Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Thực trạng sự vận dụng cơ sở khoa học của quá trình phân công và hiệp tác lao động trong Công ty Khách sạn Du lịch Kim Liên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.25 KB, 15 trang )

Mở bài
Tâm lý học lao động là một môn khoa học chuyên ngành nghiên cứu sự phát sinh, phát
triển và biến đổi của các hiện tượng tâm lý con người trong lao động để tiến hành tổ chức
lao động khoa học, đưa ra các thể chế lao động nhằm sử dụng có hiệu quả người lao động
và mang lại hạn phúc cho họ. Trong các doanh nghiệp để hoạt động sản xuất kinh doanh
đạt được những thành công cần thực hiện công tác phân công và hiệp tác lao động một
cách hiệu quả nhất. Để thực hiện phân công và hiệp tác lao động trước hết ta phải nghiên
cứu phân tích những cơ sở khoa học của quá trình phân công và hiệp tác lao động để thực
hiện được hiệu quả tối ưu nhất.

I.

Cơ sở lý thuyết.
1. Các khái niệm chung về phân công và hiệp tác lao động.
- Phân công lao động là một quá trình tách riêng các loại lao động khác nhau theo một tiêu

thức nhất định trong một điều kiện xác định, mà thực chất là chia quá trình sản xuất –


kinh doanh thành các bộ phận và giao cho mỗi cá nhân phù hợp với năng lực sỏ trường
và đào tạo của họ để tạo tiền đề nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế trong
sản xuất kinh doanh.
- Hiệp tác lao động là một quá trình mà ở đó nhiều người cùng làm việc trong một quá
trình sản xuất, hay ở nhiều quá trình sản xuất khác nhau nhưng có liên hệ mật thiết, chặt
chẽ với nhau để nhằm một mục đích chung.
2. Các hình thức phân công và hiệp tác lao động.
2.1.
Các hình thức phân công.
• Phân công lao động theo chức năng.
Đó là quá trình tách hoạt động chung của doanh nghiệp thành những hoạt động riêng theo
sự khác nhau của chức năng lao động căn cứ vào vị trí, vai trò của từng người lao động


trong doanh nghiệp.
Phân công lao động theo chức năng được chia dựa vào các chức năng sau:
- Dựa vào vai trò của người lao động trong quá trình tham gia hoạt động của doanh nghiệp
gồm lãnh đạo, chuyên gia, nhân viên thực hành kỹ thuật. Lãnh đạo gồm những người
đảm nhận các chức vụ ở các vị trí lãnh đạo trong cơ cấu tổ chức. Bộ máy quản lý trong tổ
chức gồm trưởng, phó, giám đốc, các bộ phận phòn g ban. Chuyên gia bao gồm những
người tốt nghiệp các trường đại học làm các công việc ở các bộ phận phòng ban tài vụ,
phòng kỹ thuật... họ là những người tư vấn tham mưu thiết kế ra các quyết định để trình
các cán bộ lãnh đạo. Nhân viên thwucj hành kỹ thuật bao gồm những người như các nhân
viên đánh máy, văn thư, thư ký, các kỹ thuật viên họ tốt nghiệp các trường trung cấp, cao
đẳng hay quá trình đào tạo trong công việc.
- Dựa vào sự khác nhau về tính chất của các chức năng gồm lao động trực tiếp và lao động
gián tiếp, là những người trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất như công nhân sản
xuất và những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất như lao động quản lý gọi là
lao động gián tiếp.
- Theo sự khác nhau về chức năng: công nhân sản xuất bao gồm những người nằm trong
các bộ phận sản xuất của doanh nghiệp và công nhân không sản xuất như người làm công
tác dịch vị cho quá trình hoạt động sản xuất của doang nghiệp.
• phân công lao động theo công nghệ.
Phân công kinh doanh theo công nghệ là hình thức phân công lao động trong đó tách
riêng các loại công việc khác nhau theo tích chất của quá trình công nghệ thực hiện
chúng. Hình thức phân công này phụ thuộc vào kỹ thuật và công nghệ sản xuất, tùy theo
tính chất và đặc điểm của công cụ lao động và quá trình công nghệ mà nó đề ra những
yêu cầu đối với công nhân về sự hiểu biết kỹ thuật và thời gian lao động.
Trong quá trình phân công theo công nghệ, quá trình sản xuất được chi ra thành các giai
đoạn, các bước công việc.tùy vào mức độ chuyên môn hóa lao động mà phân công lao
động theo công nghệ lại được chia ra thành những hình thức khác nhau.


