Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tại sao HCM chủ trương cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên CNXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.85 KB, 22 trang )

Bài tập lớn cá nhân
Đề tài: Tại sao Hồ Chí Minh trủ trương cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Bài làm
1.Lý luận của luận điểm
1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lênin: Xuất phát từ quan điểm của chủ
nghĩa Mac- Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất
1.1.1 Lực lượng sản xuất là gì? Quan hệ sản xuất là gì?
- Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của xã hội ở các thời kì
nhất định để sản xuất của cải nhằm đáp ứng những nhu cầu sinh sống và phát triển
của con người trong mọi xã hội. Lực lượng sản xuất bao gồm:
Người lao động có thói quen và kĩ năng lao động, có
kinh nghiêm, tri thức và trình độ chuyên môn- kĩ thuật
Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu
lao động
+ Đối tượng lao động là những gì mà con người
tác động đến khi sản xuất và để tạo ra của cải vật chất( đất đai, sông rừng, nguyên
liệu, khoáng sản…)
+ Tư liệu lao động hay công cụ lao động là tổng
hợp những vật thể mà con người cho thích ứng và dùng làm vật dẫn tác động đến
đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm(dụng cụ, máy móc, hệ thống chứa đựng
chuyên chở…)
-Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất( sản xuất và tái sản xuất xã hội)
Nếu như trong khái niệm lực lượng sản xuất là mặt tự nhiên của sản xuất thì quan
hệ sản xuất là mặt xã hội của sản xuất
1



Quan hệ sản xuất bao gồm: Quan hệ sở hữu( quan hệ giữa người với người trong
chiếm hữu tư liệu sản xuất), quan hệ tổ chức quản lí( quan hệ giữa người với người
trong tổ chức quản lí xã hội và trao đổi hoạt động cho nhau) và quan hệ phân phối
lưu thông( quan hệ giữa người và người trong phân phối, lưu thông sản phẩm xã
hội). Trong ba mặt trên thì quan hệ sở hữu là quan trọng nhất, nó có vai trò quyết
định và chi phối quan hệ tổ chức quản lí và quan hệ phân phối
1.1.2 Tính thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo ra phương thức
sản xuất. Phương thức sản xuất được hiểu là cách thức sản xuất ra của cải vật chất
đáp ứng nhu cầu của con người trong từng xã hội cụ thể
Theo Marx, xã hội loài người trong các giai đoạn lịch sử và ở các khu vực khác
nhau có thể trải qua 5 phương thức sản xuất khác nhau. Cụ thể là:
-

Phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy
Phương thức sản xuất phong kiến
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa
Phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa

1.1.3 Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan
hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một
trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là "hình thức phát triển" của lực lượng sản
xuất
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ
sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành "xiềng xích" của lực lượng sản xuất,

kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực
lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất
mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực
lượng sản xuất tiếp tục phát triển
2


1.1.4 Vai trò tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có
tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con
người trong lao động sản xuất... và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng
sản xuất.
Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động
lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc
hậu hoặc "tiên tiến" hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
1.1.5 Sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất
Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được biểu hiện là biện
chứng của “phù hợp” (quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển tất yếu của lực
lượng sản xuất) và “không phù hợp” (do mâu thuẫn giữa tính năng động, cách
mạng của lực lượng sản xuất với tính ổn định tương đối của quan hệ sản xuất).
Đó là sự phù hợp biện chứng chứa đựng mâu thuẫn và bao hàm mâu thuẫn trong
đó bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối của quan hệ sản xuất đối với lực
lượng sản xuất.
Bởi vì, “phù hợp” hay “không phù hợp” thì quan hệ sản xuất vẫn quy định
khuynh hướng phát triển của các quan hệ lợi ích và từ đó quy định hệ thống các
yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, tác động thúc đẩy
hay kìm hãm chỉ có tính chất tương đối, bởi xét cho cùng, quy luật tất yếu sẽ vạch

đường đi cho mình. ở đây, Mác đã vạch ra tính đúng đắn, khoa học của quan điểm
duy vật về lịch sử thể hiện ở chỗ coi nhân tố chủ quan của con người có vai trò
động lực trong việc phát hiện và giải quyết mâu thuẫn thúc đẩy tiến trình phát triển
lịch sử xã hội.
1.2 Quan điểm của Đảng

3


Đảng ta kế thừa tư tưởng của chủ nghĩa Mac- Lênin nhận thức đúng đắn về trình
độ của lực lượng sản xuất, tìm ra điểm kết nối hợp lý giữa trình độ và xu hướng
phát triển, là cơ sở để định hướng xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
lực lượng sản xuất
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lênin, khi bước vào thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, nước ta có một đặc điểm lớn nhất từ một nước nông nghiệp lạc hậu
tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Thực
chất của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình cải biến nền sản
xuất lạc hậu thành nền sản xuất hiện đại phù hợp với xu hướng phát triển ngày
càng vũ bão khoa học công nghệ của các nước trên thế giới. nên trong thời gian
này nước ta tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu theo sau nó Đảng ta chủ
trương kết hợp nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
Như vậy, xây dựng quan hệ sản xuất mới định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
phải đảm bảo các yêu cầu sau đây :
Một là, quan hệ sản xuất mới được xây dựng phải dựa trên kết quả của sự phát
triển lực lượng sản xuất, “ bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng
đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới”.
Hai là, quan hệ sản xuất biểu hiện trên ba mặt: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức
quản lí và phân phối sản phẩm, do đó, quan hệ sản xuất mới phải được xây dựng
một cách đồng bộ cả ba mặt đó.

