Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO đấu TRANH làm THẤT bại âm mưu PHI CHÍNH TRỊ hóa QUÂN đội của kẻ THÙ TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.62 KB, 25 trang )

Đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa
quân đội” của kẻ thù trong giai đoạn hiện nay
Để nhằm chống phá và đi đến xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa
(XHCN), từ giữa thế kỷ XX, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ và
các thế lực thù địch đã dùng chiến lược “diễn biến hoà bình”. Chiến lược
“diễn biến hoà bình” được tiến hành trên nhiều lĩnh vực như: kinh tế, chính trị
tư tưởng, văn hoá; tấn công vào nhiều lực lượng, tổ chức chính trị-xã hội,
trong đó quân đội được xác định là đối tượng trọng điểm. Thực hiện “diễn
biến hoà bình” đối với quân đội các nước XHCN, chúng thực hiện âm mưu
“phi chính trị hóa quân đội”.
Trên thực tế, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã thực hiện
thành công âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” các nước XHCN ở Đông Âu
và Liên Xô vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, góp phần làm sụp
đổ chế độ XHCN ở các nước này bằng chiến lược “diễn biến hoà bình”.
Từ năm 1989, nhất là sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, thực hiện
chiến lược toàn cầu “vượt trên ngăn chặn”, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế
quốc Mỹ và các thế lực thù địch ra sức đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà
bình”, kết hợp với bạo loạn lật đổ chống phá quyết liệt các nước XHCN còn lại,
trong đó Việt Nam là một trọng điểm. Một trong những mục tiêu quan trọng,
đồng thời còn là một thủ đoạn cơ bản trong chiến lược “diễn biến hoà bình” của
kẻ thù chống phá cách mạng nước ta là âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”.
“Phi chính trị hóa quân đội”, đây là quan điểm hết sức sai trái, phản động
và phản khoa học của kẻ thù. Ở chỗ, chúng cho rằng tổ chức ra quân đội là để
“bảo vệ lợi ích toàn dân tộc”, quân đội đứng ngoài giai cấp, “quân đội là của
toàn xã hội”, “quân đội trung lập” ... Chúng đã phủ nhận bản chất giai cấp, chức
năng chính trị-xã hội của quân đội trong xã hội có giai cấp đối kháng.


2

Thực chất của quan điểm “phi chính trị hóa quân đội” là tước bỏ sự


lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam
(QĐNDVN), vô hiệu hóa quân đội, làm cho quân đội ta đứng ngoài chính
trị, mất phương hướng chính trị và mục tiêu, lí tưởng chiến đấu, xa rời bản
chất giai cấp công nhân, dẫn đến suy yếu về chính trị, tiến tới quân đội “tự
diễn biến” và bị “vô hiệu hóa”. Từ đó đi đến thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội ta.
Bởi vì chúng hiểu rằng QĐNDVN đã từng là lực lượng nòng cốt trong
hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam và hiện đang
là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà
nước và nhân dân, nên muốn thực hiện “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ
nhằm xoá bỏ chế độ XHCN ở nước ta thì trước hết phải “vô hiệu hóa” quân
đội, làm cho quân đội “trung lập”, đứng ngoài chính trị, đứng ngoài cuộc đấu
tranh giai cấp, quân đội không còn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đứng vững trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng ta và thực tiễn lịch sử thế giới, trong nước
để xem xét vấn đề Đảng lãnh đạo quân đội có tất yếu khách quan hay
không, hay phải “phi chính trị hóa quân đội” như các nhà lí luận tư sản đã
rêu rao?
1. Những cơ sở khoa học Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và lãnh
đạo Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về giai cấp và đấu tranh giai cấp; chiến tranh và quân đội.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định, quân đội là một hiện tượng chính
trị-xã hội, là công cụ bạo lực của một giai cấp, một nhà nước nhất định nhằm
mục đích phục vụ lợi ích của giai cấp, nhà nước đã tổ chức và nuôi dưỡng nó.


3

Lịch sử loài người từ khi phân chia giai cấp và có đối kháng giai cấp là

lịch sử đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa các giai cấp. Cuộc
đấu tranh giai cấp phát triển đến một trình độ nhất định thì chuyển từ đấu
tranh về kinh tế sang đấu tranh về chính trị, đặt ra vấn đề giành và giữ chính
quyền. Muốn giành được chính quyền từ tay giai cấp tư sản, thì giai cấp công
nhân phải sử dụng bạo lực cách mạng để làm cuộc cách mạng xã hội. C.Mác
và Ph.Ăngghen có công lao to lớn đã chỉ ra cho giai cấp vô sản sứ mệnh lịch
sử của mình là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản xây dựng chủ nghĩa
cộng sản. Nhưng điều quan trọng nhất là hai Ông đã chỉ cho giai cấp vô sản
con đường đúng đắn tự giải phóng mình: để thực hiện sứ mệnh lịch sử, mục
tiêu, lí tưởng của mình, thì tất yếu giai cấp vô sản phải dùng bạo lực cách
mạng đập tan bạo lực phản cách mạng, nghĩa là phải đập tan bộ máy nhà nước
của giai cấp tư sản, lập nên nhà nước chuyên chính vô sản và dùng nhà nước
đó làm công cụ bảo vệ quyền thống trị của mình đối với toàn xã hội. Trong
tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết:
“Những người cộng sản coi là điều đáng khinh bỉ nếu giấu diếm những quan
điểm và ý định của mình. Họ công khai tuyên bố rằng mục đích của họ có thể
đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện hành”[3,
646]. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, bạo lực cách mạng bao gồm hai lực lượng:
chính trị và quân sự, đồng thời phải kết hợp hai hình thức đấu tranh đó. Lực
lượng chính trị: Đó là sự giác ngộ của quần chúng; lực lượng quân sự: là một
bộ phận quần chúng được giác ngộ, được trang bị, được huấn luyện tập trung.
Để tiến hành bạo lực cách mạng, thì nhất thiết giai cấp vô sản phải thành lập
ra quân đội làm nòng cốt cho đấu tranh vũ trang.
Sang thời kì chủ nghĩa đế quốc, giai cấp tư sản càng bộc lộ bản chất
hiếu chiến xâm lược. Chúng tổ chức quân đội, nhà tù, cảnh sát để đàn áp giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Kế tục và phát triển tư tưởng của C.Mác