Phân công lao động theo đối tượng đó là hình thức phân công trong đó một nhóm công

nhân hay một nhóm công nhân thực hiện một tổ hợp các công việc tương đối trọn vẹn,
chuyên chế tạo một sản phẩm hoặc một chi tiết nhất định của sản phẩm.
- Phân công lao động theo bước công nghệ là hình thức phân công trong đó mỗi công nhân
chỉ thực hiện một vài bước công việc trong đó chế tạo sản phẩm hoặc chi tiết nhất định
của sản phẩm.
• Phân công lao động theo mức độ phức tạp của công việc:
Là hình thức phân công lao động trong đó tách riêng các công việc khác nhau tùy theo
tính chất phức tạp của nó. Hình thức phân công lao động này nhằm sử dụng trình độ lành
nghề của công nhân phù hợp với mức độ phức tạp của công việc. Mức độ phức tạp của
cong việc được đánh giá theo ba tiêu thức:
- Mức độ chính xác về công nghệ khác nhau.
- Mức độ chính xác về kỹ thuật khác nhau.
- Mức độ quan trọng khác nhau.
2.2.
Các loại hiệp tác lao động.
Xét về mặt không gian tùy thuộc vào không gian làm việc mà phân chia như sau:
- Hiệp tác lao động trong toàn xí nghiệp
- Hiệp tác lao động trong bộ phận phòng ban, phân xưởng, phân đội.
- Hiệp tác giữa người lao động với nhau trong tổ sản xuất.
-

Xét về mặt thời gian:
Hiệp tác về mặt thời gian tức là sựu tổ chức các ca làm việc trong một ngày đêm. Bố trí
ca làm việc hợp lý là một nội dung của công tác tổ chức lao động trong doanh nghiệp sao
cho hợp lý, phù hợp với yêu cầu công việc và đúng quy định chế độ nghỉ ngơi của người
lao động để đảm bảo dức khỏe cho họ.
1.3 Cơ sở khoa học của quá trình phân công và hiệp tác lao động
1.3.1 Tâm lý học với phân công và hiệp tác lao động
Phân công và hiệp tác lao động trong doanh nghiệp là một trong những nội dung
quan trọng của tổ chức lao động khoa học. Tổ chức lao động khoa học ngày càng đặt ra

những yêu cầu tâm lý đối với con người cao hơn. Do đó, đòi hỏi đối với tâm lý học lao
động phải nghiên cứu sâu sắc sự biến đổi của các hiện tượng tâm lý trong quá trình lao
động để làm cơ sở vững chắc cho tổ chức lao động khoa học. Tâm lý học có vai trò to lớn
đối với phân công và hiệp tác lao động. Vai trò đó thể hiện ở những điểm sau:
 Tâm lý học lao động đã chỉ ra những phát triển của khoa học kĩ thuật đã tác động xấu đến

con người là những gì và đã đưa ra những giải pháp khắc phục nó.


 Tâm lý học lao động đã chỉ ra nhũng giới hạn tâm lý của con người trong lao động để

giúp cho tổ chức quá trình lao động đạt được những tối ưu trong lao động.
 Tâm lý học lao động còn cho thấy những vấn đề về kích thích lao động tạo nên động lực
đẩy hành động con người.
 Tâm lý học lao động còn chỉ ra những đòi hỏi về giá trị lao động, giá trị tinh thần của
cuộc sống giúp cho công tác tổ chức lao động và quản lý sản xuất đạt được hiệu qua cao.
 Tâm lý học lao động còn chỉ ra tác động xấu của môi trường lao động, môi trường tập thể
đến con người để giúp cho hoàn thiện chúng, thỏa mãn những yêu cầu của người lao
động.
 Tâm lý học lao động còn chỉ ra cho tổ chức lao động thấy được các yếu tố tâm lý của sự
phát triển tâm lý, kĩ năng, kĩ xảo lao động và chỉ ra các giải pháp sử dụng họ có hiệu quả
hơn.
Tóm lại, tâm lý học lao động hiện nay thực sự trở thành co sở quan trọng cho tổ
chức lao đông khoa học nói chung và phân công và hiệp tác lao động nói riêng.
1.3.2 Giới hạn tâm lý với phân công và hiệp tác lao động
Xét dưới góc độ tâm lý học, việc phân công lao động sẽ ảnh hưởng đến tính súc tích của
công việc và dẫn đến tính đơn điệu trong lao động.
Tính súc tích của lao động:
Theo quan điểm tâm lý học: tính súc tích của công việc là đặc trưng cơ bản của lao động.
Tính súc tích của lao động phụ thuộc vào:

 Sự đa dạng của công việc
 Sự đa dạng của các phương thức thực hiện công việc
 Sự có mặt của các chức năng mà nó đòi hỏi hoạt động tích cực sáng tạo của con người.

