Hơn nữa, thành
tín là tiền đề và cơ sở cho sự phát triển phồn thịnh của nền KTTT. Từ mọi góc
độ, bản thân nền KTTT thực ra là nền kinh tế tín dụng. Một khi các quan hệ
tín dụng đã không còn, thì nền tảng của KTTT có nguy cơ lung lay, kết quả là
trật tự kinh tế xã hội bị đảo lộn. Do vậy, nền KTTT càng phát triển, càng cần

thành thực và giữ chữ tín. Hơn nữa “thành tín” là mấu chốt của việc xây dựng
văn minh tinh thần XHCN và tạo ra bầu không khí tốt đẹp, tin tưởng lẫn nhau
trong xã hội. Xây dựng văn minh tinh thần XHCN bao gồm xây dựng tư
tưởng đạo đức và xây dựng văn hóa khoa học giáo dục, trong đó xây dựng
thành tín là một nội dung quan trọng trong xây dựng đạo đức XHCN.
Khi toàn xã hội đề xướng và hình thành quan hệ “tin tưởng thương yêu
lẫn nhau”, lúc đó cần phải làm tốt sự nghiệp xây dựng đạo đức, phát triển
rộng rãi công đức xã hội, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức gia đình. Ví như nỗ
lực xây dựng một xã hội công đức lấy những nghi lễ văn minh, lấy giúp người
làm vui, bảo vệ môi trường… là nội dung chủ yếu, ra sức xây dựng đạo đức
nghề nghiệp, lấy trân trọng nghề nghiệp, lấy thành thực giữ chữ tín, làm việc
công bằng, phục vụ quần chúng, cống hiến cho xã hội… làm nội dung quan
trọng; đề xướng xây dựng đạo đức gia đình lấy tôn trọng người già, yêu
thương trẻ em, nam nữ bình đẳng, vợ chồng hòa thuận, hàng xóm đoàn kết
làm nội dung chủ yếu. Đây chính là yêu cầu về một xã hội “thành tín hữu ái”
mà chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã đưa ra.
2.2.4. Tràn đầy sức sống (Sung mãn hoạt lực)
Tràn đầy sức sống có nghĩa là tất cả những nguyện vọng sáng tạo có
lợi cho tiến bộ xã hội được tôn trọng, các hoạt động sáng tạo được ủng hộ, tài
năng sáng tạo được phát huy, những thành quả trong sáng tạo được khẳng
định [16].
Đây là động lực để phát triển xã hội. Xã hội hài hòa là một xã hội có đủ
sức hòa giải những mâu thuẫn, xã hội đó luôn khuyến khích sự phát triển và
22


sáng tạo. Đại hội đảng XVI và hội nghị TW 4 khóa XVI Đảng cộng sản Trung
Quốc đều nhấn mạnh phương châm: toàn diện, triệt để, tôn trọng lao động,
tôn trọng trí thức, trọng dụng nhân tài, tôn trọng sáng tạo, loại bỏ những
chướng ngại, tăng cường sức sáng tạo cho xã hội, tôn trọng tất cả những

nguyện vọng sáng tạo có lợi cho tiến bộ xã hội, sức sống xã hội được khuyến
khích, phát huy năng lực sáng tạo, khẳng định thành quả sáng tạo. Đảng cộng
sản Trung Quốc xác định cần kiên trì phương châm toàn tâm, toàn ý dựa vào
giai cấp công nhân, phát huy sức mạnh của giai cấp công nhân trong đó có
phần tử trí thức và đông đảo nông dân để thúc đẩy lực lượng căn bản kinh tế
xã hội. Bên cạnh đó, Đảng cũng khuyến khích sự đóng góp của những tầng
lớp mới lấy kinh tế phi công hữu và nghề nghiệp tự do làm chủ thể cho sự
phát triển kinh tế xã hội, vừa phải đảm bảo sức sống cho những khu vực phát
triển, những ngành sản xuất chiếm ưu thế và một bộ phận giàu có trước, vừa
phải chú trọng đến những khu vực kém phát triển, những ngành nghề và quần
chúng tương đối nghèo nàn.
Bên cạnh đó, điều động rộng rãi các nhân tố tích cực, không ngừng
tăng cường sức sáng tạo của xã hội và đặc biệt chú trọng quán triệt thực hiện
quan điểm mới về lao động cũng như là một nội dung quan trọng để xây dựng
một xã hội “tràn đầy sức sống”. Đó là quan điểm phải tôn trọng lao động, tôn
trọng vào bảo hộ tất cả những loại hình lao động có lợi cho nhân dân và xã
hội, bảo hộ cho tất cả những thu nhập lao động hợp pháp và thu nhập “phi lao
động hợp pháp”, hình thành cơ chế tạo việc làm và quan niệm tư tưởng thích ứng
với nền kinh tế trong giai đoạn đầu của CNXH và cuối cùng là đoàn kết, cổ vũ
và biểu dương các lực lượng cùng đóng góp cho sự giàu mạnh của tổ quốc.
2.2.5. Ổn định có trật tự (An định hữu tự)
Ổn định trật tự có nghĩa là cơ chế tổ chức xã hội kiện toàn, quản lý xã
hội hoàn thiện, xã hội được giữ ổn định đoàn kết [16].
Điều nay bao gồm hai phương diện: thứ nhất “xã hội hài hòa” phải là
một xã hội ổn định, có nghĩa là xã hội hòa bình, quan hệ giữa người với người
23