4


và Ph.Ăngghen, Lênin khẳng định: giai cấp vô sản cần phải có tổ chức quân
sự mạnh để làm nòng cốt cho cách mạng vô sản và tổ chức quân sự đó chính
là quân đội. Người viết: “Nhà nước tư sản bị thay thế bởi nhà nước vô sản
(chuyên chính vô sản) không thể bằng còn đường “tiêu vong” được, mà chỉ có
thể, theo quy luật chung, bằng một cuộc cách mạng bạo lực thôi”[6, 27].
Không có bạo lực cách mạng thì giai cấp vô sản không thể chiến thắng được.
Không có bạo lực cách mạng, giai cấp thống trị (giai cấp vô sản) nếu nó muốn
thống trị và nếu nó thực sự thống trị thì nó cũng phải thể hiện điều đó bằng tổ
chức quân sự của nó và Lênin nhấn mạnh: một cuộc cách mạng chỉ có giá trị
khi nó tự bảo vệ.
Sở dĩ giai cấp vô sản phải dùng bạo lực là bắt nguồn từ phía kẻ thù và
vì một nền hoà bình thực sự. Lênin đã chỉ rõ: “đối diện với chúng ta vẫn là
một lực lượng quân sự thực sự to lớn, được vũ trang từ đầu đến chân: đó là tất
cả những cường quốc mạnh nhất trên thế giới”[7, 156]. Bạo lực cách mạng
của giai cấp vô sản phải sử dụng là để trấn áp sự phản kháng của kẻ thù, bạo
lực đó bắt nguồn từ nhân dân và nhằm giành, giữ, bảo vệ chế độ dân chủ cho
nhân dân, làm sao cho cuộc cách mạng ít đổ máu nhất mà vẫn giành và giữ
được chính quyền, chứ không phải để đàn áp nhân dân, không phải là những
người “mê say” bạo lực như kẻ thù tuyên truyền và xuyên tạc, biện hộ cho
kiểu tự do dân chủ vô chính phủ và sự phản bội của chúng.
Như vậy, để giành và giữ chính quyền, giai cấp vô sản phải luôn luôn
nắm vững bạo lực cách mạng, dùng bạo lực ấy đập tan nhà nước tư sản, thiết
lập Nhà nước của mình và bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng xã hội mới.
Giai cấp vô sản dùng bạo lực là một tất yếu khách quan, là quy luật trong cách
mạng vô sản.
Từ mối quan hệ giữa chiến tranh và chính trị. Chiến tranh bao giờ cũng
là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn khác, thủ đoạn bạo lực. Lênin khẳng


5


định: “chiến tranh chỉ là sự tiếp tục của chính trị bằng những biện pháp khác
(cụ thể là bằng bạo lực). Đó là công thức của Clau-de-vi-txơ, một trong những
cây viết vĩ đại về lịch sử chiến tranh; những tư tưởng của ông đã được Hêghen làm cho phong phú thêm. Và quan niệm của Mác và Ăng-ghen luôn
luôn cũng chính là như vậy, các ông coi bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng đều
là sự tiếp tục của chính trị của một số cường quốc hữu quan nào đó và của
các giai cấp khác nhau trong nội bộ những cường quốc đó-trong một thời
gian nhất định”[5, 275-276]. Trong mối quan hệ giữa chiến tranh và chính trị
thì chính trị là mục đích còn chiến tranh là công cụ, phương tiện. Để đạt được
mục đích chính trị thì cần phải có công cụ mạnh, công cụ đó chính là quân
đội. Quân đội bao giờ cũng là quân đội của một giai cấp, một nhà nước nhất
định; do một giai cấp, một nhà nước tổ chức ra nuôi dưỡng và sử dụng nó vào
mục đích chính trị. Quân đội là công cụ thực hiện mục tiêu, ý đồ chính trị của
một giai cấp, một nhà nước. Không có quân đội nào đứng ngoài chính trị. Do
đó quân đội nhất thiết phải đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp và mang bản
chất giai cấp đã tổ chức ra nó. Vì vậy, quân đội của giai cấp vô sản thì phải do
chính Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo là tất yếu khách quan.
Quân đội của giai cấp tư sản cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Nhưng trái ngược hoàn toàn với quân đội của giai cấp vô sản, quân đội của
giai cấp tư sản do giai cấp tư sản tổ chức và lãnh đạo, là quân đội mang bản
chất tư hữu, bóc lột, quân đội đó nhằm bảo vệ quyền lợi cho thiểu số giai cấp
bóc lột của giai cấp tư sản, chủ nghĩa tư bản. Mục đích chiến đấu duy nhất của
chúng là vì tiền; đó là thứ quân đội quân đánh thuê cho giai cấp tư sản; là đội
quân xâm lược, một đội quân “chống khủng bố” trá hình. Với bản chất hiếu
chiến, xâm lược, chúng không từ một thủ đoạn nham hiểm, thâm độc nào
nhằm lật đổ các nước không tuân theo cây gậy chỉ huy của chủ nghĩa đế quốc.
Vậy có dám “phi chính trị hóa quân đội” của chúng không? Chắc chắn ngàn


6


lần chúng không dám làm điều đó. Bởi nếu “phi chính trị hóa quân đội” thì
giai cấp tư sản lấy ai phục vụ cho mục tiêu, ý đồ xâm lược của chúng?
Vì vậy, dù chúng cố chứng minh, quân đội là một hiện tượng vĩnh viễn,
“trung lập về chính trị”, “phi giai cấp”, là tổ chức “ngoài giai cấp”, có nhiệm
vụ thực hiện những chức năng “cộng đồng quốc gia”, phục vụ lợi ích toàn
nhân dân; hay quân đội là một tổ chức “nhân dân” đặc biệt, dường như đứng
ngoài chính trị đi nữa. Thực chất là chúng muốn che dấu bản chất giai cấp của
quân đội, tách rời quân đội với hệ thống chính trị với giai cấp. Thậm chí
chúng còn muốn đánh ngang bằng quân đội của các nước tư bản, đế quốc với
quân đội vô sản, hòng lừa bịp nhân dân và lừa bịp chính quân đội của chúng.
Chống lại các quan điểm đó, Lênin khẳng định: không phải chỉ dưới
chính thể quân chủ, quân đội mới là công cụ đàn áp. Nó vẫn là công cụ đàn áp
của tất cả các chính thể cộng hoà tư sản, kể cả những chính thể cộng hoà dân
chủ nhất. Người nhấn mạnh: “quân đội của nhà nước tư sản là công cụ vững
chắc nhất để duy trì và bảo vệ chế độ cũ, là phương tiện quan trọng để đạt
được các mục tiêu chính trị phi nghĩa”[7, 361], là “công cụ của thế lực phản
động, tôi tớ của tư bản trong cuộc đấu tranh chống lại lao động ”[4, 137].
Chính từ việc phân tích sâu sắc tính tất yếu của việc xây dựng một tổ chức
quân sự của giai cấp vô sản trong điều kiện lịch sử mới, điều kiện nhà nước Xô
viết nằm giữa vòng vây của kẻ thù và yêu cầu bảo vệ XHCN với tính cách là Tổ
quốc, Lênin đã xây dựng hoàn chỉnh học thuyết về quân đội kiểu mới của giai cấp
vô sản. Trong học thuyết của mình, Lênin và Đảng Cộng sản Liên Xô lúc đó đã
giải quyết thành công nhiều vấn đề về nguyên tắc xây dựng một quân đội kiểu
mới của giai cấp vô sản. Đó là những nguyên tắc chính trị-xã hội; nguyên tắc tổ
chức; nguyên tắc huấn luyện-giáo dục; nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;
nguyên tắc Đảng lãnh đạo quân đội. Trong đó Lênin đặc biệt nhấn mạnh: quân
đội của giai cấp công nhân phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đó là