Do sự tiến bộ của kỹ thuật trong thế kỉ qua đã dẫn đến sự phân công lao động và sự
chuyên môn cao tronng lao động. điều đó đã dẫn đến sự súc tích của lao động bị giảm
sút. Khi tính súc tích của lao động bị giảm sút sẽ dẫn đến tính đơn điệu trong lao động.
Tính đơn điệu trong lao động:


Hiện nay có hai quan điểm khác nhau về tính đơn điệu trong lao động: tính đơn điệu là
đặc điểm khách quan của bản thân quá trình lao động. tính đơn điệu là một trạng thái tâm
lý của con người. trạng thái tâm lý này là hậu quả của sự đều đều trong công việc.
Do quan điểm khác nhau về tính đơn điệu nên các nhà tâm lý học tìm đường chống lại
tính đơn điệu theo hai hướng khác nhau: tổ chắc lại quá trình lao động và tìm cách chống
lại tính đơn điệu ở bên ngoài bản thân quá trình lao động.
Tính đơn điệu trong lao động là một hiện tượng tất yếu xảy ra do sự tiến bộ kĩ thuật, đòi
hỏi nhà quản lý phải phân chia nhỏ quá trình lao động, chuyên môn hóa trong lao động.
Tác động của tính đơn điệu đến người lao động:
Các nhà tâm lý học ở các nước cũng có nhiều quan điểm khác nhau:
Một số nhà tâm lý học cho rằng tính đơn điệu trong lao động không có hại đối với người
lao động mà nó là một nhân tố thúc đẩy sự phát triển nhân cách.
Một số khác cho rằng bất kì trường hợp nào tính đơn điệu trong lao động cũng ảnh hưởng
xấu tới người lao động: mất hứng thú đối với công việc, sự mệt nhọc xuất hiện sớm trong
ngày làm việc, cảm giác ngày làm việc dài hơn.
Nhiều nhà tâm lý lại cho rằng việc chia nhỏ quá trình lao động không phải bao giờ cũng
có lợi và không phải bao giờ cũng có hại. nhiều công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý
học đã khẳng định phải xác định giới hạn cho phép của tính đơn điệu đến đâu đến đâu là
có lợi đến đâu là có hại.
Một số biện pháp ngăn ngừa ảnh hưởng xấu của công việc đơn điệu:






Hợp nhất nhiều thao tác ít súc tích thành nhũng thao tác đa dạng, phức tạp hơn.
Luân phiên người lao động làm các thao tác lao động khác nhau.
Thay đổi nhịp độ của các động tác.
Đưa chế độ lao động và nghỉ ngơi có sơ sở khoa học và lao động và sử dụng thể dục
trong lao động sản xuất.

 Sử dụng các phương pháp lao động thẩm mỹ khác nhautrong thời gian lao động sản xuất,

nhất là âm nhạc.
 Nghiên cứu sử dụng các hệ thống khen thưởng vật chất và tinh thần 1 cách chính xác.
Tâm lý học với hiệp tác lao động: bằng quá trình chuyên môn hóa và phân công lao động,
hoạt động lao động quy định việc thiết lập một số quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp giwuax
các thành viên để thực hiện nhiệm vụ sản xuất. ngya cả khi quá trình sản xuất buộc


những người lao động phải làm việc cách xa nhau, không thể tiếp xúc trực tiếp, thì để đạt
được mục tiêu của xí nghiệp, đòi hỏi phải có sự hợp tác lao động.
Tâm lý học với quá trình hiệp tác lao động là mối quan hệ giữa người với người trong
hoạt động lao động, có tác động qua lại đến hành vi của nhau. Những mối quan hệ này do
các yếu tố khách quan (như nhiệm vụ sản xuất và các điều kiện lao động chung) và các
yếu tố chủ quan ( mục đích, động cơ lao động) quy định.
Tùy theo trọng lượng mối quan hệ người – đối tượng lao động, các tiêu chuẩn chính thức
của xí nghiệp và tính động cơ của các quan hệ người – người, có 2 loại quan hệ chính là:
Mối quan hệ chức năng: được quy định bởi các đặc điểm của nhiệm vụ sản xuất, các
phương pháp thực hiện chúng và các quy định chuẩn mực chính thức của xí nghiệp. Mối