Ba là, tiêu chuẩn căn bản để đánh giá tính đúng đắn của quan hệ sản xuất mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là ở hiệu quả của nó: thúc đẩy phát triển lực
lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
Trong thời kì quá độ ở nước ta, tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, hình
thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh
đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Do đó, xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội
chủ nghĩa đồng thời phải tôn trọng và sử dụng lâu dài và hợp lí cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần.
2. Kinh nghiệm thực tiễn các nước
4


2.1 Trung Quốc
Lấy ví dụ về cộng hòa nhân dân trung hoa trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội
vì:
- Việt nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng trong quá trình phát
triển
- Cộng hòa nhân dân trung hoa định hướng theo nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần trong thời kì quá độ nên chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung
Quốc đạt được thành công đáng kể.
2.1.1Trung Quốc tiến hành cải cách
Kể từ năm 1978, tạihội nghị Trung ương 3 khóa XI của Đảng cộng sản Trung
Quốc (12/1978) chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã quyết định cải
cách nền kinh tế từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung theo mô hình Liên Xô
sang một nền kinh tế theo định hướng thị trường trong khi vẫn duy trì thể chế
chính trị do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Chế độ này được gọi bằng tên
"Chủ nghĩa Xã hội mang màu sắc Trung Quốc", là một loại kinh tế hỗn hợp.
Để thực hiện công cuộc cải cách này, Trung Quốc đã thực hiện cải cách một
cách toàn diện nông nghiệp, công nghiệp,…
Trong nông nghiệp, bằng việc chuyển đổi từ chế độ hợp tác xã sang chế độ

khoán đến từng hộ gia đình.
Trong công nghiệp, trước cải cách, hoạt động kinh doanh của các xí nghiệp
không được quyết định bởi lợi ích của bản thân xí nghiệp hay nhu cầu thị trường.
Tất cả được quyết định bởi những người đứng đầu nhà nước với con dấu nắm chặt
trong tay. Đặng Tiểu Bình chỉ đạo cuộc cải cách chỉ bằng những lý luận hết sức
đơn giản: dỡ miếu tông thần, không cần nhiều lãnh đạo, nhiều con dấu, nhiều chỉ
thị mà quan trọng nhất là quyền tự chủ.
Quá trình cải cách nền kinh tế đã hình thành nên các thành phần kinh tế trong
nền kinh tế Trung Quốc: Thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài,… Nói đến cải cách của Trung Quốc chúng ta không thể
không nói tới sáu đột phá lớn về lý luận trong việc xây dựng CNXH
5


Lý luận về kinh tế thị trường XHCN
Lý luận về giai đoạn đầu của CNXH và lý luận mang đặc sắc Trung Quốc
Lý luận về chế độ sở hữu và hình thức thực hiện của chế độ sở hữu.
Lý luận về chế độ cổ phần và hợp tác cổ phần
Lý luận về phân phối theo lao động và phân phối theo các yếu tố sản xuất
Lý luận về công nhân viên chức nghỉ việc (hạ cương) và tái việc làm

2.1.2 Thành công đạt được từ khi tiến hành cải cách
Năm 1979: Trung Quốc quyết định xây dựng các đặc khu kinh tế, gồm ba đặc
khu kinh tế là Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu tại tỉnh Quảng Đông và đặc khu
kinh tế Hạ Môn tại tỉnh Phúc Kiến. Việc quyết định xây dựng đặc khu nhằm mở
rộng hợp tác kỹ thuật và giao lưu kinh tế với nước ngoài, tận dụng FDI (vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài), đưa khoa học kỹ thuật tiên tiến vào Trung Quốc. Từ năm
1978-2007, FDI tích lũy vượt 760 tỉ USD, đứng đầu thu hút FDI tại các nước đang
phát triển và đứng thứ hai thế giới.
Năm 1982, Trung Quốc thực hiện khoán sản lượng hoặc khoán toàn bộ đến hộ

nông dân. Việc giải phóng năng lực sản xuất cho hàng trăm triệu hộ nông dân đã
mang lại bước nhảy vọt trong kinh tế nông thôn. Giá trị tổng sản lượng nông
nghiệp tăng bình quân 11,5%/năm trong giai đoạn 1980 - 1985, gấp 3,5 lần giai
đoạn 1953 - 1980.
Năm 1986, Trung Quốc khởi động cải cách doanh nghiệp nhà nước.Năm 1993,
Trung Quốc hiện đại hóa khu vực kinh tế nhà nước gồm tổ chức các tập đoàn lớn,
đổi mới kỹ thuật, áp dụng phương pháp quản lý khoa học.Các doanh nghiệp nhà
nước vừa và nhỏ có quyền lựa chọn hình thức tổ chức và hoạt động như cổ phần
hóa, cho thuê, chuyển thành sở hữu tập thể hoặc bán cho tư nhân.Đến cuối năm
2007, 1.550 doanh nghiệp lên sàn chứng khoán.
Năm 1992, Trung Quốc xác lập mục tiêu “kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa”.Mở đầu thị trường hóa trong lĩnh vực y tế và nhà ở thị trường hóa từ năm
1992 – 1994. Kết quả điển hình của thị trường hóa là doanh thu trong lĩnh vực kinh
doanh ăn uống tăng gấp 225 lần; bình quân năm tăng 20,53%.
6