7

nguyên tắc cơ bản nhất. Theo Lênin, sự lãnh đạo đó là tất yếu khách quan, là một
quy luật nhằm làm cho Hồng quân tuyệt đối trung thành với Đảng, với giai cấp
công nhân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc XHCN.
Trung thành với học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin về quân đội kiểu
mới của giai cấp vô sản, vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào điều kiện cụ thể của
cách mạng Việt Nam; đồng thời kế thừa và phát triển kinh nghiệm đánh giặc
của cha ông ta. Trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức và lãnh
đạo quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng Việt Nam muốn
giành thắng lợi, phải đi theo con đường cách mạng vô sản, cần có bạo lực
cách mạng và dùng bạo lực cách mạng để đập tan bạo lực phản cách mạng.
Đó là bạo lực tổng hợp dựa trên sức mạnh toàn dân, chiến tranh toàn dân, toàn
diện; nghệ thuật quân sự lấy nhỏ tháng lớn, lấy ít địch nhiều. Trong suốt quá
trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn quan tâm việc Đảng phải lãnh
đạo chặt chẽ quân đội. Người khẳng định: “Dân tộc Việt Nam nhất định phải
được giải phóng. Muốn giải phóng thì phải đánh phát xít Nhật và Pháp. Muốn
đánh chúng thì phải có lực lượng quân sự. Muốn có lực lượng thì phải có tổ
chức”[2, 329]. Điều đó chứng tỏ rằng, sự ra đời của quân đội liên hệ mật thiết
với sự nghiệp giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc và quân đội ta đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng là một tất yếu khách quan.
Đảng ta, khi ra đời trong cương lĩnh cách mạng của mình đã khẳng định
quan điểm cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh và chỉ ra con đường đấu tranh vũ trang để giành chính quyền. Để lãnh
đạo cách mạng đi đến thắng lợi, Đảng Cộng sản Việt Nam đã định ra đường
lối chủ trương đúng đắn cho cách mạng Việt Nam; trong đó đặc biệt chăm lo
tổ chức, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân mà nòng cốt là QĐNDVN
trở thành lực lượng chính trị, đội quân chiến đấu tuyệt đối trung thành và tin
cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.



8

Trong “Chính cương vắn tắt” của Đảng tháng 2/1930, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đề xuất việc tổ chức ra quân đội công nông. Sau đó, “Luận cương
chính trị” của Đảng tháng 10/1930 đã nêu rõ vấn đề: Phải vũ trang cho công
nông, lập đội quân công nông và tổ chức đội tự vệ công nông. Ngày
22/12/1944 Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành lập Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của QĐNDVN ngày nay. Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, việc Đảng tổ chức ra quân đội để tiến hành
đấu tranh cách mạng là một tất yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu sự
nghiệp cách mạng của Đảng. Cùng với việc xây dựng lực lượng chính trị
trong quần chúng cách mạng, Đảng ta coi trọng xây dựng và lãnh đạo chặt
chẽ lực lượng quân sự của mình. Không những tổ chức ra quân đội, Đảng còn
xác định sự tất yếu phải lãnh đạo quân đội đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi sự
lãnh đạo của Đảng là nguồn gốc, là nhân tố quyết định sự trưởng thành và lớn
mạnh của Quân đội. Quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là Quân đội nhân
dân, do Đảng ta xây dựng, lãnh đạo và giáo dục.
- Xuất phát từ mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm tổ chức và hoạt
động của quân đội ta.
Mục tiêu chiến đấu của quân đội ta là vì độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH. Đó là mục tiêu cao cả của Đảng ta. Như vậy, mục tiêu lí tưởng của
Đảng cũng là mục tiêu, lí tưởng chiến đấu của quân đội ta. Chỉ dưới sự lãnh
đạo của Đảng quân đội ta mới thực hiện được mục tiêu, lí tưởng đó.
Chức năng của quân đội ta là dùng bạo lực vũ trang để bảo vệ lợi ích căn bản
của Đảng, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Quá trình tồn tại, phát triển
của QĐNDVN đã khẳng định ba chức năng chủ yếu: là đội quân chiến đấu, đội
quân công tác và đội quân sản xuất. Trong đó, chiến đấu là chức năng chủ yếu, gắn
liền với quá trình lao động quân sự gian nan vất vả đầy tính chất phức tạp. Chức
năng công tác chiếm một vị trí, vai trò rất quan trọng, đặc biệt trong điều kiện hiện