quan hệ này luôn tồn tại, nếu không có nó thì nhóm lao động sẽ ngừng vận hành.
Các mối qun hệ xúc cảm – đánh giá: không được quy định trực tiếp bởi các nhiệm vụ sản
xuất và cũng không được xác định trong các quy định, chuẩn mực chính thức nhưng lại
cso ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất. Mối quan hệ này mang tính chất tâm lí nhiều hơn
so với mối quan hệ chức năng. Về nguyên tắc, nó mang tính chất không chính thức,
nhưng lại ảnh hưởng đến cả hiệu quả của các mối quan hệ chính thức.
Tùy theo vị thế của các các nhân trong cấu trúc thứ bậc nhóm, các quan hệ người – người
có thể là: các quan hệ liên nhân cách theo ngành dọc: mối quan hệ giữa các thành viên có
vị thế khác nhau trong cấu trúc thứ bậc của nhóm. Các quan hệ liên nhân cách theo ngành
ngang: mối quan hệ giữa các thành viên cùng có 1 loại vị thế trong cấu trúc thứ bậc của
nhóm.
Căn cứ vào sự lựa chọn lẫn nhau về cảm xúc, các mối quan hệ có thể là thiện cảm, ác
cảm, bàng quan…
Giới hạn tâm lí của người lao động:
Sự hoạt động của con người trong xã hội rất phong phú và đa dạng. Nó không chỉ đóng
khung trong một lĩnh vực lao động trí óc hoặc chân tay, mà thường xuyên có sự kết hợp
chặt chẽ với nhau. Vì vậy việc phân công lao động phải đảm bảo tính chất phong phú của
nội dung, tính hấp dẫn của công việc, bảo đảm các điều kiện để phát huy những khả năng
sáng tạo của con người, phải chú ý đến mặt hình thành khuynh hướng nghề nghiệp của
mỗi người trong lao động.

1.3.3 Đặc điểm tâm lý chung của người lao động


Trong lao động cái tâm lý chung nhất được bộc lộ ra là tính tích cực. tính mục đích, là
những hình ảnh nảy sinh trong đầu con người mà nhờ đó con người xác định được kết
quả hoạt động của mình.
Hoạt đông lao động của con người bao giờ cũng nhằm đạt được một mục đích nhất dịnh
do họ tự đặt ra.
Đối với những công việc đơn điệu, lặp đi lặp lại đều đều, người lao động thường có tâm

lý nhàm chán, mệt mỏi, mất hứng thú trong công việc, có cảm giác ngày làm việc như dài
hơn. Một số kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, thái độ lao động của người lao động phần lớn
phụ thuộc vào tính chất và nội dung của bản thân công việc, và một phần nhỏ được quyết
định bởi những nhân tố nằm ngoài quá trình lao động ( những điều kiện lao động; tiền
lương; các nhân tố sinh hoạt…)
Nhưng mặt khác, người lao động lại có xu hướng chọn những công việc có lương cao,
điều kiện làm việc, cơ chế đãi ngộ tốt, công việc nhàn hạ…. Độ tuổi lao động càng cao
thì nhân cách càng hoàn thiện, có xu hướng suy nghĩ chín chắn, sống và làm việc có trách
nhiệm hơn. Người lao động có hứng thú mạnh mẽ và ổn định đối với nghè nghiệp sẽ ít
gặp sự cố và tai nạn lao động so với những người không thích nghề hoặc hoàn toàn
không hứng thú với công việc.
Người có vịt rí cao trong tổ chức thường có ý thức trách nhiệm hơn trong hoạt động lao
động; người có vị trí và vai trò thấp thường có tính ỷ nại, ý thức trách nhiệm thường
không ổn định.
Bản sắc của lao động nam là logic, hợp lý, năng động, bạo gan, sử dụng chiến lược, độc
lập, thích cạnh tranh, là người dẫn đường và quyết định. Bản sắc của lao động nuwxlaf
trực giác, tình cảm, phục tùng, khả năng nhận xét người khác ,tự phát, tính mẫu tử, hợp
tác, người ủng hộ và đệ tử trung thành.
1.4. Mối liên hệ giữa phân công và hợp tác lao động với các hoạt động khác trong
doanh nghiệp.
Phân công và hợp tác lao động gắn liền với mọi chức năng và hoạt động trong
doanh nghiệp, bởi thực chất của phân công lao động là việc chia nhỏ một công việc
chung của doanh nghiệp thành những phần nhỏ để giao cho các bộ phận, các phòng ban
và từng người lao động thực hiện, còn hợp tác lao động là việc phân phối công việc giữa
các bộ phận, phòng ban và người lao động với nhau để đtạ được công việc chung của
doanh nghiệp. Nhưng dưới góc độ phân công và hiệp tác lao động hợp lý để nâng cao


năng suất lao động và hiệu quả công tác thì mối quan hệ của phân công và hiệp tác lao
động chỉ được xem xét với những hoạt động tổ chức nguồn nhân lực trong tổ chức.