Năm 1994: Trung Quốc thông qua Luật ngoại thương, bãi bỏ việc lập kế hoạch
theo chỉ thị hoạt động xuất nhập khẩu; trao cho doanh nghiệp quyền hoạt động
kinh tế đối ngoại, bãi bỏ việc cấp quota đối với một loạt hàng hóa. Nhà đầu tư
nước ngoài được hưởng ưu tiên và ưu đãi về thuế. Các khu vực kinh tế tự do như
khu Phố Đông ở thành phố Thượng Hải, Thâm Quyến… trở thành trung tâm thu
hút tư bản nước ngoài và là “trung tâm phát triển”. Từ năm 1978 – 2007, kim
ngạch ngoại thương tăng từ 20,64 tỉ USD lên 2.170 tỉ USD, hơn 100 lần!
Năm 1993, Trung Quốc tiến hành cải cách chính sách thuế theo hướng thúc đẩy
doanh nghiệp phát triển và áp dụng chính sách giá theo giá thị trường. Năm 1996,
Trung Quốc áp dụng tỷ giá ngoại tệ thống nhất dựa theo tỷ giá giao dịch trên thị
trường liên ngân hàng. Năm 1999, kinh tế ngoài quốc doanh được xác định là một
bộ phận cấu thành quan trọng của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Năm 2001, Trung Quốc chính thức trở thành thành viên WTO. Đến năm 2002,

các ngân hàng nước ngoài đã mở 175 công ty với tổng số vốn 31,7 tỉ USD; chín
công ty bảo hiểm nước ngoài thuộc tám nước đã mở 12 công ty tại Trung Quốc.
Các tổ chức tài chính thu hút vốn FDI tập trung tại các thành phố và đặc khu như
Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Thâm Quyến, Hạ Môn, Chu Hải, Thiên
Tân…
Năm 2004, Trung Quốc cổ phần hóa các ngân hàng thương mại quốc doanh; đưa
điều khoản bảo hộ tài sản tư hữu vào Hiến pháp. Căn cứ theo số liệu của tạp chí
Forbes, Trung Quốc có 10 tỉ phú USD năm 2005 trong số 691 tỉ phú USD của thế
giới.
Năm 2005, Trung Quốc bãi bỏ thuế nông nghiệp; đưa ra nhiệm vụ lịch sử xây
dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa.Nông dân chiếm hơn 70% dân số Trung
Quốc thoát nghèo, một số người và khu vực dần giàu lên. Từ năm 1978 – 2007,
người nghèo ở nông thôn từ 250 triệu người giảm còn 14,79 triệu người.
Năm 2007: Luật về quyền tài sản tư ra đời. Theo Nhân dân nhật báo, tiền dự trữ
trong dân tăng gấp 700 lần trong 30 năm. Theo con số thống kê của tạp chí Forbes
tháng 3.2008, số lượng tỉ phú USD của Trung Quốc là 42 người; cộng thêm 26 tỉ
phú của đặc khu Hongkong, Trung Quốc vượt qua Nhật Bản trở thành nước có
nhiều tỉ phú nhất châu Á. Ngoài ra, Trung Quốc còn là một trong những nước có
nhiều triệu phú nhất thế giới.
Trong 30 năm những thành tựu mà nhân dân các dân tộc Trung Quốc giành được
là rất đáng khâm phục: kinh tế tăng trưởng tăng liên tục, giai đoạn 1978 – 2007,
GDP bình quân tăng hơn 9%, thực lực kinh tế từ vị trí thứ 10 tăng lên thứ 4, ngoại
7


thương từ thứ 32 vươn lên thứ 3, thu hút đầu tư nước ngoài đứng thứ 2 và dự trữ
ngoại tệ đứng đầu thế giới. Đời sống nhân dân đã từ chỗ chưa giải quyết được vấn
đề no ấm, nay về tổng thể đã bước vào giai đoạn khá giả, thu nhập bình quân đầu
người tăng trưởng nhanh. Vị thế của Trung Quốc trên trường quốc tế cũng được
nâng cao.