9

nay kẻ thù đang hàng ngày hàng giờ bằng chiến lược “diễn biến hoà bình” luôn tìm
cách chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với quân đội, giữa quân đội với nhân
dân. Chức năng sản xuất của quân đội, tăng gia sản xuất cải thiện đời sống cho bộ
đội, xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
Thực tiễn từng giai đoạn phát triển của cách mạng đã chứng minh: dưới
sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta đã thực hiện xuất sắc ba chức năng trên,
cùng với toàn Đảng, toàn dân đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, lập nên những
chiến công hiển hách và ngày nay đang có những đóng góp quan trọng trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ tính chất, đặc điểm hoạt động của quân đội. Quân đội là một tổ chức
quân sự đặc thù khác với bất cứ tổ chức nào trong xã hội: có cơ cấu biên chế
đặc biệt phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của nó. Đặc điểm tổ chức, biên chế
của quân đội theo chế độ tập trung, mọi hoạt động đều chi phối bởi điều lệnh,
điều lệ nghiêm ngặt. Đồng thời, quân đội sử dụng hệ thống vũ khí chuyên
dùng mà các tổ chức khác trong xã hội không thể có được. Công cụ chiến đấu
là vũ khí, phương tiện chiến tranh có khả năng hủy diệt lớn. Đồng thời, đối
tượng của quân đội là kẻ thù của giai cấp, của dân tộc. Mọi nhận thức, động
thái của hành động quân sự đều có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực cho bộ
phận hay toàn cục. Tính chất hoạt động của quân đội gian khổ, ác liệt, khi cần
là hy sinh đến tính mạng.
Do đó, để bảo đảm tập trung thống nhất ý chí và hành động thì quân đội
phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là nguyên tắc bất di bất dịch. Đảng
phải luôn luôn nắm chắc và lãnh đạo quân đội trong mọi tình huống nhằm làm
cho quân đội luôn trung thành vô hạn với Đảng với nhân dân và chiến thắng
mọi kẻ thù xâm lược.
- Từ thực tiễn và kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quân đội của các Đảng

Cộng sản trên thế giới và của Đảng ta.


10

Kinh nghiệm cách mạng thế giới đã chỉ rõ, từ xưa đến nay bất kỳ một
giai cấp nào tổ chức, lãnh đạo nhà nước thông qua chính đảng của mình thì
cũng tổ chức và nắm quyền lãnh đạo quân đội. Nếu Đảng đó thường xuyên
tăng cường lãnh đạo đối với quân đội thì quân đội trung thành, thực sự là lực
lượng chính trị tin cậy của Đảng và nhà nước. Nếu Đảng nào buông lỏng quân
đội thì quân đội biến chất và mất phương hướng chính trị, lập trường giai cấp.
Thực tiễn quân đội ở các nước Đông Âu, Liên Xô những năm 80 của thế kỷ
XX là ví dụ điển hình. Vào thời điểm đó, quân đội Liên Xô được đánh giá là
một trong những đội quân mạnh nhất thế giới. Nhưng với âm mưu “phi chính
trị hóa quân đội”, các thế lực thù địch đã làm cho Đảng Cộng sản Liên Xô và
các nước XHCN Đông Âu mất quyền lãnh đạo quân đội, quân đội mất
phương hướng chính trị, cầm súng nhưng không biết bắn vào ai, dẫn đến kết
quả: chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ nhanh chóng mà
kẻ địch không mất một viên đạn.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn nữa thế kỷ qua đã chứng minh,
dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân đội ta luôn
vững vàng, thực sự là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân đánh giặc, tiến hành
đấu tranh giải phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nhiệm vụ quốc tế
cao cả. Quân đội ta đã vượt qua những chặng đường đầy gian lao, thử thách
và chiến thắng vẻ vang.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân đội ta đã
không ngừng học tập, rèn luyện và xây dựng trưởng thành về mọi mặt: chính
trị, quân sự, tổ chức, trang bị. Trong đó sự vững mạnh về chính trị là vấn đề
quan trọng hàng đầu, là cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh
chiến đấu của quân đội.

Kinh nghiệm hoạt động cách mạng của Đảng ta trong 75 năm qua đã
cho thấy, do Đảng ta luôn luôn lãnh đạo chặt chẽ quân đội, giữ vững, tăng


11

cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc cho quân
đội, vì vậy quân đội ta thực sự là quân đội của dân, do dân, vì dân, chiến đấu
vì mục tiêu lí tưởng của Đảng của dân tộc. Trong bất kì tình huống nào Đảng
cũng giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo đối với quân đội; chăm lo củng cố
và phát huy cao độ hiệu lực lãnh đạo của đảng, nhất là các tổ chức đảng ở cơ
sở, nên quân đội ta đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Như vậy, trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân
đội ta luôn gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng. Và thực tiễn đã chứng
minh: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam, sự trưởng thành và chiến thắng của quân
đội. Mọi biểu hiện làm giảm sút, hạ thấp vai trò, hay đòi chia quyền sự lãnh
đạo của Đảng đối với quân đội đều là sai trái và làm suy yếu quân đội.
- Từ đặc điểm đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc hiện nay và từ
nhiệm vụ xây dựng quân đội trong thời kì mới.
Ngày nay đấu tranh giai cấp, dân tộc diễn ra hết sức gay gắt và với
những nội dung mới. Nghị quyết đại hội IX của Đảng xác định: “Trong một vài
thập kỷ tới, ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới. Nhưng chiến tranh cục
bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động
can thiệp lật đổ, khủng bố còn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất phức tạp ngày
càng tăng” [1, 14]. Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế lực
thù địch không từ một thủ đoạn nham hiểm nào để lật đổ các nước không tuân
theo cây gậy chỉ huy của chúng. Trong đó, chúng đặc biệt kết hợp cả “diễn biến
hoà bình”, bạo loạn lật đổ, với chiến tranh xâm lược; thực hiện âm mưu thôn
tính, thủ tiêu các nước XHCN còn lại và coi Việt Nam là một trọng điểm. Thực

tế hiện nay, thế bố trí chiến lược của chủ nghĩa đế quốc luôn đặt các nước trên
thế giới trong tình trạng có nguy cơ chiến tranh bất cứ lúc nào.


12

Chính vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội không hề giảm đi
mà ngày càng tăng lên hơn bao giờ hết.
Hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có yêu cầu và nội dung mới, đó là:
“bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và
chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc”
[1, 117]. Đồng thời, chúng ta phải tiếp tục “xây dựng Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”[1,
118], lấy xây dựng chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức
mạnh chiến đấu quân đội. Chỉ có giữ vững và tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo
của Đảng đối với quân đội thì mới xây dựng được bản chất giai cấp công nhân
cho quân đội, quân đội mới hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và
nhân dân giao phó.
Mặt khác, hiện nay nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), bên cạnh những mặt tích cực, thì mặt
tiêu cực đã và đang hàng ngày, hàng giờ tác động đến việc tăng cường bản chất giai cấp công nhân, bản chất cách mạng của quân đội.
Những biểu hiện cường điệu lợi ích vật chất, lối sống thực dụng, cơ hội về chính trị, sự suy giảm về đạo đức cách mạng là những cản
trở trong xây dựng quân đội về chính trị.