hài hòa, tâm lý nhân dân bình an; thứ hai, “xã hội hài hòa” phải là xã hội có
trật tự, có nghĩa là sự vận động các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội phải

tuân theo những điều lệ nhất định. Điều lệ ở đây bao gồm pháp luật, chế độ,
thể chế, cơ chế trật tự và quy phạm.
Thực hiện “ổn định có trật tự” phải dựa vào cơ chế tổ chức quản lý và
quan trọng hơn nữa chính là các thành viên trong xã hội. Do vậy, xã hội hài
hòa phải làm cho người người làm hết năng lực, người người được hưởng hết
lợi ích mà lại chung sống hài hòa với nhau. Hơn nữa, thể hiện “ổn định có
trật tự”, cần nỗ lực làm tốt “người người bình đẳng”, “hòa nhi bất đồng”,
“tạo điều kiện cho nhau cùng có lợi”. Mọi người bình đẳng có nghĩa là sự
bình đẳng trên các phương diện nhân cách, quyền lợi, cơ hội, quy tắc và phân
phối, đây cũng là yêu cầu cơ bản của chế độ XHCN. Xã hội Trung Quốc hiện
đại là xã hội mà cách thành viên bình đẳng nhưng xã hội hài hòa XHCN
Trung Quốc càng cần phải là một xã hội tôn trọng nhân cách độc lập, bảo đảm
những quyền lợi thiết thân của từng thành viên trong xã hội.
2.2.6. Con người chung sống hài hòa với tự nhiên
Con người chung sống hài hòa với tự nhiên có nghĩa là sản xuất phát
triển, đời sống sung túc, môi trường sinh thái tốt [16].
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc xác định, xã hội hài hòa không chỉ là sự
hài hòa giữa con người với con người và sự hài hòa giữa con người với xã
hội, mà xã hội hài hòa XHCN còn là xã hội mà ở đó con người chung sống
hài hòa với tự nhiên.
Môi trường tự nhiên là cơ sở vật chất quan trọng để con người tồn tại
và phát triển, cũng là cơ sở vật chất quan trọng để xây dựng một xã hội hài
hòa. Tuy nhiên, những tài nguyên là giới tự nhiên đem lại cho loài người bao
gồm toàn bộ tài nguyên không thể tái sinh (ví dụ như: tài nguyên khoáng sản)
và một bộ phận tài nguyên có thể tái sinh nhưng mức độ tăng trưởng của nó là
hạn chế. Do đó, trong giai đoạn lịch sử cụ thể, những gì mà giới tự nhiên cung
cấp cho loài người (vật chất để sinh sống và sản xuất, không gian canh tác) là
24



có hạn. Sự tăng lên về nhu cầu của con người cần phải phù hợp với những tài
nguyên mà giới tự nhiên mang lại, sản xuất và tiêu thụ của con người cần phải
dựa trên sự trả giá thấp nhất về môi trường và tài nguyên. Cho nên, duy trì sự
cân bằng cho giới tự nhiên cần thiết được tiến hành đồng thời với việc duy trì
lợi ích của loài người để đảm bảo hệ thống xã hội và hệ thống sinh thái tự
nhiên phát triển nhịp nhàng và bền vững. Sự chung sống hài hòa giữa con
người và tự nhiên sẽ ảnh hưởng tới sự hài hòa của xã hội, là yếu tố quan trọng
để xây dựng một xã hội hài hòa XHCN. Đi theo con đường chung sống hài
hòa giữa con người và tự nhiên, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái, nâng
cao hiệu suất sử dụng tài nguyên chính là một lựa chọn đúng đắn và bền
vững.
Để “con người chung sống hài hòa với tự nhiên”, cần xác lập và thực
hiện theo quan điểm phát triển khoa học, kiên trì những quốc sách cơ bản về
bảo vệ môi trường, thực hiện thống nhất giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi
trường và xây dựng sinh thái, thực hiện đồng thời khai thác và tiết kiệm tài
nguyên, đặt tiết kiệm ở vị trí hàng đầu, tham gia tăng cường xây dựng và bảo
vệ môi trường sinh thái. Trong thời điểm hiện nay, toàn xã hội cần phải nỗ lực
đề xướng xác lập quan điểm “tôn trọng tự nhiên”, nhận thức đúng đắn về tự
nhiên, tôn trọng các quy luật tự nhiên. Bên cạnh đó cần hết sức chú trọng và
tăng cường xử lý ô nhiễm môi trường và xây dựng sinh thái, phát triển một
nền kinh tế tuần hoàn, xây dựng xã hội tiết kiệm.
Trong sáu đặc trưng của xã hội hài hòa, thì năm đặc trưng đầu nói về
mối quan hệ giữa con người với xã hội, đặc trưng thứ sáu là nói về mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên. Sáu đặc trưng này có quan hệ và tác động lẫn
nhau, thể hiện đầy đủ yêu cầu tổng thể của công cuộc xây dựng toàn diện xã
hội hài hòa XHCN, xây dựng CNXH mang đặc sắc Trung Quốc. Sáu đặc
trưng của “xã hội hài hòa XHCN” Trung Quốc cũng cho thấy các nhà lãnh
đạo nước này khéo léo trong việc kế thừa và phát huy gia tài văn hóa, triết học
truyền thống, những giá trị đạo đức, tâm trong trọng của những mối quan hệ
25



×