Trước hết phân công và hiệp tác lao động có liên quan chặt chẽ với phân tích công
vệc thu được đó là bản mô tả công việc và yêu cầu đối với người thực hiện, danh mục
nghề nghiệp của doanh nghiệp để dựa vào đó để phân công công việc cho từng người,
từng nhóm người và từng bộ phận phối hợp với nhau.
Để phân công lao động được đúng như yêu cầu của công việc đòi hỏi phải làm tốt
được công tác tuyển dụng, tuyển được những người có đủ khả năng đáp ứng được với
yêu cầu của công việc, có ý thức đạo đức tốt để thực hiện công việc và phối hợp cùng nỗ
lực lao động vì mục tiêu chung của doanh nghiệp.
Phân công hiệp tác với đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Trong doanh nghiệp không bao giờ có đầy đủ những con người có thể đáp ứng
được với yêu cầu công việc, hay vì yêu cầu của việc sản xuất kinh doanh làm biến đổi,
dòng nhân lực cũng thay đổi theo thời gian vì thế cần phải đào tạo để đáp ứng yêu cầu
của doanh nghiệp cũng như nhu cầu của mỗi cá nhân. Việc đào tạo theo hướng giáo dục
để người lao động có được những quan điểm, thái độ tốt để phục vụ tốt hay nói cách khác
là người lao đọng có ý thức hiệp tác vì công việc của doanh nghiệp. Còn việc đào tạo về
trình độ kỹ năng thì nhiều khi người lao động đi học do đó phải phân công những người
thay thế khi họ đi học và khi họ trở về sẽ đảm nhiệm những công việc gì.
Ngoài ra phân công hiệp tác lao dộng còn có mối quan hệ với rất nhiều hoạt động
khác như việc kế hoạch hóa nguồn nhân lực giúp cho chúng ta có thể ohaan công hiệp tác
có hiệu quả, phân công hiệp tác với định mức trên cơ sở định mức lao động mà phân
công nhiệm vụ cho từng người hay nhóm thực hiện một nhiệm vụ nào đó.

Thực trạng sự vận dụng cơ sở khoa học của qua trình phân công và
hiệp tác lao động trong Công ty Khách sạn Du lịch Kim Liên.

I.

1.

Giới thiệu chung ( địa điểm, hoạt động kinh doanh)

Công ty Cổ phần Du lịch Kim Liên ngày nay được thành lập năm 1961, tiền thân
là khách sạn Bạch Mai Toạ lạc trên diện tích 3,5ha tại số 5 + 7 phố Đào Duy Anh,
phường Phương Mai, quận Đống Đa, Hà Nội ngay giữa Trung tâm thành phố, với tổng số
9 toà nhà gồm 437 phòng và 5 Nhà hàng. Công ty cổ phần Du lịch Kim Liên có thể phục
vụ hàng nghìn lượt khách ăn, ở cùng lúc. . Năm 1993, Công ty trực thuộc Tổng cục Du
lịch Việt Nam, làm nhiệm vụ kinh doanh khách sạn, lữ hành quốc tế, ăn uống, vui chơi


giải trí, thương mại xuất nhập khẩu, đầu tư ứng dụng công nghệ ... Công ty cổ phần Du
lịch Kim Liên đã được Bác Hồ (2 lần), Bác Tôn Đức Thắng, nguyên Tổng Bí Thư Nông
Đức Mạnh và nhiều vị lãnh đạo cao cấp của Đảng, nhà nước về thăm
1.1.

Lịch sử phát triển và thành tích đạt được
Qua 5 lần đổi tên, khách sạn được đổi tên thành Công ty cổ phần du lịch Kim
Liên (khách sạn Kim Liên) Hệ thống cơ sở vật chất hiện đại, đạt tiêu chuẩn của khu vực.
Đội ngũ nhân viên được đào tạo chuyên nghiệp, nhiệt tình, chu đáo cùng kinh nghiệm 50
năm hoạt động trong lĩnh vực du lịch, khách sạn, nhà hàng. Khách sạn Kim Liên đã dành
được nhiều phần thưởng cao quý. Đặc biệt, năm 2006 Khách sạn Kim Liên vinh dự được
Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng lao động
Các thành tích:
Năm 2000: Huân chương Lao động hạng I cho tập thể công ty
Năm 2001: Huân chương chiến công hạng III cho tập thể công ty.
Năm 2004: Huân chương chiến công hạng II cho tập thể công ty .
Năm 2006: Đơn vị Anh hùng Lao động.
Cờ đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua ngành Du lịch các năm 1998, 1999, 2000, 2001,
2002,2003, 2004, 2005.
Từ năm 1999 đến năm 2005 Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Công ty được Trung ương
Đoàn tặng Bằng khen, năm 2004 được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen.
Với những thành tích dáng tự hào mà khách sạn Kim Liên đã đạt được. Tập thể cán bộ

nhân viên khách sạn sẽ tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp để giữ vững thương hiệu.
Khách sạn Kim Liên luôn là địa chỉ thân thiết, là điểm đến tin cậy của quý khách gần xa

1.2.