Từ những cơ sở lí luận và thực tiễn trên, một lần nữa chúng ta khẳng
định: chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và lãnh đạo QĐNDVN, quân
đội ta mới mang bản chất giai cấp công nhân, trung thành với Đảng với Tổ
quốc, với nhân dân, phát huy được truyền thống vẻ vang, bản chất cách mạng,
thực sự là lực lượng chiến đấu trung thành, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân.
Và thực tế đó đang chứng minh tính đúng đắn quan điểm của Lênin: hiện nay

cũng như trước kia và sau này quân đội sẽ không bao giờ có thể trung lập được.
Như vậy, với giọng điệu thù địch: “phi chính trị hóa quân đội” là hết sức
bịp bợm, sai trái, chúng ta cần cảnh giác và đấu tranh làm thất bại âm mưu đó.


13

2. Đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của
kẻ thù trong giai đoạn hiện nay.
Để thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”, kẻ thù đã và đang
dùng nhiều hình thức, biện pháp đa dạng, tinh vi và rất nguy hiểm như: phủ
nhận hệ tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
đòi xoá Điều 4 trong Hiến pháp hiện hành của nước ta xác định sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội, đòi thực hiện “đa nguyên chính
trị, đa đảng đối lập”. Chúng còn tập trung tuyên truyền, xuyên tạc, phủ nhận
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Kẻ thù còn triệt để lợi dụng
tình trạng tham nhũng, thoái hóa biến chất ở một số bộ phận cán bộ, đảng
viên để gây chia rẽ nội bộ, làm phai nhạt bản chất cách mạng, truyền thống tốt
đẹp của quân đội ta. Đồng thời chúng tăng cường tuyên truyền lối sống thực
dụng, chạy theo đồng tiền, thờ ơ về chính trị; tạo ra sự mơ hồ, mất cảnh giác
trong cán bộ, chiến sĩ, làm cho quân đội suy yếu về chính trị từ bên trong,
trượt sang chính trị phản cách mạng.
Trong bối cảnh tình hình thế giới hiện nay đang diễn biến phức tạp có lợi
cho chủ nghĩa đế quốc, chúng càng đẩy mạnh âm mưu “phi chính trị hóa quân
đội” với những thủ đoạn thâm độc và nham hiểm hơn đối với quân đội ta.
Công cuộc đổi mới của nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, thế và lực của ta đã lớn mạnh lên nhiều, nhưng nước
ta vẫn còn là nước kinh tế chậm phát triển. Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra
vẫn còn tồn tại đan xen, diễn biến phức tạp. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN
của nhân dân ta có nhiều thuận lợi rất cơ bản, nhưng cũng đang phải đương

đầu với những khó khăn thách thức lớn. Với vị trí chiến lược quan trọng trong
khu vực và thế giới, Việt Nam đang là một trong những đối tượng chiến lược
an ninh quốc gia mà nhiều nước quan tâm, nhất là các nước lớn.


14

Trong nước, bọn phản động và các phần tử thoái hóa, biến chất, cơ hội
về chính trị dưới sự chỉ đạo và giúp đỡ của các thế lực phản động quốc tế
đang tập hợp lực lượng, âm mưu hình thành các tổ chức chính trị đối lập, gia
tăng các hoạt động chống đối.
Nhiệm vụ của quân đội có sự phát triển mới và đặt ra những yêu cầu rất
cao, đòi hỏi phải “thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân”[1, 119], bảo đảm cho quân đội
tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và với nhân dân. Quân đội phải
không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu toàn diện,
trước hết là sự vững mạnh về chính trị, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho trong mọi tình huống.
Mục tiêu của cuộc đấu tranh chống âm mưu “phi chính trị hóa quân
đội” là: ngăn chặn, làm thất bại những thủ đoạn của kẻ thù, giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, tăng cường bản chất giai cấp
công nhân, kiên định mục tiêu, lí tưởng chiến đấu của quân đội, giữ vững và
phát huy phẩm chất cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”.
Trong tình hình hiện nay ở nước ta, để đấu tranh chống âm mưu “phi
chính trị hóa quân đội” thắng lợi phải được kết hợp chặt chẽ với đấu tranh
chống chiến lược “diễn biến hoà bình” của kẻ thù trên tất cả các lĩnh vực. Đó
cũng là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống
chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó cần tập trung thực hiện tốt
một số nội dung, biện pháp chủ yếu sau đây:
Một là, tăng cường giáo dục giác ngộ bản chất giai cấp công nhân của

Đảng cho mọi cán bộ, chiến sĩ.
Đây là nội dung rất quan trọng, nhằm xây dựng bản lĩnh chính trị, lập
trường giai cấp, củng cố niềm tin cho bộ đội vào sự lãnh đạo của Đảng, thắng
lợi của sự nghiệp đổi mới xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc.


15

Sự giác ngộ sâu sắc bản chất giai cấp công nhân của cán bộ, chiến sĩ có
tác dụng trực tiếp ngăn chặn sự xâm nhập, lây lan của tư tưởng thù địch, phản
động tuyên truyền “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ thù.
Để thực hiện tốt việc giáo dục giác ngộ bản chất giai cấp công nhân cho
mọi cán bộ, chiến sĩ, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân phải tăng cường
công tác giáo dục chính trị tư tưởng theo quy định của Tổng cục Chính trị và
bổ sung những nội dung giáo dục cho phù hợp với nhiệm vụ của từng đơn vị
và tình hình nơi đóng quân.
Trong đó, các đơn vị phải chú trọng giáo dục cho mọi cán bộ, chiến sĩ
nhận thức sâu sắc rằng, quân đội bao giờ cũng mang bản chất của một giai
cấp nhất định, không có quân đội “phi giai cấp”, “siêu giai cấp”. QĐNDVN
do Đảng, Bác Hồ tổ chức, lãnh đạo và giáo dục, là quân đội kiểu mới mang
bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, chiến đấu
vì mục tiêu lí tưởng của Đảng, đó là tất yếu khách quan không thể phủ nhận.
Công tác giáo dục là phải làm cho bản chất cách mạng ấy của quân đội
thấm sâu, tồn tại và phát triển trong tư tưởng, tình cảm của mỗi cán bộ, chiến
sĩ.
Cùng với việc tăng cường giáo dục bản chất giai cấp công nhân, các
đơn vị phải tăng cường giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cho bộ đội để
khơi dậy lòng tự hào dân tộc, truyền thống của cha ông, mà thế hệ trẻ hiện
nay phải có nhiệm vụ giữ gìn, phát triển.
Hình thức, phương pháp giáo dục phải hết sức đa dạng, phong phú và

thường xuyên được đổi mới. Các đơn vị phải biết kết hợp giữa giáo dục chung
với giáo dục riêng; phối, kết hợp chặt chẽ giữa công tác giáo dục với công tác
cán bộ, tổ chức, chính sách; đồng thời giữ tốt mối quan hệ với gia đình, các
đoàn thể địa phương nơi đóng quân để phát huy sức mạnh tổng hợp trong
công tác giáo dục…