Những điều đó chứng tỏ rằng con đường xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc
mà Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc lựa chọn là đúng đắn, không những
phù hợp với thực tiễn, giúp cho Trung Quốc phát triển, mà còn đóng góp nhất định
cho sự tăng trưởng của kinh tế thế giới đồng thời cung cấp những bài học kinh
nghiệm có giá trị tham khảo rất tốt cho các nước đang phát triển khác, nhất là các
nước đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam.
2.2 Kinh nghiệm đối với Việt Nam
Việt Nam là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc. Công
cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo cũng đã giành
được những thành tựu quan trọng và có ý nghĩa lịch sử. Trong quá trình đổi mới
đất nước, Đảng và Chính phủ Việt Nam rất coi trọng tham khảo kinh nghiệm nước
ngoài, nhất là của Trung Quốc
Từ những kinh nghiệm cải cách mở cửa của Trung Quốc, Việt Nam có thể rút ra
bài học kinh nghiệm quý báu:
- Trong quá trình cải cách luôn luôn giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản Việt Nam, lấy Đảng là nòng cốt trong quá trình định hướng các bước đi thích
hợp phù hợp với tình hình thực tế
- Trong quá trình phát triển kinh tế phải dựa vào điều kiện khách quan, thực
trạng của đất nước để có bước đi thích hợp, không nóng vội chủ quan, mà phải
tuần tự từ thấp đến cao. Xuất phát từ tình hình nước ta là một nước nông nghiệp lạc
hậu thì trước hết phải tạo điều kiện phát triển nông nghiệp, từ đó làm tiền đề phát
triển công nghiệp rồi đến các ngành dịch vụ, công nghiệp nhẹ và cao hơn nữa là
công nghiệp nặng

8


- Phải biết vận dụng sức mạnh toàn dân, kết hợp nhịp nhàng các thành phần kinh
tế để đạt mục tiêu phát triển kinh tế chung, cùng hỗ trợ nhau phát triển đến năm
2020 nước ta cơ bản là một nước công nghiệp

- Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới kiên trì lập trường mở cửa ra thế giới,
coi toàn cầu hoá là cơ hội ngàn năm có một mà Việt Nam phải nắm lấy để tiến lên
- Học hỏi Trung Quốc xây dựng 5 đặc khu kinh tế, tạo đột phá mạnh, tạo đà lan
toả phát triển nhanh và rộng
- Phát triển xí nghiệp hương trấn; cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước “nắm
lớn, buông nhỏ”; “dò đá qua sông” kết hợp “đại luận chiến”
- Kết hợp cải cách kinh tế với cải cách chính trị
- Huy động sức mạnh Việt kiều ở nước ngoài
3. Thực tiễn ở Việt Nam ( giai đoạn của Hồ chí minh)
Trong suốt hơn 80 năm thực dân Pháp xâm lược và thống trị Việt nam, cùng với
quá trình đầu tư khai thác kinh tế và thực thi hàng loật các chính sách về chính trị,
xã hội , văn hoá, giáo dục, thực dân Pháp đã du nhập vào nước ta một phương thức
sản xuất mới có tính chất tư bản chủ nghĩa.
Dưới tác động của phương thức sản xuất TBCN do tư bản Pháp du nhập vào, nền
kinh tế Việt Nam dần chuyển biến từ một nền nông nghiệp lạc hậu, tự cung tự cấp
sang một nền kinh tế thuộc địa- TBCN. Việc sử dụng phương thức kinh tế theo lối
TBCN đã tạo ra bước phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất. Nền kinh tế
bắt đầu hình thành và phát triển ở một số khu vực sản xuất. Các sản phẩm làm ra
không không phải chỉ đảm bảo các nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn dùng để
xuất khẩu ra thị trường thế giới. Nhờ có các hoạt động kinh tế với nước ngoài mà
lần đầu tiên nền kinh tế Việt Nam đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia để tiếp cận và
từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Như vậy có thể nói là so với giai đoạn trước , nền kinh tế Việt Nam từ đầu thế kỷ
20 đến năm 1945 đã phát triển nhanh chóng và có những chuyển biến căn bản .
9


Quan hệ TBCN đã được mở rộng và giữ vị trí quan trọng trong nhiều ngành kinh
tế. Có thể nói cho đến trước năm 1945, cơ cấu nền kinh tế thuộc địa- tư bản chủ
nghĩa đã thực sự được xác lập ở nước ta.

Mặc dù vậy, sự xác lập các ngành kinh tế mới và đi liền với nó là sự ra đời và
phát triển của các lực lượng xã hội mới đã tạo những tiền đề vật chất cần thiết cho
sự tiếp thu các quan điểm và tư tưởng mới, làm cơ sở và động lực thúc đẩy sự phát
triển của phong trào dân tộc, đưa xã hội Việt nam chuyển nhanh vào quỹ đạo vận
hành của toàn nhân loại.
4. Chứng minh tính đúng đắn của luận điểm
4.1 Tính đúng đắn về mặt lý luận
Bắt đầu từ đại hội VI( 1986) Đảng ta chủ trương chuyển đổi kinh tế bao cấp một
thành phần sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần bao gồm các thành phần
kinh tế:Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư
nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong đó thành
phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) thực chất
là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được bắt đầu từ Đại hội
Đảng VI (năm 1986) và ngày càng được hoàn thiện. Thực tế 20 năm đổi mới và
phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN đã chứng
minh rằng, kinh tế thị trường là con đường phát triển kinh tế có hiệu quả, từ đó quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một quá trình vừa đổi mới tư duy lý luận, nhất là
tư duy kinh tế, vừa bám sát các quy luật khách quan và kịp thời tổng kết thực tiễn
đầy sống động của Việt Nam.
Đến đại hội X tiếp tục làm sáng rõ hơn những vấn đề lý luận liên quan đến xây
dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với 4 nội dung cơ bản
là:

10


- Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta

hiện
-Phát triển đồng bộ và quản lí có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường cơ
bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh nay.
-Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước.
. -Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức kinh doanh.
Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu
to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có
sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng
nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực
mới cho đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn
toàn phù hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại.
Kinh tế thị trường là một phạm trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương đối, phát
triển theo những quy luật riêng vốn có của nó dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời
điểm nào của lịch sử. Song, trong thực tế không có một nền kinh tế thị trường trừu
tượng, chung chung cho mọi giai đoạn phát triển, mà gắn với mỗi giai đoạn phát
triển nhất định của xã hội là những nền kinh tế hàng hóa cụ thể
Sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam không
phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và CNXH, mà là sự nắm bắt
và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày
nay; là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu văn minh nhân loại, nhằm phát huy vai trò
tích cực của kinh tế thị trường trong việc phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao
động, cải tiến kỹ thuật - công nghệ, nâng cao đời sống nhân dân... Đồng thời, hạn
chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường gây ra.
Nói kinh tế thị trường định hướng XHCN có nghĩa là nền kinh tế nước ta không
phải là nền kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu; cũng không phải
là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa; và cũng chưa hoàn toàn là
kinh tế thị trường XHCN. Bởi vì Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH,
vừa có, vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của CNXH, còn có sự đan xen và đấu tranh
giữa cái cũ và cái mới..

11


Đại hội lần thứ X của Đảng đã làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản của
định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta với 4 tiêu chí cơ
bản sau:
Thứ nhất, về mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là
nhằm: thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
Thứ hai, về phương hướng phát triển, phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân.
Thứ ba, về định hướng xã hội và phân phối: Phải thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế
phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào
tạo... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người
Thứ tư, định hướng XHCN trong lĩnh vực quản lý: Phát huy quyền làm chủ xã
hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết kinh tế của Nhà nước pháp
quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Định hướng XHCN là một tất yếu, là sự lựa chọn phù hợp với nội dung của thời
đại - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
Định hướng XHCN ở nước ta là nhằm mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với
XHCN thể hiện trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây không chỉ là
một tất yếu về chính trị và nguyện vọng mong muốn của nhân dân ta, mà còn là
một tất yếu kinh tế, văn hóa, xã hội
=>Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia
xây dựng chủ nghĩa xã hội, dù điểm xuất phát ở trình độ phát triển cao hay thấp.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Bởi vì:
Một là, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật khách
quan của lịch sử.

Hai là, phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp với xu thế
của thời đại, mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam: cách mạng
dân tộc, dân chủ gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu đối với mọi quốc gia đi lên chủ
nghĩa xã hội, nhưng nó lại có đặc điểm riêng đối với mỗi quốc gia ; do điều kiện
xuất phát riêng của mỗi quốc gia quy định. Khi cả nước thống nhất cùng tiến lên
chủ nghĩa xã hội, đặc điểm trên vẫn còn tồn tại. Phân tích rõ hơn thực trạng kinh tế,
chính trị của đất nước, trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
12


lên chủ nghĩa xã hội, Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: “nước ta quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong
kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu
quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều. Các thế lực
thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội và nền độc lập của nhân
dân ta”
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không thể thực hiện quá độ trực tiếp lên
chủ nghĩa xã hội mà phải qua con đường gián tiếp, qua việc thực hiện hàng loạt các
hình thức quá độ. Sự cần thiết khách quan và vai trò tác dụng của hình thức kinh tế
quá độ được Lênin phân tích sâu sắc trong lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Thực hiện các hình thức kinh tế quá độ, các khâu trung gian... vừa có tác dụng phát
triển nhanh chóng lực lượng sản xuất, vừa cần thiết để chuyển từ các quan hệ tiền
tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nó là hình thúc vận dụng các quy luật kinh tế phù hợp
với điều kiện cụ thể.
Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta tạo
ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là quá trình rất khó khăn,
phức tạp, tất yếu “phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”
4.1.1Về mặt khách quan

Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang phát triển như vũ bão và
toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở
thành tất yếu; nó mở ra khả năng thuận lợi để khắc phục những hạn chế của nước
kém phát triển như thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, khả năng và kinh nghiệm quản lí
yếu kém ..., nhờ đó ta có thể thực hiện “ con đường rút ngắn”.
Thời đại ngày nay, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xu hướng khách quan của loài
người. Đi trong dòng chảy đó của lịch sử, chúng ta đã, đang và sẽ nhận được sự
đồng tình, ủng hộ ngày càng mạnh mẽ của loài người, của các quốc gia độc lập
đang đấu tranh để lựa chọn con đường phát triển tiến bộ của mình.
4.1.2Về mặt chủ quan
Nước ta có nguồn lao động dồi dào với truyền thống lao động cần cù và thông
minh, trong đó đội ngũ làm khoa học, công nghệ, công nhân lành nghề có hàng
chục ngàn người ... là tiền đề rất quan trọng để tiếp thu, sử dụng các thành tựu khoa
học và công nghệ tiên tiến của thế giới. Nước ta có nguồn tài nguyên đa dạng, vị trí
13