Cơ cấu tổ chức
Trên cơ sở tổ chức bộ máy quản lý của Công ty, cùng với việc phân công nhiệm vụ rõ
ràng giữa các phòng ban bộ phận trong Công ty đã giúp Công ty có được một mô hình tổ
chức quản lý khá hiệu quả
Dưới đây là cơ cấu tổ chức của công ty


2.2. Thực trạng vận dụng cơ sở khoa học của quá trình phân công và hiệp tác lao
trong công ty khách sạn du lịch Kim Liên.

a. Phân công hiệp tác với công tác tuyển dụng nhân lực
Để phân công lao động được đúng như yêu cầu của công việc thì đòi hỏi phải làm
tốt công tác tuyển dụng, tuyển được những người có đủ khả năng đáp ứng được với yêu
cầu của công việc, có ý thức đạo đức tốt để thực hiện công việc và phối hợp cùng nỗ lực
lao động vì mục tiêu chung của doanh nghiệp.


Khi tuyển dụng các vị trí trong khách sạn, công ty đã xem xét các công việc và chức danh
đó phải đảm nhiệm để sau khi tuyển dụng được người phù hợp có thể phân công cho họ
các công việc liên quan đến vị trí cần tuyển.
Đối với vị trí quản đốc khách sạn có một số yêu cầu cơ bản sau: là người trực tiếp sản
xuất và chịu trách nhiệm trước giám đốc điều hành khách sạn mọi công việc ở nhà phòng
mình quản lý. Lãnh đạo tốt công tác tư tưởng, giáo dục chính trị, tổ chức thực hiện và
quản lý lao động, kế hoạch sản xuất kinh doanh... của nhà phòng và có nhiệm vụ báo cáo
hoặc đề xuất các hoạt động để thực hiện các mục tiêu trong từng thời gian.

Đối với phó quản đốc cũng các tiêu chí để tuyển dụng tương đối giống với quản đốc
nhưng yêu cầu về kỹ năng hoặc kinh nghiệm sẽ thấp hơn tuy nhiên vẫn đảm bảo được
người phó quản đốc có thể đảm nhận được một số công việc khi quản đốc đi vắng.
Đối với nhân viên phục vụ phòng, do tính chất công việc phục vụ đòi hỏi sự cẩn thận, tỉ
mỉ nên đa số lao động được tuyển dụng là nữ. Tuy nhiên công ty vẫn tuyển dụng một số
lao động nam để có thể đảm nhận một số công việc mà lao động nữ khó có thể làm được
như trực phòng vào ban đêm, mang vác, sắp xếp đồ đạc, hành lý của khách hàng... hay có
thể thay thế lao động nữ khi họ nghỉ chế độ thai sản...
Có thể thấy nếu công tác tuyển dụng được thực hiện tốt sẽ hỗ trợ cho sự phân công và
hiệp tác lao động trong khách sạn.
b. Bố trí và sử dụng nhân lực
* Trong bố trí nhân lực:
Trên cơ sở giới hạn tâm lý của phân công và hiệp tác lao động, để tránh sự đơn
điệu trong lao động thì công ty khách sạn du lịch Kim Liên đã tiến hành cơ cấu tổ chức
bộ máy để mỗi nhân lực trong công ty từ Ban Giám Đốc trở xuống với sự chuyên môn
hóa sâu trong công việc.
Lao động trong công ty được phân chia theo các bộ phận nghiệp vụ, các bộ phận
khác nahu không thể thay thế cho nhau trong một thời giai đoạn ngắn nên làm cho định
mức lao động tăng lên. Do chuyên môn hóa sâu như vậy nên trình độ các nhân viên trong
từng bộ phận ngày càng thuần thục và khả năng mắc lỗi ngày càng giảm đến độ tinh xảo,
năng suất lao động tăng. Chẳng hạn như bộ phận bàn có nhiệm vụ tổ chức, thực hiện
công việc đón tiếp, phục vụ khách hàng ăn uống hàng ngày và các bữa tiệc lớn nhỏ; bộ
phận phục vụ bàn thông qua việc phục vụ trực tiếp nhu cầu ăn uống của khách thực hiện
chức năng bán hàng hóa và dịch vụ khác nhằm tăng doanh thu cho khách sạn. Ngoài ra
bộ phận này cũng là người chăm sóc hướng dẫn cho khách hàng thứ tự, cách sử dụng các


dụng cụ phục vụ ăn uống, đáp ứng các nhu cầu của khách hàng. Bộ phận đón tiếp được
chia ra các công việc cụ thể như sau: lễ tân, doorman, bellboy, quan hệ khách hàng.
Trong sử dụng nhân lực:

Công việc của các nhân viên trong khách sạn là sự phục vụ, đáp ứng yêu cầu của
khách hàng do đó thời gian làm việc của các nhân viên tùy thuộc vào thời gian tiêu dùng
dịch vụ của khách hàng và không tuân thủ theo 1 quy luật nhất định, nó kéo dài liên tục
liên tục trong suốt thời gian hoạt động của khách sạn là 24/24h và 365 ngày. Dựa trên cơ
sở tạo ra sự kích thích hưng phấn của hoạt động thần kinh trong lao động thể hiện là hợp
lý, chính vì vậy mà công ty đã phân công lao động theo ca, khi phân công quản lý luôn
chú ý đến yếu tố tâm ý của từng đối tượng( nam, nữ) để có được sựu ổn định trong công
việc và nhan viên có cuộc sống phù hợp.

c. tạo động lực cho người lao động.
Thông qua sự hiểu biết của nhà quản lý về các đặc điểm tâm lý chung của người
lao động cấp dưới ( bao gồm người thành đạt, nhân viên yếu kém, kiều người không thể
thay thế được...) đi kèm với đó là sự nhận thức được của công việc mà người lao động
đang đảm nhận yêu cầu, những người lao đọng phải quên đi chính bản thân mình để có
một tác phong phục vụ tận tụy, đúng đắn, hết mình trong công việc. Do vậy nhà quản lý ở
khách sạn Kim Liên luôn quan tâm thông cảm và biết động viên khích lệ nhân viên của
mình hợp tình hợp lý thông qua các cử chỉ, lời nói và bằng hình thức trả lương, thưởng
cho nhân viên của mình theo nguyên tắc trả lương ngang nhau cho người lao động. Điề
này làm cho nhân viên cảm thấy được đối xử công bằng, cảm thấy thoải mái hơn và đặ
biệt gắn kết giữa các nhân viên trong công việc càng chặt chẽ, mang lại hiệu quả cao
trong công việc, không có hiện tượng người này tỵ lạnh với người kia do cùng làm công
việc như nhau, năng lực như nhau, hiệu quả công việc như nhau mà tiền lương lại chênh
lệch nhau.

d. Phân công hiệp tác với đào tạo và phát triển nhân lực
Trong doanh nghiệp không bao giờ có đầy đủ những con người có thể đáp ứng được yêu
cầu công việc, hay vì yêu cầu của việc sản xuất kinh doanh làm biến đổi, dòng nhân lực
cũng thay đổi theo thời gian chính vì thế cần phải đào tạo để đáp ứng nhu cầu của doanh
nghiệp cũng như với nhu cầu của mỗi cá nhân. Việc đào tạo theo hướng giáo dục để
người lao động có được những quan điểm, thái độ tốt để phục vụ tốt hay nói cách khác là

người lao động có ý thức hiệp tác vì công việc của doanh nghiệp. Còn việc đào tạo về


trình độ kỹ năng thì nhiều khi người đó đi học do đó phải lo phân công những người thay
thế khi họ vắng và khi họ trở về họ sẽ đảm nhiệm những công việc gì.
Tại bộ phận phục vụ phòng của khách sạn, mỗi nhân viên phục vụ đều đảm nhận một
công việc chính như: bộ phận lễ tân, bộ phận lau dọn, bộ phận trực ban... Tuy nhiên, tất
cả nhân viên đều được đào tạo và hướng dẫn một số công việc có liên quan khác nhằm
nâng cao trình độ chuyên môn và giúp họ phát triển thêm một số kỹ năng nghề nghiệp. Ví
dụ như nhân viên tại bộ phận lễ tân có nhiệm vụ đón tiếp khách hàng nhưng vẫn có thể
đào tạo và hướng dẫn họ công việc như sắp xếp, trang trí phòng khách sạn. Nếu bộ phận
phục vụ phòng thiếu người, công ty sẽ phân công một số nhân viên lễ tân đảm nhiệm
thêm công việc của nhân viên phục vụ phòng.
Vị trí phó quản đốc của khách sạn cũng đã có đủ kiến thức và kỹ năng nắm vai trò quản
lý nhân viên cấp dưới nhưng công ty vẫn tiến hành đào tạo dưới sự hướng dẫn của quản
đốc khách sạn để khi quản đốc khách sạn vắng mặt thì phó quản đốc có thể đảm nhiệm
các công việc của quản đốc như báo cáo tình hình tại nơi mình quản lý và chịu trách
nhiệm trước ban giám đốc trong thời gian làm thay quản đốc.
Vì vây, công tác đào tạo sẽ giúp công ty có sự phân công và hiệp tác lao động hợp lý,
giúp cân bằng lực lượng lao động để giải quyết các công việc của công ty.
2.3. Hiệu quả của việc vận dụng cơ sở khoa học của quá trình phân công và hiệp tác
lao động trong công ty khách sạn du lịch Kim Liên.
Ưu điểm:
-