16

Mỗi đơn vị làm tốt những nội dung, phương pháp, hình thức như trên sẽ
bảo đảm cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nâng cao khả năng “tự vệ” trước
những thủ đoạn, luận điệu nhằm tuyên truyền “phi chính trị hóa quân đội”,
“quân đội trung lập” của kẻ thù.
Hết sức tránh việc coi nhẹ công tác giáo dục giác ngộ bản chất giai cấp
công nhân cho bộ đội; hoặc cho công tác giáo dục là thứ yếu, không quan
trọng bằng công tác huấn luyện quân sự; hay lại quá chú trọng công tác giáo
dục, bỏ quên nhiệm vụ chính trị của đơn vị. Đó là những nhận thức hết sức
không đúng, dẫn đến mắc mưu kẻ thù.
Hai là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân
đội, xây dựng các tổ chức đảng trong quân đội trong sạch vững mạnh.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, xây
dựng các tổ chức đảng trong quân đội trong sạch vững mạnh (TSVM) là vấn
đề then chốt trong việc xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở
xây dựng sức mạnh tổng hợp của quân đội. Bởi tổ chức đảng là hạt nhân lãnh
đạo, trung tâm đoàn kết của đơn vị.
Mặt khác, bản chất của âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ thù
là tước bỏ quyền lãnh đạo của Đảng ta đối với quân đội. Do đó, giữ vững và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội có ý nghĩa quyết định đánh
bại âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ thù. Làm cho mọi cán bộ,
chiến sĩ tự “miễn dịch” được trước sự tấn công, xâm nhập của những tư tưởng

sai trái của các thế lực thù địch.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội thực
chất là giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho quân đội; là
làm cho quân đội quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, quan điểm, đường lối
quân sự của Đảng vào quân đội; là tập trung nâng cao sức mạnh về chính trị,


17

tinh thần, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu của quân
đội. Đảm bảo cho Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt đối với quân đội. Quân đội tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của
Đảng.
Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, vấn đề
cơ bản, cấp bách hiện nay là phải xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong quân đội
thật sự TSVM, có sức chiến đấu cao. Vì vậy, phải thường xuyên chăm lo xây
dựng các tổ chức đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Trước mắt, các tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ quân đội cần tiếp tục
quán triệt sâu sắc, tổ chức thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn
Đảng, tiến hành tự phê bình và phê bình theo tinh thần của Nghị quyết Trung
ương 6 (lần 2) khóa VIII và Nghị quyết đại hội IX của Đảng; thực hiện
nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo đi đôi với phân công cá
nhân phụ trách; qua đó xây dựng các tổ chức đảng TSVM, có năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu cao, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng được thông suốt từ
trên xuống dưới, tới từng đơn vị, từng cán bộ, chiến sĩ.
Bên cạnh đó, phải kết hợp chặt chẽ xây dựng các tổ chức cơ sở đảng
TSVM với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Giải quyết tốt mối quan hệ
giữa lãnh đạo với chỉ huy, giữa tổ chức đảng với các tổ chức trong đơn vị.
Giữa đảng viên với quần chúng, cán bộ với chiến sĩ. Xây dựng các tổ chức

trong đơn vị thực sự đoàn kết nhất trí cao. Sự vững mạnh và hoạt động có
hiệu quả của các tổ chức cơ sở đảng là khâu then chốt góp phần tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với từng đơn vị và toàn quân.
Kiên quyết đấu tranh với mọi hiện tượng buông lỏng xây dựng tổ chức
đảng, hoặc không gắn việc xây dựng tổ chức đảng TSVM với xây dựng đơn vị
vững mạnh toàn diện. Đồng thời, chống mọi hiện tượng tiêu cực tập thể, sự suy


18

thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống của cấp ủy, chỉ huy các cấp; hết sức tránh
mọi biểu hiện hạ thấp vai trò lãnh đạo của cấp ủy, chi bộ, đảng bộ đối với đơn vị.
Ba là, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ
chủ trì trong quân đội.
Cùng vào việc xây dựng hệ thống tổ chức đảng, tăng cường CTĐ,
CTCT; để nắm chắc quân đội, khâu then chốt là Đảng phải nắm chắc đội ngũ
cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì ở đơn vị. Bởi họ là người trực tiếp giáo dục,
quản lí, chỉ huy, tổ chức đơn vị thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ. Lòng trung
thành tuyệt đối với Đảng, bản lĩnh chính trị vững vàng, năng lực hoàn thành
nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ là một trong những yếu tố cơ bản, có ý nghĩa
quyết định đảm bảo Đảng nắm chắc quân đội trong mọi tình huống.
Ngày nay, trong điều kiện đất nước ta thực hiện nền kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN, những tác động tích cực, tiêu cực đan xen. Vì vậy sự
thử thách “vàng-lửa” đối với đội ngũ cán bộ trong quân đội diễn ra gay gắt.
Bên cạnh đó, kẻ thù luôn chống phá quyết liệt cách mạng nước ta và chúng rất
coi trọng việc lôi kéo, làm tha hóa đội ngũ cán bộ của Đảng.
Vì vậy, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ quân đội, nhất là
đội ngũ cán bộ chủ trì không chỉ đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội về chính
trị mà còn có ý nghĩa trực tiếp đánh bại âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”
của kẻ thù.