địa lí thuận lợi và những cơ sở vật chất - kĩ thuật đã được xây dựng là những yếu tố
hết sức quan trọng để tăng trưởng kinh tế
Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội không những phù hợp với quy luật phát triển lịch sử
mà còn phù hợp với nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam đã chiến
đấu, hi sinh không chỉ vì độc lập dân tộc mà còn vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc,
xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một
Đảng giàu tinh thần cách mạng và sáng tạo, có đường lối đúng đắn và gắn bó với
nhân dân, có Nhà nước xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ngày càng được
củng cố vững mạnh và khối đại đoàn kết toàn dân, đó là những nhân tố chủ quan
vô cùng quan trọng bảo đảm thắng lợi côngcuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
4.1.3 Yêu cầu quan hệ sản xuất mới của Việt Nam

Một là, quan hệ sản xuất mới được xây dựng phải dựa trên kết quả của sự phát
triển lực lượng sản xuất, “ bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng
đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới”.
Hai là, quan hệ sản xuất biểu hiện trên ba mặt: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức
quản lí và phân phối sản phẩm, do đó, quan hệ sản xuất mới phải được xây dựng
một cách đồng bộ cả ba mặt đó.
Ba là, tiêu chuẩn căn bản để đánh giá tính đúng đắn của quan hệ sản xuất mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là ở hiệu quả của nó: thúc đẩy phát triển lực
lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
Trong thời kì quá độ ở nước ta, tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, hình
thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh
đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Do đó, xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội
chủ nghĩa đồng thời phải tôn trọng và sử dụng lâu dài và hợp lí cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần.
4.2 Thành tựu đạt được
4.2.1 Về mặt kinh tế

14


Trong gần 20 năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu khá ấn
tượng.
Một là, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân đạt trên
7%/năm trong nhiều năm, đặc biệt là giai đoạn 1991-1995 (đạt trên 8,2%/năm).
Trong nông nghiệp đã có sự chuyển dịch rõ nét về cơ cấu sản xuất và cơ cấu sản
phẩm. Ngành nông nghiệp Việt Nam từ chỗ không cung cấp đủ lương thực cho cả
nước đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới chỉ sau
Thái Lan.
Công nghiệp đã có bước cải tiến khá rõ nét trong việc cơ cấu lại sản xuất, đổi
mới công nghệ theo hướng hiện đại hóa, hình thành một số ngành công nghiệp mũi

nhọn, công nghiệp kỹ thuật cao: tạo cơ sở ban đầu cho công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá; phát huy lợi thế của từng ngành, từng sản phẩm, duy trì được nhịp độ
tăng trưởng cao, gắn sản xuất với thị trường, sản phẩm tiêu thụ khá.
Sự tham gia của các thành phần kinh tế trong sản xuất công nghiệp đã làm cho
sản xuất mang tính đa dạng cả về quy mô sản xuất, trình độ công nghệ, chủng loại
và chất lượng hàng hoá, đáp ứng nhu cầu khác nhau của các tầng lớp dân cư có
mức độ thu nhập khác nhau.
Các ngành dịch vụ đã có những bước chuyển dịch tích cực, theo hướng đáp ứng
tốt hơn các nhu cầu sản xuất, kinh doanh và phục vụ đời sống nhân dân. Giá trị
sản xuất của các ngành dịch vụ tăng bình quân khoảng 7%/năm.
Ngành thương mại hoạt động sôi nổi, đảm bảo lưu thông hàng hoá và vật tư
trong cả nước và trong từng vùng. Ngành du lịch có bước tăng trưởng khá nhanh
và toàn diện với nhiều chiến dịch du lịch lớn thu hút đông đảo lượng khách quốc tế
đến Việt Nam. Tính riêng trong năm 2004 có khoảng 3,2 triệu lượt người đến Việt
Nam.

15


Tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế qua các thời kỳ
Đơn vị Giai đoạn Giai đoạn Ước
thực
tính
1991-1995 1996hiện
giai
2000
đoạn 20012005
Tốc độ tăng GDP

%


8,2

7,0

7,4

Tốc độ tăng giá trị sản %
xuất nông- lâm- ngư
nghiệp

5,9

5,8

5,1

Tốc độ tăng giá trị sản %
xuất công nghiệp

13,7

13,5

15,4

Tốc độ tăng giá trị sản %
xuất dịch vụ

10,1


6,8

7,5

GDP bình quân đầu người

220

462

600

USD

www.mpi.gov.vn
Hai là, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Trong gần 20 năm qua, tỷ trọng của các ngành kinh tế trong GDP đã có sự
chuyển dịch theo chiều hướng tích cực và hiệu quả, góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Tỷ trọng nông- lâm - ngư nghiệp trong GDP liên tục giảm, từ 27,2% năm 1995
xuống 24,5% năm 2000 và còn 20,4% năm 2004 và ước khoảng 19% năm 2005 so
với mục tiêu là 20-21%. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng liên tục tăng từ 28,8%
năm 1995 lên 36,6% năm 2000 và ước đạt 42% năm 2005. Tỷ trọng các ngành
dịch vụ là khoảng 39%.
Ba là, kinh tế vĩ mô ổn định, các cân đối chủ yếu trong nền kinh tế đã được điều
chỉnh thích hợp để duy trì khả năng tăng trưởng.