-

-

Ban lãnh đạo công ty, các cán bộ quản lý đã vận dụng tốt yếu tố tâm lý vào các hoạt động

quản trị nhân lực như tuyển dụng nhân sự, bố trí đào tạo và phát triển, sử dụng nhân lực,
tạo động lực cho người lao động, … Nó đã mang lại hiệu quả trong năng suất lao động,
chất lượng hoàn thành công việc của từng cá nhân, từng nhân viên, cũng như hoàn thành
mục tiêu chung của doanh nghiệp.
Hoạt động phân công, hiệp tác lao động giữa các nhân viên trong khách sạn tương đối
tốt.Tâm lý lao động giữa các nhân viên luôn thoải mái, vui vẻ, hòa thuận. Các thành viên
luôn gắn bó, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Do đó, bầu không khí trong tập thểlaođộng tạo
ra cảm giác gần gũi, chan hoà, tin tưởng lẫn nhau giữa các nhân viên, tạo cảm giác làm
chủ doanh nghiệp. Góp phần tạo sự gắng kết giũa các thành viên nói riêng, và gắn bó lâu
dài giữa nhân viên với doanh nghiệp nói chung.
Ban lãnh đạo, cán bộ quản lý cũng đã sử dụng tốt yếu tố tâm lý để kích thích, thúc đẩy
hiệu quả làm việc bằng các phần thưởng vật chất lẫn tinh thần qua các chương trình thi
đua khen thưởng dựa trên mức hoàn thành công việc.


Nhược điểm:
-

-

Mặc dù các cán bộ quản lý đã chú ý đến yếu tố tâm lý trong quá trình phân công, hiệp tác
lao động và cũng mang lại những lợi ích không nhỏ, nhưng vẫn chưa đi sâu, đi sát vào
tâm lý, tinh thần của từng thành viên trong từng giai đoạn, từng thời điểm.
Khách Sạn vẫn chưa sửa dụng đến các công cụ tâm lý để tim hiểu, đánh giá tâm lý của
các nhân viên trong công ty. Bởi công ty là con người, nên tính cách con người tác động
lớn đến suy nghĩ, hành động của tổ chức và cả môi trường làm việc. Đầu tư vào việc sử
dụng một số công cụ tâm lý phù hợp có thể giúp doanh nghiệp hiểu được tính cách tự
nhiên của con người và dựa trên kết quả này các nhà quản lý nhân sự sẽ có các chương
trình để giúp mọi người phát triển bản thân tốt hơn.


Giải pháp khắc phục nhược điểm nhằm nâng cao hiệu quả của việc
vận dụng cơ sở khoa học của quá trình phân công và hiệp tác lao
động tại công ty khách sạn du lịch Kim Liên.

II.

-

-

Cần có những hoạt động nghiên cứu, tìm hiểu sâu, đi sát vào tâm lý, tinh thần của từng
thành viên trong từng giai đoạn, từng thời điểm để hoạt động phân công và hiệp tác lao
động đạt kết quả tốt hơn.
Xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá rõ ràng, cụ thể hơn, tránh việc đánh giá mang tính chủ
quan, cảm tính, chưa đi sâu đi sát vào tâm lý, thái độ làm việc và hiệu quả của nhân viên.
Xây dựng chính sách lương thưởng, khuyến khích nhân viên hấp dẫn và phù hợp theo
từng chức danh và công việc cụ thể, tạo nhiều cơ hội thăng tiến trong công việc.
Ban quản lý có trách nhiệm giao nhiệm vụ hỗ trợ, giúp đỡ các nhân viên, đồng thời hỗ
trợ phối hợp thực hiện, tránh lãng phí công việc.
Điều chỉnh lại định mức lao động của các bộ phận để phân công và hiệp tác lao động
khoa học và hợp lí, tránh dư thừa hay thiếu hụt nhân lực.
Kết luận
Quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp đều chịu nhiều biến động và rủi ro.
Để đương đầu với những khó khăn ấy chỉ còn cách là doanh nghiệp phải sử dụng hiệu
quả các nguồn lực của mình. Trong tất cả các nguồn lực thì con người là nguồn lực quan
trọng nhất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp vì thế nâng cao ăng
suất lao động, hiệu quả công tác, phát huy tiềm năng sáng tạo, là điều mà doanh nghiệp
đặc biệt là các nhà quản trị nguồn nhân lực luôn luôn phải quan tâm mà phân công và
hiệp tác lao động hợp lý chính là điều kiện cần thiết để đạt được mục tiêu đó.





×