Để xây dựng bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ quân đội hiện nay,
mỗi cơ quan, đơn vị trong toàn quân phải làm cho mỗi cán bộ, đảng viên kiên
định con đường cách mạng của Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn;
thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước; tuyệt đối tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; giữ vững và tăng cường lập trường giai cấp
công nhân; kiên trì hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; quyết


19

tâm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước; có ý chí quyết tâm cao, nhạy bén, sắc sảo về chính trị, năng lực hoạt
động thực tiễn và phương pháp, tác phong công tác tốt; lối sống trung thực,
giản dị, không bị cám dỗ bởi lối sống thực dụng vì đồng tiền, chạy theo lợi ích
vật chất tầm thường; không ngại khó, ngại khổ, ngại học, ngại rèn; nâng cao
năng lực toàn diện, đáp ứng đòi hỏi của thời kì mới.
Đặc biệt là ở những bước ngoặt khó khăn nhất của cách mạng, cấp ủy,
chỉ huy của đơn vị phải xây dựng được bản lĩnh chính trị cho từng cán bộ là
chủ động, bình tĩnh, không bao giờ tỏ ra dao động, do dự, chán nản hay sa vào
tuyệt vọng. Tăng cường xây dựng ý chí, niềm tin không gì lay chuyển được
và quyết tâm biến ý chí và niềm tin vào hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Có xây dựng được bản lĩnh chính trị vững vàng như vậy mới bảo đảm
cho đội ngũ cán bộ quân đội không bị sa ngã trước sự lợi dụng, mua chuộc,
lôi kéo của kẻ thù hòng làm biến chất đội ngũ cán bộ về chính trị.
Hết sức cảnh giác với mọi thủ đoạn mua chuộc, lôi kéo của kẻ thù bằng
lợi ích vật chất tầm thường; bằng tiền tài, gái đẹp làm tha hóa đội ngũ cán bộ
dẫn đến bị kẻ thù khống chế, quay lại phản bội Tổ quốc, phản bội nhân dân.
Bốn là, coi trọng xây dựng môi trường văn hoá ở các đơn vị quân đội trong
sạch, lành mạnh; xây dựng đạo đức, nhân cách người quân nhân cách mạng.

Môi trường văn hoá tốt đẹp, lành mạnh, phong phú trong quân đội trực
tiếp nuôi dưỡng, phát triển nhân cách của cán bộ, chiến sĩ một cách toàn diện;
góp phần nâng cao trình độ trí tuệ, đạo đức, tình cảm, tâm hồn, thẩm mỹ,
pháp luật, ý thức chính trị; là điều kiện hết sức thuận lợi để nuôi dưỡng những
phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”; đồng thời còn góp phần xây dựng các tổ
chức trong quân đội vững mạnh, từng đơn vị thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị
của mình. Môi trường văn hoá trong quân đội còn là màng lọc để ngăn những
loại văn hoá độc hại xâm nhập vào quân đội; là hàng rào vô hình, phi vật chất,


20

từng bước hạn chế và khắc phục những biểu hiện tiêu cực về đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ trong quân đội ta hiện nay và để chiến
lược “diễn biến hoà bình”, âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ thù
không còn đất sống.
Trong tình hình hiện nay, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân tiếp tục
đẩy mạnh công tác giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm cho cán
bộ, chiến sĩ thực hiện cuộc vận động xây dựng “môi trường văn hoá tốt đẹp,
lành mạnh, phong phú” lên một tầm cao mới, nhằm tạo ra những chuyển biến
tích cực trong đời sống văn hoá-tinh thần của bộ đội, xây dựng ý chí quyết
tâm cao vượt qua mọi khó khăn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh đó, các cơ quan, đơn vị phải đề cao vai trò của các tổ chức,
đặc biệt là tổ chức đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo, chăm lo xây dựng môi trường
văn hoá lành mạnh trong đơn vị mình, nhất là môi trường văn hoá chính trị và
môi trường văn hoá sư phạm; quan tâm xây dựng cảnh quan môi trường trong
đơn vị xanh, sạch, đẹp.
Đồng thời, các đơn vị cần đảm bảo, giữ gìn sử dụng có hiệu quả cơ sở
vật chất, trang bị về văn hoá. Đây là yêu cầu khách quan cho sự tồn tại và
phát triển của môi trường văn hoá. Vì vậy, các đơn vị cần quan tâm đầu tư

đúng mức cho vấn đề này.
Kết hợp chặt chẽ với địa phương trong xây dựng môi trường văn hoá.
Lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị cần quan tâm thường xuyên tổ chức giao lưu,
kết nghĩa với địa phương, đơn vị bạn với nhiều nội dung, hình thức phong
phú để tiếp thu chọn lọc học hỏi những kinh nghiệm, khắc phục những thiếu
sót, khuyết điểm, trên cơ sở đó thắt chặt mối quan hệ với nhân dân, các tổ
chức đoàn thể địa phương và đơn vị bạn, làm phong phú thêm đời sống vật
chất, tinh thần cho mọi cán bộ, chiến sĩ; góp phần đấu tranh có hiệu quả với
âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ thù và những biểu hiện sai trái.


21

Khắc phục với những nhận thức và hành động sai trái của bất kì cán bộ,
chiến sĩ nào trong đơn vị về xây dựng môi trường văn hoá; đồng thời tránh hiện
tượng quản lý quá chặt chẽ bộ đội trong “hàng rào” để tránh vi phạm kỷ luật;
hay không quan tâm đến đời sống tinh thần của bộ đội, ỷ lại cấp trên hoặc sử
dụng không hợp lí kinh phí, trang thiết bị văn hoá, gây thất thoát, lãng phí.
Năm là, kiên quyết đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lí luận, vạch trần
bản chất phản động chính trị, phản khoa học của âm mưu “phi chính trị hóa
quân đội”.
Để thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”, kẻ thù rất coi trọng
phá hoại ta trên lĩnh vực tư tưởng, lí luận. Mục tiêu của kẻ thù phá hoại ta trên
lĩnh vực này là phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng quân đội kiểu mới, về bản chất cách mạng, mục tiêu, lí
tưởng chiến đấu cao cả của quân đội ta và gieo rắc, truyền bá các quan điểm
tư sản sai trái phản động về “quân đội trung lập”, “quân đội phi giai cấp”, làm
cơ sở biện minh cho việc tước bỏ sự lãnh đạo của Đảng ta đối với quân đội,
gây tâm lí hoang mang, dao động trong cán bộ, chiến sĩ. Âm mưu tạo ra
những yếu tố làm mất ổn định trong quân đội tiến tới làm suy yếu về chính trị,

vô hiệu hóa quân đội.
Do vậy, đấu tranh với địch trên mặt trận tư tưởng, lí luận chống âm
mưu “phi chính trị hóa quân đội” có tầm quan trọng đặc biệt và là mặt trận
xung yếu, nóng bỏng, gay go, quyết liệt hiện nay.
Nhiệm vụ cơ bản trong đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lí luận chống
âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” hiện nay là: cùng với việc đấu tranh trên
lĩnh vực tư tưởng, lí luận nói chung của toàn Đảng, quân đội ta phải hết sức
coi trọng, góp phần đấu tranh bảo vệ và phát triển quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội kiểu mới mang bản
chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc; đấu tranh mạnh