16



Quan hệ tích luỹ và tiêu dùng được cải thiện theo hướng tăng tích luỹ cho đầu tư
phát triển. Tổng quỹ tiêu dùng giai đoạn 2001-2005 tăng trưởng khá, bình quân
khoảng 6,2%, tiêu dùng theo đầu người tăng bình quân gần 6%/năm.
Cơ cấu nguồn vốn đầu tư trong gần 20 năm qua đã có những thay đổi tích cực
theo hướng xoá bỏ dần cơ chế bao cấp trong đầu tư; nhờ đó, tỷ trọng vốn đầu tư từ
ngân sách và vốn có nguồn gốc từ ngân sách đã giảm đáng kể: vốn đầu tư từ ngân
sách giảm từ 22,6% năm 1995 xuống còn 22,3% năm 2004, vốn đầu tư của tư nhân
và dân cư tăng từ 22% năm 1995 đã tăng lên 26% năm 2004.
Bốn là, kinh tế đối ngoại có bước phát triển mạnh.
Tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001-2005 đạt trên 105 tỷ USD, gấp gần 2
lần so với giai đoạn 1996-2000 và gấp gần 6 lần giai đoạn 1991-1995. Kim ngạch
xuất khẩu bình quân đầu người năm 2005 ước đạt 342 USD tăng gần gấp 2 lần so
với năm 2000 (đạt 186 USD/người).
Tổng kim ngạch nhập khẩu giai đoạn 2001-2005 ước đạt 119,8 tỷ USD, tăng gấp
1,96 lần so với giai đoạn 1996-2000 (61 tỷ USD), tốc độ tăng bình quân hàng năm
khoảng 14%.
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cam kết liên tục tăng qua các
năm. Việc quản lý và giải ngân nguồn vốn này ngày càng được cải thiện. Trong
giai đoạn 2001-2005 tổng giá trị ODA mà các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt
Nam vào khoảng 13,64 tỷ USD tăng gấp hơn 2 lần so với giai đoạn 1996-2000,
trong đó tập trung chủ yếu vào việc hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển nông
nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo, phát triển giáo dục và đào tạo, tăng
cường năng lực và thể chế trong các lĩnh vực cải cách hành chính, luật pháp, quản
lý kinh tế....
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong một hai giai đoạn tuy có gặp
một số khó khăn do các điều kiện khách quan cũng như chủ quan nhưng do môi
trường đầu tư tiếp tục được cải thiện nên vẫn duy trì được khả năng thu hút vốn.
Giai đoạn 2001-2005, vốn FDI cấp mới và bổ sung đạt 15-16 tỷ USD, tăng gấp 1,5

lần so với giai đoạn 1996-2000. Cơ cấu vốn FDI ngày càng được thay đổi phù hợp
với yêu cầu phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước.

17


Năm là, trong 20 năm qua, nền kinh tế đã vượt qua 3 cuộc khủng hoảng lớn, có
tính chất quyết định đến sự thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước.

4.2.2. Về mặt xã hội
Bên cạnh những thành tựu về kinh tế, sau 20 năm tiến hành đổi mới, Việt Nam
đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ về phát triển xã hội, góp phần vào việc
ổn định tình hình kinh tế - xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình đạt được nhiều thành tựu tích cực. Tỷ lệ
tăng dân số giảm từ 1,7% năm 1995 xuống 1,4% năm 2000 và kế hoạch 2001-2005
giảm xuống 1,2%. Năm 1998, Việt Nam đã được Liên Hiệp Quốc tặng giải thưởng
cho các tiến bộ trong công tác dân số kế hoạch hoá gia đình.
Công tác giải quyết việc làm và tạo thêm việc làm mới được thực hiện hiệu quả
với sự tham gia của các ngành, các cấp, các địa phương, các đoàn thể quần chúng
và các thành phần kinh tế. Trong giai đoạn 1991-1995, giải quyết việc làm và tạo
thêm việc làm mới cho hơn 5 triệu lao động, giai đoạn 1996-2000 là 6,1 triệu lao
động, giai đoạn 2001-2005 ước tính là 7,5 triệu lao động.
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo có bước phát triển cả về quy mô, chất lượng, hình
thức đào tạo và cơ sở vật chất. Quy mô giáo dục - đào tạo tăng ở tất cả các bậc học.
Đến năm 2000 có 100% tỉnh, thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học
và xoá mù chữ. Đến năm 2005, ước tính có 31 tỉnh đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục
trung học cơ sở, tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đi học đạt 80%.
Các mặt văn hoá xã hội có nhiều tiến bộ: Công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt
được nhiều kết quả rất đáng khích lệ, tạo cơ hội và điều kiện cho người nghèo tiếp
cận với các dịch vụ xã hội cơ bản. Đến năm 2004, tỷ lệ số hộ nghèo cả nước giảm