22

mẽ, không khoan nhượng vạch trần bản chất phản động chính trị, phản động
khoa học của âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”. Những luận điệu về “quân
đội trung lập”, “quân đội phi giai cấp” là vô căn cứ, phản khoa học cả về lí
luận và thực tiễn; là nhân danh “dân chủ hóa” để lừa bịp về chính trị; thực
chất là từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội ta, hòng chuyển hóa
lập trường chính trị, bản chất giai cấp công nhân của quân đội.
Trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lí luận, cần tiếp tục khẳng
định: QĐNDVN ra đời từ phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta,
được Đảng và Bác Hồ tổ chức và lãnh đạo. Quân đội ta không có mục tiêu
chiến đấu nào khác là độc lập dân tộc và CNXH để đem lại hạnh phúc, no ấm
cho quãng đại quần chúng nhân dân lao động và của cả dân tộc, đó cũng là
mục tiêu chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Để tiến hành đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lí luận chống âm mưu
“phi chính trị hóa quân đội” có hiệu quả, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân
cần tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính
trị tư tưởng; chú trọng và thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ

cán bộ lí luận trong quân đội có đủ phẩm chất, năng lực, nhanh nhạy, sắc bén
trong đấu tranh và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho lực lượng này tích cực
tham gia đấu tranh với kẻ thù trên mặt trận tư tưởng, lí luận. Công tác tư
tưởng phải góp phần đắc lực trong việc xây dựng, nâng cao bản lĩnh chính trị
cho bộ đội ở mọi lúc, mọi nơi, làm cho họ tự “miễn dịch” trước những âm
mưu, thủ đoạn của kẻ thù.
Đẩy mạnh việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lí luận, sớm kết luận
những vấn đề mới và bức xúc từ thực tiễn đấu tranh âm mưu “phi chính trị
hóa quân đội”; nâng cao sự thống nhất với quan điểm, đường lối của Đảng, sự
đồng thuận trong toàn quân và toàn dân.


23

Năm giải pháp cơ bản đã nêu ở trên, mỗi giải pháp có vị trí, vai trò
khác nhau nhưng đều thống nhất biện chứng không tách rời nhằm đấu tranh
thắng lợi với âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ thù.
Là cán bộ chính trị trong quân đội, trước hết bản thân nhận thức sâu sắc
bản chất, âm mưu, thủ đoạn nham hiểm âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”
của kẻ thù; tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, tin
tưởng vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của công cuộc đổi
mới đất nước; tích cực học tập, rèn luyện mọi mặt, nâng cao nhận thức về chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt sâu sắc đường lối, quan
điểm của Đảng trong sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc; thường
xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ lí luận chính trị; vận dụng sáng tạo
những kiến thức đã được học để đấu tranh kiên quyết không khoan nhượng
với các luận điệu thù địch nói chung và luận điệu “phi chính trị hóa quân đội”
nói riêng bằng nhiều hình thức, nhất là trên các phương tiện thông tin đại
chúng; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Là người giáo viên khoa học-xã hội và nhân văn quân sự, bản thân luôn

phải gương mẫu thực hiện tốt nhiệm vụ, đạo đức, lối sống. Trong từng bài
giảng cụ thể phải biết kết hợp lồng ghép giáo dục nâng cao nhận thức cho học
viên về chiến lược “diễn biến hoà bình” nói chung, âm mưu “phi chính trị hóa
quân đội” của kẻ thù nói riêng; làm cho mỗi học viên nhận thức rõ, kiên định
sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội; trung thành với mục tiêu, lí tưởng
chiến đấu vì độc lập dân tộc và CNXH, vì hạnh phúc của nhân dân; Phát huy
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong thời kì mới, yêu nước phải gắn với yêu
Đảng, yêu nhân dân, yêu chế độ XHCN.
Trên cơ sở đó để mỗi học viên tích cực góp phần xây dựng quân đội
vững mạnh về mọi mặt, lấy vững mạnh về chính trị làm cơ sở để quân đội đủ
sức hoàn thành mọi nhiệm vụ, luôn luôn xứng đáng là lực lượng tin cậy bảo


24

vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và nhân dân; cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
làm thất bại mọi âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ thù.
Đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật Nhà nước, điều lệnh, điều
lệ, kỷ luật Quân đội và những hiện tượng tiêu cực, lạc hậu trong đơn vị.
Tóm lại, âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” là thủ đoạn cực kì nham
hiểm, thâm độc trong chiến lược “diễn biến hoà bình” và bạo loạn lật đổ của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nhằm tước bỏ sự lãnh đạo của Đảng với
quân đội ta; làm cho quân đội mất phương hướng, mục tiêu lí tưởng chiến đấu,
dẫn đến suy yếu về chính trị, bị “vô hiệu hóa”. Vì vậy, đấu tranh làm thất bại âm
mưu “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ thù là yêu cầu cấp bách trong xây dựng
quân đội vững mạnh toàn diện, trong đó xây dựng về chính trị làm cơ sở. Toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần nhận thức đầy đủ tính cấp thiết của nhiệm vụ
đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” và mức độ nguy
hiểm của âm mưu này; thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng, quyết tâm
và có chủ trương, hình thức, biện pháp đấu tranh có hiệu quả, giữ vững và tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, góp phần làm thất bại hoàn toàn
chiến lược “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội cần nhận thức sâu sắc bản chất, âm
mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ thù để có biện pháp đấu
tranh có hiệu quả; kiên quyết phê phán những nhận thức mơ hồ, sai trái.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX,

2.
3.

Nxb CTQG, H. 2001.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H, 1995.
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H, 1995.

4.

V.I. Lênin, Toàn tập, tập 12, Nxb TB, M. 1979.

5.

V.I. Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb TB, M. 1980.


25

6.
7.


V.I. Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb TB, M. 1976.
V.I. Lênin, Toàn tập, tập 38, Nxb TB, M. 1978.


×