còn khoảng 8,31% và dự kiến đến năm 2005 sẽ còn khoảng 7%.
Công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân ngày càng được cải thiện. Mạng lưới
y tế cơ sở được củng cố và nâng cấp; đến nay gần 99% số xã phường trong cả nước
đã xây dựng được trạm y tế; có 30% số xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về
y tế xã; sản xuất thuốc trong nước đáp ứng trên 40% nhu cầu thuốc chữa bệnh, các
trạm y tế có quỹ thuốc thiết yếu cho nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân.
18


Chương trình y tế quốc gia đạt hiệu quả cao, thường xuyên có trên 90% số trẻ em
dưới 1 tuổi được tiêm dầy đủ 6 loại vắc xin; tỷ lệ mắc bệnh và chết do 6 bệnh có
vắc-xin phòng ngừa ở trẻ em giảm rõ rệt. Trong năm 2005 đã triển khai việc cấp
phát thẻ Y tế miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi.
Các hoạt động văn hoá, thông tin, phát thanh, truyền hình đã hướng về vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số khó khăn. Tính đến năm 2004, tỷ lệ hộ
được nghe đài Tiếng nói Việt Nam là 99%, tỷ lệ hộ xem truyền hình Việt Nam là
86%.
…..
4.2.3 Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
Sau giai đoạn cải cách vị thế của Việt Nam không ngừng được nâng cao
GDP( PPP): 240.364 tý USD( 2008)
GDP bình quân đầu người( PPP): 2783USD( 2008)
GDP danh nghĩa( 2008): 89.8 tỷ USD
GDP bình quân đầu người( 2008): 1.040 USD
GINI 37( hạng 59)
HDI 0.718( hạng 114)
Hiện Việt Nam đang quan hệ ngoại giao với 177 nước và 224 tổ chức kinh tế
thương mại: ASEAN, WTO, AFTA…
4.2.4 Đóng góp GDP của từng thành phần kinh tế( năm 2002)
Thành phần kinh tế nhà nước: 31.6%

Thành phần kinh tế tập thể: 13.7%
Thành phần kinh tế tư nhân : 38.4%
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước: 8.0%

19


Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: 8.3%
Từ nay đến 2010, số lượng hợp tác xã sẽ tăng bình quân 7,2% mỗi năm, số lượng
xã viên tăng khoảng 7,3%. Tỷ trọng tổng sản phẩm của khu vực kinh tế tập thể
(bao gồm cả kinh tế của các thành viên) chiếm bình quân khoảng 13,8% GDP cả
nước. Một mục tiêu phấn đấu khác là thu nhập bình quân của lao động trong kinh
tế tập thể, của xã viên hợp tác xã trong 5 năm tới sẽ tăng gấp đôi so với năm 2005.

Số doanh nghiệp tư nhân tham gia hàng năm

/>Chủ trương nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kì quá độ
của Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn

20


Mục lục

Trang

1.Lý luận của luân điểm………………...….............................................................1
1.1Quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lênin……………………………..………...…1
1.1.1Lực lượng sản xuất là gì? Quan hệ sản xuất là gì?............................................1
1.1.2 Tính thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất………..….…..1

1.1.3 Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất………..…...2
1.1.4 Vai trò tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất…...2
1.1.5 Sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất………………………………………………………………..2
1.2Quan điểm của Đảng ………………………..……………….……………….3
2. Kinh nghiệm thực tiễn các nước……………………………….………………..4
2.1 Trung Quốc……………………………………………………………………5
2.1.1Trung Quốc tiến hành cải cách ……………………………………..……...5
2.1.2 Thành công đạt được từ khi tiến hành cải cách …………………………….6
2.2 Kinh nghiệm đối với Việt Nam……………………………………………….8
3. Thực tiễn ở Việt Nam ( giai đoạn của Hồ chí minh)…………………………...9
4. Chứng minh tính đúng đắn của luận điểm…………………………………….10
4.1 Tính đúng đắn về mặt lý luận………………………………………………..10
4.1.1Về mặt khách quan………………………………………………….. …….13
4.1.2Về mặt chủ quan …………………………………………………………...13

21


4.1.3 Yêu cầu quan hệ sản xuất mới của Việt Nam……………………………..14
Mục lục

trang

4.2 Thành tựu đạt được ………………………………………………………….14
4.2.1 Về mặt kinh tế……………………………………………………………...14
4.2.2. Về mặt xã hội……………………………………………………………...18
4.2.3 Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế……………………………………
19
4.2.4 Đóng góp GDP của từng thành phần kinh tế( năm 2002) ………………..19

Mục lục…………………………………………………………………………..21

22



×